Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

chính sách mục tiêu lạm phát

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (248.1 KB, 17 trang )

1
I. Đặt vấn đề:
1. Lịch sử CSTT
+ thời kỳ “tỷ giá cố định”:
điều hành CSTT dưới chế độ tỷ giá cố định đã bộc lộ nhiều hạn chế như:
- Các nước không thể độc lập về CSTT do tỷ giá hối đoái bị gắn chặt vào đồng
ngoại tệ mạnh
- Để neo được tỷ giá hối đoái đòi hỏi NHTƯ phải có nguồn dự trữ quốc tế ở mức
có thể chủ động can thiệp thị trường.
+ thời kỳ “cung tiền”
- Lấy chỉ tiêu cung ứng tiền làm neo cho CSTT có lợi điểm (so với neo tỷ giá) là tạo
khả năng độc lập cao hơn cho NHTƯ trong điều hành CSTT. Bên cạnh đó, do không cần
tập trung nhiều vào can thiệp tỷ giá (tỷ giá thả nổi) nên NHTƯ có cơ hội “toàn tâm, toàn
ý” để kiểm soát tiền cung ứng hơn
CSTT được neo bởi chỉ tiêu cung ứng tiền trong thực tế đã phát sinh nhiều hạn chế :
- Chưa cho phép đánh giá một cách rõ ràng sự tương tác giữa chỉ tiêu cung ứng tiền
và chỉ tiêu lạm phát
- Sự ổn định giá cả thông qua tỷ lệ lạm phát thấp, ổn định chứ không phải là lượng
tiền cung ứng m1, m2 hay m3
- NHTƯ chưa thể kiểm soát được chỉ tiêu cung ứng tiền một cách hiệu quả.
+ thời kì “mới” – “lạm phát mục tiêu”
Sơ lược về lịch sử lạm phát ở việt nam.
2
Nhận xét:
- Tình hình lạm phát của nước ta trong từng giai đoạn có nhiều biến động, một mặt do sự
tác động của yếu tố bên ngoài là cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu, khủng hoảng nợ
công đang lan tràn, mặt khác do tác động của các điều kiện khách quan lẫn chủ quan
trong nước.
- Lạm phát bình quân tăng dần qua các giai đoạn và đạt mức 2 con số (11,4%) ở giai
đoạn 2006-2010
- Tăng trưởng GDP bình quân cũng tăng theo ( từ 6.91% đến 7.51%). Nhưng đến giai


đoạn 2006-2010, khi lạm phát cao thì tăng trưởng GDP bình quân đã giảm còn 7.02%
=> chính phủ chưa thực sự có những giải pháp đúng đắn, phù hợp trong một vài giai đoạn
gây nên những tác hại cho nền kinh tế
3
2. Sơ lược CSTT:
2 xu hướng chính trước đây:
- Tăng trưởng GDP.
- Đa mục tiêu (chính là cùng một lúc theo đuổi nhiều mục tiêu khác nhau)
 Hạn chế của hai xu hướng này:
Thứ nhất, CSTT ảnh hưởng lên nền kinh tế mang tính dài hạn: ( Nghĩa
là ảnh hưởng ko chính xác về mặt thời gian và đôi khi đẩy nền kinh tế vào trạng thái tiêu
cực, đặc biệt là khi nó ko rõ ràng và nhất quán)
Thứ hai: đường cong Philip trong dài hạn là một đường thẳng ( Nghĩa
là sự đánh đổi tỷ lệ lạm phát cao lấy tỷ lệ tăng trưởng cao trong dài hạn là ko có. Trong
ngắn hạn thì đường cong Philip thể hiện mối quan hệ giữa tỷ lệ lạm phát cao đổi lấy tỷ lệ
thất nghiệp thấp & tỷ lệ tăng trưởng cao. Nhưng trong dài hạn thì tăng trưởng kinh tế bị
giới hạn, đó là khi đạt được sản lượng tiềm năng, trong khi lạm phát vẫn cứ tiếp tục tăng
lên do những dự tính của người dân)
Thứ ba; độ lệch thời gian ( nghĩa là các nhà hoạch định chính sách
thường cho rằng các cá nhân và công ty đưa ra quyết định tiêu dùng hay đầu tư trùng với
thời điểm mà họ công bố CSTT. Tuy nhiên khu vực tư nhân thường đưa ra quyết định
của mình dựa trên các dự tính trước của họ về CSTT, và khi họ nhận thấy động cơ mở
rộng của các nhà hoạch định chính sách thì họ sẽ chủ động tăng giá và tiền lương  kết
quả là các nhà hoạch định chính sách ko thể lừa được người lao động và các công ty 
CSTT thất bại).
II. CSTT LẠM PHÁT MỤC TIÊU:
1. Định nghĩa
Quỹ tiền tệ quốc tế (imf) đã định nghĩa như sau:
- CSLPMT là một bản thông báo ra công chúng về chỉ tiêu trung hạn của lạm phát cũng
như uy tín của cơ quan thẩm quyền về tiền tệ để đạt mục tiêu này.

4
- Các yếu tố khác bao gồm: phổ biến thông tin về các kế hoạch và mục tiêu của nhà
hoạch định CSTT tới công chúng và thị trường, cũng như trách nhiệm giải trình của
NHTƯ để đạt được các chỉ tiêu lạm phát của mình.
- Các quyết định về CSTT sẽ dựa trên: độ lệch dự báo lạm phát (một cách hoàn toàn hay
rõ ràng) đóng vai trò là chỉ tiêu trung gian của CSTT
Mishkin (2000, 2001):
- công bố ra công chúng mục tiêu lạm phát định lượng trong trung hạn;
- cam kết thể chế nhằm ổn định giá cả như một mục tiêu chủ yếu của CSTT;
- chiến lược thông tin bao gồm nhiều biến số (không chỉ có tổng cung tiền hay tỷ giá hối
đoái) được sử dụng cho việc thiết lập công cụ chính sách;
- tăng tính minh bạch của chiến lược CSTT thông qua việc thông báo với công chúng và
thị trường về kế hoạch, mục tiêu, những quyết định của NHTƯ
- tăng trách nhiệm giải trình.
Geoffrey heenan, mareel peter, và scott roger (2006):
- thỏa thuận thể chế về sự hỗ trợ lạm phát mục tiêu (bao gồm tính độc lập của NHTƯ,
trách nhiệm giải trình, thỏa thuận về việc đưa ra quyết định);
- thiết kế lạm phát mục tiêu;
- chính sách truyền thông của NHTƯ
2. Một số vấn đề cần làm rõ:
a. Tính độc lập của NHTW: được thể hiện thông qua:
+ Xác định rõ cơ chế hoạch định CSTT là như thế nào?
+ NHTW có toàn quyền thực thi CSTT hay không?
+ Trách nhiệm của NHTW khi mục tiêu không đạt được?
5
b. Lượng hóa mục tiêu: hay đặt ra mức lạm phát hợp lý:
+ Mức lạm phát nên là một con số hay là một khung giá trị biến thiên?
+ Lạm phát ở mức 0% có tốt cho nền kinh tế?
Giải thích cho vấn đề trên :
Trong tỷ lệ lạm phát luôn có những sai số do đo lường cũng như xu thế tăng có thể chấp

nhận được của giá cả. Đó là xu hướng tăng giá do sự đầu tư đổi mới làm chất lượng hàng
hóa tăng lên hoặc sự thay đổi trong nhu cầu tiêu dùng dẫn đến thay đổi giỏ hàng hóa tính
CPI. Vì vậy có thể hiểu mức lạm phát 0% lại tương đương với việc tiềm ẩn nguy cơ thiểu
phát đ/v nền kinh tế.
Hơn nữa lạm phát là 1 hiện tượng kinh tế phức tạp, chỉ số lạm phát được tổng hợp từ
nhiều nguồn số liệu, nên việc chỉ dùng 1 giá trị duy nhất để đánh giá lạm phát là một điều
ko hợp lý. Điều đó khiến cho NHTW mất đi tính linh hoạt trong điều hành CSTT để đối
phó lại với các biến động thường xuyên của nền kinh tế.
 vì vậy hầu hết các quốc gia đã thực hiện CSLPMT đều nhất trí đặt mục tiêu là một
khung giá trị, có cận dưới lớn hơn 0% còn cận trên thì tùy thuộc vào điều kiện từng quốc
gia trong từng thời kỳ nhất định.
So sánh lạm phát mục tiêu ở một số quốc gia:
Kể từ khi New Zealand áp dụng CSLPMT từ năm 1990 đến nay, đã có gần 30 quốc gia
áp dụng CSTT lấy lạm phát làm mục tiêu.
Bảng 1: Động cơ áp dụng CSLPMT:
6
Các nước IT
Nhằm ứng
phó với hoạt
động kinh tế
nghèo nàn
Sự bất ổn định
của tỷ giá hối
đoái
Gia
nhập
EMU
Neo các kỳ
vọng lạm
phát

Brazil X X
Chile X X
CH Séc X X
Canada X
New Zealand X X
Tây Ban Nha X X
V.Quốc Anh X
Đa số các nước chuyển sang CSLPMT do sự bất ổn về tỷ giá hối đoái; cần có neo danh nghĩa
cho các kỳ vọng lạm phát; một số nước áp dụng lạm phát mục tiêu nhằm ứng phó với hoạt động
kinh tế nghèo nàn; một số nước khác nhằm đáp ứng yêu cầu gia nhập Liên minh Châu Âu. Ta có
thể thấy 2 nguyên nhân chính dẫn đến áp dụng CSMTLP:
-Thứ nhất, nhóm lý do kỳ vọng một cơ chế CSTT mới hiệu quả hơn. Vd: các nước
công nghiệp phát triển như newzealand, vương quốc anh và một số nước chuyển đổi như
cộng hòa séc, ba lan, hungary…-Thứ hai, nhóm lý do từ cú sốc về khủng hoảng tài chính
tiền tệ hoặc bị tác động của khủng hoảng tài chính tiền tệ trước đó . Vd: brazil, mexico,
nam phi, thái lan, hàn quốc,
Bảng 2: So sánh CSMTLP của một số nước
a. Về thời điểm áp dụng: thì New Zealand là nước đi đầu trong việc thực hiện CSMTLP
một cách trực tiếp ( trước đó là Đức nhưng được xem là gián tiếp). Sau đó là Canada và
NHTW Châu Âu ECB cũng đưa ra quyết định áp dụng chính sách này, đã thực thi một
cách rất linh hoạt và hết sức thành công.
7
b. Về chỉ số lạm phát mục tiêu: lúc đầu thực hiện thì New Zealand đã xác định khung
mục tiêu của mình là 0%-2% nhưng sau đó nhận thấy rằng sự phát triển kinh tế ở mức
lạm phát 1.9-2.1% là như nhau nên đã mở rộng khung lạm phát từ 0-3%. Điều kiện kinh
tế lúc mới bắt đầu của Canada là lạm phát rất cao, thất nghiệp gia tăng, kinh tế trì trệ…
nên NHTW quyết định chọn giá trị này là 3% ( biên độ dao động 2-4%) sau đó giảm dần
theo thời gian, cho đến bây giờ là 2%( biên độ dao động 1-3%). Các nước đi sau rút ra
được nhiều kinh nghiệm nên ECB đã công bố mức 2% là hợp lý và cho một biên độ dao
động nhỏ hơn và gần 2%.

c. Về tính độc lập của NHTƯ:
+ Hoạt động của Ngân hàng Dự trữ New Zealand mang tính luật định cao được quy
định trong các thoả ước mục tiêu chính sách nhưng thực ra lại là tính độc lập tương đối,
nghĩa là một mặt NHDT New Zealand độc lập trong việc thực thi CSTT, nhưng mặt khác
nó lại không độc lập trong việc hoạch định CSTT mà những mục tiêu phải do “Sự thoả
thuận giữa Bộ Tài chính và Chính phủ”, NHDT chỉ hoạt động như một đại lý của Chính
phủ mà thôi.
+Trong khi đó với Canada, NHTƯ lại là đối tượng của “học thuyết trách nhiệm
tay đôi”, tuy mục tiêu lạm phát được công bố là “sự phối hợp giữa Bộ Tài chính và
NHTƯ” nhưng sự kiểm soát CSTT cuối cùng lại được đặt dưới quyền của Bộ Tài chính,
điều này có nghĩa là Bộ trưởng có thể buộc Thống đốc phải thực hiện một CSTT cụ thể
bằng một chỉ thị (thường sẽ đi kèm với việc Thống đốc phải xin từ chức).
+ Trong khi đó, ngay từ khi ra đời trong “Hiệp ước về việc thành lập liên minh
châu Âu” đã có những điều luật quy định tính độc lập tuyệt đối cho ECB trong cả hoạch
định lẫn thực thi CSTT. Những quyết định về mục tiêu lẫn cách thức làm sao đạt được
những mục tiêu đó chỉ do ECB quyết định.
d. Về công cụ đo lường lạm phát:
+Cả 3 nước này đều nhất trí sử dụng chỉ số CPI bởi vì đặc tính phổ biến, dễ hiểu
và được công bố một cách công khai thường xuyên của nó

8
+khác biệt chỉ là ở việc ECB sử dụng chỉ số HICP. Về bản chất, HICP tương tự
CPI nhưng được tính theo phương pháp thống kê cân đối giữa các quốc gia thành viên
của EU.
+ bên cạnh đó cả 3 nước đều sử dụng chỉ số lạm phát cơ bản vì cho rằng chỉ số này
thể hiện rõ hơn những xu hướng biến động trong dài hạn của lạm phát vì nó đã loại trừ
các tác động mang tính ngắn hạn và có thể nhanh chóng mất đi như New Zealand loại trừ
khỏi CPI tác động của lãi suất, Canada loại trừ tác động của giá lương thực và năng
lượng, trong khi ECB loại trừ biến động của thực phẩm chưa qua chế biến .
- Về sự công khai minh bạch:

Để thực hiện điều đó, ngoài việc thường xuyên tổ chức các buổi hội thảo, những tham
luận của các quan chức cao cấp của NHTƯ và Chính phủ, những chuyến công tác của
các Thống đốc, các nước này đều rất chú ý cho ra các báo cáo một cách thường xuyên:
• New Zealand phát hành bản “Tuyên bố CSTT” đều đặn hàng quý từ 3/90
• Canada nửa năm một lần cho ra “Báo cáo CSTT” từ 5/95 và các “Cập nhật
báo cáo CSTT” xen giữa.
• Trong khi đó ECB còn thường xuyên hơn đều đặn hàng tháng đều cho ra
“Báo cáo CSTT” của mình đến với các chủ thể trong nền kinh tế.
Những báo cáo này thường xuyên được cải biến để ngày càng trở nên sinh động dễ
hiểu bằng nhiều đồ thị, biểu đồ, hình ảnh nhằm thu hút hơn và bạn đọc có thể dễ dàng
tiếp cận với những hoạt động của NHTƯ.
3. Ưu nhược điểm của LPMT:
a) Ưu điểm:
• Xác lập một khuôn khổ CSTT minh bạch với sự bảo đảm bằng trách nhiệm và uy
tín bởi NHTW
9
• Tạo cho NHTW sự tập trung cần thiết , có quyền tự do, linh hoạt và quyền tự quyết
nhất định trong điều hành CSTT.
• Tính độc lập tương đối của NHTW được duy trì nên NHTW có thể bảo vệ tốt nền
kinh tế trước những cú sốc xảy ra trong và ngoài nước
• Do hướng vào một mục tiêu duy nhất là lạm phát nên CSTT LPMT đã tạo tiền đề
cho các mục tiêu kinh tế vĩ mô khác phát triển ổn định trong dài hạn như tăng
trưởng, việc làm,…
b) Nhược điểm
• Do cơ chế ràng buộc giữa quyền và trách nhiệm trong điều hành CSTT LPMT nên
chính NHTW có thể chịu hậu quả nặng nềnếu hiệu quả của nó dẫn tới lạm phát
cao chứ không phải là lạm phát thấp và ổn định.
• Do các hiệu ứng của chính sách lên lạm phát có độ trễ về mặt thời gian nên NHTW
không dễ dàng kiểm soát được mức lạm phát
• Việc cố gắng để đạt được lạm phát mục tiêu có thể tạo nênmức tăng trưởng không

bền vững của công ăn việc làm và sản lượng.
• Do cơ chế ràng buộc thông tin giữa NHTW và công chúng nên CSTT LPMTluôn
phải công khai minh bạch, gắn liền với trách nhiệm cao của NHTW trong khi
không phải lúc nào họ cũng có thể đáp ứng yêu cầu này
III. BÀI HỌC KINH NGHỆM:
1. Nhận định của các nhà kinh tế:
Mishkin (2004).
Những khó khăn và khác biệt bao gồm:
10
- các định chế tài khóa yếu kém
- các định chế tài chính yếu kém
- mức độ tin cậy thấp của các định chế tiền tệ,
- tình trạng đô la hóa
- tính dễ bị tổn thương của các nước này trước sự dừng lại đột ngột của dòng vốn vào.
Theo charles freedmand và inci otker-robe (2010) có ba điều kiện cốt lõi để hoạt
động lạm phát mục tiêu, đó là:
- Mục tiêu lạm phát là mục tiêu ưu tiên trong các mục tiêu của CSTT;
- Không có áp chế tài chính
- Độc lập về công cụ CSTT (NHTƯ chủ động hoàn toàn trong việc sử dụng các công
cụ CSTT)
2. Bài học thực tiễn:
Một là, “Lựa chọn CSMTLP phải trên cơ sở sau một thời kỳ kiềm chế lạm phát thành
công”.
Điều này sẽ giúp tạo ra niềm tin của công chúng vào khả năng của NHTƯ trong việc thực
thi các mục tiêu mình đã định ra cũng như tạo tiền đề cở sở cho việc kiểm soát lạm phát
về sau.
11
Còn việc sau bao nhiêu năm thì phải phụ thuộc vào điều kiện của từng quốc gia cụ thể,
khi thấy mình đã hội tụ đầy đủ những yếu tố có thể thực hiện thành công CSMTLP thì
chính thức công bố. Bởi vì một khi đã công khai công bố thì phải bằng mọi cách đạt

được, nếu không sẽ gây mất niềm tin với công chúng.
Hai là, “Chỉ số CPI và chỉ số lạm phát cơ bản – song song sử dụng”.
Mặc dù như đã nói ở trên chỉ số CPI có nhiều ưu điểm nhưng một nhược điểm lớn là nó
bao gồm cả những yếu tố khiến giá cả biến động trong ngắn hạn mà có thể nhanh chóng
mất đi sau đó nên bên cạnh đó các NHTƯ đều sử dụng thêm chỉ số lạm phát cơ bản vì
cho rằng chỉ số này mới thể hiện bản chất xu hướng biến động của giá cả và giúp NHTƯ
có thể nhìn nhận về tình trạng lạm phát chính xác hơn.
Ba là, “CSMTLP phải có tính linh hoạt cao”.
Đây là một vấn đề quan trọng, bởi vì
các biến cố kinh tế, chính trị, xã hội biến đổi không lường, dẫn đến những phản ứng khác
nhau của nền kinh tế vào từng thời kỳ, rất cần thiết phải cho NHTƯ những sự linh hoạt
nhất định để họ có thể phản ứng lại các biến động này một cách có hiệu quả
Sự linh hoạt này có thể được thể hiện trên nhiều mặt:
- Mục tiêu được đặt trong một khung giá trị hơn là một con số cụ thể.
- Khung mục tiêu được đặt ra một cách từ từ tăng hoặc giảm theo thời gian để tránh gây
sốc cho nền kinh tế.
- Mỗi mục tiêu có thời gian thực hiện tương đối dài, trong thời gian đó, vẫn có thể chấp
nhận sự lệch ra khỏi mục tiêu một cách tạm thời.
Bốn là, “CSMTLP phải có sự công khai minh bạch và gắn liền với trách nhiệm cao của
NHTƯ”
Điều này có tác dụng là khi mà các chủ thể khác trong nền kinh tế biết được NHTƯ đang
làm gì, CSTT đang ở đâu thì những sự dự tính của họ về các nhân tố có liên quan đến lạm
12
phát sẽ gần hơn với những gì mà NHTƯ mong muốn và tỷ lệ lạm phát trong dài hạn sẽ
rơi vào khung mục tiêu đã đặt ra. Các khía cạnh có thể đề cập đến:
- Bên cạnh các kênh thông tin chính thức phải chú ý quan tâm cả đến những kênh không
chính thức (các bài tham luận, phát biểu, phát hành báo chí, trang web )
- Gia tăng cam kết trách nhiệm của NHTƯ trong việc thực thi các mục tiêu đã đặt ra của
CSTT.
Năm là, “CSMTLP không được phép xung đột với các chính sách kinh tế vĩ mô khác”.

Ngoài CSTT, bất cứ quốc gia nào cũng còn phải thực hiện nhiều các chính sách kinh tế vĩ
mô khác.
Việc đặt ra các chính sách chồng chéo và xung đột lẫn nhau tất sẽ gây ra những khó khăn
cho các cơ quan chủ quản trong việc thực thi các chính sách này.
Vì vậy ngay từ khi hoạch định chúng ta đã phải cố gắng làm sao cho các chính sách này
không có xung đột với nhau mới tạo ra những thuận tiện trong quá trình thực hiện sau
này.
Sáu là, “dự báo lạm phát - nhân tố góp phần trong thành công của CSMTLP”.
không phải bất cứ quốc gia nào cũng thực hiện dự báo lạm phát, và cũng không phải bắt
buộc phải dự báo lạm phát mới đem đến thành công cho CSMTLP
nhưng có thể dự báo trước được những gì có thể xẩy ra cũng không phải là tồi.
Nó sẽ góp phần giúp NHTƯ có được cái nhìn tốt hơn và không bị bất ngờ trước những gì
mà mình sẽ phải đối mặt và vì thế đưa ra được những biện pháp ứng phó.
IV. KHẢ NĂNG ÁP DỤNG TẠI VN.
1. Một số kết quả đạt được của CSTT
13
- NHTƯ đã chuyển dần từ công cụ trực tiếp sang công cụ gián tiếp để nâng cao hiệu
quả của CSTT, các công cụ CSTT đã được thiết lập và đang dần hoàn thiện theo thông lệ
quốc tế.
- công tác huy động vốn của hệ thống ngân hàng đã không ngừng đẩy mạnh, đáp ứng
nguồn vốn cho mục tiêu đầu tư phát triển đất nước.
2. Hạn chế của CSTT:
- hệ thống các tiêu chí tiền tệ của NHNN chưa thực sự rõ ràng để truyền tải tác động
của các quyết định chính sách đến mục tiêu hoạt động, mục tiêu trung gian và mục tiêu
cuối cùng của CSTT.
- điều hành các công cụ CSTT chưa đạt hiệu quả cao do :
+CSTT chủ yếu còn mang tính ngắn hạn.
+ sự chi phối quá sâu của chính phủ làm giảm tính độc lập, chủ động của NHNN
trong việc điều hành CSTT linh hoạt.
- thị trường tiền tệ, thị trường trái phiếu phát triển ở mức độ thấp, thiếu năng động,

thiếu tính linh hoạt, chưa phản ánh được cung, cầu vốn, các công cụ thị trường còn rất ít
và sử dụng không hiệu quả.
3. Một số tiền đề đánh giá khả năng áp dụng CSMTLP ở Việt Nam:
- CSMTLP được áp dụng tại các nước trên thế giới ngày càng tỏ ra có hiệu quả hơn (thể
hiện qua các kết quả vĩ mô, khả năng chống đỡ với các cú sốc,…) so với CSTT truyền
thống (neo danh nghĩa với cung tiền hoặc tỷ giá)
- Về mặt chủ quan, do đeo đuổi CSTT đa mục tiêu + sử dụng Tổng phương tiện thanh
toán M2 làm mục tiêu trung gian nên NHNN ngày càng khó khăn trong việc kiểm soát
14
lạm phát. Những năm gần đây, lạm phát tăng nhanh nhưng NHNN chưa có biện pháp
hữu hiệu để kiểm soát lạm phát  cần tìm một neo mới cho chính sách tiền tệ sao
cho có thể chủ động kiểm soát lạm phát, ổn định giá cả, duy trì lạm phát ở mức thấp và
ổn định  phương án tối ưu là chọn CSMTLP.
- Việc hướng tới CSLPMT là phù hợp với Chiến lược phát triển hệ thống Ngân hàng
Việt Nam, theo đó xây dựng NHNN VN trở thành NHTƯ hiện đại có nhiệm vụ chủ yếu
là kiểm soát lạm phát và giám sát đảm bảo hoạt động của hệ thống ngân hàng.
- Quan điểm của các nhà lãnh đạo đứng đầu Chính phủ Việt Nam về mối tương quan
giữa mục tiêu lạm phát và mục tiêu tăng trưởng kinh tế trong thời gian gần đây đã có sự
đổi mới. Họ đã nhận ra rằng không thể tăng trưởng kinh tế cao bằng mọi giá, chống lạm
phát đòi hỏi phải có sự đánh đổi  tạo tiền đề ủng hộ việc áp dụng CSMTLP trong tương
lai của NHTƯ.
4. Điều kiện tiên quyết để Việt Nam áp dụng thành công CSLPMT:
- Ổn định giá cả phải là mục tiêu hàng đầu của chính sách tiền tệ. Luật NHNN năm
2010 đã làm rõ kiềm chế lạm phát, duy trì lạm phát ở mức thấp và ổn định là mục tiêu số
một.
- NHTƯ chủ động hoàn toàn trong việc sử dụng các công cụ CSTT. Việc xây dựng một
NHTƯ tương đối độc lập với Chính phủ (độc lập về thực thi CSTT) là khá khả thi.
15
- Hiện tại NHNN được coi là một cơ quan ngang Bộ của Chính phủ nên vẫn phụ thuộc
về tài chính của Chính phủ, nên cách tốt nhất là NHNN cần có một cơ chế tài chính phù

hợp, được Chính phủ cho phép, hạn chế phát sinh sức ép của Chính phủ và Bộ Tài chính
đối với hoạt động của NHTƯ.
- Một trong những điều kiện góp phần áp dụng thành công CSLPMT là hệ thống tài
chính, thị trường tài chính phải hoạt động tốt. Tuy nhiên ở Việt Nam, năng lực cạnh
tranh của hệ thống ngân hàng còn thấp, tiềm ẩn nhiều rủi ro. Thị trường vốn, thị
trường tiền tệ còn đang trong giai đoạn đầu của sự phát triển.
- NHNN có áp dụng thành công CSLPMT hay không còn ở chỗ, khi nào và bằng cách
nào chúng ta có được sự phối hợp tốt giữa CSTT và chính sách tài khóa trên thực tế chứ
không phải trên lý thuyết.
- Kinh nghiệm các nước áp dụng CSLPMT cho thấy, đa số các nước áp dụng khuôn khổ
LPMT hoàn toàn vào thời điểm kiềm chế lạm phát thành công, chỉ số lạm phát đang
giảm xuống. Trong khi đó, mức lạm phát tại Việt Nam từ năm 2004 tới nay biến động
phức tạp, áp lực lạm phát ngày càng tăng  trong thời điểm hiện tại NHTƯ chưa thể áp
dụng được ngay CSLPMT hoàn toàn mà khởi đầu, chúng ta có thể áp dụng lạm phát
mục tiêu ngầm định .
- Về mặt kỹ thuật, để đưa ra CSLPMT ít thách thức đòi hỏi NHTƯ phải có khả năng dự
báo lạm phát kỳ vọng thật tốt. Tuy nhiên, tại Việt Nam việc tính toán CPI cũng còn nhiều
hạn chế và công tác dự báo về giá và tiền tệ còn nhiều bất cập.
5. Chuẩn bị các điều kiện tiến tới áp dụng lạm phát mục tiêu ở việt nam
a. Lựa chọn mục tiêu điều hành của NHNN
- Điều kiện thị trường tiền tệ Việt Nam hiện nay cho thấy chưa đủ các điều kiện cần
thiết để NHNN chuyển hoàn toàn sang khuôn khổ CSTT điều tiết lãi suất
- Tiếp tục sử dụng cơ chế điều hành hiện tại.
b. Nâng cao vị thế độc lập của NHTƯ
- Là NHTW độc lập tương đối.
- Chịu sự quản lí về cơ cấu tổ chức
- Độc lập trong điều tiết cung tiền và chủ động trong các CSTT.
c. Thành lập hội đồng CSTT
16
- Đảm bảo sự đồng bộ

- Tăng cường sự phối hợp của các ban ngành liên quan.
- Phân công trách nhiệm rõ ràng.
d. Phương thức điều hành CSTT theo khuôn khổ hành lang lãi suất.
Trong thời gian tới, NHNN cần xây dựng hành lang lãi suất đủ rộng để tạo động
lực cho thị trường liên ngân hàng với lãi suất cho vay qua đêm của NHNN là lãi
suất trần, lãi suất tiền gửi của các TCTD tại NHNN là lãi suất sàn.
Bên cạnh đó là những quy định về lãi suất định hướng thị trường.
e. Cơ chế giải trình và tính minh bạch
f. Các vấn đề xử lý kỹ thuật
+ Phương pháp tính toán và đo lường lạm phát
- Nâng cao chất lượng thống kê.
- Đưa số liệu chuỗi về cùng gốc so sánh.
- Công tác thống kê cần khẩn trương, chính xác.
+ Công tác dự báo lạm phát
- Dự báo lạm phát có thể được xem như là mục tiêu trung gian của các chính sách.
- Còn hạn chế do thiếu hụt dữ liệu, thiếu một hệ thống thông tin để cập nhật kịp thời
những thay đổi trên thị trường tài chính và cán bộ có trình độ chuyên môn cao
6. Lộ trình và giải pháp áp dụng cơ chế điều hành CSTT lấy lạm phát làm
mục tiêu ở việt nam
a) Lựa chọn và xử lý cấu trúc kỹ thuật
- Thời điểm áp dụng: IT ngầm định  FFIT
+ ban đầu Việt Nam có thể áp dụng CSMTLP ngầm định
+ sau đó khi nền kinh tế đang có mức lạm phát thấp hoặc lạm phát được kiểm
soát và các thể chế liên quan cho phép Ngân hàng Trung ương thực hiện CSLPMT
hiệu quả sẽ là thời điểm áp dụng CSLPMT hoàn toàn (FFIT).
- Khung lạm phát mục tiêu:
cho phép biên độ giao động là ± 2% hoặc ít hơn.
 biên độ trên vừa đảm bảo ổn định giá cả, kiểm soát lạm phát và vừa đảm bảo
mục tiêu tăng trưởng kinh tế tối thiểu
- Công cụ truyền dẫn lạm phát mục tiêu:

Kinh nghiệm cho thấy các nước áp dụng CSTT lạm phát mục tiêu đều vận hành
chính sách thông qua công cụ lãi suất chủ đạo của ngân hàng trung ương để tác
động vào lãi suất thị trường
b) Giải pháp chủ yếu để NHTƯ việt nam áp dụng CSLPMT.
17
- Nhóm giải pháp Đổi mới thể chế: Xây dựng Luật Ngân hàng Trung ương VN
thay thế Luật Ngân hàng Nhà nước theo hướng đổi mới Ngân hàng Nhà nước
thành Ngân hàng Trung ương hiện đại; Thành lập Hội đồng CSTT.
- Nhóm giải pháp kỹ thuật: Hoàn thiện phương pháp xác định chỉ số lạm phát
(CPI)
- Nhóm giải pháp hỗ trợ:
+ Đẩy mạnh công tác truyền thông về lạm phát mục tiêu;
+ Nâng cao năng lực dự báo lạm phát;
+ Phát triển và hoàn thiện thị trường tài chính;
+ Củng cố và phát triển hệ thống ngân hàng; Nâng cao tính minh bạch và trách
nhiệm giải trình của NHTW; Phối hợp tốt giữa chính sách tiền tệ và chính
sách tài khóa;

×