Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

chuyên đề thực trạng đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp phường hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (145.54 KB, 17 trang )

THỰC TRẠNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ LÃNH ĐẠO PHƯỜNG HIỆN NAY
1. Thực trạng trình độ học vấn, cơ cấu của đội ngũ cán bộ lãnh đạo
phường.
Khoảng mười năm trước đây, đội ngũ cán bộ lãnh đạo phường chủ yếu là
cán bộ hưu trí. Nhiều đảng uỷ phường có đến 90% là cán bộ hưu trí, kể cả chức
danh bí thư đảng uỷ, chỉ trừ chức danh chủ tịch uỷ ban nhân dân. Điều này hiện
vẫn đang tồn tại ở gần như tất cả các xã, phường, kể cả các phường thuộc các
thành phố lớn. Khảo sát thực tế tại thành phố Hà Nội những năm gần đây cho
thấy, cơ cấu đội ngũ cán bộ phường, nhất là cán bộ chủ chốt, dù có sự chuyển
dịch theo hướng trẻ hoá, nhưng số lượng cán bộ là người nghỉ hưu, mất sức vẫn
cao (tuy nhiên, không tập trung nhiều trong 6 chức danh chủ chốt mà đề tài ban
đầu đã xác định); một số ít phường, chức danh bí thư đảng uỷ phường, Phó Chủ
tịch HĐND vẫn do các cán bộ hưu trí, tuổi cao đảm nhiệm (đặc biệt, Quận Đống
Đa, Hà Nội nhiệm kỳ này có 02 đồng chí Bí thư Đảng uỷ kiêm Chủ tịch HĐND
chưa nằm trong biên chế - Phường Phương Liên và Văn Miếu; có hơn 95% Phó
Chủ tịch HĐND phường là cán bộ hưu trí). Ở nhiều phường, độ tuổi của cán bộ
cấp phường là 55 tuổi vẫn khoảng 70%, trong đó đa số là nam giới.
Những năm gần đây, tại Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Đà
Nẵng, Cần Thơ và một số tỉnh, thành phố khác trong cả nước, công tác trẻ hoá
đội ngũ cán bộ cơ sở đã được khởi động và đạt những kết quả bước đầu. Theo
đó, sinh viên tốt nghiệp đại học, cao đẳng trở thành nguồn cung cán bộ quan
trọng cho các cơ sở phường, xã và là nguồn quy hoạch cán bộ lâu dài của địa
phương. Ví dụ, Thành phố Hồ Chí Minh đã tuyển chọn hơn 300 sinh viên ở các
trường đại học đào tạo dự nguồn cho các chức danh: Bí thư, phó bí thư, chủ tịch,
phó chủ tịch phường. Quận Gò Vấp vừa qua cũng trở thành điển hình đầu tiên
của cả nước khi tổ chức thành công một cuộc thi tuyển công chức phường
nghiêm túc được dư luận đánh giá cao. Tuy nhiên, tỷ lệ cán bộ lãnh đạo trẻ hiện
vẫn là con số rất khiêm tốn trong hệ thống công quyền các cấp. Hà Nội, trong
những năm qua đã đào tạo một số lớp cán bộ Nguồn Công chức với đối tượng là
những sinh viên tốt nghiệp các trường đại học, cao đẳng; sau đó phân công bố trí
về công tác tại các phường trên địa bàn Hà Nội. Sau một thời gian, nhiều người


trong số cán bộ trẻ này đã trưởng thành, hiện giữ nhiều cương vị Bí thư, chủ
tịch, phó chủ tịch UBND tại nhiều phường của Thủ đô (riêng Quận Đống Đa,
Hai Bà Trưng đến nay đã có 18 đồng chí được tín nhiệm bầu giữ các chức vụ này).
Trên thực tế, cán bộ lãnh đạo phường là người hưu trí cũng có những thế
mạnh nhất định. Với bối cảnh cụ thể của nước ta, hầu hết họ thuộc lớp người
được trải nghiệm qua đấu tranh cách mạng, có bản lĩnh chính trị vững vàng, có
tình cảm cách mạng sâu sắc, gắn bó, tâm huyết với sự nghiệp cách mạng. Nhiều
người trong số đó đã từng là cán bộ lãnh đạo, quản lý; cho nên, đa số là những
người nhiều kinh nghiệm trong công tác, am hiểu địa phương, dễ xác lập uy tín
với quần chúng.
Tuy nhiên, bước vào thời kỳ mới, đặc biệt trong giai đoạn đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá, khi cuộc sống trở nên năng động, mở rộng với những
biến đổi hàng ngày, hàng giờ, thì bên cạnh bản lĩnh cách mạng; bên cạnh kinh
nghiệm và uy tín tuổi tác; xã hội rất cần sự thích nghi năng động, sự chuyên
nghiệp, các kiến thức phát triển mới, tư duy chủ động, sáng tạo, nhạy bén, dám
nghĩ dám làm - những ưu thế thuộc về tuổi trẻ. Do đó, việc trẻ hoá đội ngũ cán
bộ phường là xu hướng tất yếu của đội ngũ cán bộ. Mặc dù công tác này đã
được chú trọng vài năm gần đây, song cho đến nay, đây vẫn là bất cập lớn của
đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt của hệ thống chính trị nói chung, đặc biệt của
cấp cơ sở, trong đó có phường.
Về trình độ học vấn, chuyên môn, trong những năm qua, công tác xây
dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo phường đã chú trọng đến các mặt đào tạo, bồi
dưỡng, tuyển chọn cán bộ và đã đạt được những kết quả đáng khích lệ. Có
khoảng 60-70% số cán bộ là bí thư đảng ủy, chủ tịch uỷ ban nhân dân và các
chức danh chuyên môn ở phường có trình độ đại học (trong khi đó ở xã, thị trấn
2
là khoảng 40%). Ở Hà Nội, theo thống kê năm 2004, có tới trên 70% bí thư đảng
ủy, chủ tịch uỷ ban nhân dân phường có trình độ đại học và gần 60% có trình độ
trung cấp lý luận chính trị; trong khi đó khối xã ở Hà Nội tỷ lệ này chỉ chiếm
trên 40%.

Cũng ở Hà Nội, về trình độ quản lý và trình độ chuyên môn: các khảo sát
thực tế cho thấy chỉ có 8% được trang bị kiến thức quản lý kinh tế từ sơ cấp trở
lên và cũng chỉ có 18% chủ tịch, 10% phó chủ tịch phường được bồi dưỡng kiến
thức quản lý kinh tế. 37% cán bộ xã, phường được bồi dưỡng kiến thức quản lý
nhà nước. 38% không có bằng cấp chuyên môn.
1

Những con số này ở thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng cũng ở tình trạng
tương tự.
Trước những đòi hỏi của thực tiễn hiện nay, thực trạng trình độ học vấn,
chuyên môn của đội ngũ cán bộ phường, đặc biệt là đội ngũ cán bộ lãnh đạo
phường đang đặt ra nhiều bất cập. Chưa nói đến các kiến thức mới như quản lý
đô thị, pháp luật hay tin học, ngoại ngữ, rõ ràng vấn đề này là một cái thiếu, cái
yếu phổ biến của đội ngũ cán bộ lãnh đạo phường mà công tác cán bộ cần phải
nhìn nhận một cách trực diện và nghiêm túc.
2. Thực trạng năng lực hoạt động thực tiễn và uy tín xã hội của đội
ngũ cán bộ lãnh đạo phường.
Sự lượng hoá trình độ, năng lực của đội ngũ cán bộ lãnh đạo phường qua
các chỉ số tuy cần thiết và quan trọng, nhưng không thể đi hết chiều sâu của vấn
đề. Con người làm việc và hoạt động bằng cách tác động vào thực tiễn nhằm đạt
tới một hiệu quả thực tiễn mong đợi, do đó, cũng phải thông qua thực tiễn, đặc
biệt là hiệu quả hoạt động thực tiễn, để đánh giá về năng lực làm việc của một
con người mới có thể giảm thiểu được sự quan liêu, bàn giấy. Vì vậy, muốn
đánh giá được đúng thực trạng của đội ngũ cán bộ lãnh đạo phường, đặc biệt là
1
Đỗ Ngọc Ninh, Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các đảng bộ phường ở thủ đô Hà Nội hiện
nay, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2004, tr.84.
3
thực trạng hoạt động của họ trong đời sống thực tiễn, không thể không căn cứ
trên những trực quan và khảo sát về năng lực hoạt động thực tiễn và uy tín xã

hội của người cán bộ lãnh đạo trong quá trình đảm nhận công tác của mình.
- Thực trạng năng lực hoạt động thực tiễn
Năng lực hoạt động thực tiễn của người cán bộ thể hiện trong quá trình
thực hiện nhiệm vụ, chức trách của mình. Nó được biểu hiện thông qua cách
thức, phương pháp, giải pháp mà người cán bộ sử dụng để triển khai thực hiện
các nhiệm vụ, công việc trong thẩm quyền, trách nhiệm được giao và được đánh
giá thông qua hiệu quả công việc đạt được trên thực tế. Một người cán bộ có
năng lực thực sự phải là người có khả năng tổ chức thực hiện công việc đạt được
hiệu quả, mục tiêu đề ra. Năng lực đó có thể được nhận diện bề ngoài thông qua
các chỉ số lượng hoá về tuổi tác, bằng cấp v.v., nhưng không thể đo đạc đầy đủ
bằng các chỉ số đó, mà chỉ có thể thông qua quá trình hoạt động thực tiễn của
người cán bộ.
Nếu năng lực triển khai công việc và hiệu quả thực tiễn đạt được qua quá
trình đó giúp đánh giá một cách trực tiếp và khách quan năng lực thực sự của
người cán bộ, thì uy tín mà người cán bộ đạt được đối với xã hội, với mọi người
xung quanh cũng là một yếu tố quan trọng phản ánh tuy gián tiếp nhưng không
kém phần khách quan và đáng tin cậy tư cách, năng lực của người cán bộ đó.
Sau 20 năm đổi mới, hoạt động của hệ thống chính trị cơ sở phường, của
đội ngũ cán bộ phường đã có những chuyển biến tích cực, có nhiều đổi mới,
thích ứng dần với những vận động và đòi hỏi của cuộc sống hiện đại. “Trình độ
học vấn, lý luận chính trị, chuyên môn nghiệp vụ và quản lý hành chính nhà
nước đã được nâng lên một bước; tác phong điều hành công việc đã năng động,
chủ động và sáng tạo hơn; tính chủ quan, tuỳ tiện, thụ động, ỷ lại trong giải
quyết công việc từng bước được khắc phục.”
2
Có phường đã phát huy khá tốt vai
trò của mình, nhất là trong việc quản lý trật tự thị trường, an ninh xã hội, xây
2
Võ Công Khôi, Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn trong giai đoạn hiện nay, tạp chí Tổ
chức Nhà nước, 3 – 2005, tr.30.

4
dựng nếp sống văn minh đô thị, phục vụ đời sống văn hoá, tinh thần của nhân
dân trên địa bàn, được chính quyền các cấp và nhân dân ghi nhận. Tuy nhiên, để
có được thành công đó, phải thẳng thắn nhìn nhận rằng, bên cạnh yếu tố cán bộ:
sự năng nổ, nhiệt tình, tâm huyết và năng lực tổ chức công việc của đội ngũ cán
bộ lãnh đạo, đa số các phường này đều có nền tảng khá tốt là tình hình kinh tế -
xã hội, dân cư thuần nhất, tương đối ổn định, ít tranh chấp, biến động, tinh thần
đoàn kết, tự quản tốt. Có thể nói, đó là những điều kiện khách quan thuận lợi
cho đội ngũ cán bộ phường thực hiện tốt vai trò của mình.
Bên cạnh những chuyển biến tích cực nói trên, còn không ít những bất cập
trong hoạt động của hệ thống chính trị và đội ngũ cán bộ phường mà nếu xét từ
góc độ hiệu quả tổng quát của nhiệm vụ chung - tức là nhiệm vụ quản lý, phát
triển kinh tế - xã hội của địa phương, thì “hiệu lực và hiệu quả quản lý nhà nước
của chính quyền cấp xã (bao gồm cả xã, phường, thị trấn - TG) còn nhiều hạn
chế, bất cập, chưa thật sự đáp ứng được yêu cầu”
3
. Sự bất cập trong hoạt động
của chính quyền cấp cơ sở nói chung, của hệ thống chính trị cơ sở nói riêng,
trong đó có cơ sở phường, biểu hiện bất cập của đội ngũ cán bộ lãnh đạo phường
trong hoạt động thực tiễn: “nhìn chung, đội ngũ cán bộ, công chức hiện nay ( )
có nhiều mặt chưa ngang tầm với đòi hỏi của sự nghiệp đổi mới, công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước. Trình độ và năng lực quản lý kinh tế - xã hội còn
nhiều hạn chế, thiếu hụt kiến thức về kinh tế thị trường, về quản lý nhà nước, về
pháp luật, ngoại ngữ, tin học và kỹ năng hành chính, cũng như tri thức khoa học
- kỹ thuật, công nghệ hiện đại. Do đó, năng suất và hiệu quả lao động còn
thấp”.
4
Đối với hệ thống chính trị cơ sở phường, chức năng quản lý xã hội (trên
một số mặt được giao: quản lý trật tự đô thị, quản lý quy hoạch, quản lý đất đai,
quản lý dân cư ) là chức năng chủ yếu theo luật định. Thế nhưng, các nghiên

cứu và khảo sát thực trạng hệ thống chính trị cơ sở đều chỉ ra rằng năng lực
3
Thang Văn Phúc, Nguyễn Minh Phương, Cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng đội ngũ cán bộ công chức, Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2005, tr.100.
4
Sđd, tr.97.
5
quản lý xã hội của cấp phường, xã “có nhiều hạn chế”. Theo kết quả điều tra của
Viện Khoa học thuộc Ban Tổ chức cán bộ Chính phủ về năng lực chấp hành và
quản lý của uỷ ban nhân dân cấp cơ sở (xã, phường, thị trấn) thì gần một nửa
trong số các công việc của uỷ ban nhân dân bị đánh giá dưới mức trung bình và
kém, trong đó có các hạng mục công việc: tuyên truyền giáo dục pháp luật,
chống tệ nạn xã hội, chống tham nhũng, bảo vệ môi trường, quản lý đất đai, tài
nguyên
5
. Một ví dụ cụ thể, một nghiên cứu
6
lấy ý kiến đảng viên ở một số đảng
bộ tại Hà Nội cho thấy năng lực lãnh đạo xây dựng, quản lý đô thị của cấp cơ sở
phường là các hoạt động không được đánh giá cao, cụ thể là: về xây dựng và
quản lý các công trình công cộng phục vụ đời sống nhân dân, chỉ có 21% số
đảng viên được hỏi đánh giá tốt, còn 36,1% đánh giá khá, và 30% đánh giá trung
bình, 11% đánh giá yếu; về hoạt động quản lý đô thị, vệ sinh môi trường, cũng
chỉ có 14,2% ý kiến được hỏi đánh giá tốt, 44% đánh giá khá, 28,9% đánh giá
trung bình, và 11,3% đánh giá yếu.
Không khó khăn để nhận thấy điều đó. Ngay tại thủ đô Hà Nội, TP Hồ
Chí Minh và đặc biệt là tại TP Hải Phòng với hàng loạt các sự việc diễn ra gần
đây cho thấy năng lực của cán bộ lãnh đạo phường trong quản lý trật tự, trị an
đô thị; quản lý thị trường; quản lý đất đai; quản lý xây dựng; giải quyết các tranh
chấp dân sự, đặc biệt về nhà đất; thậm chí ngay trong giải quyết các thủ tục hành

chính liên quan đến quyền lợi của người dân còn tồn tại nhiều vấn đề. Sự kém
hiệu quả đó do nhiều nguyên nhân, nhưng nguyên nhân chủ yếu là do năng lực
của cán bộ. Nhiều trường hợp do cán bộ thiếu kiến thức pháp lý, kiến thức quản
lý hành chính dẫn đến tuỳ tiện, tắc trách; nhiều trường hợp lại cho thấy cán bộ
lúng túng, thụ động, thiếu kiên quyết trong xử lý tình huống thực tiễn; trong khi
đó, có trường hợp lại do quan liêu, máy móc dẫn đến gây phiền nhiễu cho dân
Đa số các trường hợp cho thấy cán bộ không sử dụng, phát huy được thẩm
5
Vũ Hoàng Công, Hệ thống chính trị cơ sở, đặc điểm, xu hướng và giải pháp, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội,
2002, tr.93.
6
Đỗ Ngọc Ninh, Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các đảng bộ phường ở thủ đô Hà Nội hiện
nay, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2004, tr.60.
6
quyền và trách nhiệm của mình trong công tác. Thậm chí, có những tình huống
chỉ thuộc phạm vi thẩm quyền và chức trách của phường, nhưng lãnh đạo cấp
thành phố phải thân chinh giải quyết như vụ chia chác đất công diễn ra tại địa
bàn các phường ở Thị xã Đồ Sơn Điều đó cho thấy sự bất cập lớn không phải
về thể chế, mà về bản thân năng lực hoạt động thực tiễn của cán bộ. Thế nhưng,
bên cạnh đó, cũng không thiếu những sự việc xảy ra do hiện tượng lạm dụng
quyền lực trong điều hành, quản lý
Năng lực hoạt động thực tiễn của cán bộ lãnh đạo còn có thể đánh giá
thông qua việc tổ chức các hoạt động xã hội thường xuyên tại địa bàn cơ sở.
Nhìn vào các loại hình hoạt động này ở đa số các phường như bảo vệ môi
trường, vệ sinh đường phố thì thấy vai trò của phường không nhiều, mà chủ
yếu phụ thuộc vào hoạt động của ngành vệ sinh môi trường thành phố. Ở địa bàn
nào có sự phối hợp chủ động của phường trong tuyên truyền, vận động và tổ
chức nhân dân tham gia bảo vệ, giữ gìn vệ sinh đô thị, cảnh quan phường đó
sạch, đẹp, và ngược lại. Nhìn tổng thể, số phường làm được như thế không
nhiều, không đủ sức tạo nên bộ mặt chung của đô thị Việt Nam.

Đó là những đánh giá từ góc độ hiệu quả công việc, còn từ góc độ quy
trình hoạt động thực tiễn, từ khâu nhận thức, quán triệt các chủ trương chính
sách của cấp trên và hội đồng nhân dân cùng cấp, đến ra các quyết định điều
hành, quản lý và tổ chức thực hiện, tổng kết rút kinh nghiệm cũng có thể thấy
tồn tại nhiều vấn đề đáng lưu tâm.
Trong hầu hết các nghiên cứu về năng lực hoạt động của đội ngũ cán bộ
lãnh đạo, chủ chốt ở cơ sở, các tác giả đều có chung nhận định rằng điểm yếu
lớn dễ nhận thấy là tính rập khuôn, máy móc trong mọi khâu của quá trình triển
khai công việc. Các chủ trương, chính sách của cấp trên khi triển khai xuống
phường hầu như đều được giữ nguyên, chưa được cụ thể hoá theo hướng sát
thực, phù hợp với đặc thù, điều kiện riêng của phường. Những phường chủ động
tìm lối đi riêng, cách thức làm riêng trong việc phát triển, quản lý đời sống kinh
7
tế - xã hội tại địa phương là rất hiếm. Chính vì không có tính chủ động trong
công việc của đội ngũ cán bộ phường, trong đó đặc biệt là chủ động trong việc
lập nên những phương án lâu dài, phù hợp với địa bàn, cho nên nhiều hoạt động
của thành phố, của quận khi triển khai xuống các phường không đạt được hiệu
quả bền vững. Nhiều công việc chỉ rầm rộ trong thời gian “ra quân”, sau đó lại
chìm vào quên lãng. Điều này không chỉ làm cho các chương trình không tạo
được nếp sống, nếp văn hoá trong nhân dân, trong đời sống hàng ngày của địa
phương cơ sở, mà còn tạo thành lối mòn trong tư duy của nhân dân nói chung về
các hoạt động “phong trào”, “đầu voi đuôi chuột” thiếu thực tiễn, tác động
không nhỏ đến uy tín của cán bộ, đến niềm tin của nhân dân.
Bên cạnh tính thụ động, rập khuôn, sự dàn trải cũng là một hạn chế dễ
thấy của phường trong việc tổ chức thực hiện những nhiệm vụ chính trị của
mình. Mặc dù nhìn từ góc độ tổng thể, hầu hết các đảng bộ phường trong các kỳ
đại hội đều xác định được nhiệm vụ chính trị đúng đắn, song việc xác định đó
trên thực tiễn lại chưa đạt được tính cụ thể, mà chung chung, dàn trải, hầu như
chưa xác định được trọng tâm, trọng điểm xuất phát từ những đặc thù của địa
phương. Tình trạng này không chỉ là hạn chế của riêng cấp uỷ đảng, hội đồng

nhân dân hay uỷ ban nhân dân phường, mà là điểm yếu chung của đội ngũ cán
bộ lãnh đạo; không chỉ nằm trong khâu xác định nhiệm vụ chính trị cho từng
thời kỳ, mà cả trong xây dựng chương trình, kế hoạch hành động, trong việc cụ
thể hoá các chương trình, chỉ thị, nghị quyết của cấp trên. Nhiệm vụ, chương
trình hoạt động trong mục tiêu quản lý, phát triển đời sống kinh tế - xã hội
không có nhiều khác biệt giữa các phường cũ so với các phường mới, ở các
phường có hoạt động thương mại nổi trội cũng như ở các phường tập trung
nhiều các cơ quan nhà nước, ở các phường có các cơ quan sản xuất với các
phường có hoạt động du lịch phát triển Sự khác nhau dường như chỉ chủ yếu là
công việc phức tạp hơn hay đơn giản hơn, bận bịu hơn hay thư thái hơn mà thôi
8
Từ góc độ thao tác nghiệp vụ, đội ngũ cán bộ phường nói chung, cán bộ
lãnh đạo phường nói riêng cũng còn nhiều hạn chế. Do thiếu kiến thức quản lý
hành chính, pháp lý, không nắm chắc quy trình và nguyên tắc giải quyết công
việc, nhiều cán bộ lãnh đạo lúng túng trong xử lý các quy trình hành chính, các
tình huống phức tạp. Tác giả Lê Chi Mai, trên cơ sở những nghiên cứu, khảo sát
thực tiễn đã nhận định: “Quản lý, điều hành xã hội (của đội ngũ cán bộ cơ sở -
TG) không theo pháp luật, còn mang tính gia trưởng và dáng dấp của kiểu “xin -
cho”. Do không nắm chắc các quy định của pháp luật nên nhiều cán bộ còn làm
việc tuỳ tiện, thậm chí tự ý đặt ra những quy định trái pháp luật.”
7
- Thực trạng uy tín xã hội:
Uy tín xã hội của người cán bộ chính là niềm tin, sự kính phục, trân trọng
mà tập thể, cộng đồng dành cho người cán bộ đó. Bên cạnh một số yếu tố chủ
quan về tình cảm, tinh thần, uy tín có cơ sở khách quan của nó là bản thân năng
lực, tư cách thực tế của chủ thể xác lập uy tín. Nó là kết quả của mối quan hệ
tương tác đa chiều trực tiếp giữa người xác lập uy tín với các đối tượng xung
quanh. Dó đó, nó phản ánh một cách trực diện đánh giá của tập thể, cộng đồng
đối với tư cách, năng lực của người cán bộ. Trong hoạt động thực tiễn, uy tín có
sức tác động mạnh mẽ đến khả năng lãnh đạo, khả năng tập hợp, thuyết phục

mọi người của người sở hữu nó. Vì vậy, uy tín vừa là thước đo phẩm chất, năng
lực của người cán bộ lãnh đạo, vừa là công cụ hữu hiệu hàng đầu trong quá trình
hoạt động của người cán bộ lãnh đạo đó.
Uy tín của người cán bộ lãnh đạo cơ sở thể hiện thông qua quan hệ của
anh ta với đồng nghiệp, với nhân dân. Đặc biệt, uy tín mà người cán bộ lãnh đạo
xác lập được trong mối quan hệ với nhân dân là sự phản ánh trung thực và giá trị
nhất năng lực và tư cách của người cán bộ đó trong đời sống và công việc.
7
Lê Chi Mai, Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ chính quyền cơ sở - vấn đề và giải pháp, Tạp chí Cộng sản, tháng 7
năm 2002, tr.35.
9
Trong cuộc điều tra về cơ bản về chất lượng của cán bộ chính quyền cơ sở
do Bộ Nội vụ thực hiện
8
, với đối tượng được hỏi ý kiến phần lớn là cán bộ trong
hệ thống chính trị cơ sở (khoảng 70%), thì chỉ có khoảng 50% đánh giá tốt hoạt
động của uỷ ban nhân dân cùng cấp, 40% đánh giá tốt hoạt động của hội đồng
nhân dân, 55% cho rằng hội đồng nhân dân hoạt động chỉ đạt mức trung bình và
yếu. Đánh giá về năng lực của cán bộ, cũng chỉ có 50% thành viên của uỷ ban
được coi là hoàn thành tốt nhiệm vụ; còn đối với hội đồng nhân dân, có đến 86%
số người được hỏi ý kiến cho rằng 50% đại biểu hội đồng nhân dân chưa phát
huy được vai trò theo luật định. Còn theo một điều tra khác đánh giá hoạt động
của các đảng bộ phường ở Hà Nội trong lãnh đạo phát triển kinh tế ở cơ sở
thông qua việc tạo ra môi trường, điều kiện thuận lợi cho sản xuất, kinh doanh
và dịch vụ phát triển, tạo thêm việc làm cho nhân dân, thì chỉ có 18,6% đảng
viên được hỏi ý kiến đánh giá tốt; 44,5% ý kiến đánh giá khá tốt; và 5% đánh
giá yếu kém
9
.
Uy tín đối với nhân dân:

Hiện nay, chưa có những điều tra cụ thể về đánh giá của quần chúng nhân
dân đối với đội ngũ cán bộ lãnh đạo phường. Một vài số liệu trắc nghiệm công
bố gần đây của Thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội còn tồn tại nhiều vấn đề,
chưa phản ánh được thực tế. Tuy nhiên, có thể thấy uy tín của đội ngũ cán bộ
lãnh đạo đối với dân thông qua nhiều mặt quan hệ của họ với nhân dân.
Thứ nhất, sự quan tâm của nhân dân đối với đội ngũ cán bộ lãnh đạo
phường. Ngoài những cán bộ của hệ thống chính trị, các cán bộ, đảng viên hưu
trí thường xuyên tham gia sinh hoạt đảng và các hoạt động chính sách tại địa
bàn chiếm tỷ lệ không cao, có thể nói nhiều người dân không nắm được danh
sách đội ngũ cán bộ lãnh đạo phường mình đang sống. Số người nắm được về
hoạt động, chức năng, nhiệm vụ của phường cũng không nhiều. Và hầu hết
8
Vũ Hoàng Công, Hệ thống chính trị cơ sở, đặc điểm, xu hướng và giải pháp, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội,
2002, tr. 94 - 95.
9
Đỗ Ngọc Ninh, Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các đảng bộ phường ở thủ đô Hà Nội hiện
nay, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2004, tr.51.
10
không nhớ được các vị đại biểu hội đồng nhân dân mà mình đã bầu trong các kỳ
bầu cử hội đồng nhân dân các cấp là ai, giữ chức vụ gì, hiện làm gì và hoạt động
với tư cách là một cán bộ dân biểu như thế nào Sự thờ ơ của nhân dân trước
hoạt động của hệ thống chính trị một mặt thể hiện những hạn chế về nhận thức
chính trị của người dân, gây những khó khăn, bất lợi cho bản thân người dân khi
thực hiện quyền lợi và nghĩa vụ công dân của mình, nhưng, mặt khác, nó thể
hiện sự hạn chế từ phía đội ngũ cán bộ lãnh đạo phường trong việc gây được
thiện cảm, mối quan tâm và lòng tin của nhân dân vào vai trò và trách nhiệm của
mình.
Thứ hai, sự tin tưởng của nhân dân vào hoạt động, vào sự phục vụ của đội
ngũ cán bộ phường. Niềm tin này trong công việc thể hiện ở chỗ cách thức
người dân giải quyết các khó khăn gặp trong cuộc sống. Ở đây, phải thừa nhận

một hiện trạng không vui rằng người dân thường tìm đến cách tự giải quyết với
nhau, dù cho nhiều khi cách làm đó không đảm bảo về mặt quản lý nhà nước và
pháp lý để giải quyết các công việc của mình. Nhân dân chỉ đến phường, tìm gặp
lãnh đạo phường khi bắt buộc do những yêu cầu về thủ tục hành chính, do
không có cách xử lý khác Nhiều khi, cách làm này dẫn đến những quan hệ,
mâu thuẫn trong dân bị đẩy đến mức phức tạp, tạo thành điểm nóng đòi hỏi đến
sự can thiệp của các cấp hành chính cao hơn.
Một khía cạnh nữa phản ánh thực trạng lòng tin của dân đối với đội ngũ
cán bộ lãnh đạo phường là khả năng thực hiện các quyết định của lãnh đạo
phường đến các đối tượng nhân dân. Quyết định của lãnh đạo phường trong
phạm vi thẩm quyền và trách nhiệm của mình là con đường, phương thức để cán
bộ lãnh đạo phường thực hiện chức năng quản lý xã hội tại địa phương. Tuy
nhiên, trên thực tế, nhiều khi các quyết định này của phường không phát huy
được tác dụng. Vai trò của lãnh đạo phường trong nhiều trường hợp không được
một số đối tượng nhân dân tôn trọng. Những khó khăn nảy sinh ngay trong
những công việc thường ngày: quản lý trật tự xây dựng, quản lý trật tự kinh
11
doanh của các chủ thể kinh doanh trên địa bàn, quản lý trật tự thị trường, xử lý
các quan hệ dân sự Không ít trường hợp, lãnh đạo phường phải bó tay và trông
chờ đến sự can thiệp của quận, thậm chí của thành phố.
Thứ ba, khả năng vận động nhân dân của lãnh đạo phường. Nhìn chung,
cơ chế hoạt động của phường ít khi tạo những nên điều kiện để cán bộ lãnh đạo
phường trực tiếp tham gia vận động quần chúng nhân dân, mà đều thông qua các
ban, ngành, đoàn thể cùng cấp. Lãnh đạo phường chỉ xuất hiện trong các tình
huống “nóng” hoặc trong các cuộc họp triển khai công tác. Do đó, khó mà có thể
đánh giá về khả năng này của lãnh đạo phường. Tuy nhiên, ở một góc độ nào đó,
có thể nhận thấy điều này thông qua mức độ ảnh hưởng của vai trò người lãnh
đạo phường trong đời sống nhân dân. Nếu người lãnh đạo có uy tín, được nhân
dân tin tưởng, thì họ sẽ có ảnh hưởng lớn đến các hoạt động của địa phương, đến
bản thân sự hợp tác và thái độ của nhân dân trong các công việc của cộng đồng;

khi đó, các quyết định của cấp uỷ, chính quyền phường sẽ được nhân dân chấp
hành nghiêm túc.
Những phân tích trên đây không đi theo nhiệm vụ của các tổ chức trong
hệ thống chính trị, mà từ góc độ tổng quát của nhiệm vụ chung. Từ góc độ này,
tổ chức đảng, hội đồng nhân dân, uỷ ban nhân dân và cả các tổ chức chính trị, xã
hội, các ban, ngành thuộc hệ thống chính trị phường đều chung sức cho một mục
tiêu: giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, phát triển kinh tế - xã hội
của địa phương, chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của các tầng lớp dân cư
trên địa bàn. Các phân tích về hoạt động và thực trạng của hệ thống chính trị
phường và đội ngũ cán bộ lãnh đạo phường sẽ được thực hiện chủ yếu trên mạch
này để đảm bảo một sự thống nhất, tập trung trong đánh giá về mặt thực tiễn, mà
không đi theo các nhiệm vụ riêng lẻ của các tổ chức trong hệ thống chính trị.
Từ những đánh giá cơ bản đó, có thể thấy, đội ngũ cán bộ lãnh đạo
phường của chúng ta hiện nay tuy đã có nhiều bước tiến mới, song vẫn còn
nhiều bất cập, cả về “hình thức” lẫn “nội dung”, so với những yêu cầu của thời
12
cuộc. Đặc biệt, từ góc độ tìm hiểu và đánh giá thực chất hiệu quả công việc
trong thực tế, rõ ràng, đội ngũ cán bộ lãnh đạo phường phải tiếp tục được xây
dựng, quan tâm một cách nghiêm túc, thực tiễn, bản chất, không chỉ dừng ở con
số, độ tuổi, học vấn Những hạn chế của đội ngũ cán bộ lãnh đạo phường có
những nguyên nhân của nó, trong đó có thể nói đến một số nguyên nhân cơ bản sau:
3. Một số nguyên nhân chủ yếu của tình hình trên.
* Nguyên nhân của những ưu điểm:
Không thể phủ nhận những bước phát triển tích cực của đội ngũ cán bộ
lãnh đạo phường và hệ thống chính trị phường trên các mặt hoạt động trong
những năm qua. Những kết quả đó đã góp phần tích cực trong công cuộc xây
dựng và phát triển đô thị Việt Nam hiện đại. Nhìn vào đội ngũ cán bộ lãnh đạo
phường, có thể thấy lực lượng này đã dần được trẻ hoá; trình độ học vấn, chuyên
môn được cải thiện rõ rệt; tác phong làm việc có sự đổi mới, bớt tính giáo điều,
cứng nhắc, tăng cường sự linh hoạt, thực tiễn; khả năng tiếp cận khoa học - kỹ

thuật hiện đại được cải thiện
Những tiến bộ đó là kết quả của một quá trình nỗ lực, đổi mới đồng bộ,
trong đó trước hết phải kể đến các chủ trương của Đảng và Nhà nước về đổi
mới, nâng cao chất lượng hệ thống chính trị cơ sở, kiện toàn các loại hình tổ
chức cơ sở đảng và về công tác cán bộ thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước. Điển hình là Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương
khoá VII về Đổi mới, chỉnh đốn Đảng; Quy định 52/QĐ - TW về Chức năng,
nhiệm vụ của đảng bộ, chi bộ ở phường, thị trấn; Nghị quyết Hội nghị lần thứ
Ba Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII về Chiến lược cán bộ trong thời kỳ
đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; Chỉ thị 30/CT-TW của Bộ
Chính trị về Xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở; Nghị quyết Hội
nghị lần thứ Sáu (lần 2) Ban Chấp hành Trung ương khoá VIII về một số vấn đề
cơ bản, cấp bách trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay; Nghị
quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban chấp hành trung ương khoá VIII và Nghị quyết
13
lần thứ năm Ban Chấp hành Tung ương khoá IX về Đổi mới, nâng cao chất
lượng hệ thống chính trị ở cơ sở xã, phường, thị trấn Cùng với đó, những quy
định của chính phủ về công tác cán bộ khối chính quyền như Quyết định số
04/2004/QĐ-BNV về việc ban hành quy định tiêu chuẩn cụ thể đối với cán bộ,
công chức xã, phường, thị trấn; Quyết định số 03/2004/QĐ-TTg về Phê duyệt
Định hướng quy hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức xã, phường, thị
trấn đến năm 2010; và gần đây là Quyết định số 31/2006/Q§-TTg về Việc phê
duyệt Đề án đào tạo, bồi dưỡng Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Chủ tịch Uỷ ban
nhân dân xã giai đoạn 2006 – 2010 Đó là những cơ sở thuận lợi về mặt chủ
trương, pháp lý để công tác xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo phường, công tác
nâng cao năng lực hoạt động của hệ thống chính trị cơ sở phường đạt được
những kết quả như hiện nay.
Những tiến triển của đội ngũ cán bộ lãnh đạo phường còn là kết quả của
sự quan tâm đầu tư, chỉ đạo của Trung ương và địa phương. Hà Nội, thành phố
Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Đà Nẵng, Cần Thơ đều là những thành phố lớn, các

trung tâm kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội của cả nước và khu vực. Sự phát
triển của các thành phố này không chỉ mang giá trị tự thân mà còn trở thành
động lực thúc đẩy kinh tế - xã hội của đất nước và các vùng miền phát triển. Do
đó, các thành phố này luôn nhận được sự quan tâm đầu tư đặc biệt của Đảng,
Chính phủ. Trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, tốc độ đầu tư
và phát triển của các thành phố này càng lớn.
Cùng với sự quan tâm của Trung ương, sự vận động của bản thân các
thành phố cũng ngày càng trở nên năng động, nhằm thích ứng và phát triển xứng
tầm với vị trí, vai trò và tiềm năng. Những yếu tố đó tạo thành tổng lực thúc đẩy
sự phát triển của các thành phố, và đương nhiên không thể không thúc đầy sự
phát triển của các phường với tư cách là địa bàn cơ sở trọng yếu của thành phố.
Từ góc độ công tác xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, chủ chốt, cấp cơ sở
phường ngày càng nhận được sự quan tâm thích đáng của các cấp, các ngành
14
hữu quan. Đến nay, 100% các tỉnh đều xây dựng và triển khai nhiều đề án,
chương trình nhằm đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị ở cơ sở
xã, phường, thị trấn, trong đó đều nhấn mạnh đến một nội dung rất quan trọng là
công tác xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ cơ sở phường (Đề án số
16/2002 của Thành uỷ Hà Nội về “Đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống
chính trị ở cơ sở xã, phường, thị trấn”; Đề án thu hút, đào tạo, bồi dưỡng, quy
hoạch những sinh viên có triển vọng về công tác tại cơ sở của TP. Hồ Chí Minh,
Đà Nẵng Đó là những điều kiện quan trọng cho những biến chuyển tích cực
của đội ngũ cán bộ lãnh đạo phường thời kỳ đổi mới.
Bên cạnh những yếu tố thuận lợi quý giá đó, bản thân các phường ở các
thành phố lớn cũng ngày càng nhận thức rõ ràng hơn về vai trò, vị trí và yêu cầu
đối với mình trong thời kỳ mới, đồng thời luôn nỗ lực để đáp ứng những yêu cầu
đó. Nhiều phường đã tỏ rõ tính chủ động và cầu thị trong việc khắc phục những
hạn chế, xây dựng đội ngũ cán bộ có tâm huyết, năng lực để lãnh đạo công tác
tại cơ sở. Bản thân nhiều đồng chí cán bộ lãnh đạo chủ chốt cũng tích cực học
tập, rèn luyện, tự đổi mới, tự tiến bộ. Nhiều phường đã tận dụng và phát huy

được những thuận lợi, sự quan tâm đầu tư của các cấp, các ngành Trung ương,
thành phố, quận, tạo được những kết quả cụ thể, khả quan trong công tác cán bộ.
Nhờ đó, đội ngũ cán bộ mà hạt nhân là cán bộ lãnh đạo không chỉ đạt được
những tiến bộ về cơ cấu, bằng cấp, mà còn có nhiều tiến bộ về năng lực lãnh
đạo, quản lý, nhiều nơi cải thiện, nâng cao được hiệu quả hoạt động thực tiễn,
được nhân dân ghi nhận, ủng hộ.
* Tuy nhiên, những phân tích ở phần thực trạng cũng cho thấy hoạt động
của hệ thống chính trị phường và đội ngũ cán bộ lãnh đạo phường còn tồn tại
không ít bất cập. Những chuyển biến mới chỉ là bước đầu và phần nhiều
nghiêng về hình thức, cơ cấu mà chưa tạo được sự đột phá về năng lực thực tiễn.
Do đó, nhìn một cách tổng thể từ góc độ hiệu quả thực tiễn, hoạt động của hệ
thống chính trị phường và của đội ngũ cán bộ lãnh đạo phường còn “chưa đáp
15
ứng được yêu cầu của tình hình mới”, nếu không muốn nói là còn nhiều yếu
kém. Những yếu kém đó cũng có nguyên nhân của nó. Dưới đây là một số
nguyên nhân chủ yếu:
Thứ nhất, về mặt khách quan, sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế thị
trường và xu hướng đô thị hoá khiến cho các vấn đề kinh tế, xã hội ngày càng
trở nên đa dạng và phức tạp. Trên thực tế, nhiều vấn đề đã vượt quá khả năng
lãnh đạo, quản lý hiện tại của phường, và ngày càng đòi hỏi sự phối hợp có tính
liên ngành, nhất là các vấn đề về quản lý thị trường, quản lý trật tự đô thị, sản
xuất, kinh doanh, trật tự xây dựng Trong khi đó, chúng ta chưa có một cơ chế
phối hợp hữu hiệu, phù hợp với những vận động mới mẻ này để có thể tạo được
sự đồng bộ, hiệu lực trong hoạt động của hệ thống.
Hơn nữa, đi kèm với xu thế phát triển hết sức năng động của kinh tế công
nghiệp hiện đại, của xu hướng giao lưu, mở rộng với biên độ ngày càng lớn, tính
độc lập và linh hoạt của các chủ thể của các hoạt động kinh tế - xã hội trên địa
bàn phường gia tăng mạnh mẽ. Điều đó đòi hỏi phường không chỉ hoàn thành
một cách thông thường các hoạt động quản lý hành chính của mình để đáp ứng
nhu cầu của các đối tượng công dân, mà hơn thế, phường phải chủ động, linh

hoạt hơn, có thẩm quyền, uy tín và vai trò cao hơn trong hệ thống quyền lực
hành chính để đủ sức giải quyết và bảo vệ các quyền lợi cũng như nghĩa vụ của
các đối tượng quản lý. Tuy nhiên, hiện nay, đây đang là một hạn chế của hệ
thống phân công, phân cấp quản lý nhà nước mà theo đó, cấp cơ sở, trong đó có
cơ sở phường, vừa phải gánh quá nhiều nhiệm vụ, vừa không được trao đủ
quyền lực để thực hiện những nhiệm vụ đó.
Thứ hai, về mặt chủ quan, phải thẳng thắn nhận thức rằng những hạn chế
nằm ngay trong bản thân đội ngũ cán bộ lãnh đạo phường. Trước hết là về nhận
thức: không phải tất cả các cán bộ lãnh đạo phường đều nhận thức một cách rõ
ràng, sâu sắc vai trò, ý nghĩa, trách nhiệm ngày càng lớn của mình trong hệ
thống chính trị thời kỳ đổi mới đầy năng động này. Sự lão hoá của căn bệnh an
16
phận hành chính khiến cho nhiều trong số các cán bộ lãnh đạo phường thoả mãn
với việc “hoàn thành nhiệm vụ” “định kỳ”, hoàn thành nhiệm vụ “được giao”
cũng mang những nét xơ cứng của nền hành chính cũ mà không chủ động đổi
mới, thích ứng với những vận động của thời cuộc.
Về trình độ, năng lực: dù đã có những tiến bộ rõ nét so với nhiều năm
trước, song như đã phân tích bên trên, thực trạng trình độ, năng lực cán bộ lãnh
đạo vẫn bất cập so với công việc và càng bất cập so với yêu cầu của cuộc sống.
Hơn nữa, đây đồng thời là hạn chế của đội ngũ cán bộ, công chức phường nói
chung. Điều đó tạo nên lực cản lớn đối với toàn bộ bộ máy, từ hoạt động lãnh
đạo, quản lý cho đến hoạt động chấp hành, thực thi. Bên cạnh đó, những hạn chế
về tuổi tác, phong cách làm việc, về khả năng tiếp cận công nghệ hiện đại và
kiến thức phát triển hiện đại cũng cản trở không ít khả năng hoạt động tác
nghiệp của cán bộ trong tình hình mới.
Thứ ba, bất cập của công tác cán bộ. Về mặt lôgic, những hạn chế của đội ngũ
cán bộ không thể không có nguyên nhân từ những hạn chế của công tác tuyển
chọn, quy hoạch, đào tạo, bố trí, sử dụng và thực hiện chính sách đối với đội ngũ
cán bộ phường. Tìm hiểu kỹ lưỡng, sâu sắc hơn về công tác xây dựng đội ngũ
cán bộ lãnh đạo phường hiện nay để đáp ứng được những yêu cầu của nhiệm vụ

và của thời kỳ mới là một nội dung, căn cứ quan trọng cho việc xây dựng đội
ngũ cán bộ lãnh đạo phường trong hoàn cảnh hiện nay.
______________
17

×