Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

CHƯƠNG I DẤU ẤN CỦA TRIẾT HỌC HY LẠP CỔ ĐẠI TRONG TRIẾT HỌC ARISTOTLE

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (164.23 KB, 13 trang )

CHƯƠNG I
DẤU ẤN CỦA TRIẾT HỌC HY LẠP CỔ ĐẠI
TRONG TRIẾT HỌC ARISTOTLE
I. KHÁI QUÁT TRIẾT HỌC HY LẠP CỔ ĐẠI:
Nền triết học Hy Lạp cổ đại là khúc dạo đầu cho một bản nhạc giao hưởng, bản
hợp xướng của triết học phương tây. Một giai đoạn lịch sử khởi nguyên tiềm tàng
của triết học nhân loại làm tiền đề cho toàn bộ hệ thống triết học phương tây sau
này.
1- Điều kiện ra đời của triết học Hy Lạp cổ đại
1.1 Về tự nhiên*
Hy Lạp cổ đại chính là cái nôi của nền triết học phương Tây. Đây là quốc gia
rộng lớn có khí hậu ôn hòa. Bao gồm miền Nam bán đảo Ban Căng (Balcans),
miền ven biển phía Tây Tiểu Á và nhiều hòn đảo ở miền Egee. Hy Lạp được chia
làm ba khu vực. Bắc , Nam và Trung bộ.
Trung bộ có nhiều dãy núi ngang dọc và những đồng bằng trù phú, có thành
phố lớn như Athen. Nam bộ là bán đảo Pelopongnedơ với nhiều đồng bằng rộng
lớn phì nhiêu thuận lợi cho việc trồng trọt. Vùng bờ biển phía Đông của bán đảo
Ban Căng khúc khuỷu nhiều vịnh, hải cảng thuận lợi cho ngành hàng hải phát
triển. Các đảo trên biển Êgiê (Egée) là nơi trung chuyển cho việc đi lại, buôn bán
giữa Hy Lạp với các nước ở Tiểu Á và Bắc Phi. Vùng ven biển Tiểu Á là đầu mối
giao thương giữa Hy Lạp và các nước phương Đông. Với điều kiện tự nhiên thuận
lợi như vậy nên Hy Lạp cổ đại sớm trở thành một quốc gia chiếm hữu nô lệ có một
nền công thương nghiệp phát triển, một nền văn hóa tinh thần phong phú đa dạng.
Nơi có nhiều triết gia mà triết lý của họ trở nên bất hủ.
1.2 - Về kinh tế *
Hy Lạp cổ đại nằm ở một vị trí vô cùng thuận lợi về khí hậu, đất đai, biển cả
và lòng nhiệt thành của con người là những tài vật, tài lực vô giá để cho tư duy bay
bổng, mở rộng các mối bang giao và phát triển kinh tế.
Thế kỷ VIII – VI BC, đây là thời kỳ quan trọng nhất trong lịch sử Hy Lạp cổ
đại là thời kỳ nhân loại chuyển từ thời đại đồ đồng sang thời đại đồ sắt. Lúc bấy
giờ đồ sắt được dùng phổ biến, năng xuất lao động tăng nhanh, sản phẩm dồi dào,


chế độ sở hữu tư nhân được cũng cố. Sự phát triển này đã kéo theo phân công lao
động trong nông nghiệp, giữa nghành trồng trọt và ngành chăn nuôi. Xu hướng
chuyển sang chế độ chiếm hữu nô lệ đã thể hiện ngày càng rõ nét. Sự phát triển
mạnh mẽ của công nghiệp, thủ công nghiệp từ cuối thế kỷ VIII BC là lực đẩy quan
trọng cho trao đổi, buôn bán, giao lưu với các vùng lân cận. Engels đã nhận xét:
“Phải có những khả năng của chế độ nô lệ mới xây dựng được một quy mô phân
công lao động lớn lao hơn trong công nghiệp và nông nghiệp, mới xây dựng được
đất nước Hy Lạp giàu có. Nếu không có chế độ nô lệ thì cũng không có quốc gia
Hy Lạp, không có khoa học và công nghiệp Hy Lạp”.
(1)
1.3 - Về chính trị - xã hội *
[1]
Từ điều kiện kinh tế đã dẫn đến sự hình thành chính trị - xã hội, xã hội phân
hóa ra làm hai giai cấp xung đột nhau là chủ nô và nô lệ. Lao động bị phân hóa
thành lao động chân tay và lao động trí óc. Đất nước bị chia phân thành nhiều nước
nhỏ. Mỗi nước lấy một thành phố làm trung tâm. Trong đó, Sparte và Athen là hai
thành phố cổ hùng mạnh nhất, nồng cốt cho lịch sử Hy Lạp cổ đại.
Thành bang Athen nằm ở vùng đồng bằng thuộc Trung bộ Hy Lạp, có điều
kiện địa lý thuận lợi nên đã trở thành một trung tâm kinh tế, văn hóa của Hy Lạp
cổ đại, và là cái nôi của triết học Châu Âu. Tương ứng với sự phát triển kinh tế,
văn hóa là thiết chế nhà nước chủ nô dân chủ Athen.
Thành Sparte nằm ở vùng bình nguyên, đất đai rất thích hợp với sự phát triển
nông nghiệp. Chủ nô quý tộc thực hiện theo lối cha truyền con nối. Chính vì thế
Sparte đã xây dựng một thiết chế nhà nước quân chủ, thực hiện sự áp bức rất tàn
khốc đối với nô lệ.
Do sự tranh giành quyền bá chủ Hy Lạp, nên hai thành phố trên tiến hành cuộc
chiến tranh khốc liệt kéo dài hàng chục năm và cuối cùng dẫn đến sự thất bại của
thành Athen. Cuộc chiến tàn khốc đã lưu lại sự suy yếu nghiêm trọng về kinh tế,
chính trị và quân sự của đất nước Hy Lạp. Chiến tranh, nghèo đói đã nảy sinh các
cuộc nỗi dậy của tầng lớp nô lệ. Nhưng lại thất bại vì họ xuất phát từ nhiều bộ lạc

khác nhau, không có ngôn ngữ chung, không có quyền hạn, không được tham gia
vào các hoạt động xã hội, chính trị. Chớp lấy thời cơ, Vua Philíp ở phía Bắc Hy
Lạp đã đem quân xâm chiếm toàn bộ bán đảo Hy Lạp thế kỷ thứ II BC, Hy Lạp
một lần nữa bị rơi vào tay của đế quốc La Mã. Tuy đế quốc La Mã chinh phục
được Hy Lạp, nhưng lại bị Hy Lạp chinh phục về văn hóa.
Engels đã nhận xét “không có cơ sở văn minh Hy Lạp và đế quốc La Mã thì
không có Châu Âu hiện đại được”
[2]
. Vì điều kiện kinh tế, nhu cầu buôn bán, trao
đổi hàng hóa mà các chuyến vượt biển đến với các nước phương Đông trở nên
thường xuyên. Chính vì thế tầm nhìn của họ cũng được mở rộng, những thành tựu
văn hóa của Ai Cập, Babilon đã làm cho người Hy Lạp ngạc nhiên. Tất cả các lĩnh
vực, những yếu tố của nước bạn đều được người Hy Lạp đón nhận, “Những người
Hy Lạp mãi mãi là đứa trẻ nếu không hiểu biết gì về Ai Cập”.
Trong thời đại này Hy Lạp đã xây dựng được một nền văn minh vô cùng xán
lạn với những thành tựu rực rỡ thuộc các lĩnh vực khác nhau. Chúng là cơ sở hình
thành nên nền văn minh phương Tây hiện đại.
Về văn học, người Hy Lạp đã để lại một kho tàng văn học thần thoại rất phong
phú, những tập thơ chứa chan tình cảm, những vở kịch hấp dẫn, phản ánh cuộc
sống sôi động, lao động bền bỉ, cuộc đấu tranh kiên cường chống lại những lực
lượng tự nhiên, xã hội của người Hy Lạp cổ đại.
[3]
Về nghệ thuật, đã để lại các công trình kiến trúc, điêu khắc, hội họa có giá trị.
Về luật pháp, đã sớm xây dựng một nền pháp luật và được thực hiện khá
nghiêm tại thành bang Athen.
Về khoa học tự nhiên, những thành tựu toán học, thiên văn, vật lý… được các
nhà khoa học tên tuổi như Thalés, Pythago, Heraclite sớm phát hiện ra. Và đặc
biệt, người Hy Lạp cổ đại đã để lại một di sản triết học vô cùng đồ sộ và sâu sắc.
2. Đặc trưng cơ bản của triết học cổ Hy Lạp
Đỉnh cao của nền văn minh cổ đại đó chính là triết học Hy Lạp cổ đại, và cũng

là điểm xuất phát của lịch sử thế giới. Nhìn chung triết học Hy Lạp có những đặc
trưng sau:
-Thể hiện thế giới quan, ý thức hệ và phương pháp luận của giai cấp chủ nô
thống trị.
- Có sự phân chia và các sự đối lập rõ ràng giữa các trào lưu, trường phái, duy
vật - duy tâm, biện chứng - siêu hình, vô thần - hữu thần.
- Gắn bó mật thiết với khoa học tự nhiên để tổng hợp mọi hiểu biết về các lĩnh
vực khác nhau, nhằm xây dựng một bức tranh về thế giới như một hình ảnh chỉnh
thể thống nhất mọi sự vật, hiện lại xảy ra trong nó.
Đã xây dựng nên phép biện chứng chất phác, hoang sơ.
- Coi trọng vấn đề về con người.
Triết học cổ Hy Lạp mang tính duy vật tự phát và biện chứng sơ khai. Tách ra
khỏi yếu tố thần linh thống trị con người từ xưa, đỉnh cao của triết học cổ Hy Lạp
là triết gia Socrate. Ông đã đề cập đến thân phận con người. Đa phần các triết gia
có xu hướng hướng ngoại thì Socrate quay về hướng nội, ông đã đề cập đến đạo
đức con người.
3-Các trường phái triết học Hy Lạp cổ đại
3.1-Chủ nghĩa duy vật*
Chủ nghĩa duy vật được hình thành từ trường phái Milet- trường phái
Heraclite, trường phái Đa nguyên và đạt được đỉnh cao như trong trường phái
Nguyên tử luận.
3.1.1-Trường phái Milet*
Trường phái triết học Milet là trường phái của các nhà triết học đầu tiên xứ
Lonie, một vùng đất nổi tiếng của Hy Lạp. Nằm chạy dài trên miền duyên hải Tiểu
Á, nằm giữ huyết mạch giao thông, là cửa mở đi về phương Đông, và là trung tâm
kinh tế, văn hóa của thời kỳ chiếm hữu nô lệ. Nơi đây được xem là quê hương của
nhiều trường phái triết học của triết gia nổi tiếng.
Trường phái này do ba nhà triết học lập nên như: Thales, Anaxi-mène và
Anaximandes. Đóng góp quan trọng nhất của trường phái này là đã đặc nền móng
do sự hình thành các khái niệm triết học để các triết gia sau này tiếp tục bổ xung và

làm phong phú thêm những khái niệm đó như khái niệm chất, không gian, sự đấu
tranh của các mặt đối lập v.v… Một điều đáng quý nữa là các triết gia đã xuất phát
từ thế giới để giải thích thế giới, khẳng định thế giới xuất phát từ một thời nguyên
vật chất duy nhất.
3.1.2-Trường phái Héraclite : (540 – 575 BC)*
Do nhà ẩn dật Héraclite sáng lập. Ông sinh ra và lớn lên trong một gia đình
quý tộc chủ nô ở thành phố Ephetdơ. Ông sớm trở thành một nhà triết học duy vật
thể hiện rõ các tư tưởng biện chứng chất phát từ thời cổ Hy Lạp. Ông coi bản
nguyên của thế giới là lửa. Vũ trụ không phải do Thượng Đế hay một lực lượng
siêu nhiên nào đó tạo ra, mà nó “đã” và “đang” sẽ mãi mãi là ngọn lửa vĩnh hằng
không ngừng bùng cháy và lụi tàn. Tàn lụi và bùng cháy theo cái logos tức là “quy
luật, trật tự” nội tại của chính mình. Ông xem thế giới “vừa tồn tại vừa không tồn
tại”, “không ai tắm hai lần trong một dòng sông”. Thế giới vật chất “vừa đa dạng
vừa thống nhất, vừa mang tính hài hòa vừa xung đột”.
Như vậy, Héraclite là nhà triết học đã nêu lên các phỏng đoán thiên tài về quy
luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập, mà sau này Marx đã đề cập và đi
sâu. Phép biện chứng duy vật chất phát là đóng góp của triết học Héraclite vào kho
tàng tư tưởng của nhân loại. “Thế giới chỉ là ngọn lửa đang bập bùng cháy suốt
ngày đêm”.
[4]
3.1.3-Trường phái đa nguyên*
Để giải thích tính đa dạng của vạn vật trong thế giới theo tinh thần duy vật
Empedocles ( 490 – 430 TCN ) và Anaxagoras ( 500 – 428 TCN ) cố vượt qua
quan niệm đơn nguyên sự khai minh của các trường phái như Milet - trường phái
Héraclite xây dựng quan niệm đa nguyên về bản chất của thế giới vật chất đa dạng.
Empedocles thừa nhận khởi nguyên của thế giới là bốn yếu tố : đất, nước, lửa và
không khí. Anaxagorax cho rằng cơ sở đầu tiên của tất cả mọi sự vật là “những hạt
giống”. Anaxagorax xem “ mọi cái được trộn lẫn trong mọi cái”.
[5]
Tuy nhiên, quan điểm của họ cũng còn mang tính sơ khai, nghĩa là còn hạn

chế. Những hạn chế này được thuyết phục bởi thuyết nguyên tử luận. Nhưng
thuyết này vẫn còn sơ khai và nhận định bằng cảm tính.
3.1.4-Trường phái nguyên tử luận*
Trường phái này là đỉnh cao của triết học duy vật Hy Lạp cổ đại được thể hiện
trong trường phái nguyên tử luận thế kỷ V – III BC. Leucippe là người sáng lập và
Démocrite là người kế thừa và phát triển.
Leucippe (500 – 440 BC), ông cho rằng, mọi sự vật được cấu thành từ những
nguyên tử. Đó là những hạt vật chất tuyệt đối không thể phân chia được, nó vô hạn
về số lượng và vô hạn về hình thức, nó vô cùng nhỏ bé, không thể thẩm thấu được.
Tư tưởng của ông không được hiểu một cách đầy đủ, nhưng ông đã để lại qua
những trang viết của các học trò ông tổng hợp. Démocrite (460 – 370 BC) là học
trò của Leucippe đã kế thừa và phát triển thuyết nguyên tử luận trên một phương
diện mới. Theo ông vũ trụ được cấu thành bởi hai thực thể đầu tiên là nguyên tử
và chân không. Hai thực thể này là căn nguyên của các sự vật hiện tượng.
3.2-Chủ nghĩa duy tâm*
[6]
Giai đoạn Hy Lap cổ đại, chủ nghĩa duy tâm được hình thành trong trường
phái triết học Pythagore, trải qua trường phái duy lý Elee và đạt được đỉnh cao
trong trường phái duy tâm khách quan của Platon, tức thế giới ý niệm.
3.2.1-Trường phái Pythagore
Pytagore (Pythagore, 571 – 497 TCN) là nhà triết học, toán học uyên bác. Sinh
ra và lớn lên ở vùng Tiểu Á. Do ảnh hưởng của toán học ông cho rằng “con số” là
bản nguyên của thế giới, là bản chất của vạn vật. Một vật tương ứng với một con
số nhất định, con số có trước vạn vật. Và tư tưởng Pythagore cũng thừa nhận sự bất
tử và luân hồi của linh hồn. Ông cũng bàn đến các mặt đối lập vôn có của mọi sự
vật hiện tượng, ông quy về mười cặp đối lập hữu hạn và vô hạn, chẳn và lẻ, đơn và
đa, phải và trái, nam và nữ, động và tĩnh, thẳng và công, sáng và tối, tốt và xấu, tứ
giác và đa diện. Mười cặp đối lập này chia làm bốn lĩnh vực là: toan học, vật lý,
sinh học và đạo đức. Đó là những mặt đối lập cơ bản của tự nhiên và xã hội. Chính
trường phái Pythagore đã đặc nền móng ban đầu cho trào lưu duy tâm thời cổ đại

của triết học Hy Lạp.
3.2.2-Trường phái Elée
Trường phái Elée (V – IV BC) do Xénophane thành lập theo chủ nghĩa duy
vật, nhưng sau đó Parménide phát triển theo chủ nghĩa duy tâm và được Zeno nhiệt
thành bảo vệ và phát huy.
Xénophane (570 – 478 BC) là bạn của Thales nên chịu ảnh hưởng của nhà triết
học này. Ông cho rằng mọi cái đều từ đất mà ra, và cuối cùng trở về đất. Đất là cơ
sở của vạn vật. Cùng với nước, đất tạo nên sự sống của muôn loài. Parménide (500
– 449 BC) xuất thân trong một gia đình trí thức giàu có ở Elée. Ông cho rằng, “tồn
tại” là bản chất chung thể hiện tính thống nhất của vạn vật trong thế giới. “Tồn
tại” là một phạm trù triết học mang tính khái quát cao, và nhận thức bởi tư duy, lý
tính. Quan niệm “tồn tại”đánh dấu một giai đoạn mới trong phát triển triết học Hy
Lạp cổ đại.
Zeno (490 – 430 BC), là người bảo vệ nhiệt thành trường phái Elée. Ông đưa
ra những Aporic nghĩa là tình trạng không có lối thoát hay nghịch lý. Thông qua
chúng, ông chứng minh rằng, “tồn tại là đồng nhất, duy nhất là bất biến”. Còn
tính phức tạp, đa dạng và vận động của thế giới là không thực.
3.2.3-Trường phái duy tâm khách quan
Thể hiện lập trường chính trị của tầng lớp chủ nô bảo thủ chống lại nền dân
chủ Athen và hệ thống triết học duy vật của trường phái nguyên tử luận. Được xây
dựng bởi Socrate và Platon.
Socrate (469 – 399 BC), khác với nhiều nhà bác học khác là không nghiên cứu
về giới tự nhiên, ông dành phần lớn nghiên cứu về con gười, đạo đức. “Con người
hãy nhận thức về chính mình”. Bàn về con người dưới khía cạnh đạo đức. Platôn
(427 – 347 BC), xuất thân trong một gia đình chủ nô quý tộc ở Athen. Ông trở
thành kiệt xuất nhất thời cổ đại Hy Lạp bởi quan niệm triết học duy tâm khách
quan. Ông xây dựng chủ nghĩa duy tâm khách quan với nội dung chính là “thuyết ý
niệm”, với giá trị bên trong là phép biện chứng của khái niệm và nhiều tư tưởng
sâu sắc khác về đạo đức, chính trị, xã hội.
3.3-Chủ nghĩa nhị nguyên

Triết học Aristotle :
Aristotle (384 – 322 TCN). Ông sinh ra tại miền Bắc Hy Lạp, là học trò xuất
sắc của Platon. Nhưng đặc biệt ông phê phán học thuyết “ý niệm” của Platon. Vì ý
niệm nó thuộc về thế giới bên kia không có lợi cho người. Theo Platon, ông cho
rằng thuộc tính quan trọng của thế giới là “vận động”. Triết học của Platon còn thể
hiện ở quan điểm về thế giới tự nhiên. Tự nhiên là toàn bộ của sự vật có một bản
thể vật chất mãi mãi vận động và biến đổi. Thông qua vận động mà giới tự nhiên
được thể hiện ra. Vận động không tách rời vật thể tự nhiên. Vận động của thế giới
tự nhiên có nhiều hình thức, sự tăng và giảm, sự ra đời và tiêu diệt, sự thay đổi
trong không gian, sự thay đổi về chất … Tuy nhiên, triết học của ông còn hạn chế,
dao động giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm, nhưng ông đã mở ra một
chân trời mới cho khoa học Phương Tây phát triển.
4. Triết gia Socrate (469 – 399BC)
Socrate xuất thân trong một gia đình khá giả ở Athen. Cha làm nghề điêu khắc,
mẹ là nữ hộ sinh. Ông hướng về chính thể chủ nô quý tộc chống lại chủ nô dân
chủ. Năm 399 BC, ông bị chủ nô dân chủ kết án tử hình về tội “coi thường luật
pháp, chống lại chế độ bầu cử dân chủ”. Triết học của ông khác với các nhà triết
học trước đó. Các nhà triết học trước nghiên cứu về giới tự nhiên. Nhưng ông dành
phần lớn vào việc nghiên cứu về con người, về đạo đức, về nhân sinh quan. Triết
học không gì khác hơn là sự nhận thức của con người về chính mình, “con người
hãy nhận thức chính mình”. Bắt đầu từ ông, đề tài con người trở thành một trong
những chủ đề trong tâm của triết học phương Tây. Vì vậy, quan điểm triết học của
ông bàn đến vấn đề con người trong đời sống xã hội mà trước hết là hành vi đạo
đức - “đạo đức học duy lý”.
Sự đóng góp của ông thay đổi từ nguyên lý vũ trụ sang nguyên lý nhân minh
đã làm nên một bước chuyển mới trong nền triết học. Ông là một trong những nhà
tư tưởng nổi tiếng thời cổ đại, ông không để lại cho đời một tác phẩm nào, vì ông
chỉ thường xuyên đàm luận mà không viết. Ngày nay chúng ta sở dĩ biết được
được về socrates là do các học trò của ông và những tư tưởng khác .
6-Vài ưu điểm và hạn chế của triết học Hy Lạp cổ đại

6.1- Ưu điểm:
-Triết học cổ hy lạp như hồi chuông tỉnh thức giấc mộng thần thánh muôn đời
của người dân Hy Lạp. Tách ly vai trò của thần thánh ra khỏi ý thức hệ của con
người.
-Vai trò của tự nhiên và con người được đề cập một cách khách quan. Nhằm đi
đến tìm hiểu con người và tự nhiên từ đâu mà có và đi về đâu.
-Đạo đức lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại được đề cập.
-Là nền tảng cho các trường phái triết học sau này.
-Khoa học Duy nghiệm và Duy lý manh nha hình thành.
-Trả lời phần nào câu hỏi: Con người có khả năng nhận thức thế giới không?
6.2-Hạn chế
-Triết học cổ Hy Lạp còn nằm trên tư duy trừu tượng là chủ yếu.
-Các vấn đề triết học còn chưa rõ ràng, còn rời rạc chưa hệ thống hóa.
-Tuy có đặt vai trò của con người, nhưng chưa hoàn toàn tách khỏi yếu tố thần
linh.
II. SỰ KẾ THỪA, SÁNG TẠO TRONG TRIẾT HỌC ARISTOTLE VỀ
TRIẾT HỌC HY LẠP CỔ ĐẠI.
Aristotle (384 – 322 TCN) là một nhà tư tưởng vĩ đại nhất của triết học Hy
Lạp cổ đại. Ph.Ăngghen đã gọi Aristotle là “ cái đầu hoàn chỉnh nhất” trong số các
nhà triết học cổ đại Hy lạp, là nhà tư tưởng đã nghiên cứu “ những hình thức cơ
bản nhất của tư duy biện chứng”.
Aristotle đã để lại cho nhân loại một di sản triết học đồ sộ được viết bằng
tiếng Hy Lạp cổ, trong đó lớn nhất là tác phẩm “ siêu hình học”. Những tác phẩm
của Aristotle còn lại cho đến ngày nay có thể chia làm tám nhóm: triết học chung,
logic học, vật lý học, sinh vật học, tâm lý học, đạo đức học, kinh tế học, chính trị
và nghệ thuật học. Để hiểu rõ một cách toàn diện về triết học Aristotle chúng ta sẽ
cùng đi tìm hiểu từng vấn đề.
1. Sự phê phán của Aristotle đối với học thuyết “ Ý niệm” của Platon – đối
tượng triết học thứ nhất – tiền đề của triết học Aristotle
Cũng như Xôcrát và Platon, Aristotle đặc biệt coi trọng vai trò của các khái

niệm trong nhận thức, khẳng định đó là phương tiện để nhận thức bản chất của tồn
tại.Với phương châm “ Platon là người thầy nhưng chân lí quý hơn” Aristotle phê
phán mạnh mẽ học thuyết duy tâm của Platon về các ý niệm.
- Thứ nhất, ông phản đối quan niệm của Platon coi các ý niệm như một dạng
tồn tại độc lập, tối cao, còn mọi sự vật cảm tình của thế giới chúng ta đều tồn tại ở
cấp độ thấp hơn
- Thứ hai, Aristotle phê phán việc Platon tách rời thế giới ý niệm với thế giới
hiện thực, ông chỉ ra rằng, như vậy tức là biến các phạm trù, khái niệm thành
những cái vô dụng đối với nhận thức các sự vật. Vì thế, để có ý nghĩa, theo
Aristotle thì thế giới ý niệm phải thuộc về thế giới các sự vật.
- Aristotle nhận thấy học thuyết của Platon có nhiều mâu thuẫn về mặt logic.
Một mặt, Platon phân biệt giữa các ý niệm, cho rằng các ý niệm chung nhất là thực
thể, bản chất của các ý niệm mang tính dặc thù hơn. Như vậy, sẽ dẫn đến nghịch lí
là: các ý niệm vừa là thực thể vừa không là thực thể. Điều này, Aristotle không thể
chấp nhận. Mặt khác, Platon vừa khẳng định các ý niệm hoàn toàn tách biệt với các
sự vật cảm tính, đồng thời lại cho rằng các sự vật đó là cái bóng của ý niệm là bản
sao của chúng. Như vây là thừa nhận sự vật và khái niệm dù sao cũng có điểm
tương đồng nhất định. Từ mâu thuẫn logic trên đây, Platon buộc phải thừa nhận sự
tồn tại của một “thế giới thứ ba”giống với hai thế giới kia và đứng lên trên chúng.
Như vậy, mỗi người cụ thể chẳng hạn, để có thể biểu hiện đúng bản chất với khái
niệm con người của mình lại cần đến “con người thứ ba” làm môi giới. Điều đó
theo Aristotle là không thể chấp nhận được.
- Các ý niệm của Platon không thể là công cụ nhận thức thế giới vì chúng tách
rời với quá trình vận động, phát triển không ngừng của các sự vật.
Từ việc phê phán học thuyết của Platon về các ý niệm, Aristotle đi đến xây
dựng hệ thống triết học của mình trên cơ sở tiếp thu những điểm hợp lý trong thế
giới quan của Platon, đồng thời khắc phục những hạn chế của nó.
Theo Aristotle giới tự nhiên với những sự vật vô cùng đa dạng là đối tượng
nghiên cứu của vật lý học. Đây cũng là triết học nhưng là “triết học thứ hai”. Nó
nghiên cứu các dạng tồn tại cụ thể. Bởi vậy, để khám phá bản chất tồn tại đích thức

nói chung, lí giải cụ thẻ các vấn đề về nguồn gốc, bản chất của thế giới thì cần phải
có “ triết học thứ nhất” tức là “ siêu hình học”, đây cũng là tác phẩm triết học quan
trọng nhất của Ông. Theo cách hiểu của Aristotle “ siêu hình học” là một khoa học
ít nhiều mang tính thần thánh vì đối tượng nghiên cứu của nó là “ những cái thần
thánh” trong đó có Thượng đế. Vì lí do đó, đôi khi ông gọi triết học là thần học.
Nếu như các khoa học khác nghiên cứu các sự vật của giới tự nhiên các dạng tồn
tại cụ thể đang vận động và biến đổi không ngừng thì triết học thứ nhất nghiên cứu
những gì có tình chất vĩnh hằng trong thế giới hiện thực, vì thế nó là nền tảng của
mọi lĩnh vực thế giới quan khác của con người.
Theo Aristotle tồn tại nói chung xuất phát từ 4 nguyên nhân cơ bản là: hình
dạng, vật chất, vận động và mục đích. Bất kỳ sự vật nào cũng đều phát triển dựa
trên 4 nguyên nhân đó. Tương tự như vậy, bất kỳ sự vật nào cũng có 4 nguyên
nhân trên thì mới có thể tồn tại được.
Trong số các nguyên nhân trên của tồn tại thì nguyên nhân hình dạng là cơ
bản nhất. Nó là thực chất của tồn tại, là bản chất của sự vật. Bản thân nó đã bao
hàm cả nguyên nhân vận động và mục đích. Với việc thừa nhận nguyên nhân mục
đích trong sự phát triển của mọi vật, Aristotle đã làm cho quan niệm của ông về tồn
tại trở nên thần bí.
Như vậy, coi vận động và mục đích chỉ là những khía cạnh khác nhau của
của nguyên nhân hình dạng, Aristotle đã thừa nhận học thuyết bốn nguyên nhân
chỉ là sự phát triển, cụ thể hóa quan niệm của ông về hình dạng và vật chất cũng
như mối quan hệ giữa chúng.
Trong hai nguyên nhân cơ bản của tồn tại – vật chất và hình dạng, thì
Aristotle coi hình dạng là nguyên nhân quan trọng hơn, có vai trò quyết định, bởi
nó là bản chất của sự vật. Xác định bản chất của sự vật ông đưa ra hai tiêu chuẩn:
Thứ nhất, bản chất phải là cái được nhận thức trong khái niệm, tức là cái
chung. Góc độ này ông hiểu bản chất của sự vật thuộc về lĩnh vực tinh thần.
Thứ hai, mỗi sự vật đều có đặc tính riêng của mình, do vậy bản chất phải là
cái riêng. Mà theo Aristotle cái riêng không thể biểu hiện được bằng khái niệm,
không đem lại cho chúng ta một tri thức đích thực nào.

Như vậy, hai tiêu chuẩn trên mâu thuẫn với nhau. Aristotle đã ý thức được
vấn đề này và tìm cách khắc phục, xong ông đã không giải quyết được. Điều này
dẫn đến mâu thuẫn trong quan niệm về mối quan hệ giữa vật chất và hình dạng.
Một mặt, ông khẳng định mọi sự vật trong thế giới đều là sự thống nhất giữa vật
chất và hình dạng. Ví dụ: quả cầu đồng là sự thống nhất giữa vật chất – chất đồng
và hình dạng – hình cầu, hai yếu tố cùng kết hợp và chuyển hóa tạo nên quả cầu
đồng. Mặt khác, ông thùa nhận tồn tại “ hình dạng thuần túy” phi vật chất hoàn
toàn thuộc về lĩnh vực tư tưởng, khẳng định có “ vật chất đầu tiên” – vật chất phi
hình dạng. từ việc tách rời vật chất và hình dạng, Arix tốt đã đi đến khẳng định “
hiện thực có trước mọi khởi nguyên cả về phạm trù, cả về bản chất, còn về thời
gian thì theo một nghĩa nhất định, là tồn tại trước, theo một nghĩa khác thì
không do vậy việc xác định và nhận thức (những cái trong hiện thức) cần phải có
trước nhận thức (những cái trong khả năng). Hơn nữa ông còn coi “ hình dạng
thuần túy” là động cơ đầu tiên của thế giới làm cho mọi vật đều có thể vận động
được. Đó chình là thượng đế, hay trí tuệ thuần túy. Đây là điểm triết học của
Aristotle hòa nhập với thần học của ông.
Như vật, Arix tốt đã có sự dao động giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa
duy tâm trong quan niệm về vật chất và hình dạng. Điều này làm cho sự phê phán
của ông đối với lập trường duy tâm trong học thuyết về ý niệm không triệt để. Ở
ông – như Hêghen nhận xét: “ vật chất chỉ là một nền tảng khô cứng trên đó diễn ra
các biến đổi, và trong những biến đổi ấy vật chất chỉ là cái chịu đựng”. Tuy nhiên,
trong sự phê phán này Aristotle đã có nhiều tư tưởng biện chứng sâu sắc về mối
quan hệ giữa vật chất và hình dạng, giữa khả năng và hiện thực, hiện thực và cơ
chất.
2. Nhận thức luận
Học thuyết của Aristotle về tri thức được xây dựng trên nền tảng quan niệm
về thế giới của ông. Tác phẩm “ siêu hình học” của ông được mở đầu bằng luận
điểm “ tất cả mọi người, về bản tính đều khát vọng tới trí thức”
Lý luận nhận thức của Aristotle là đỉnh cao của sự phát triển các tư tưởng
nhận thức luận thời cổ đại. Khẳng định khả năng nhận thức thế giới của con người,

ông coi quá trình nhận thức là quá trình khám phá ra chân lí đích thực về bản chất
sự vật. Ông phê phán mọi quan niệm hoài nghi luận trong nhận thức, ông coi “
ngụy biện chỉ là một sự thông thái giả hiệu”.
Arix tốt đề cao vai trò của nhận thức cảm tính. Nó đem lại cho ta những hiểu
biết xác thực và sinh động về sự vật đơn nhất. Ông là người khởi xướng nguyên lý
tabula rasa ( nguyên lý tấm bảng sạch) – coi linh hồn con người khi mới sinh ra
hoàn toàn không có tri thức – đối lập với tư tưởng của Platon coi nhận thức là quá
trình hồi tưởng lại. Theo Aristotle nhận thức cảm tính là giai đoạn đầu tiên, là điểm
xuất phát của mọi quá trình nhận thức.
Tiếp sau là nhận thức kinh nghiệm, theo Aristotle đó là hàng chuỗi những
liên tưởng về cùng một sự vật hay nhóm các sự vật nhất định. Và cao hơn kinh
nghiệm là nhận thức nghệ thuật mà nền tảng của nó là thực tiễn của con người. Nó
đem lại nhưng tri thức mang tính khái quát hơn so với các dạng nhận thức trên.
Dạng nhận thức cao nhất đó là nhận thức khoa học, trong đó triết học là tối
cao. Nó là hoạt động trí tuệ đem lại cho chúng ta những tri thức lý luận có tính khái
quát cao. Dưới con mắt của Aristotle, khoa học là một hệ thống tri thức phức tạp.
Ông là người đầu tiên tìm cách phân loại các khoa học. Xuất phát từ luận điểm “
mọi sự duy diễn đều hướng tới hoặc là hoạt động, hoặc là sáng tạo, hoặc là tư
biện”. Sự phân loại các khoa học của ông tuy còn mang nặng tính thơ ngây và cảm
tính, nhưng công lao của Aristotle là ở chỗ ông là người đầu tiên khởi xướng vấn
đề phân loại các khoa học – điều vô cùng cần thiết trong sự phát triển của nhận
thức con người.
3. Logic học
Aristotle được xem là ông tổ của lôgic học – khoa học về tư duy và các quy
luật của nó. Ông là người đầu tiên đã trình bày hoàn chỉnh và có hệ thống những
quy luật cơ bản của tuy duy đúng đắn.
Những quy luật cơ bản của tuy duy lôgic bao gồm: quy luật đồng nhất ( A =
A), quy luật cấm mâu thuẫn (A # > A) và quy luật loại trừ cái thứ ba ( hoặc A,
hoặc > A). Từ đây, Arix tốt đã xây dựng nên tam đoạn luận nổi tiếng của mình
( nếu A thuộc B, B thuộc C, thì A thuộc C)

Ví dụ: Tất cả mọi người đều phải chết
Xôc rát là người
__________________________
Xôcrát cũng phải chết
Ngoài ra Arix tốt còn xây dựng lý thuyết chứng minh, đồng thời phân tích
các lỗi lôgic mà mọi người hay mắc phải. Và khẳng định rằng mọi lỗi lôgic là do
mọi người vạn dụng sai tam đoạn luận và các quy luật lôgic.
Lôgic học của Aristotle không chỉ giới hạn trong phạm vi hẹp như vậy mà
còn bao hàm cả học thuyết của ông về các phạm trù, thể hiện như là phương pháp
luận xuyên suốt mọi lĩnh vực thế giới quan của ông. Bản thân thượng đế, dưới con
mắt của Aristotle là một nhà lôgic lý tưởng. Arix tốt đã xây dựng nên hệ thống các
phạm trù như những hình thức của tư tưởng: 1) bản chất; 2) số lượng; 3) chất
lượng; 4) quan hệ; 5) vị trí; 6) thời gian; 7) tình trạng; 8) chiếm hữu; 9) hành động;
10) chịu đựng.
4. Vật lý học
Vật lý học được coi là “triết học thứ hai” (hay khoa học về giới tự nhiên)
được xây dựng trên nền tảng của “ triết học thứ nhất”. Mọi sự vật trong thế giới
chúng ta, theo Aristotle đều vận động và phát triển khôn ngừng. Vì thế, nghiên cứu
vận động là điều kiện cần thiết để hiểu giới tự nhiên. Chính “ sự thiếu hiểu biết về
vận dụng tất yếu sẽ kéo theo sự không hiểu biết về giới tự nhiên”. Coi vận động là
mọi sự biến đổi chung, Aristotle nhấn mạng rằng “ không thể có vận động bên
ngoài sự vật”.
Coi giới tự nhiên là sự thống nhất giữa hình dạng và vật chất, nhưng do sự
chưa triệt để duy vật trong quan niệm về vật chất và hình hạng nên Aristotle thừa
nhận tồn tại “hình dạng của hình dạng” như là động cơ đầu tiên. Nó tồn tại bên
ngoài thế giới và đóng vai trò như cái hích đầu tiên làm cho mọi vật vận động.
Từ những quan niệm vật lý trên, Aristotle xây dựng vũ trụ luận của mình.
Ông là người khởi xướng ra thuyết địa tâm coi trái đất là hình cầu, là trung tâm của
vũ trụ.
Theo Aristotle, vũ trụ là hữu hạn và khép kín về không gian và vĩnh viễn về

thời gian.
5. Nhân bản học
Nhân bản học là lĩnh vực đặc biệt quan trọng trong thế giới quan của
Aristotle. Ông thấy rằng: “nhận thức linh hồn con người thúc đẩy mạnh mẽ nhận
thức mọi chân lý, nhất là nhận thức giới tự nhiên”.
Aristotle cho rằng con người được cấu thành từ hình dạng và vật chất. Ông
phê phán quan niệm của Platon coi thể xác chỉ là chỗ trú tạm thời của linh hồn bất
diệt. Arix tốt khẳng định sự gắn bó hữu cơ giữa chúng, mặc dù ở con người thì linh
hồn đóng vai trò chủ đạo. Ông khẳng định: “ các trạng thái của linh hồn đều có cơ
sở trong vật chất”, và linh hồn là căn nguyên của sự sống.
Aristotle cho rằng tồn tại ba dạng linh hồn: 1) linh hồn thực vật với khả năng
tự nuôi dưỡng và sinh sản; 2) linh hồn động vật có khả năng cảm ứng với môi
trường xung quanh. Cả hai linh hồn này đều xếp là: “ linh hồn vật lý”, chúng gắn
bó hữu cơ và bị hủy cùng thể xác; 3) linh hồn lý tính là dạng cao nhất của linh hồn
và chỉ tồn tại ở người, đó là khả năng tư duy, trí tuệ của con người.
Ở đây, Aristotle hiểu linh hồn theo nghĩa khá rộng. Nó không chỉ dừng lại ở
các khả năng suy nghĩ hay cảm nhận của con người.
6. Học thuyết chính trị - xã hội
Theo Aristotle, con ngươi là một sinh vật xã hội. Bản tính của nó là sống
cộng đồng. Hình thức tổ chức cuộc sống cộng đồng đó trong một thể chế nhất định
được gọi là nhà nước. Nhà nước đem lại sinh khí cho mỗi gia đình, mỗi quần cư và
từng con người trong xã hội. Aristotle coi hình thức tổ chức gia đình kiểu chiếm
hữu nô lệ là hình thức sống cộng đồng tự nhiên và vĩnh viễn. Nhà nước ra đời trên
cơ sở gia đình. Thể chế chính trị là trật tự làm cơ sở để phân bố chính quyền nhà
nước. Thể chế chính trị điều hành và quản lý xã hội về ba phương diện: lập pháp,
hành chính và phân xử.
Aristotle ủng hộ nhà nước quân chủ, coi đó như là hình thức tổ chức nhà
nước thần thánh và ưu việt nhất. Ông phê phán mạnh mẽ chế độ bạo chúa, cho rằng
nó không phù hợp với bản chất của con người. Theo ông: “ Mục đích của nhà nước
là cuộc sống phúc lợi bản thân nhà nước là sự giao thiệp của các gia tộc và dân cư

nhằm đạt được sự tồn tại một cách hoàn thiện và tự lập”.
7. Đạo đức học
Aristotle xây dựng học thuyết về đạo đức của mình dựa vào tâm lý học. Theo ông
thì linh hồn con người được chia làm ba phần: lý tính thuần túy, lý tính thực tiễn,
phần khoái lạc ham muốn. Đức hạnh theo Aristotle là đức hạnh của hành vi đạo
đức. Nó không phải được tự nhiên ban cho con người một cách tự động, tự nhiên
chỉ cho con người khả năng có đức hạnh. Sự thông thái và trí tuệ của con người có
thể có được là do học tập, còn đạo đức có được là do giáo dục. Như vậy khác với
Xôcrát quan niệm đạo đức là do bẩm sinh mà có; Arix tốt cho rằng đức hạnh của
con người là kết quả của sự giáo dục. Ngoài ra Aristotle còn xem xét đạo đức
không chỉ ở hành vi con người mà căn cứ cả vào quyền của nó nữa. Con người chỉ
có thể được coi là có đầy đủ đức hạnh nếu anh ta cố gắng vương tới sự thông thái –
có nghĩa là trở thành nhà triết học. Và theo Arix tốt thì đức hạnh là khoảng giữa
thông thái của hai thái cực.
Ví dụ: Hào phóng là trạng thái giữa của hai thái cực: keo kiệt và hào phóng.
8. Thẩm mỹ học và những tư tưởng kinh tế học của Aristotle
- Thẩm mỹ học: Nghệ thuật được coi là toàn bộ hoạt động vật chất của con
người và sản phẩm của nó. “nghệ thuật nói, Aristotle nhấn mạnh – trong một số
trường hợp hoàn thành những cái mà giới tự nhiên không thể làm được, trong một
số trường hợp khác, mô phỏng”. Ông đặc biệt nhấn mạnh chức năng mô phỏng
theo giới tự nhiên của nghệ thuật.
Trong số các dạng nghệ thuật Aristotle đặc biệt đề cao thơ ca, coi đó là ngôn
ngữ nói chung. Nó bao hàm cả sử thi hài kịch, bi kịch mỗi dạng nghệ thuật có một
dạng và tính chất mô phỏng khác nhau.
- Kinh tế học: Aristotle có những quan điểm kinh tế học rất sâu sắc. C.Mác
dã gọi ông là nhà nghiên cứu vĩ đại, lần đầu tiên trong lịch sử đã hiểu được hình
thức giá trị của trao đổi. Aristotle cũng đã nghiên cứu những hiện tượng của đời
sống xã hội như: phân công lao động, hàng hóa, trao đổi, phân phối ông cũng đã
tìm ra mối liên hệ giữa trao đổi với phân công lao động, sự phân ra gia đình
nguyên thủy thành những gia đình nhỏ. Khi nghiên cứu trao đổi, Aristotle đã tiếp

cận đến hai hình thức sở hữu: tự nhiên và không tự nhiên; đồng thời cũng đoàn ra
một cách tài tình tính hai mặt của giá trị tư tưởng độc quyền và giá cả độc quyền
cũng đã xuất hiện trong học thuyết về kinh tế của ông.
Kết Luận: Aristotle là nhà bách khoa toàn thư, nhà triết học vĩ đại nhất thời
Hy Lạp – La Mã, là người tổng hợp một cách bao quát nhất, tổng kết nền triết học
trong thời Hy Lạp lúc bấy giờ. Hêghen đã nhận xét về những tác phẩm của ông: “
Bao chứa toàn bộ các quan niệm của con người, trí tuệ của Aristotle đề cập đến
mọi mặt và mọi lĩnh vực của thế giới hiện thực”. Mặc dù các quan niệm của ông
không nhất quán, dao động giữa lập trường duy vật và duy tâm, nhưng ông đã là
người đặt nền móng cho triết học châu Âu và thế giới, đồng thời còn là người mở
ra hướng nghiên cứu cho một loạt các khoa học xã hội và nhân văn chuyên ngành
như: chinh trị học, kinh tế học, đạo đức học, thẩm mỹ học, tâm lý học và đặc biệt
là khoa lôgic học hình thức cho đến ngày nay và sau này vẫn còn nguyên giá trị.
C.Mác đánh giá: “ Tư tưởng sâu sắc của Aristotle vạch ra những vấn đề trừu
tượng tế nhị nhất một cách đáng ngạc nhiên. Ông giống như người đi tìm kho
vàng, dù cho kho tài liệu sống bị chôn vùi bất cứ ở đâu dưới bụi rậm trong khe núi,
thì cái gậy hóa phép của Aristotle nhất định chỉ đúng vào nó”.
CHƯƠNG II:
TRIẾT HỌC ARISTOTLE -
NỀN MÓNG CỦA VĂN MINH PHƯƠNG TÂY HIỆN ĐẠI.

×