Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

những nội dung ôn thi môn tư tưởng hồ chí minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (191.74 KB, 25 trang )

Ni dung 1, Những tiền đề tư tưởng lý luận HCM
Thứ nhất, là giá trị truyền thống văn hóa dân tộc Việt Nam
Với lịch sử dựng nước và giữ nước lâu đời đã hình thành nên những giá trị truyền thống tốt đẹp của
dân tộc ta và đó chính là chủ nghĩa yêu nước, giá trị này chính là hành trang mang theo của HCM trong
quá trình ra đi tìm đường cứu nước. Chủ nghĩa yêu nước được hình thành trong quá trình đấu tranh
dựng nước và giữ nước của dân tộc ta qua hàng nghìn năm lịch sử, trở thành động lực lớn cho dân tộc
trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù xâm lược. Chủ nghĩa yêu nước luôn đứng đầu bảng giá trị trong
truyền thống văn hóa của dân tộc Việt, “là dòng sữa tinh thần nuôi sống dân tộc Việt Nam từ thời lập
quốc cho đến ngày nay và mãi mãi về sau”. Chủ nghĩa yêu nước sẽ biến thành lực lượng vật chất thực
sự khi nó ăn sâu vào tiềm thức, vào ý chí và hành động của mỗi con người Việt nam. Chính vì lẽ đó
HCM đã đúc kết thành chân lý: “Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý
báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một
làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán
nước và lũ cướp nước”.
Cùng với chủ nghĩa yêu nước thì trong truyền thống văn hóa của dân tộc VN với những giá trị văn
hóa tốt đẹp như tinh thần kiên cường bất khuất, tinh thần tương thân tương ái, đoàn kết cộng đồng, tinh
thần khoan dung, nhân nghĩa thủy chung; tinh thần lạc quan yêu đời; tinh thần trọng trí thức, hiền tài…
ảnh hưởng đến sự hình thành tư tưởng HCM.
Thứ hai, Tinh hoa văn hóa nhân loại.
HCM đã ảnh hưởng rất nhiều những giá trị tinh hoa văn hóa nhân loại,trước hết là văn hóa phương
Đông (như Nho gia, Đạo gia, Pháp gia, Phật giáo…) trong đó, Nho giáo là ảnh hưởng sâu đậm đối với
sự hình thành tư tưởng của Người, Người đã chắt lọc những mặt tích cực hợp lý, loại bỏ những tiêu cực
để xây dựng một xã hội tốt đẹp. Những mặt tích như: Những chuẩn mực để tu dưỡng đạo đức trong xã
hội của Nho giáo; Tư tưởng về một xã hội Đại đồng của Khổng Tử; Tư tưởng lấy dân làm gốc; tư
tưởng hành đạo giúp đời; hay Nho giáo là luôn đề cao việc học, coi trọng hiền tài…Còn những mặt tiêu
cực mà HCM phê phán như: Nho giáo phân chia xã hội thành những đẳng cấp khác nhau trong xã hội,
người tiểu nhân và người quân tử, kẻ lao tâm và người lao lực; tư tưởng trọng nam khinh nữ; những hủ
tục lạc hậu, tư tưởng trông chờ ỷ lại, tâm lý tự ti, thụ động, coi khinh lao động chân tay…
1
Về chủ nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn như: Dân sinh, dân quyền và dân quốc, đó là dân tộc thì
được độc lập, dân quyền thì được tư do và dân sinh thì được hạnh phúc. Đặc biệt, sau khi Lênin lãnh


đạo cách mạng Tháng Mười thành công, thì Tôn Trung Sơn đã có những tư tưởng tiến bộ, ông chủ
trương “Thân Nga, liên cộng, phù trợ công nông” nghĩa là thân với nước Nga Xô Viết để chống chủ
nghĩa đế quốc, liên minh với Cộng sản, ủng hộ giai cấp công nông trong sự nghiệp CM.
Về Phật giáo, HCM đã kế thừa những mặt tích cực hợp lý và loại bỏ những yếu tố hạn chế. Về mặt
tích cực như: những tư tưởng về cứu khổ cứu nạn, Phật giáo lên án sự phân chia xã hội thành các giai
cấp và chủ trương thực hiện bình đẳng trong xã hội, Phật giáo phái thiền tông còn đề cao lao động
chống lười biếng. Những hạn chế như những tư tưởng trong triết học Phật giáo mang tính duy tâm, khó
thực hiện.
Về văn hóa phương Tây, đó là Người nghiên cứu tư tưởng của những nhà khai sáng Pháp như
Rútxô, Môngtexkiơ, Vônte, Điđờrô…đó là tinh thần pháp luật, khế ước xã hội hay học thuyết về tam
quyền phân lập. Những tư tưởng của các ông là nền tảng, cơ sở cho CMTS sau này như CM Anh, Mỹ,
Pháp. Những cuộc CM này đã đóng góp vào trong giá trị văn minh của nhân loại là xã hội công dân và
nhà nước pháp quyền đã ra đời. Sau này khi nghiên cứu các bản Tuyên Ngôn Độc lập của CM Mỹ
(1776), Tuyên Ngôn Nhân quyền và dân quyền của CM Pháp (1791), HCM đã nhận thức được tính tất
yếu về quyền con người và quyền dân tộc mà 2 cuộc CM đó đã xác lập.
- Về chủ nghĩa Mác – Lênin, HCM nắm vững thế giới quan và phương pháp luận mà trong đó hạt
nhân là phép biện chứng để vận dụng vào quá trình CM. Người từng nhắc nhở chúng ta rằng, chúng ta
học CN Mác là học cái tinh thần của phép biện chứng, chứ không phải là học thuộc lòng từng câu từng
chữ. Học CN Mác – Lênin là phải sống với nhau cho có tình có lý, chứ không phải thuộc dăm ba câu
CN Mác để đi lòe thiên hạ. Học CN Mác là để làm CM, cứu dân cứu nước, để cải tạo thế giới. Đó là
điều cốt lõi trong CN Mác – Lênin mà HCM tiếp thu, vận dụng sáng tạo và phát triển ở Việt Nam.
2
Ni dung 2: Đc lập dân tc là ni dung cốt lõi của vấn đề dân tc thuc địa.
a) Thực chất của vấn đề dân tc thuc địa:
- Đấu tranh chống CNTD, giải phóng dân tộc:
HCM không bàn về vấn đề dân tộc nói chung.Xuất phát từ nhu cầu khách quan của dân tộc
VN,đặc điểm của thời đại, Người dành sự quan tâm đến các thuộc địa, vạch ra thực chất của vấn đề dân
tộc ở thuộc địa là vấn đề đấu tranh chống CNTD, xóa bỏ ách thống trị, áp bức bóc lột của nước ngoài,
giải phóng dân tộc, thực hiện quyền dân tộc tự quyết, thành lập Nhà nước dân tộc độc lập.
- Lựa chọn con đường phát triển của dân tộc: Từ thực tiễn phong trào cứu nước của dân tộc và nhân

loại, HCM khẳng định phương hướng phát triển của dân tộc trong bối cảnh thời đại mới là CNXH.
Hoạch định con đường phát triển của dân tộc thuộc địa là 1 vấn đề hết sức mới mẽ.Từ 1 nước
thuộc địa đi lên CNXH phải trải qua nhiều giai đoạn chiến lược khác nhau.Trong cương lĩnh chính trị
đầu tiên của ĐCSVN,Người viết: “làm tư sản dân quyền CM và thổ địa CM để đi tới xã hội Cộng sản”
con đường đó xét về thực chất chính là con đường độc lập dân tộc gắn liền với CNXH.
Con đường đó phù hợp với hoàn cảnh của các nước thuộc địa, nó hoàn toàn khác biệt với các nước đã
phát triển đi lên CNTB ở phương Tây.Đây là nét độc đáo trong tư tưởng HCM.
b) Đc lập dân tc là ND cốt lõi của vấn đề dân tc thuc địa:
- Hồ Chí Minh tiếp cận quyền dân tộc từ quyền con người được xác lập từ giá trị cách mạng thế giới
mang lại.
HCM tiếp cận quyền con người hoàn toàn khác với các học giả tư sản và những nhà tư tưởng
hay triết học của nhân loại, cách tiếp cận của Người hoàn toàn mới mẻ và sâu sắc, Người xuất phát từ
truyền thống dân tộc, từ đặc điểm của thời đại và con người hiện thực để xem xét và giải quyết vấn đề
quyền con người. Với cách xem xét đó thì quyền con người ở Việt Nam chỉ có thể được giải quyết
thông qua một cuộc CM hiện thực. Nhận thức về quyền con người của HCM là sự kế thừa những giá trị
tư tưởng trong 2 bản Tuyên ngôn Độc lập của CM Mỹ (1776) và Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân
quyền của CM Pháp (1791). Trong Tuyên ngôn độc lập của Mỹ khẳng định: “Tất cả mọi người đều
sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong
những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”. Bản Tuyên ngôn
Nhân quyền và Dân quyền của CM Pháp khẳng định: “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền
lợi; và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi”. Như vậy, từ quyền con người mà thành
3
tựu các cuộc CM Mỹ và Pháp đưa lại, HCM đã nâng lên thành quyền dân tộc, Người khẳng định:
“Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung
sướng và quyền tự do”. Từ lý luận về quyền con người mà 2 cuộc CM Mỹ và Pháp xác lập, khi lý luận
xâm nhập vào thực tiễn, cụ thể là thực tiễn của CM Việt Nam đã hình thành một khái niệm mới, đó là
quyền dân tộc. HCM đã nâng quyền con người lên thành quyền dân tộc là hợp với lẽ tự nhiên, vì quyền
con người nằm trong quyền dân tộc, vi phạm quyền dân tộc, điều đó cũng có nghĩa là vi phạm quyền
con người. Điều này nó trái với chân lý đã được khẳng định trong Tuyên Ngôn của CM Mỹ và Pháp.
Với cách tiếp cận này, HCM đã đặt quyền con người vào trong quyền dân tộc, muốn giải phóng

con người thì phải giải phóng dân tộc, vì không thể có tự do cho mỗi con người, nếu dân tộc còn nô lệ.
- Nội dung của độc lập dân tộc
Độc lập dân tộc đã trở thành một giá trị thiêng liêng của dân tộc Việt Nam. HCM đã kế thừa
những truyền thống văn hóa của dân tộc VN được hun đúc qua hàng nghìn năm lịch sử. Đó là ý thức về
sự thể hiện chủ quyền của dân tộc, tiêu biểu như Bình Ngô Đại Cáo của Nguyễn Trãi đã khẳng định:
“Như nước Đại Việt ta từ trước; Vốn xưng nền văn hiến đã lâu; núi sông bờ cõi đã chia, phong tục
Bắc Nam cũng khác”. Hay như Lý Thường Kiệt cũng từng khẳng định tương tự: “Sông núi nước Nam
vua Nam ở; Rành rành định phận ở sách trời”. Đây là những tư tưởng thể hiện ý thức độc lập tự chủ
của dân tộc đã được ghi nhận. Đó là một lẽ tự nhiên.
Kế thừa những tư tưởng đó, khi VN mất độc lập, dưới sự thống trị của TD Pháp, Nguyễn Tất
Thành đã quyết định ra đi tìm đường cứu nước giải phóng dân tộc.Trong quá trình hoạt động cứu nước,
tư tưởng về độc lập chủ quyền dân tộc của HCM luôn thống nhất trước sau như một. Bao giờ cũng
nung nấu một ý chí, quyết tâm để đấu tranh giành độc lập dân tộc. Đó là một khát vọng cháy bỏng của
HCM và độc lập đã trở thành một nguyên tắc bất biến. Khát vọng đó được Người thể hiện rất rõ khi
sáng lập ra ĐCSVN (1930), Người xác định mục tiêu chính trị của Đảng là: “Đánh đổ đế quốc chủ
nghĩa Pháp và bọn phong kiến. Làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập”.
Khi trở về trực tiếp lãnh đạo CM Việt Nam, Người chủ trì Hội nghị TW lần thứ 8(5.1941) và
trong thư Kính cáo đồng bào, chỉ rõ: “Trong lúc này quyền lợi dân tộc giải phóng cao hơn hết thảy”.
Khi thời cơ thuận lợi cho cuộc khởi nghĩa đã đến, Người đưa ra quyết tâm “Dù có phải đốt cháy cả
dãy Trường Sơn này cũng phải giành cho được độc lập dân tộc”. CM Tháng Tám thành công, Người
khẳng định cho thế giới biết khát vọng của dân tộc VN : “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc
4
lập, và sự thật đã thành một nước tự do độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần
và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”.
Đối với HCM, hoà bình chân chính trong nền độc lập dân tộc để nhân dân xây dựng cuộc sống
ấm no hạnh phúc cũng là quyền cơ bản của dân tộc. Hoà bình không thể tách rời độc lập dân tộc, và
muốn có hoà bình thật sự thì phải có độc lập thật sự. HCM đã nêu: “Nhân dân chúng tôi thành thật
mong muốn hoà bình. Nhưng nhân dân chúng tôi cũng kiên quyết chiến đấu đến cùng để bảo vệ độc
lập và chủ quyền thiêng liêng nhất: toàn vẹn lãnh thổ cho Tổ quốc và độc lập cho đất nước. Những tư
tưởng đó đã tạo nên chân lý có giá trị lớn nhất cho mọi thời đại:“Không có gì quý hơn độc lập, tự do!”.

Nói tóm lại nội dung về độc lập dân tộc trong tư tưởng HCM bao gồm những vấn đề sau:
- Độc lập dân tộc phải gắn liền với sự thống nhất toàn vẹn lãnh thổ quốc gia
- Độc lập dân tộc phải gắn liền với các quyền tự do cơ bản
- Độc lập dân tộc phải gắn liền với quyền tự quyết dân tộc, quyền lựa chọn con đường phát
triển dân tộc mà không phụ thuộc bên ngoài
- Độc lập dân tộc phải gắn liền với CNXH
- Độc lập dân tộc là quyền thiêng liêng bất khả xâm phạm
5
6
Ni dung 3. Quan điểm của Hồ Chí Minh về mục tiêu và đng lực của chủ nghĩa xã hi ở Việt
Nam.
a) Về mục tiêu:
+ Mục tiêu chung, đó là độc lập cho dân tộc, tự do hạnh phúc cho nd. Nói một cách đơn giản,
CNXH là không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân, trước hết là nhân dân lao
động. Đây là mục tiêu cao nhất của CNXH. Mục tiêu của CNXH theo quan niệm của HCM đã khẳng
định tính ưu việt của CNXH so với các chế độ đã tồn tại trong lịch sử là chỉ ra nhiệm vụ giải phóng con
người một cách toàn diện.
Quá trình xây dựng CNXH là lâu dài, HCM cho rằng: “chúng ta phải xây dựng một xã hội hoàn
toàn mới xưa nay chưa từng có trong lịch sử dân tộc ta…”, HCM đã đề cập đến các mục tiêu cụ thể
như:
+ Mục tiêu chính trị: Xuất phất từ việc xem CNXH là một lý tưởng chính trị - xã hội, là phong
trào hiện thực là xu thế tất yếu nhằm giải phóng những người lao động ở các nước tư bản và thuộc địa.
Cho nên, chế độ chính trị mà chúng ta xây dựng là chế độ dân chủ, do nhân dân lao động làm chủ, Nhà
nước là của dân, do dân và vì dân.
+ Mục tiêu kinh tế: Nền kinh tế XHCN với công-nông nghiệp hiện đại, khoa học - kỹ thuật tiên
tiến, bóc lột bị xoá bỏ dần, cải thiện đời sống nhân dân và kết hợp các lợi ích kinh tế.
+ Mục tiêu văn hoá - xã hội: văn hoá là mục tiêu cơ bản, đó là việc: xoá mù chữ, phát triển nghệ
thuật, thực hiện nếp sống mới, nâng cao dân trí. Đặc biệt là pải kết tinh và kế thừa những giá trị của
nhân loại, nhưng vẫn bảo tồn và phát huy được bản sắc văn hóa và những truyền thống nghìn năm văn
hiến của dân tộc, nhằm biến một nước dốt nát, cực khổ thành một nước văn hóa cao và đời sống tươi

vui hạnh phúc. Theo HCM không có văn hóa, thiếu tri thức, dân tộc sẽ mất đi độc lập tự cường, tự chủ
và vì vậy văn hóa không chỉ là động lực mà còn là mục tiêu lớn của CM.
7
+ Mục tiêu con người(quan hệ xã hội): Theo HCM, CNXH là công trình tập thể của nhân dân.
Do đó, nếu không có con người thì sẽ không có CNXH.
Trước hết, để xây dựng CNXH thì phải có con người XHCN, xây dựng mối quan hệ tốt đẹp giữa
con người với con người. Đó là con người có lý tưởng XHCN, đấu tranh cho lý tưởng của XHCN. Con
người biết hy sinh lợi ích các nhân vì tập thể.Thứ hai, con người XHCN phải luôn gắn tài năng với đạo
đức. Người quan niệm: Có tài mà không có đức là hỏng, có đức mà không có tài thì không thể làm việc
được.
b) Về đng lực của chủ nghĩa xã hi
Phát huy các nguồn động lực về vật chất và tư tưởng cho việc xây dựng CNXH: vốn, khoa học
công nghệ, con người (năng lực của con người); trong đó lấy con người làm động lực quan trọng và
quyết định. “CNXH chỉ có thể xây dựng được với sự giác ngộ đầy đủ và lao động sáng tạo của hàng
chục triệu người”. Nòng cốt là công – nông – trí thức.
Phát huy động lực con người trên cả hai phương diện: cộng đồng và cá nhân. Phát huy động lực
của cộng đồng là phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết - động lực chủ yếu để phát triển đất nước.
Phát huy sức mạnh của cá nhân trên cơ sở kích thích hành động gắn liền với lợi ích vật chất chính đáng
của người lao động, “phải chăm nom đến chỗ ăn, chỗ ở, việc làm của nhân dân”, “Nếu dân đói, Đảng
và Chính phủ có lỗi. Nếu dân rét, Đảng và Chính phủ có lỗi”.
HCM coi trọng động lực về kinh tế, phát triển sản xuất, kinh doanh, giải phóng mọi năng lực sản
xuất, làm cho mọi người, mọi nhà trở nên giàu có, ích quốc lợi dân, gắn liền với phát triển kinh tế - kỹ
thuật, kinh tế - xã hội. Tác động cả về chính trị và tinh thần trên cơ sở phát huy quyền làm chủ của
nhân dân lao động và ý thức làm chủ, HCM cũng quan tâm đến văn hoa, khoa học, giáo dục. Đó là
những động lực bên trong, tiềm tàng của sự phát triển. Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng nhất là trong
vấn đề thực hiện công bằng xã hội phải theo nguyên tắc: không sợ thiếu, chỉ sợ không công bằng.
Tránh bình quân, Người nêu khẩu hiệu 3 khoán và 1 thưởng,thưởng phạt công minh. Sử dụng vai trò
điều chỉnh các nhân tố tinh thần khác như: văn hoá, đạo đức, pháp luật đối với hoạt động của con
người. Đó là những động lực bên trong quan trọng.
8

Ngoài ra HCM còn nêu các động lực bên ngoài như kết hợp với sức mạnh thời đại, tăng cường
đoàn kết quốc tế, sử dụng những thành quả KH-XH thế giới.
Giữa nội lực và ngoại lực,HCM xác định rất rõ nội lực là quyết định nhất, ngoại lực là rất quan
trọng. Để phát huy cao độ những động lực của CNXH, cần phải khắc phục những cản trở kìm hãm. Đó
là: Căn bệnh thoái hoá, biến chất của cán bộ; Chủ nghĩa cá nhân; Chống tham ô lãng phí; Chống bè
phái mất đoàn kết nội bộ; chống chủ quan, bảo thủ, giáo điều; chống lười biếng
Ni dung 4: Các nguyên tắc tổ chức sinh hoạt Đảng
Thứ nhất, là nguyên tắc tập trung dân chủ
Đây là nguyên tắc cơ bản nhất trong học thuyết về Đảng kiểu mới. Nguyên tắc này, vừa bảo
đảm quyền chủ động, sáng tạo của mọi thành viên trong tổ chức, vừa bảo đảm thống nhất ý chí và hành
động vì sự nghiệp chung. Nguyên tắc tập trung dân chủ là thiểu số phải phục tùng đa số, cấp dưới phải
phục tùng cấp trên, cá nhân phải phục tùng đoàn thể để đảm bảo sức chiến đấu của toàn Đảng(tất
nhiên, ý kiến cá nhân được tôn trọng và bảo lưu ý kiến). Dân chủ là cơ sở bảo đảm cho tập trung thống
nhất. Tập trung dựa trên cơ sở dân chủ làm cho Đảng ta thống nhất ý chí cùng hành động trở thành một
tổ chức chính trị tiên phong.
Thứ hai, là nguyên tắc tập thể lãnh đạo cá nhân phụ trách
Tập thể lãnh đạo là dân chủ, cá nhân phụ trách là tập trung. Tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách
là dân chủ tập trung.Tập thể lãnh đạo, nghĩa là mọi vấn đề đều đưa ra trước chi bộ bàn bạc thảo luận để
cùng nhau giải quyết, một vấn đề có nhiều ý kiến, nhiều người sẽ cho nhiều ý kiến hay. Khi đã bàn bạc
đi đến thống nhất, thì giao cho một người phụ trách để tránh tình trạng trông chờ, ỷ lại làm cho công
việc không trôi chảy. Lãnh đạo mà không tập thể thì dễ dẫn đến tệ bao biện,chuyên quyền độc đoán.
Thứ ba, là nguyên tắc tự phê bình và phê bình
9
Nguyên tắc này là vũ khí sắc bén để làm cho Đảng ta trong sạch vững mạnh, thông qua nguyên
tắc này để giúp nhau cùng tiến bộ, tăng cường sự đoàn kết, Người nhắc nhở mỗi cán bộ đảng viên,
hàng ngày phải kiểm điểm, tự phê bình sửa chữa như soi gương, rữa mặt hàng ngày. Được như vậy thì
trong cơ thể Đảng sẽ không có bệnh mà mạnh khỏe vô cùng. Mục đích của nguyên tắc tự phê bình và
phê bình là chỉ ra khuyết điểm, sữa chữa khuyết điểm để cùng nhau tiến bộ. Cho nên, khi phê bình
đồng chí mình, thì trước hết phải tự nhận lấy khuyết điểm của mình trước. HCM cũng đặc biệt lưu ý,
khi phê bình không được thêm, không được bớt, không phải bới lông để tìm vết, để nhằm mục đích nói

xấu, hay hạ bệ đồng chí mình. Để cho tự phê bình và phê bình có hiệu quả, HCM yêu cầu, khi phê bình
phải hợp với hoàn cảnh, phải có nghệ thuật và đặc biệt là phải có văn hóa. Phê bình phải trên tinh thần
tình đồng chí, thương yêu đùm bọc lẫn nhau.
Thứ tư, là nguyên tắc kỷ luật nghiêm minh và tự giác
Đây là sức mạnh to lớn của Đảng. Kỷ luật phải do lòng tự giác của mỗi đảng viên về nhiệm vụ
của họ đối với Đảng. Việc đề cao kỷ luật Đảng đối với mỗi cán bộ đảng viên từ trên xuống dưới là điều
kiện tăng thêm uy tín và sức mạnh của Đảng. HCM mỗi đảng viên phải phục tùng kỷ luật Đảng vô điều
kiện, tất cả các đảng viên đều bình đẳng trước Điều lệ Đảng. Chấp hành kỷ luật Đảng, là tất cả mọi
đảng viên đều nói và làm đúng theo Nghị quyết của Đảng.
Thứ năm, là nguyên tắc đoàn kết thống nhất trong Đảng
Đoàn kết theo HCM là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và của dân tộc ta. Người căn
dặn các đồng chí đảng viên phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí trong Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt
mình. Để thực hiện đoàn kết, Người yêu cầu phải thực hiện dân chủ nội bộ, thường xuyên thực hiện tự
phê bình và phê bình thằng thắn nghiêm túc. Đối với HCM, là cán bộ đảng viên, chúng ta không chỉ có
nhiệm vụ đoàn kết trong Đảng mà còn phải đoàn kết rộng rãi trong xã hội và đặc biệt là phải có nhiệm
vụ thực hiện đoàn kết giữa các đảng anh em trên thế giới, nối lại sự đoàn kết giữa ĐCS Trung Quốc và
ĐCS Liên xô, trên tinh thần phê bình có tình có lý được xác lập trên nền tảng chủ nghĩa Mác – Lênin.
 Ý nghĩa của các nguyên tắc đối với công tác xây dựng Đảng hiện nay :
10
- Định hướng cho công tác tổ chức, sinh hoạt Đảng, đảm bảo cho Đảng ta thật sự là một Đảng
cầm quyền trong sạch,vững mạnh, đủ sức lãnh đạo cách mạng trong giai đoan mới.
- Xác định rõ các vấn đề trong tổ chức, sinh hoạt Đảng : Mở rộng dân chủ gắn liền với tăng
cường kỷ cương, thực hiện nghiêm túc tự phê bình và phê bình, tăng cường trách nhiệm của
cá nhân Đảng viên trong giai đoạn mới.
Ni dung 5: Vai trò của đại đoàn kết dân tc trong sự nghiệp cách mạng Việt Nam
a) Đại đoàn kết dân tc là vấn đề có ý nghĩa chiến lược, quyết định thành công của cách mạng.
- Tư tưởng HCM về đại đoàn kết dân tộc có những nét rất đặc sắc vì đây không chỉ là tư tưởng thuần tuý
mà tư tưởng đó đã được hoá thân vào cương lĩnh, đường lối, chiến lược nên có thể gọi là chiến lược đại đoàn
kết. Vì đây là vấn đề có tinh xuyên suốt qua các giai đoạn cách mạng, lâu dài, sống còn, vì nó có tinh nguyên
tắc, có hệ quan điểm, hệ giải pháp được đưa vào cuộc sống và thể hiện hết sức sinh động.

- Đại đoàn kết dân tộc là chiến lược tập hợp mọi lực lượng có thể tập hợp được, nhằm hình thành sức
mạnh to lớn của toàn dân tộc trong cuộc đấu tranh để chiến thắng kẻ thù. Với ý nghĩa đó, HCM đã rút ra một
kết luận có tính chân lý, đó là: “Đoàn kết làm ra sức mạnh, Đoàn kết làm ra sức mạnh của chúng ta. Đoàn kết
là then chốt của thành công. Đoàn kết đoàn kết đại đoàn kết; thành công thành công đại thành công. Đoàn kết
là điểm mẹ, điểm này mà thực hiện tốt thì đẻ ra con cháu đều tốt”. Đoàn kết của chúng ta được thể hiện rất rõ
là: Toàn dân chỉ có một lòng: quyết không làm nô lệ; quyết không chịu mất nước và cũng chỉ có một mục đích:
quyết kháng chiến để tranh thủ thống nhất và độc lập cho Tổ quốc. Sự đồng tâm của đồng bào ta đúc thành một
bức tường đồng xung quanh Tổ quốc. Dù địch hung tàn, xảo quyệt đến mức nào khi đụng đầu vào bức tường
đó, chúng đều bị thất bại. Nhờ có sự đồng tâm hiệp lực mà với gậy tầm vong và súng hỏa mai lúc đầu, chúng ta
đã liên tiếp thắng địch. Nhờ sự đoàn kết mà lần đầu tiên trong lịch sử, một dân tộc bị áp bức đã đánh bại cuộc
11
xâm lược của một đế quốc hùng mạnh, đã giành độc lập cho dân tộc, đem lại ruộng đất cho dân cày, đưa lại
quyền dân chủ thực sự cho nhân dân.
b) Đoàn kết dân tc là mục tiêu nhiệm vụ hàng đầu của Đảng, của dân tc
Tư tưởng này, được HCM thể hiện rất rõ trong thư gửi các bạn cùng hoạt động ở Pháp (1923). Mở đầu
Người viết: “Chúng ta phải làm gì? Đối với tôi, câu trả lời rõ ràng: trở về nước, đi vào quần chúng, thức tỉnh
họ, tổ chức họ, đoàn kết họ, huấn luyện họ, đưa họ ra đấu tranh giành tự do, độc lập”. Tư tưởng đại đoàn kết
của HCM hình thành và phát triển trong những điều kiện lịch sử cụ thể, đã trở thành chiến lược đoàn kết của
Đảng ta. Sớm nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề, năm 1925, Người đã thành lập VN Thanh niên CM
đồng chí hội. Đây là tổ chức hạt nhân để sau khi về nước họ quy tụ toàn dân VN cùng tiến tới đồng tình, đồng
sức, đồng lòng, đồng minh nhằm cứu nước nhà.
Người căn dặn cán bộ rằng, chuẩn bị đấu tranh trước hết phải tuyên truyền mạnh mẽ để lôi cuốn đa số
quần chúng tham gia. Chính vì vậy mà Người nói, nhiệm vụ huấn luyện của ta là, thứ nhất, là đoàn kết; thứ hai
là làm cách mạng kháng chiến để giành độc lập… và điều đó được thể hiện rất rõ trong mục đích của Đảng ta
là: Đoàn kết toàn dân phụng sự Tổ quốc, khi giành được chính quyền, HCM chủ trương không ngừng tăng
cường củng cố vững chắc hệ thống chính trị và các tổ chức xã hội làm cho mục đích cuộc cách mạng của dân,
do dân và vì dân ngày càng mang lại hiệu quả thiết thực cho toàn dân, đồng thời ngày càng huy động được đông
đảo nhất dân chúng, không bỏ sót một ai vào khối đại đoàn kết toàn dân.
Ni dung 6: Xây dựng mt Nhà nước thực sự do nhân dân lao đng làm chủ
Nếu vấn đề cơ bản của mọi cuộc cách mạng là vấn đề chính quyền thì vấn đề cơ bản của chính quyền là

ở chỗ nó thuộc về ai, phục vụ quyền lợi cho ai. Năm 1927, trong tác phẩm Đường Kách Mệnh, HCM chỉ rõ:
“Chúng ta đã hy sinh làm kách mệnh, thì nên làm cho đến nơi, nghĩa là làm sao kách mệnh rồi thì quyền giao
cho dân chúng số nhiều, chớ để trong tay một bọn ít người. Thế mới khỏi hy sinh nhiều lần, thế dân chúng
mới được hạnh phúc”. Sau khi giành độc lập, Người khẳng định “nước ta là nước dân chủ, bao nhiêu
quyền hạn đều của dân, bao nhiêu lợi ích đều vì dân nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi
dân”. Đó là điểm khác nhau giữa nhà nước ta với nhà nước bóc lột đã từng tồn tại trong lịch sử.
a) Nhà nước của dân
Đó là một Nhà nước thể hiện đầy đủ tư tưởng bao nhiêu quyền hạn đều của dân, nhân dân là chủ thể của
quyền lực nhà nước, nguồn gốc của quyền lực nhà nước bắt nguồn từ nhân dân. Điều 1 Hiến pháp nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hoà (1946) nói: “Nước Việt Nam là một nước dân chủ cộng hoà. Tất cả quyền bính trong
nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo”.
Điều 32, viết: Những việc liên quan đến vận mệnh quốc gia sẽ đưa ra nhân dân phúc quyết thực chất
đó là chế độ trưng cầu dân ý, một hình thức dân chủ đề ra khá sớm ở nước ta.
12
Theo HCM, trong nhà nước của dân, nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình, mà trước hết là quyền
bầu ra nhà nước, bầu ra chính quyền các cấp. Nhà nước chỉ là tổ chức do dân lập ra để thực hiện quyền lực nhân
dân. Chủ trương tổng tuyển cử của HCM thể hiện rõ tinh thần đó: “Tổng tuyển cử là một dịp để cho toàn thể
quốc dân tự do lựa chọn những người có tài, có đức để gánh vác công việc nước nhà; do tổng tuyển cử mà toàn
dân bầu ra Quốc hội. Quốc hội sẽ cử ra Chính phủ. Chính phủ đó thật là một chính phủ của toàn dân”.
Tư tưởng HCM về nhà nước của dân không chỉ bao hàm ý nghĩa nhà nước do dân tín nhiệm bầu ra, mà
còn là dân phải kiểm soát nhà nước. Người đã từng nhắc nhở: “Chính phủ ta là Chính phủ của nhân dân, chỉ có
mục đích là ra sức phụng sự lợi ích của nhân dân. Chính phủ rất mong đồng bào giúp đỡ, đôn đốc, kiểm soát
và phê bình để làm tròn nhiệm vụ của mình là người đầy tớ thật trung thành, tận tụy của nhân dân ta”. Nhân
dân có quyền bãi miễn đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân nếu những đại biểu ấy tỏ ra không
xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân.
Nhà nước của dân thì mọi người dân là chủ, người dân có quyền làm bất cứ việc gì mà pháp luật không
cấm và có nghĩa vụ tuân theo pháp luật. Nhà nước của dân phải bằng mọi nỗ lực, hình thành thiết chế dân chủ
để thực thi quyền làm chủ của người dân. Những vị đại diện do dân cử ra chỉ là thừa uỷ quyền của dân, chỉ là
công bộc của dân.
b) Nhà nước do dân :

Nhà nước đó do nhân dân lựa chọn bầu ra những đại biểu của mình, nhà nước đó do dân ủng hộ, giúp
đỡ, đóng thuế để chi tiêu, hoạt động; nhà nước đó lại do dân phê bình xây dựng, giúp đỡ. Do đó Hồ Chí Minh
yêu cầu tất cả các cơ quan nhà nước là phải dựa vào dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu
sự kiểm soát của nhân dân. Nếu chính phủ làm hại dân thì dân có quyền đuổi chính phủ nghĩa là khi cơ quan
nhà nước không đáp ứng lợi ích và nguyện vọng của nhân dân thì nhân dân có quyền bãi miễn nó. HCM khẳng
định: mỗi người có trách nhiệm ghé vai gánh vác một phần vì quyền lợi, quyền hạn bao giờ cũng đi đôi với
trách nhiệm, nghĩa vụ.
Nhà nước do dân phản ánh mối quan hệ giữa nhân dân với nhà nước, HCM khẳng định: “Không có nhân
dân thì chính phủ không đủ lực lượng, còn nhân dân mà không có chính phủ thì nhân dân không có ai dẫn
đường”; lực lượng bao nhiêu đều ở dân hết, công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân; sự nghiệp
kháng chiến, kiến quốc là công việc của dân.
Nhà nước do dân tức là công việc xây dựng đất nước là trách nhiệm của dân. Do đó phải phát huy được
vai trò của mặt trận, các đoàn thể trong công tác quản lý nhà nước và xã hội. Nhà nước muốn điều hành quản lý
xã hội có hiệu lực, hiệu quả, nhất định phải dựa vào lực lượng của dân, dựa vào sáng kiến và trí tuệ của dân.
13
Nhà nước do dân trong tư tưởng HCM là “dân tự làm, tự lo thông qua các mối quan hệ xã hội, qua các đoàn thể,
chứ không phải do nhà nước bao cấp, lo thay cho dân. Chức năng của nhà nước là điều hành vĩ mô, Chính phủ
chỉ giúp kế hoạch, cổ động”. Chính vì vậy mà nhà nước do dân là nhà nước tin dân và dân tin nhà nước.
c) Nhà nước vì dân
Đó là nhà nước phục vụ lợi ích và nguyện vọng chính đáng của nhân dân, không có đặc quyền đặc lợi,
thực sự trong sạch, cần kiệm liêm chính. Trong nhà nước đó, cán bộ từ chủ tịch trở xuống đều là công bộc của
dân.
“Việc gì có lợi cho dân ta phải hết sức làm,
Việc gì có hại đến dân ta phải hết sức tránh”
Nhà nước vì dân là nhà nước làm lợi cho dân, theo HCM không chỉ làm lợi cho dân, mà còn phải yêu
dân, kính dân ,“chúng ta phải yêu dân thì dân mới yêu chúng ta”. Nhà nước vì dân là nhà nước mà mọi chủ
trương chính sách, mọi quy định của pháp luật từ TW xuống địa phương đều phải xuất phát từ lợi ích của nhân
dân , cả lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài, cả lợi ích cá nhân và tập thể và xã hội trong sự kết hợp hài hòa. Nhà
nước vì dân phải “làm cho dân có ăn; làm cho dân có mặc; làm cho dân co chỗ ở; làm cho dân có học hành”.
Nhà nước vì dân là nhà nước có trách nhiệm và chịu trách nhiệm trước dân, Người nói: “Nếu để dân đói, Đảng

và Chính phủ có lỗi; nếu để dân rét, Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu để dân dốt, Đảng và Chính phủ có lỗi”.
Nhà nước vì dân là nhà nước sống trong lòng dân, đặt lợi ích của nhân dân lên trên hết.
Ni dung 7: Tư tưởng HCM về xây dựng nhà nước trong sạch,vững mạnh, hoạt đng có hiệu quả
a) Đề phòng và khắc phục những tiêu cực trong hoạt đng của Nhà nước.
Xây dựng một Nhà nước của dân,do dân,vì dân không bao giờ tách rời với việc làm cho Nhà
nước luôn luôn trong sạch,vững mạnh. Điều này luôn thường trực trong tâm trí và hành động của HCM
ngay khi nước nhà giành độc lập, chính quyền CM còn non trẻ cũng như lúc CM chuyển giai đoạn.
Trong quá trình lãnh đạo xây dựng Nhà nước VNDCCH, HCM thường chỉ rõ những tiêu cực
sau đây và nhắc nhở mọi người đề phòng, khắc phục:
- Đặc quyền, đặc lợi : phải chống thói cửa quyền,hách dịch với dân,lạm quyền để vơ vét tiền
của, làm lợi cho cá nhân.
- Tham ô, lãng phí, quan liêu :
14
HCM coi đây là những “giặc nội xâm”, “giặc ở trong lòng”,thứ giặc còn nguy hiểm hơn cả
giặc ngoại xâm. Quan điểm của Người là : “Tham ô, lãng phí và bệnh quan liêu dù cố ý hay
không cũng là bạn đồng minh của thực dân và phong kiến…Tội lỗi ấy cũng nặng như tội lỗi
Việt gian, mật thám”.Mác và Ăngghen đã từng cảnh tỉnh giai cấp vô sản rằng chủ nghĩa quan
liêu có thể dẫn các đảng cộng sản cầm quyền đến chỗ đánh mất một lần nữa chính quyền vừa
giành được. Lênin cũng viết “ chúng ta bị khốn khổ trước hết về tệ quan liêu. Những người
cộng sản đã trở thành những tên quan liêu. Nếu có cái gì sẽ làm tiêu vong chúng ta thì chính là
cái đó”.
Vì vậy không thể nói đến một nhà nước trong sạch vững mạnh, hiệu quả nếu không kiên quyết,
thường xuyên đẩy mạnh cuộc đấu tranh để ngăn chặn tận gốc những nguyên nhân gây ra nạn tham ô,
lãng phí, quan liêu.
- “ Tư túng”, “chia rẽ”, “kiêu ngạo”
HCM kịch liệt lên án tệ kéo bè, kéo cánh, tệ nạn bà con bạn hữu mình không tài năng gì cũng
kéo vào chức này chức nọ. Còn những người có tài, có đức nhưng không vừa lòng thì bị trù dập, đẩy ra
ngoài. Đó là những hành động gây mất đoàn kết, gây rối cho công tác.
b) Tăng cường tính nghiêm minh của pháp luật đi đôi với đẩy mạnh giáo dục đạo đức CM
Đạo đức và pháp luật vốn có quan hệ khăng khít với nhau, luôn kết hợp, bổ sung cho nhau trong

điều chỉnh hoạt động của con người. Do tập quán của nhân dân ta là kinh tế tiểu nông nên muốn hình
thành ngay một Nhà nước pháp quyền là chưa được. Vì vậy, một mặt phải nhấn mạnh vai trò của luật
pháp, mặt khác phải tăng cường tuyên truyền, giáo dục pháp luật trong nhân dân, nhất là giáo dục đạo
đức.
HCM đã kết hợp một cách nhuần nhuyễn giữa quản lý xã hội bằng pháp luật với phát huy những
truyền thống tốt đẹp trong đời sống cộng động người VN được hình thành qua hàng nghìn năm lịch sử.
“Phép trị nước” của HCM là sự kết hợp cả “pháp trị” và “đức trị”, “pháp trị” rất nghiêm khắc,
công minh và “đức trị” cũng rất tình người, bao dung, thấu tình đạt lý. Trong Quốc lệnh do Người ban
hành 26/01/1946, đa đưa ra 10 điều khen thưởng (“đức trị”) và 10 hình phạt (“pháp trị”).Trong 10 điều
15
khen thưởng, Điều 3 “Ai vì nước hi sinh sẽ được thưởng”, Điều 5 “Ai làm việc gì có lợi cho nước nhà,
dân tộc và được dân chúng mến phục sẽ được thưởng”.Trong 10 điều hình phạt, Điều 1 “Thông với
giặc, phản quốc sẽ bị xử tử”, Điều 6 “Để cho bộ đội hại dân sẽ bị xử tử”, Điều 8 “Trộm cắp của công sẽ
bị xử tử”.
Thực tế đã cho thấy rằng, HCM là một nhà lập pháp sắc sảo, đồng thời là một nhà hành pháp
nghiêm minh. Pháp quyền trong tư tưởng của Người là pháp quyền nhân nghĩa sâu sắc.
Ni dung 8: Quan điểm của HCM về Văn hóa giáo dục
Trong di sản tư tưởng Hồ Chí Minh, tư tưởng về giáo dục luôn có ý nghĩa lý luận và thực tiễn
sâu sắc đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam. Trong sự nghiệp đào tạo nguồn nhân lực cho công
cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, thực hiện mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ,văn minh " ở nước ta, tư tưởng đó của Người càng có ý nghĩa thiết thực.
Có thể nói, tư tưởng giáo dục HCM là sự kế thừa, tiếp thu có chọn lọc, sáng tạo và phê phán từ
các tiền đề: Một là, chủ nghĩa yêu nước, truyền thống văn hoá, giáo dục và tinh thần nhân ái VN; Hai
là, triết lý giáo dục phương Đông. Nhưng tiền đề quan trọng nhất, cái tạo nên sự phát triển về chất
trong tư tưởng giáo dục HCM là chủ nghĩa Mác - Lênin. Trên cơ sở đó và cùng với quá trình hoạt động
thực tiễn cách mạng sinh động, phong phú của mình, HCM đã đưa ra quan điểm hết sức sâu sắc và mới
mẻ về vai trò, mục đích, nội dung và phương pháp giáo dục.
16
- Về vai trò và mục đích của giáo dục. Theo Người, giáo dục có vai trò hết sức to lớn trong việc
cải tạo con người cũ, xây dựng con người mới. Không những thế, giáo dục còn góp phần đắc lực vào

công cuộc bảo vệ và xây dựng đất nước. Người kêu gọi:"Quốc dân Việt Nam!Muốn giữ vững nền độc
lập, Muốn làm cho dân mạnh nước giàu,Mọi người Việt Nam phải có kiến thức mới để có thể tham
gia vào công cuộc xây dựng nước nhà, và trước hết phải biết đọc, biết viết chữ quốc ngữ".
Suốt đời, HCM mong muốn xây dựng một xã hội mới về chất, cao hơn hẳn xã hội cũ - xã hội
XHCN và cộng sản Chủ nghĩa. Và để xây dựng CNXH, theo Người, "trước hết cần có những con
người XHCN”. Đào tạo con người XHCN không có con đường nào khác ngoài giáo dục tri thức khoa
học và lý tưởng, đạo đức xã hội. Đó là nền giáo dục nhằm phát triển con người toàn diện, vừa “hồng”
vừa “chuyên” trong thời đại mới. Ở mỗi thời kỳ CM khác nhau, HCM đã đề ra nhiệm vụ giáo dục khác
nhau cho hợp lý. Ở thời kỳ chuẩn bị thành lập Đảng, Người tập trung vào việc triển khai các lớp huấn
luyện tại Quảng Châu (TQ) nhằm nâng cao trình độ nhận thức cho cán bộ về con đường CM Việt Nam
và thế giới. Đến giai đoạn toàn quốc kháng chiến và xây dựng nền dân chủ, Người kêu gọi sửa đổi giáo
dục cho phù hợp với việc đào tạo nhân tài kháng chiến kiến quốc,tất cả giáo dục tập trung phục vụ
kháng chiến kiến quốc. Bước sang giai đoạn CM XHCN ở miền Bắc, mục đích giáo dục lại gắn liền
với tình hình mới. Đó là thời kỳ rất cần những con người làm chủ xã hội, làm chủ sản xuất, biết quản lý
cơ quan, xí nghiệp, trường học


- Về phương pháp giáo dục
Tuy HCM không để lại cho chúng ta một tác phẩm, một hệ thống lý luận về phương pháp giáo
dục, nhưng những việc làm thiết thực, những bài viết ngắn gọn, xúc tích của Người đã hàm chứa các
phương pháp giáo dục mẫu mực. Người lấy nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn làm nguyên
tắc cơ bản cho việc xây dựng các phương pháp về giáo dục. Người nhấn mạnh: "Học phải suy nghĩ,
học phải liên hệ với thực tế, phải có thí nghiệm và thực hành. Học với hành phải kết hợp với nhau”. Để
nâng cao trình độ nhận thức của người lao động, Hồ Chí Minh cho rằng cần có quan điểm dân chủ,
thẳng thắn, không nhồi sọ và cần có sự đối thoại trong quá trình học tập, nhận thức. Người chỉ rõ: "Mọi
người được hoàn toàn tự do phát biểu ý kiến, dù đúng hoặc không đúng cũng vậy. Song không được
nói gàn, nói vòng quanh". Từ đó, Hồ Chí Minh kêu gọi cán bộ, nhà giáo phải biết tôn trọng ý kiến
người khác, không nên có thành kiến đối với các ý kiến trái với ý kiến của mình.
17
Trong khi viết và nói, HCM luôn dùng các khái niệm giản dị, dễ hiểu, nhưng văn phong vẫn

trong sáng, ý tưởng phong phú. Phong cách đó làm cho mọi người ở trình độ khác nhau đều hiểu.Theo
Người, giáo dục phải căn cứ vào "trình độ văn hoá, thói quen sinh hoạt, trình độ giác ngộ, kinh nghiệm
tranh đấu, lòng ham, ý muốn, tình hình thiết thực của quần chúng". Cần có phương pháp tổ chức giáo
dục sao cho bảo đảm được sự phù hợp giữa điều kiện, hoàn cảnh giáo dục với đối tượng giáo dục.
HCM đặc biệt coi trọng việc kết hợp các hình thức giáo dục, không tuyệt đối hoá bất cứ một hình thức
giáo dục nào. Người viết: "Giáo dục dù trong nhà trường có tốt mấy nhưng thiếu giáo dục trong gia
đình và ngoài xã hội thì kết quả cũng không hoàn toàn". Cuộc đời và sự nghiệp của HCM luôn là tấm
gương sáng cho mọi người noi theo. Phương pháp làm gương là một biện pháp hữu hiệu nhất trong
việc thống nhất giữa lời nói và việc làm.
Cải cách giáo dục là xây dựng hệ thống trường, lớp với chương trình và nội dung dạy học thật
khoa học, hợp lý, phù hợp với bước phát triển của ta. Học chính trị, khoa học - kỹ thuật, chuyên môn
nghiệp vụ, lao động.
Đặc biệt phải quan tâm xây dựng đội ngũ giáo viên có phẩm chất, yêu nghề; phải có đạo đức
cách mạng, phải yên tâm công tác, đoàn kết; phải giỏi chuyên môn, thuần thục phương pháp.
Ni dung 9: Quan điểm về những chuẩn mực đạo đức cách mạng
* Trung với nước, hiếu với dân
Trong mối quan hệ đạo đức thì mối quan hệ giữa mỗi người với đất nước, với nhân dân, với dân
tộc là mối quan hệ lớn nhất. Trung, hiếu là phẩm chất đạo đức quan trọng nhất, bao trùm nhất.
Trung, hiếu là những khái niệm đã có trong tư tưởng đạo đức truyền thống Việt Nam và phương
Đông, song có nội dung hạn hẹp là Trung với vua, hiếu với cha mẹ, phản ánh bổn phận của dân đối với
vua, con đối với cha mẹ. HCM đã kế thừa những giá trị đạo đức truyền thống và vượt trội. Trung với
nước là trung thành với sự nghiệp giữ nước và dựng nước, đặt lợi ích của đảng, của Tổ quốc, của cách
mạng lên trên hết; quyết tâm phấn đấu thực hiện mục tiêu của cách mạng; thực hiện tốt chủ trương,
18
chính sách của Đảng và Nhà nước. Hiếu với dân là tin dân, lắng nghe dân, học dân, tổ chức vận động
nhân dân cùng thực hiện tốt đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước; chăm lo đến đời sống vật
chất và tinh thần của nhân dân. Đây là chuẩn mực đạo đức có ý nghĩa quan trọng hàng đầu.
Đối với cán bộ đảng viên phải suốt đời đấu tranh cho Đảng, cho cách mạng, đó là điều chủ
chốt của đạo đức cách mạng. Phải tuyệt đối trung thành với Đảng, với dân, phải tận trung, tận hiếu,
thì mới xứng đáng vừa là đầy tớ trung thành, vừa là người lãnh đạo của dân; dân là đối tượng để phục

vụ hết lòng.
* Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư
Cần là siêng năng,chăm chỉ, lao động có kế hoạch,có hiệu quả,có năng suất cao với tinh thần tự
lực cánh sinh. Lao động là nghĩa vụ thiêng liêng, là nguồn sống, nguồn hạnh phúc của con người.
Kiệm là tiết kiệm công sức, tiết kiệm thì giờ, tiết kiệm tiền của của nhân dân, của đất nước, của
bản thân mình. Tiết kiệm từ cái nhỏ đến cái to, không xa sỉ, không hoang phí, không bừa bãi, theo
Người Cần phải đi liền với Kiệm, cần mà không kiệm cũng giống như gió vào nhà trống, thùng không
đáy, và một dân tộc biết cần, biết kiệm là một dân tộc giàu về vật chất, mạnh về tinh thần, một dân tộc
văn minh tiến bộ.
Liêm là luôn luôn tôn trọng giữ gìn của công và của dân; không xâm phạm một đồng xu, hạt
thóc của nhà nước, của nhân dân. Phải trong sạch, không tham lam địa vị, tiền của, danh tiếng, sung
sướng. Không tâng bốc mình. Chỉ có một thứ ham là ham học, ham làm, ham tiến bộ. Hành vi trái với
chữ liêm là: cậy quyền thế mà đục khoét, ăn của dân, hoặc trộm của công làm của riêng, dìm người
giỏi, để giữ địa vị và danh tiếng của mình.
Chính là thẳng thắn, đứng đắn. Đối với mình, không tự cao, tự đại, luôn chịu khó học tập cầu
tiến bộ, luôn kiểm điểm mình để phát huy điều hay, sửa đổi điều dở. Đối với người, không nịnh hót
người trên, xem khinh người dưới; luôn giữ thái độ chân thành, khiêm tốn, đoàn kết, không dối trá, lừa
lọc. Đối với việc, để việc công lên trên việc tư, làm việc gì cho đến nơi, đến chốn, không ngại khó,
nguy hiểm, cố gắng làm việc tốt cho dân cho nước.
Cần, kiệm, liêm, chính cần thiết đối với tất cả mọi người. Hồ Chí Minh viết:
Trời có bốn mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đông
Đất có bốn phương: Đông, Tây, Nam, Bắc
Người có bốn đức: cần, kiệm, liêm, chính
19
Thiếu một mùa thì không thành trời
Thiếu một phương thì không thành đất
Thiếu một đức thì không thành người.
Cần, kiệm, liêm, chính rất cần thiết đối với người cán bộ, đảng viên. Nếu đảng viên mắc sai lầm
thì sẽ ảnh hưởng đến uy tín của Đảng, nhiệm vụ của CM. Cần, kiệm, liêm, chính còn là thước đo sự
giàu có về vật chất, vững mạnh về tinh thần, sự văn minh của dân tộc. “Nó” là cái cần để “làm việc,

làm người, làm cán bộ, để phụng sự Đoàn thể, phụng sự giai cấp và nhân dân, phụng sự Tổ quốc và
nhân loại”.
Chí công vô tư, là công bằng,công tâm, không thiên tư, thiên vị, làm bất cứ việc gì cũng đừng
nghĩ đến mình trước, chỉ biết vì Đảng, vì dân tộc,“phải lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”. Theo HCM,
chủ nghĩa cá nhân là đồng minh của đế quốc,là một thứ vi trùng rất độc,đó là “một thứ rất gian xảo,xảo
quyệt,nó khéo dỗ dành người ta đi xuống dốc”. HCM cũng phân biệt lợi ích cá nhân và chủ nghĩa cá
nhân. Chí công vô tư là tính tốt có thể gồm 5 điều: nhân, nghĩa, trí, dũng, liêm. Bồi dưỡng phẩm chất đạo
đức cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư là để vững vàng qua mọi thử thách : Giàu sang không quyến
rũ, nghèo khó không thể chuyển lay, uy vũ không thể khuất phục.
* Yêu thương con người,sống có tình nghĩa
Kế thừa truyền thống nhân nghĩa của dân tộc, kết hợp truyền thống nhân nghĩa với chủ nghĩa
nhân đạo cộng sản, tiếp thu tinh thần nhân văn của nhân loại qua nhiều thế kỷ, qua hoạt động thực tiễn,
Hồ Chí Minh đã xác định tình yêu thương con người là phẩm chất đạo đức cao đẹp nhất.
Tình yêu rộng lớn dành cho những người cùng khổ, những người lao động bị áp bức, bóc lột.
HCM chỉ ham muốn cho đất nước được hoàn toàn độc lập, dân được tự do, mọi người ai cũng có cơm
ăn, áo mặc, ai cũng được học hành. Chỉ có tình yêu thương con người bao la đến như vậy mới có cách
mạng, mới nói đến chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản.
Nghiêm khắc với mình, độ lượng với người khác. Phải có tình nhân ái với cả những ai có sai
lầm, đã nhận rõ và cố gắng sửa chữa, đánh thức những gì tốt đẹp trong mỗi con người. Người căn dặn
Đảng phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau, trên nguyên tắc tự phê bình và phê bình chân thành.
Tình yêu thương con người còn là tình yêu bạn bè, đồng chí, có thái độ tôn trọng con người,
điều này có ý nghĩa đối với người lãnh đạo.
* Tinh thần quốc tế trong sáng, thuỷ chung
20
Đó là tinh thần quốc tế vô sản, bốn phương vô sản đều là anh em. Đó là tinh thần đoàn kết với các
dân tộc bị áp bức, với nhân dân lao động các nước. Đó là tinh thần đoàn kết của nhân dân Việt Nam với
tất cả những người tiến bộ trên thế giới vì hoà bình, công lý và tiến bộ xã hội. Sự đoàn kết là nhằm vào
mục tiêu lớn của thời đại hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
21
Ni dung 10: Quan điểm của Hồ Chí Minh về vai trò của con người chiến lược trồng người

a) Quan điểm của HCM về vai trò của con người
- Con người là vốn quý nhất,nhân tố quyết định thành công của sự nghiệp CM.
Nhân dân là người sáng tạo ra mọi giá trị,cả vật chất và tinh thần. Người khẳng định: “vô luận
việc gì,đều do người làm ra, và từ nhỏ đến to,từ gần đến xa,đều thế cả”. Không chỉ thấy được vai trò
của con người, HCM còn nhìn thấy sức mạnh của con người khi được tổ chức lại. Người viết “ trong
bầu trời không có gì quý bằng nhân dân, trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của
nhân dân”.
22
Nhân dân là yếu tố quyết định thành công của cách mạng.“Lòng yêu nước và sự đoàn kết của
nhân dân là một lực lượng vô cùng to lớn,không ai thắng nổi”.
- Con người vừa là mục tiêu,vừa là động lực của CM; phải coi trọng,chăm só,phát huy nhân tố con
người.
HCM khẳng định, mục tiêu của cách mạng là giải phóng con người,mang lại tự do, hạnh phúc
cho con người.Suốt cuộc đời mình, Người đã luôn phấn đấu vì mục tiêu đó. Người nói : “Tôi chỉ có
một ham muốn,ham muốn tột bậc là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập,nhân dân được hoàn
toàn tự do,đồng bào ai cũng có cơm ăn,áo mặc,ai cũng được học hành”.Trong di chúc,Người cũng dành
mối quan tâm đầu tien là công việc đối với con người”.
Đồng thời Người cũng nhấn mạnh sự nghiệp giải phóng là do chính bản thân con người thực
hiện.Nghĩa là con người là động lực CM. Điều này thể hiện niềm tin mãnh liệt của HCM vào sức mạnh
của nhân dân.
b) Quan điểm của Hồ Chí Minh về chiến lược “trồng người”
Hồ Chí Minh có quan điểm coi con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực. Con người có ý
nghĩa chiến lược của sự nghiệp cách mạng ở Việt Nam.
Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết cần có con người xã hội chủ nghĩa. Con người có
hai mặt gắn bó nhau: một là, kế thừa giá trị tốt đẹp của con người truyền thống; hai là, hình thành
những phẩm chất mới như: tư tưởng xã hội chủ nghĩa, đạo đức cách mạng, có trí tuệ, bản lĩnh để làm
chủ, có lòng nhân ái, vị tha, độ lượng.
HCM quan niệm: “Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng
người”. Muốn thực hiện chiến lược “trồng người”,cần pải có nhiều biện pháp, nhưng giáo dục và đào
tạo là biện pháp quan trọng bậc nhất. Bởi vì, giáo dục tốt sẽ tạo ra tính thiện,đem lại tương lai tươi sáng

cho thanh niên. Người cho rằng, để “trồng người” có hiệu quả,cần tiến hành đồng bộ các giải pháp sau:
23
+ Trước hết,mọi người phải tự tu dưỡng,rèn luyện.Tu dưỡng hằng ngày,bền bỉ suốt đời,gắn với
thực tiễn cách mạng. Trong khi xây dựng những đức tính tốt,phải có bản lĩnh chống lại mọi thói hư tật
xấu như lối sống vị kỉ cá nhân,thiếu tinh thần trách nhiệm,chống tham nhũng,xa hoa,lãng phí…
+ Phải dựa vào sức mạnh tổ chức của cả hệ thống chính trị.Đó là vai trò của chi bộ Đảng,các tổ
chức chính trị-xã hội như công đoàn,đoàn thanh niên,hội phụ nữ…
+ Thông qua các phong trào CM như phong trào “Thi đua yêu nước”, “Toàn dân đoàn kết xây
dựng đời sống văn hóa”,phong trào “Người tốt,việc tốt”, “Uống nước nhớ nguồn”,…
Nội dung và phương pháp giáo dục phải toàn diện, cả đức, thể, trí, mỹ, phải đặt đạo đức, lý
tưởng và tình cảm cách mạng, lối sống xã hội chủ nghĩa lên hàng đầu. Đức và tài thống nhất nhau,
trong đó đức là gốc, là nền tảng phát triển.Phải kết hợp giữa nhận thức và hành động, lời nói và việc
làm…Có như vậy mới có thể “học để làm người”.
“ Trồng người” là công việc “trăm năm”,không thể nóng vội một sớm một chiều,không phải làm
một lúc là xong,cũng không phải tùy tiện,đến đâu hay đến đó.Nhận thức và giải quyết vấn đề này có ý
nghĩa thường trực,bền bỉ trong suốt cuộc đời mỗi con người,trong suốt thời kì quá độ lên CNXH.
HCM coi trọng việc nâng cao dân trí cho toàn dân tộc. Người hướng mọi hoạt động văn hoá,
giáo dục, tư tưởng vào việc rèn luyện dân tộc ta thành dân tộc cách mạng và văn minh. HCM nêu khẩu
hiệu : “Diệt giặc đói, diệt giặc dốt”. Bác đi đầu trong việc khai dân trí, mở các lớp xoá mù chữ, các lớp
bình dân học vụ. Người nói: “một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”.
24
25

×