Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

giáo án bài 19 nhân dân việt nam kháng chiến chống pháp xâm lược (từ năm 1858 đến năm 1873) - lịch sử 11 - gv.ng.t.duy

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (146.48 KB, 15 trang )

Bài 19
nhân dân Việt Nam kháng chiến chống pháp xâm lược
(từ 1858 đến trước 1873)
I. Mục tiêu bài học
1. Về kiến thức
Giúp học sinh nắm được:
- ý đồ xâm lược của thực dân phương Tây và Pháp có từ rất sớm. Đến giữa thế
kỷ XIX (1858) thực dân Pháp nổ súng xâm lược Việt Nam.
- Quá trình xâm lược Việt Nam của thực dân Pháp từ 1858 - 1873.
- Cuộc kháng chiến chống Pháp xâm lược của nhân dân ta từ 1858 - 1873.
2. Về tư tưởng
- Giúp học sinh hiểu được bản chất xâm lược và thủ đoạn tàn bạo của chủ
nghĩa thực dân.
- Đánh giá đúng mức nguyên nhân và trách nhiệm của triều đình phong kiến
nhà Nguyễn trong việc tổ chức kháng chiến.
- Giáo dục tinh thần yêu nước, ý thức tự tôn dân tộc.
3. Về kỹ năng
- Củng cố kỹ năng phân tích, nhận xét rút ra từ bài học lịch sử.
- Sử dụng lược đồ trình bày diễn biến các sự kiện.
II. thiết bị, tài liệu dạy - học
- Lược đồ mặt trận Gia Định.
- Tư liệu về cuộc kháng chiến ở Nam Kỳ.
- Tranh ảnh về các nhân vật lịch sử có liên quan đến bài học.
- Văn thơ yêu nước cuối thế kỷ XIX.
Iii. Gợi ý Tiến trình tổ chức dạy học
1. Kiếm tra bài cũ: không
2. Dẫn dắt vào bài mới
Ngày 31 - 8 - 1858 thực dân Pháp nổ súng chính thức mở màn cuộc chiến tranh
xâm lược Việt Nam. Ngay từ đầu, quân ta đã anh dũng chiến đấu chống quân xâm
lược. Với sức mạnh quân sự Pháp ngày càng mở rộng đánh chiến tranh xâm lược,
song đi đến đâu chúng cũng vấp phải sự kháng cự mãnh liệt của nhân dân ta. Để


hiểu được cuộc xâm lược Việt Nam của thực dân Pháp và cuộc kháng chiến chống
Pháp của nhân dân ta từ 1858 - 1873, chúng ta cùng tìm hiểu bài 19. Nhân dân Việt
Nam kháng chiến chống Pháp xâm lược (1858 - 1873).
3. Tổ chức các hoạt động dạy học trên lớp
Hoạt động của thầy – trò Kiến thức cơ bản học sinh cần nắm được
Giáo viên dẫn dắt: Trước khi tìm hiểu cuộc
kháng chiến chống Pháp của nhân dân ta,
chúng ta sẽ tìm hiểu về cuộc xâm lược Việt
Nam của thực dân Pháp.
Trước hết tìm hiểu tình hình Việt Nam giữa
thế kỷ XIX, trước cuộc xâm lược của thực
dân Pháp.
* Hoạt động 1: Cả lớp
- Giáo viên hướng dẫn học sinh theo dõi
sách giáo khoa để thấy được: tình hình chính
trị, kinh tế, xã hội của Việt Nam giữa thế kỷ
XIX trước cuộc xâm lược của thực dân
Pháp.
- Học sinh theo dõi sách giáo khoa, kết hợp
với kiến thức đã học về tình hình nước ta
nửa đầu thế kỷ XIX để trả lời:
+ Chính trị: giữa thế kỷ XIX, trước khi thực
dân Pháp xâm lược, Việt Nam là một quốc
gia độc lập có chủ quyền, song chế độ
phong kiến nhà Nguyễn đã bước vào khủng
hoảng, suy yếu trầm trọng.
+ Kinh tế: - Nông nghiệp sa sút mất mùa,
đói kém thường xuyên.
- Công thương nghiệp đình đốn,
lạc hậu do chính sách bế quan tỏa cảng của

Nhà nước.
+ Quân sự lạc hậu, đối ngoại sai lầm: “cấm
đạo”, xua đuổi giáo sỹ.
I. Liên quân Pháp - Tây Ban Nha xâm
lược Việt Nam. Chiến sự ở Đà Nẵng.
1. Tình hình Việt Nam giữa thế kỷ XIX,
trước cuộc xâm lược của thực dân Pháp.
- Giữa thế kỷ XIX Việt Nam là một quốc
gia độc lập, có chủ quyền song chế độ
phong kiến đã lâm vào khủng hoảng, suy
yếu trầm trọng.
+ Kinh tế: - Nông nghiệp sa sút, mất mùa,
đói kém thường xuyên.
- Công thương nghiệp đình đốn, lạc hậu do
nhà nước thực hiện chính sách “bế quan,
tỏa cảng”.
+ Quân sự lạc hậu, đối ngoại sai lầm: “cấm
đạo”, đuổi giáo sỹ.
+ Xã hội: Các cuộc khởi nghĩa chống lại
+ Xã hội: Nhiều cuộc đấu tranh chống triều
đình bùng nổ.
* Hoạt động 2: Cá nhân
- Giáo viên tóm tắt: Giữa thế kỷ XIX chế độ
phong kiến Việt Nam bước vào khủng
hoảng, nền kinh tế sa sút, quân đội lạc hậu,
yếu kém. Đặt Việt Nam trong bối cảnh châu
á và thế giới, lúc đó em có suy nghĩ gì? Giáo
viên gợi ý: Em hãy liên hệ với bài Trung
Quốc - ấn Độ - Đông Nam á cuối thế kỷ
XIX đầu thế kỷ XX. Học sinh dựa vào phần

kiến thức đã học ở chương I để trả lời:
Trong lúc Việt Nam đang suy yếu, khủng
hoảng thì chủ nghĩa tư bản Âu - Mĩ đang
đẩy mạnh xâm lược thuộc địa ở khắp nơi
trên thế giới. Việt Nam và Đông Nam á là
khu vực quan trọng, giàu tài nguyên. Chế độ
phong kiến đang khủng hoảng, vì vậy tất
yếu Việt Nam trở thành đối tượng xâm lược
của thực dân phương Tây (Việt Nam cũng
như các nước châu á khác, đứng trước nguy
cơ bị xâm lược).
- Giáo viên nhận xét, bổ sung nếu học sinh
trả lời chưa đúng, sau đó giáo viên dẫn dắt.
Thực dân phương Tây và Pháp đã chuẩn bị
xâm lược Việt Nam như thế nào chúng ta
cùng tìm hiểu phần 2: Thực dân Pháp ráo riết
chuẩn bị xâm lược Việt Nam.
* Hoạt động 1: Cả lớp / cá nhân
- Giáo viên nêu câu hỏi: Dựa vào những
kiến thức đã học ở lớp 10, em hãy nhắc lại
Việt Nam tiếp xúc với phương Tây từ khi
nào?
- Học sinh nhớ lại kiến thức cũ để trả lời.
- Giáo viên nhận xét và nhắc lại: Kết hợp
trình bày phần mới những người phương
Tây đầu tiên đến Việt Nam là các lái buôn
triều đình nổ ra khắp nơi.
2. Thực dân Pháp ráo riết chuẩn bị xâm
lược Việt Nam.
- Tư bản phương Tây và Pháp nhòm ngó

xâm nhập vào Việt Nam từ rất sớm, bằng
con đường buôn bán và truyền đạo.
Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, họ đã biết đến
Việt Nam từ lâu (thế kỷ XVI) đến thế kỷ
XVII, người Anh đã định chiếm đảo Côn
Lôn (nay là Côn Đảo) nhưng không thành,
chứng tỏ chủ nghĩa thực dân phương Tây
nhòm ngó xâm nhập vào Việt Nam từ rất
sớm, chủ yếu bằng hai con đường buôn bán
và truyền đạo, lúc đầu đơn giản chỉ là buôn
bán và truyền đạo, về sau khi chủ nghĩa tư
bản phát triển, nhu cầu thị trường lớn, vì vậy
đã tranh giành buôn bán và muốn xâm lược
đặt ách thống trị. Trong cuộc chạy đua thôn
tính phương Đông, tư bản Pháp đã lợi dụng
việc truyền đạo thiên chúa như một công cụ
xâm lược. Thế kỉ XVII các giáo sĩ Pháp đã
tới Việt Nam truyền đạo, trong đó có một số
kết hợp với việc dò xét tình hình, vẽ bản đồ,
vạch kế hoạch cho cuộc xâm nhập của người
Pháp sau này.
Trong cuộc chạy đua xâm lược Việt Nam,
Pháp tỏ ra tích cực hơn cả, chớp mọi cơ hội
để can thiệp vào Việt Nam. Cuối thế kỷ
XVIII, khi phong trào nông dân Tây Sơn nổ
ra, Nguyễn ánh đã cầu cứu nước ngoài nhằm
khôi phục lại quyền lực. Giám mục Bá Đa
Lộc đã chớp cơ hội đó tạo điều kiện cho tư
bản Pháp can thiệp vào Việt Nam bằng Hiệp
ước Véc Xai 1787. Với Hiệp ước này, tư

bản Pháp hứa sẽ giúp Nguyễn ánh đánh lại
nhà Tây Sơn, đổi lại Pháp được sở hữu cảng
Hội An, đảo Côn Lôn và độc quyền buôn
bán ở Việt Nam.
Giáo viên mở rộng: Bá Đa Lộc là giáo sỹ
người Pháp, năm 1776 được phái sang Cam-
pu-chia, ở đây ông gặp Nguyễn ánh. Bá Đa
Lộc đã ra sức thuyết phục Nguyễn ánh cầu
viện nước Pháp. 1784 giao Vương ấn và
Hoàng tử Cảnh (mới 5 tuổi) nhờ Bá Đa Lộc
đưa sang Pháp. Được sự đồng ý của vua
- Thực dân Pháp đã lợi dụng việc truyền bá
thiên chúa giáo để xâm nhập vào Việt
Nam.
Pháp Bá Đa Lộc đã thay mặt Nguyễn ánh ký
với Pháp điều ước Véc Xai 1787. Song cách
mạng Pháp bùng nổ, điều ước không thực
hiện được. Bá Đa Lộc đã tự mình vận động
nhà giàu và quân sỹ Pháp giúp Nguyễn ánh
người và vũ khí, được tiếp viện, Nguyễn ánh
đã đưa quân ra Bắc đánh nhà Tây Sơn. Năm
1799, trong một lần theo quân Nguyễn ánh
đánh ra Quy Nhơn, Bá Đa Lộc ốm chết,
Nguyễn ánh đã tổ chức tang lễ rất long
trọng, tự mình đọc điếu văn, cho dựng bia
chữ vàng và gọi ông là “Đức cha cả”.
Nguyễn ánh mang ơn người Pháp, vì vậy đã
cho 40 cố vấn người Pháp tham gia chính
quyền, nên người Pháp càng có điều kiện để
điều tra tình hình và can thiệp vào Việt

Nam.
- Giáo viên tiếp tục trình bày: Giữa thế kỷ
XIX, nước Pháp tiến nhanh trên con đường
phát triển tư bản chủ nghĩa, càng ráo riết tìm
cách đánh chiếm Việt Nam để tranh giành
ảnh hưởng với Anh ở khu vực châu á. Vì
vậy, năm 1857 Napôlêông III lập Hội đồng
Nam Kỳ để bàn cách can thiệp vào Việt
Nam, tích cực chuẩn bị đánh Việt Nam →
Việt Nam đứng trước nguy cơ bị thực dân
Pháp xâm lược.
- Giáo viên dẫn dắt: Pháp xâm lược Việt
Nam như thế nào? Cuộc kháng chiến chống
Pháp của nhân dân Việt Nam từ khi Pháp
xâm lược đến trước khi Pháp đánh Bắc Kì
năm 1873 ra sao? Chúng ta cùng tìm hiểu
những phần còn lại của bài.
- Giáo viên hướng dẫn học sinh lập bảng
thống kê các cuộc kháng chiến chống Pháp
xâm lược của nhân dân ta từ 1858 đến trước
1873 (trước khi Pháp xâm lược Bắc Kỳ)
theo mẫu:
- Năm 1787 Bá Đa Lộc đã giúp tư bản
Pháp can thiệp vào Việt Nam bằng Hiệp
ước Véc Xai.
- Năm 1857 Napôlêông III lập Hội đồng
Nam Kỳ để bàn cách can thiệp vào Việt
Nam, đồng thời tích cực chuẩn bị đánh
Việt Nam → Việt Nam đứng trước nguy cơ
bị thực dân Pháp xâm lược.

Mặt
trận
Cuộc
xâm
lược của
Pháp
Cuộc
kháng
chiến của
nhân dân ta
Kết
quả, ý
nghĩa
Đà
Nẵng
1858
Gia
Định
1859
-1860
- Học sinh kẻ bảng vào vở.
- Giáo viên tiếp tục hướng dẫn trong thời
gian còn lại của tiết học sẽ thống kê chiến
sự tại mặt trận Đà Nẵng và mặt trận Gia
Định.
- Học sinh theo dõi sách giáo khoa tự thống
kê các sự kiện.
- Giáo viên bao quát lớp hướng dẫn, khuyến
khích học sinh tự học.
- Giáo viên: Sau khi học sinh lập bảng, giáo

viên treo lên bảng hoặc trình chiếu trên
PowerPoint một bảng thống kê do giáo viên
làm sẵn, làm thông tin phản hồi giúp học
sinh đối chiếu chỉnh sửa phần học sinh tự
làm.
Mặt
trận
Cuộc xâm
lược của
thực dân
Pháp
Cuộc kháng chiến của nhân dân
Việt Nam
Kết quả, ý nghĩa
Đà
Nẵng
1859
- Ngày
31/8/1858
liên quân
Pháp - Tây
Ban Nha dàn
trận trước
- Triều đình cử Nguyễn Tri
Phương chỉ huy kháng chiến.
- Quân dân: anh dũng chống trả
quân xâm lược, đẩy lùi các đợt
tấn công của địch, thực hiện kế
- Pháp bị cầm chân tại Đà Nẵng
từ tháng 8/1858 đến tháng

2/1859, kế hoạch đánh nhanh
thắng nhanh bị thất bại.
cửa biển Đà
Nẵng.
- Ngày
1/9/1858
Pháp tấn
công bán đảo
Sơn Trà, mở
đầu cuộc
xâm lược
Việt Nam.
sách “vườn không nhà trống” gây
cho địch nhiều khó khăn.
- Khí thế kháng chiến sôi sục
trong cả nước.
Gia
Định
1859
-1860
- Tháng
2/1859 Pháp
đánh vào Gia
Định, đến
17/2/1859
Pháp đánh
chiếm thành
Gia Định.
- Nhân dân chủ động kháng chiến
ngay từ đầu: chặn đánh quấy rối

và tiêu diệt địch.
- Làm thất bại kế hoạch đánh
nhanh thắng nhanh của thực dân
Pháp buộc chúng phải chuyển
sang chinh phục từng gói nhỏ.
- Năm 1860
Pháp gặp
nhiều khó
khăn 
dừng các
cuộc tấn
công, lực
lượng địch ở
Gia Định rất
mỏng.
- Triều đình không tranh thủ tấn
công mà cử Nguyễn Tri Phương
vào Gia Định xây dựng phòng
tuyến Chí Hòa để chặn giặc.
- Nhân dân tiếp tục tấn công địch
ở đồn Chợ Rẫy 7/1860, trong khi
triều đình xuất hiện tư tưởng chủ
hòa.
- Pháp không mở rộng đánh
chiếm được Gia Định, ở vào thế
tiến thoái lưỡng nan.
- Học sinh đối chiếu chỉnh sửa bảng thống kê của mình.
- Giáo viên có thể giúp học sinh nắm vững những kiến thức cơ bản bằng một số
câu hỏi:
+ Tại sao Pháp chọn Đà Nẵng làm mục tiêu tấn công đầu tiên trong cuộc chiến

tranh xâm lược Việt Nam? Giáo viên dùng lược đồ cuộc kháng chiến chống Pháp
của nhân dân ta (1858 - 1885), giới thiệu trên lược đồ vị trí Đà Nẵng là một cửa
biển nước sâu, lại gần kinh đô Huế (cách khoảng 100km).
- Học sinh quan sát lược đồ trả lời:
+ Đà Nẵng là cảng nước sâu vì vậy tàu chiến có thể hoạt động dễ dàng.
+ Đà Nẵng gần kinh đô Huế vì vậy có thể dùng Đà Nẵng làm bàn đạp tấn công
Huế, buộc triều Nguyễn phải đầu hàng, kết thúc nhanh chóng cuộc xâm lược Việt
Nam.
- Giáo viên bổ sung: Đà Nẵng còn là nơi thực dân Pháp xây dựng được cơ sở
giáo dân theo Kitô, chúng hy vọng được giáo dân ủng hộ. Vì vậy, sáng ngày
1/9/1858 từ các tàu neo đậu ở cửa biển Đà Nẵng, liên quân Pháp - Tây Ban Nha đã
nã đại bác lên bờ, rồi cho quân đổ bộ lên bán đảo Sơn Trà. Nguyễn Tri Phương đã
đốc thúc quân, dân xây dựng phòng tuyến liên trù dài 3km để chặn giặc ngay tại
cửa biển. Nhân dân còn dùng cột tre thùng gỗ đựng đầy đất đá lấp sông Vĩnh Điện
để chặn tàu chiến địch. Nhân dân vùng ven biển kiên cường chống trả quân xâm
lược, khiến địch thất bại trong âm mưu đánh nhanh, thắng nhanh. Tây Ban Nha
nản trí bỏ cuộc. Pháp phải thay đổi kế hoạch. Tháng 2/1859 quay mũi tấn công vào
Gia Định để thực hiện âm mưu mới “chinh phục từng gói nhỏ”.
- Giáo viên tiếp tục nêu câu hỏi: Tại sao Pháp lại đánh Gia Định, chứ không
đánh ra Bắc Kì? Giáo viên giới thiệu trên lược đồ vị trí Gia Định: xa kinh đô Huế,
xa cả Trung Quốc, là vựa lúa lớn, gần Campuchia có thể tiến sang Campuchia bằng
đường sông Cửu Long.
- Học sinh quan sát lược đồ, suy nghĩ trả lời:
+ Gia Định xa Trung Quốc sẽ tránh được sự can thiệp của nhà Thanh.
+ Xa kinh đô Huế sẽ tránh được sự tiếp viện của triều đình Huế.
+ Chiếm được Gia Định coi như chiếm được kho lúa gạo của triều đình Huế,
gây khó khăn cho triều đình.
+ Đánh sang Gia Định sẽ theo đường sông Cửu Long, đánh ngược lên
Campuchia (Cao Miên) làm chủ lưu vực Mê Kông.
- Giáo viên bổ sung: Người Pháp nhận xét: “Sài Gòn có triển vọng trở thành

trung tâm của một nền thương mại lớn - xứ này giàu sản vật, mọi thứ đều đầy rẫy”.
Hơn nữa lúc này người Pháp phải hành động gấp vì tư bản Anh sau khi chiếm
Xingapo và Hương Cảng cũng đang ngấp nghé chiếm Sài Gòn để nối liền cửa biển
quan trọng trên.
Vì tất cả những lý do trên Pháp quyết định đánh Gia Định. Ngày 2/2/1859 quân
Pháp với 2000 quân và 8 tàu chiến, lợi dụng mùa gió bấc kéo vào Gia Định, ngày
10/2/1859 đến Vũng Tàu. Ngày 15/2/1859 quân Pháp tiến sát thành Gia Định.
Ngày 17/2/1859 Pháp tấn công thành Gia Định, đến trưa quân Pháp chiếm được
thành, quan quân triều đình tan rã nhanh chóng.
Mặc dù quân đội triều đình tan rã nhanh chóng, song các đội dân binh lại chiến
đấu dũng cảm, đêm ngày phục kích, giết chỉ huy giặc, bao vây địch, tổ chức đánh
đắm tàu chiến giặc trên sông Sài Gòn, khiến quân Pháp ngày càng lúng túng,
chiếm được thành Gia Định nhưng không sao làm chủ được. Vì vậy quân Pháp đã
dùng thuốc nổ phá thành Gia Định (ngày 8/3/1859), đốt trụi kho lúa gạo và rút
quân xuống các tàu chiến.
Sang đầu năm 1860 quân Pháp sa lầy ở các chiến trường Trung Quốc và Xiri
nên không thể tiếp viện cho chiến trường Việt Nam. Vì vậy quân Pháp ở Gia Định
gặp nhiều khó khăn, lực lượng rất mỏng có khoảng 1000 tên lại phải trải ra trên
một tuyến dài tới 10km. Đây là cơ hội tốt để quân ta đánh bật quân xâm lược ra
khỏi bờ cõi. Nhưng từ tháng 3/1860 Nguyễn Tri Phương được cử ra làm chỉ huy
mặt trận Gia Định đã bỏ lỡ cơ hội đó. Ông chỉ lo phòng thủ, huy động quân dân
xây dựng một phòng tuyến kiên cố bao gồm một hệ thống đồn luỹ dài 16km ở phía
Tây thành Gia Định. Hệ thống này lấy đại đồn Chí Hòa làm trung tâm. Với 12.000
quân và 150 khẩu đại bác, nhưng không chủ động tấn công giặc mà nằm im chờ
giặc tới.
Không bị động đối phó như quân đội triều đình, hàng nghìn nghĩa dũng do
Dương Bình Tâm chỉ huy đã xung phong đánh đồn Chợ Rẫy, vị trí quan trọng
trong tuyến phòng thủ của địch (tháng 7/1860).
- Giáo viên dặn dò: Học sinh về nhà rút ra một số nhận xét về các cuộc kháng
chiến của nhân dân ta, và đọc trước phần tiếp theo.

- Giáo viên nêu câu hỏi: Em có nhận xét gì về cuộc kháng chiến của nhân dân
ta ở Đà Nẵng và Gia Định?
- Học sinh trả lời:
- Giáo viên nhận xét, bổ sung: ngay từ khi Pháp xâm lược, nhân dân ta cùng
quan quân triều đình nhà Nguyễn đã anh dũng đứng lên đánh giặc, làm thất bại kế
hoạch đánh nhanh thắng nhanh của thực dân Pháp buộc chúng phải thực hiện kế
hoạch “chinh phục từng gói nhỏ”. Tuy nhiên trong quá trình kháng chiến chống
Pháp, triều đình nặng về phòng thủ, bỏ lỡ nhiều cơ hội đánh Pháp. Trái lại nhân
dân kháng chiến với tinh thần tích cực, chủ động rất cao, tự nguyện đứng lên kháng
chiến.
- Giáo viên cho điểm những học sinh trả lời đúng.
- Giáo viên dẫn dắt: khi Pháp mở rộng đánh chiếm Nam Kỳ cuộc kháng chiến
của nhân dân ta tiếp diễn như thế nào? Chúng ta cùng tìm hiểu phần còn lại của
bài:
- Giáo viên hướng dẫn học sinh lập bảng theo mẫu sau:
Mặt trận Cuộc xâm lược Cuộc kháng Cuộc kháng
của thực dân
Pháp
chiến của triều
Nguyễn
chiến của nhân
dân
Tại Miền Đông
Nam Kỳ 1861
-1862
Tại Miền Đông
Nam Kỳ từ sau
1862
Tại Miền Tây
Nam Kỳ

- Học sinh theo dõi sách giáo khoa. Lập bảng.
- Giáo viên treo lên bảng hoặc trình chiếu trên máy chiếu bảng thống kê do
giáo viên tự làm để giúp học sinh chỉnh sửa bảng thống kê do học sinh tự làm.
Mặt trận
Cuộc tấn công
của thực dân
Pháp
Thái độ của triều
đình
Cuộc kháng
chiến của nhân
dân
Tại Miền
Đông Nam
Kỳ 1861
-1862
(kháng
chiến ở
Miền Đông
Nam Kỳ
1861 –
1812)
- Sau khi kết thúc
chiến tranh ở
Trung Quốc, Pháp
mở rộng đánh
chiếm nước ta.
Ngày 23 - 2 -
1861 tấn công Chí
Hòa  chiếm

được đồn Chí
Hòa.
- Thừa thắng đánh
chiếm 3 tỉnh miền
Đông Nam Kỳ.
+ Định Tường: 12/4/
1861
+ Biên Hòa:
18/12/1861
+ Vĩnh Long:
23/3/1862
- Giữa lúc phong
trào kháng chiến
của nhân dân
dâng cao triều
đình đã ký với
Pháp Hiệp ước
Nhâm Tuất
5/6/1862 cắt hẳn
3 tỉnh miền Đông
cho Pháp và phải
chịu nhiều điều
khoản nặng nề
khác.
- Kháng chiến
phát triển mạnh.
- Lãnh đạo là các
văn thân, sĩ phu
yêu nước.
- Lực lượng chủ

yếu là nông dân
“dân ấp, dân lân”.
- Có các trận đánh
lớn: Trận Quý
Sơn (Gò Công),
đốt tầu giặc trên
sông Nhật Tảo của
nghĩa quân
Nguyễn Trung
Trực.
Tại miền
Đông Nam
Kỳ sau
1862 (cuộc
kháng
chiến tiếp
tục Miền
Đông Nam
Kỳ sau
1862)
- Pháp dừng các
cuộc thôn tính để
bình định miền
Tây
- Triều đình ra
lệnh giải tán các
đội nghĩa binh
chống Pháp.
- Nhân dân tiếp
tục kháng chiến

vừa chống Pháp
vừa chống phong
kiến đầu hàng.
- Khởi nghĩa
Trương Định tiếp
tục giành thắng
lợi, gây cho Pháp
nhiều khó khăn.
+ Sau Hiệp ước
1862 nghĩa quân
xây dựng căn cứ
Gò Công, rèn đúc
vũ khí, đẩy mạnh
đánh địch ở nhiều
nơi. Giải phóng
nhiều vùng thuộc
Gia Định, Định
Tường.
+ Ngày
28/02/1963 Pháp
tấn công Gò
Công, nghĩa quân
anh dũng chiến
đấu.
+ Ngày 20/8/1864
Trương Định hy
sinh, nghĩa quân
thất bại.
Kháng
chiến tại

miền Tây
Nam Kỳ
- Trước khi chiếm
3 tỉnh Miền Tây
Pháp yêu cầu triều
đình Nguyễn nộp
3 tỉnh:
- Ngày 20/6/1867
Pháp dàn trận
- Triều đình lúng
túng bạc nhược,
Phan Thanh Giản
- Kinh lược sứ
của triều đình đầu
hàng.
- Nhân dân Miền
Tây kháng chiến
anh dũng với tinh
thần người trước
ngã xuống, người
sau đứng lên.
- Tiêu biểu nhất
trước thành Vĩnh
Long  Phan
Thanh Giản nộp
thành.
- Từ ngày 20 đến
24/6/1867 Pháp
chiếm gọn 3 tỉnh
Miền Tây Nam

Kỳ, Vĩnh Long,
An Giang, Hà
Tiên không tốn
một viên đạn.
có cuộc khởi
nghĩa của Nguyễn
Trung Trực,
Nguyễn Hữu
Huân.
* Hoạt động 2: Cá nhân
- Giáo viên đặt một số câu hỏi và giảng giải giúp học sinh nắm vững những
kiến thức cơ bản.
- Giáo viên nêu câu hỏi: Trong cuộc kháng chiến của nhân dân miền Đông
Nam Kỳ (1861 - 1862) có thắng lợi tiêu biểu nào?
- Học sinh trả lời: Đó là trận đánh chìm tàu chiến Et-pê-răng của địch trên sông
Vàm Cỏ Đông đoạn chảy qua thôn Nhật Tảo của nghĩa quân Nguyễn Trung Trực.
- Giáo viên cung cấp cho học sinh hiểu thêm về Nguyễn Trung Trực, tên thật là
Nguyễn Văn Lịch - người phủ Tân An - Định Tường (nay thuộc Long An) thông
hiểu chữ Hán, vừa làm nghề nông vừa chài lưới. Ngay khi Pháp xâm lược Nam
Kỳ, ông đã cùng nhân dân đứng lên chống Pháp. Trận đánh nổi tiếng của ông là vụ
đốt cháy chiến hạm hy vọng của Pháp trên sông Vàm Cỏ Đông trưa ngày
10/12/1862. Ông đã cùng 1 toán nghĩa quân dụ giặc lên bờ rồi cầm đầu 5 chiếc
thuyền áp tới khiến bọn giặc trên tàu không kịp trở tay, bị tiêu diệt hầu hết. Sau
trận đó ông được triều đình phong chức Quân Cơ, coi giữ vùng Hà Tiên. Trận đánh
trên sông Nhật Tảo khích lệ mạnh mẽ tinh thần cứu nước của nhân dân lục tỉnh.
Thực dân Pháp đã thú nhận: “đây là một trận đau đớn làm cho tinh thần người Việt
phấn khởi và gây cảm xúc sâu sắc trong một số người Pháp”.
Năm 1867 triều đình phong cho ông chức Lãnh Binh, rồi điều ông ra miền
Trung nhưng ông đã chống lệnh, lập căn cứ ở Hòn Chông. Rạng sáng ngày
16/6/1868 ông đưa quân đánh úp đồn Kiên Giang (nay là thị xã Rạch Giá) tiêu diệt

toàn bộ quân địch ở đó. Tháng 9/1868 ông bị giặc bắt, dụ dỗ nhưng ông cương
quyết không đầu hàng, ông đã nói một câu nổi tiếng: “Bao giờ người Tây nhổ hết
cỏ nước Nam, mới hết người Nam đánh Tây”. Ngày 27/10/1868 giặc Pháp đã hành
hình ông ở Rạch Giá.
- Giáo viên yêu cầu học sinh đọc sách giáo khoa, hoặc trình chiếu trên Pa Poi
nội dung cơ bản của Hiệp ước Nhâm Tuất 1862 rồi nêu câu hỏi: Em đánh giá như
thế nào về Hiệp ước Nhâm Tuất, về triều đình Nguyễn qua việc chấp nhận ký kết
hiệp ước?
- Học sinh dựa vào nội dung hiệp ước, suy nghĩ trả lời.
+ Đây là một hiệp ước mà theo đó Việt Nam phải chịu nhiều thiệt thòi, vi phạm
chủ quyền lãnh thổ của Việt Nam.
+ Song nhà Nguyễn vẫn ký, chứng tỏ thái độ nhu nhược của triều đình dễ dàng
chấp nhận những đòi hỏi của thực dân Pháp, bước đầu nhà Nguyễn đã đầu hàng
thực dân Pháp.
- Giáo viên nhận xét, bổ sung thêm: Sau khi chiếm được ba tỉnh miền Đông,
Pháp gặp khó khăn do những cuộc kháng chiến của nhân dân ta, khiến chúng chưa
thể bình định ngay miền Đông. Giữa lúc đó triều Nguyễn lại chủ động “nghị hòa”
làm cho thực dân Pháp ngạc nhiên và cảm thấy may mắn vì “Pháp đang phải đón
đợi một tình thế xấu thì Huế lại yêu cầu ký hòa ước”. Tháng 5/1862 vua Tự Đức
sai quân sang thông báo cho phía Pháp, đề nghị “giảng hòa” và cử một phái bộ do
Phan Thanh Giản và Lâm Duy Hiệp dẫn đầu vào Sài Gòn ngày 28/5/1862 đến Gia
Định vào ngày 3/6/1862 đến ngày 5/6/1862 đã ký kết hiệp ước. Chỉ sau hơn một
ngày thương thuyết, nhà Nguyễn đã chấp nhận ký những điều khoản nặng nề. Theo
như điều ước đã ký kết, triều đình đã ra lệnh bãi binh, tạo cơ sở cho địch đàn áp
nghĩa quân. Từ đây phong trào kháng chiến của nhân dân ta gặp khó khăn hơn
trước, nghĩa quân phải đơn độc đối phó với địch.
- Giáo viên tiếp tục đặt câu hỏi: Từ sau năm 1862 phong trào đấu tranh của
nhân dân miền Đông Nam Kỳ có sự kiện tiêu biểu nào? Trình bày tóm tắt diễn biến
của sự kiện đó.
- Học sinh trả lời: Sau khi 3 tỉnh miền Đông bị triều đình cắt cho Pháp - nhân

dân tiếp tục chống Pháp, tiêu biểu có cuộc khởi nghĩa của Trương Định
- Giáo viên nhận xét bổ sung thêm: Trương Định là con của Trương Cầm (Võ
Quan cấp thấp của triều Nguyễn) quê ở Quảng Ngãi, lớn lên theo gia đình lập
nghiệp ở Tân An (Long An ngày nay). Ông là người thông minh, cương nghị,
thông binh thư và giỏi võ nghệ. Vì có công chiêu mộ dân khai hoang lập ấp nên
ông được triều đình cử làm Quản Cơ đồn điền (Quản Định). Pháp chiếm thành Gia
Định ông đã chiêu mộ nông dân đồn điền theo giúp quân triều đình đánh Pháp. Khi
đại đồn Chí Hòa thất thủ ông về Gò Công chiêu mộ nghĩa binh xây dựng căn cứ
quyết tâm chiến đấu lâu dài với Pháp. Năm 1862 do việc nghị hòa triều đình buộc
ông giải binh và điều ông về làm lãnh binh ở An Giang. Lúc đầu vì lòng tôn quân
ông không có ý cưỡng mệnh triều đình. Nhưng nhân dân và nghĩa quân giữ ông lại.
Họ kéo nhau đứng trước ngựa của ông, nhất trí tôn ông làm “Bình Tây Đại nguyên
soái”, ông vui vẻ nhận chức nhân dân phong tặng, nhận nhiệm vụ nhân dân giao
phó, quyết tâm kháng chiến chống Pháp đến cùng. Pháp 4 lần gửi thư dụ hàng ông
đều cự tuyệt và kiên quyết chống Pháp. Triều đình cách chức, địch tìm mọi cách
giết hại, song ông không hề nao núng vẫn tiếp tục kháng chiến.
- Giáo viên tiếp tục đặt câu hỏi: Trong cuộc đấu tranh chống Pháp của nhân
dân miền Tây có cuộc khởi nghĩa tiêu biểu nào?
- Học sinh trả lời: Khi Pháp mở rộng đánh chiếm 3 tỉnh miền Tây, nhân dân
miền Tây anh dũng đứng lên kháng chiến sôi nổi, bền bỉ, tiêu biểu nhất có cuộc
khởi nghĩa của Nguyễn Trung Trực, Nguyễn Hữu Huân.
- Giáo viên nhận xét sau đó tiếp tục đặt câu hỏi. Từ sau Hiệp ước Nhâm Tuất
1862 phong trào kháng chiến của nhân dân Nam Kỳ có điểm gì mới?
- Học sinh suy nghĩ trả lời:
- Giáo viên nhận xét, kết luận: Từ sau năm 1862, cuộc kháng chiến của nhân
dân mang tính chất độc lập với triều đình, vừa chống Pháp, vừa chống phong kiến
đầu hàng, cuộc kháng chiến của nhân dân gặp nhiều khó khăn do thái độ bỏ rơi, xa
lánh của triều đình với lực lượng kháng chiến.
- Giáo viên đặt tiếp câu hỏi: Em hãy so sánh tinh thần chống Pháp của vua
quan triều Nguyễn và của nhân dân từ 1858 - 1873.

- Học sinh dựa vào những kiến thức vừa học để trả lời.
- Giáo viên nhận xét, kết luận:
+ Triều đình tổ chức kháng chiến chống Pháp ngay từ đầu song đường lối
kháng chiến nặng về phòng thủ, thiếu chủ động tấn công, ảo tưởng đối với thực
dân Pháp (chủ động “nghị hòa” vận động chuộc đất), bạc nhược trước những đòi
hỏi của thực dân Pháp.
+ Trái ngược với thái độ bạc nhược của triều đình nhân dân chủ động đứng lên
kháng chiến với tinh thần cương quyết dũng cảm. Khi triều đình đầu hàng, nhân
dân tiếp tục kháng chiến mạnh hơn trước, bằng nhiều hình thức linh hoạt, sáng tạo.
4. Sơ kết bài học
-Củng cố:
- Những cuộc kháng chiến tiêu biểu của nhân dân ta từ 1858 - 1873.
- Dặn dò:
Học sinh học bài cũ, xem trước bài mới. Tìm hiểu về tiểu sử, sự nghiệp của
Nguyễn Tri Phương, Hoàng Diệu.
-Bài tập:

×