Giá trị hàng được khai báo nhưng không ghi vào vận đơn: hàng bị
mất, giải quyết như thế nào?
Ls. Ngô Khắc Lễ | Trọng tài viên VIAC
Vừa qua, có nhiều tàu biển chở hàng là máy móc thiết bị có giá trị lớn cho cơng trình thủy
điện, nhiệt điện. Người thuê vận chuyển có khai báo với người vận chuyển về giá trị hàng hóa
nhưng khơng ghi vào vận đơn. Trường hợp hàng bị mất, việc khiếu nại đòi bồi thường tồn
bộ giá trị hàng hóa gặp nhiều rủi ro vì cả người vận chuyển lẫn người thuê vận chuyển đều
không thực hiện đầy đủ các quy định của pháp luật.
Phán quyết của Tòa phúc thẩm Tòa án Nhân dân Tối cao tại TP.HCM về một vụ tranh chấp
liên quan đến vấn đề nêu trên cách đây chưa lâu vẫn cịn ngun giá trị để bạn đọc tham
khảo.
Tóm tắt vụ việc
Một chiếc máy biến thế (máy biến áp 63 MVA) nặng 115 tấn xếp trên boong tàu biển đã bị
rơi xuống biển tại khu vực Đà Nẵng và mất tích trong q trình vận chuyển từ cảng Sài Gịn
đến cảng Hải Phòng. Người thuê vận chuyển (NT) đã khởi kiện cơng ty thực hiện việc vận
chuyển đường biển (VTB) địi bồi thường 8,4 tỷ đồng. VTB không chấp nhận yêu cầu đó vì
cho rằng mình được miễn trách nhiệm bồi thường theo quy định của pháp luật Việt Nam.
Do có kháng cáo, Tòa Phúc thẩm Tòa án Nhân dân Tối cao tại TP.HCM đã mở phiên tòa
xét xử.
Tranh tụng tại Tịa sơ thẩm
Hai bên có quan điểm trái ngược nhau. Ngun đơn (NT) địi bồi thường tồn bộ giá trị máy
biến thế trong khi Bị đơn (VTB) cho rằng mình không chịu trách nhiệm về tổn thất và được
miễn trách nhiễm bồi thường do lỗi của thuyền viên trong việc bốc, xếp, chằng buộc hàng
hóa và có thêm yêu cầu phản tố. Theo VTB, để thể hiện thiện chí góp phần giúp khắc phục
thiệt hại, họ đã ứng cho NT 4 tỷ đồng và nay yêu cầu Tòa buộc NT trả lại số tiền này. Tòa
xét thấy, theo hợp đồng, VTB có trách nhiệm bảo đảm an tồn tuyệt đối cho máy biến thế
1
trong quá trình bốc, sắp đặt hàng, chằng buộc, vận chuyển. Nếu xảy tổn thất hàng hóa do
lỗi của VTB thì VTB phải bồi thường tồn bộ giá trị máy biến thế và các chi phí có liên quan.
Theo kết quả giám định, nguyên nhân máy biến thế bị rơi xuống biển là do lỗi về xếp hàng,
chằng buộc hàng hóa của VTB. Do đó, muốn được miễn trách nhiệm bồi thường theo quy
định của Bộ luật Hàng hải Việt Nam năm 2005 (dưới đây gọi là “Bộ luật”) thì VTB phải chứng
minh mình và những người làm cơng khơng có lỗi hoặc khơng cố ý gây ra tổn thất. VTB đã
không chứng minh được như vậy.
Theo VTB, do tàu gặp thời tiết xấu, có bão ở vùng biển Đà Nẵng nên máy biến thế bị di
chuyển, đứt dây buộc, rơi xuống biển. VTB cho rằng NT khơng có căn cứ pháp lý địi bồi
thường thiệt hại vì đã khơng khai báo giá trị của máy biến thế là 8,4 tỷ đồng khi bốc hàng
và số tiền này cũng không được ghi vào vận đơn theo quy định của Bộ luật.
Theo hợp đồng vận chuyển hàng hóa, NT cho rằng VTB phải bồi thường tổn thất máy biến
thế bằng giá trị bảo hiểm.
Tòa cho rằng VTB đã bồi thường một phần thiệt hại cho NT bằng việc đã chuyển 4 tỷ đồng
cho NT. Số tiền được chuyển qua ngân hàng, có ghi rõ rằng đó là tiền bồi thường thiệt hại
do tổn thất máy biến thế. Do đó, việc VTB coi số tiền 4 tỷ đồng không phải là tiền bồi thường
tổn thất mà chỉ là tiền hỗ trợ cho NT bị Tịa cho là khơng có cơ sở.
VTB cho rằng việc chuyển tiền do nhân viên kế toán thực hiện là khơng có giá trị vì người
có thẩm quyền chưa quyết định. Do đó, số tiền 4 tỷ đồng khơng phải là tiền bồi thường. Tịa
đã bác quan điểm này vì theo thỏa thuận giữa ba bên (NT, VTB và công ty bảo hiểm) trường
hợp tổn thất không thuộc rủi ro được bảo hiểm theo trách nhiệm của công ty bảo hiểm thì
VTB phải thỏa thuận với NT về việc bồi thường. Sau đó, cơng ty bảo hiểm đã từ chối bồi
thường nên việc VTB chuyển tiền (4 tỷ đồng) cho NT là hợp lý. Ngồi ra, nếu khơng có quyết
định của chủ tài khoản thì nhân viên kế tốn khơng thể tự ý chuyển 4 tỷ đồng cho NT. Cần
lưu ý thêm là NT chưa bao giờ có đề nghị VTB về “tiền hỗ trợ”. Tịa cũng khơng chấp nhận
lý lẽ của VTB cho rằng NT không khai báo giá trị của máy biến thế, không được VTB chấp
nhận ghi vào vận đơn nên NT khơng có căn cứ pháp lý đòi bồi thường số tiền 8,4 tỷ đồng.
2
Theo tịa, VTB đã được thơng báo giá trị, trọng lượng của máy biến thế để VTB mua bảo
hiểm cho hàng hóa. Trước khi nhận hàng để bốc, VTB khơng u cầu giám định hàng và
khơng có nghi ngờ gì về tính trung thực của việc thơng báo, của hàng hóa thực nhận. Do
đó, việc VTB khơng ghi giá trị hàng hóa vào vận đơn khơng phải là lỗi của NT nên VTB
không thể áp dụng điều khoản giới hạn trách nhiệm của người vận chuyển theo Bộ luật để
giảm trách nhiệm bồi thường.
Trên sở phân tích nêu trên, Tịa sơ thẩm đã bác yêu cầu đòi lại “tiền hỗ trợ” của VTB và
tuyên buộc Bị đơn (VTB) bồi thường tiếp hơn 4 tỷ đồng cho NT. VTB đã kháng cáo bản án
sơ thẩm.
Phán quyết của Tịa Phúc thẩm
Do có kháng án của VTB, vụ án được Tòa phúc thẩm xem xét lại. Tòa đưa ra một số câu
hỏi như: vì sao máy biến thế nặng 115 tấn rơi xuống biển mà thuyền viên trên tàu khơng
biết? Vì sao khơng chằng buộc cẩn thận trong quá trình vận chuyển để hạn chế tổn thất?
VTB đã không trả lời được những câu hỏi này. VTB cho rằng việc theo dõi, quản lý thuyền
viên trong quá trình làm việc trên biển là rất khó khăn, khơng thể thực hiện được. Lý lẽ này
đã khơng được Tịa chấp nhận. Cuối cùng, Tịa Phúc thẩm Tòa án Nhân dân Tối cao tại
TP.HCM đã tuyên y án sơ thẩm.
Bình luận
Tịa phúc thẩm đã tun đúng số tiền mà VTB phải bồi thường cho NT. Tuy vậy, nếu Tịa
phân tích theo 2 yếu tố dưới đây thì thuyết phục hơn về mặt căn cứ pháp lý:
1. VTB đã từ bỏ giới hạn trách nhiệm bằng việc chuyển 4 tỷ đồng cho NT. VTB đã mặc
nhiên tự nguyện từ bỏ giới hạn trách nhiệm quy định tại Điều 79 của Bộ luật. Số tiền
này so với giới hạn trách nhiệm theo luật là cao hơn nhiều. Luật không cấm người
vận chuyển nâng mức trách nhiệm mà chỉ cấm hạ mức trách nhiệm. Ví dụ như một
vụ tranh chấp được giải quyết tại Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam (VIAC) gần
đây, người vận chuyển “cam kết bồi thường mọi tổn thất”. Như vậy là cũng đã tự
nguyện nâng mức trách nhiệm
3
2. Nguyên nhân tổn thất không nằm trong số những miễn trách mà VTB được hưởng.
Đó là, theo biên bản giám định, nguyên nhân hàng rơi xuống biển là do chằng buộc
kém. Nguyên nhân này không nằm trong số những miễn trách mà người vận chuyển
được hưởng theo khoản 2 Điều 78 của Bộ luật và việc thuyền viên chằng buộc kém
cũng đã vi phạm khoản 2 Điều 75 Bộ luật./.
------------------------------------------------------------
4