Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

TIỂU LUẬN SỰ TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT GIỮA TRIẾT HỌC HY LẠP CỔ ĐẠI VÀ TRIẾT HỌC ẤN ĐỘ CỔ ĐẠI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (280.12 KB, 28 trang )

GVHD
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HCM
KHOA ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
Đề tài:
SỰ TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT GIỮA
TRIẾT HỌC HY LẠP CỔ ĐẠI VÀ TRIẾT HỌC
ẤN ĐỘ CỔ ĐẠI
HVTH : ĐÀM HUY BẢNG
STT : 145
NHÓM : NHÓM 8
LỚP : CAO HỌC ĐÊM 1 - K20
GV : TS. BÙI VĂN MƯA
K20 – Đêm 1 - Nhóm 8 Trang 1
HCM, Tháng 5/2011
GVHD
LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Khi nhắc đến khởi nguyên tiềm tàng của nền triết học nhân loại
chúng ta không thể không nói đến hai nền triết học lớn của thế giới, đó
chính là triết học Hy Lạp cổ đại và Ấn Độ cổ đại. Có thể nói Hy Lạp cổ
đại và Ấn Độ cổ đại là những cái nôi của triết học thế giới, là khúc dạo
đầu cho một bản nhạc giao hưởng, bản hợp xướng của triết học, làm nền
tảng cho toàn bộ hệ thống triết học thế giới sau này. Nét nổi bật của triết
học Hy Lạp cổ đại là đã đặt ra hầu hết các vấn đề cơ bản của triết học mà
sau này các học thuyết triết học khác từng bước giải quyết theo nội dung
của thời đại mình Trong khi đó, triết học Ấn Độ cổ đại đã đặt ra và giải
quyết những vấn đề của tư duy triết học. Việc tìm hiểu sự tương đồng và
khác nhau của triết học Hy Lạp cổ đại và Ấn Độ cổ đại giúp chúng ta có
khái niệm gần như hoàn chỉnh về triết học phương Tây và triết học


phương Đông, những ảnh hưởng của nó đến thế giới nói chung và Việt
Nam nói riêng, từ đó chúng ta biết cách vận dụng những tinh hoa của hai
nền triết học này, nâng cao khả năng tư duy, nhận thức thế giới, con người
và xã hội.
2. Mục đích nghiên cứu::
Bài viết không chỉ nêu lên hoàn cảnh ra đời, đặc điểm, những tư
tưởng cùng những trường phái của hai nền triết học Hy Lạp cổ đại và Ấn
Độ cổ đại, mà mục đích chính của bài viết là làm rõ nét được những tương
đồng và khác biệt giữa hai nền triết học cổ đại này.
3. Phương pháp nghiên cứu:
Bài viết hình thành trên cơ sở phương pháp nghiên cứu lịch sử,
phương pháp phân tích tổng hợp và so sánh các nguồn tư liệu tham khảo
với nhau để có được kết quả chính xác nhất, tránh cách nhìn phiến diện.
K20 – Đêm 1 - Nhóm 8 Trang 2
GVHD
CHƯƠNG 1:
KHÁI QUÁT TRIẾT HỌC HY LẠP CỔ ĐẠI VÀ TRIẾT
HỌC ẤN ĐỘ CỔ ĐẠI
I. KHÁI QUÁT TRIẾT HỌC HY LẠP CỔ ĐẠI
1. Điều kiện lịch sử ra đời
Triết học Hy Lạp cổ đại ra đời trong bối cảnh diễn ra sự chuyển biến lâu
dài và sâu sắc các quan hệ xã hội. Đó là sự ra đời của xã hội có giai cấp đầu tiên
trong lịch sử - chế độ chiếm hữu nô lệ. Chế độ chiếm hữu nô lệ đã tạo ra cơ sở
cho sự phân hóa lao động và đề cao lao động trí óc, coi thường lao động chân
tay. Điều này thúc đẩy sự hình thành tầng lớp trí thức biết xây dựng và sử dụng
hiệu quả tư duy lý luận để nghiên cứu triết học và khoa học. Như vậy, có thể thấy
rằng sự ra đời của triết học Hy Lạp cổ đại là một tất yếu - đó là kết quả nội sinh
của cả một dân tộc, một thời đại.
2. Sự phát triển của triết học Hy Lạp cổ đại
Triết học Hy Lạp cổ đại trải qua 3 giai đọan: Giai đoạn hình thành, giai

đọan cực thịnh và giai đọan suy tàn. Trong đó sự đấu tranh giữa hai khuynh
hướng nhất nguyên duy vật và nhất nguyên duy tâm của giai đọan cực thịnh đã
để lại dấu ấn sâu đậm nhất trong lịch sử triết học Hy Lạp cổ đại.
3 Những đặc điểm cơ bản
- Thứ nhất: thể hiện thế giới quan, ý thức hệ và phương pháp luận của giai cấp
chủ nô thống trị.
K20 – Đêm 1 - Nhóm 8 Trang 3
GVHD
- Thứ hai: Có sự phân chia và sự đối lập rõ ràng giữa các trào lưu, trường phái
duy vật - duy tâm, vô thần - hữu thần và gắn liền với cuộc đấu tranh chính trị - tư
tưởng
- Thứ ba: đã xây dựng nên phép biện chứng chất phác. Các nhà triết học Hy Lạp
cổ là “những nhà biện chứng bẩm sinh”. Họ nghiên cứu và sử dụng phép biện
chứng để bảo vệ quan điểm triết học của mình, để tìm ra chân lý
- Thứ tư: gắn bó mật thiết với khoa học tự nhiên để tổng hợp mọi hiểu biết về các
lĩnh vực khác nhau, nhằm xây dựng một bức tranh về thế giới như một hình ảnh
chỉnh thể thống nhất mọi sự vật, hiện lại xảy ra trong nó.
- Thứ năm: coi trọng vấn đề về con người. Dù còn có nhiều bất đồng, song nhìn
chung, các triết gia đều khẳng định con người là tinh hoa cao quý nhất của tạo
hóa
4 Các tư tưởng, trường phái triết học
4.1 Chủ nghĩa duy vật:
4.1.1 Trường phái Milet: Đóng góp chính quan trọng nhất của trường phái
Milet này là đã được đặt nền móng cho sự hình thành các khái niệm đó như khái
niệm triết học để các triết gia sau này tiếp tục bổ sung và làm phong phú thêm
những khái niệm đó như khái niệm chất, không gian, sự đấu tranh giữa các mặt
đối lập
4.1.2 Trường phái Héraclite: Héraclite là nhà triết học đã nêu lên các phán
đoán thiên tài về quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập mà sau
này Marx đã đề cập và đi sâu. Phép biện chứng duy vật chất phác là đóng góp

của triết học Héraclite vào tư tưởng của nhân loại.
4.1.3 Trường phái đa nguyên Empédocle – Anaxago: Để giải thích tính đa
dạng của vạn vật trong thế giới theo tinh thần duy vật, Empédocle và Anaxago cố
K20 – Đêm 1 - Nhóm 8 Trang 4
GVHD
vượt qua quan niệm đơn nguyên sự phát minh của các trường phái Milet, trường
phái Héraclite, xây dựng quan niệm đa nguyên về bản chất của thế giới vật chất
đa dạng. Tuy nhiên quan điểm của họ cũng còn mang tính sơ khai, còn hạn chế.
4.1.4 Trường phái nguyên tử luận Leucippe – Démocrite: là một hệ thống
quan điểm duy vật đầy đủ, nhất quán, trường phái nguyên tử làm cho chủ nghĩa
duy vật đạt được đỉnh cao. Nó xung đột mạnh với chủ nghĩa duy tâm của Xocrat
Platong sau này.
 Quan điểm về nhận thức- đạo đức:
+ Quy nạp là phương pháp nhận thức đúng đắn
+ Hiểu biết là cơ sở của hành vi đạo đức. Sống có đạo đức là sống đúng mực, ôn
hoà, không hại mình, không hại người.
 Quan điểm về chính trị - xã hội:
+ XH tốt nhất được cai trị bởi nhà nước dân chủ chủ nô.
+ Quản lý nhà nước là một nghệ thuật mang lại hạnh phúc, vinh quang, tự do &
dân chủ cho con người.
4.2 Chủ nghĩa duy tâm:
4.2.1 Trường phái Pytago: Do ảnh hưởng của toán học, ông cho rằng “con số”
là bản nguyên của thế giới và là bản chất của vạn vật. Chính trường phái Pytago
đã đặc nền móng ban đầu cho trào lưu duy tâm thời cổ đại của triết học Hy Lạp.
4.2.2 Trường phái Êle: Do Xenophan thành lập trên tinh thần duy vật, nhưng
sau đó được Pacmenit phát triển theo hướng duy lý ngã về duy tâm
4.2.3 Trường phái duy tâm khách quan của Xocrat – Platong: do Xocrat đặt
nền móng và Platong, học trò của ông hoàn thiện:
K20 – Đêm 1 - Nhóm 8 Trang 5
GVHD

+ Xocrat: Xuất phát từ đạo đức học duy lý, ông cho rằng, hiểu biết là cơ sở của
điều thiện, ngu dốt là cội nguồn của cái ác; chỉ có cái thiện mới là cơ sở của đạo
đức, tiêu chuẩn của đức hạnh.
+ Platong: xây dựng chủ nghĩa duy tâm khách quan với nội dung chính là “thuyết
ý niệm”, với giá trị bên trong là phép biện chứng của khái niệm và nhiều tư
tưởng sâu sắc khác về đạo đức, chính trị, xã hội.Quan điểm chính trị - xã hội của
Platong đầy mâu thuẫn và bảo thủ. Ông vừa đòi hỏi xóa bỏ tư hữu, lại vừa đòi
bảo vệ chế độ đẳng cấp và sự bất bình đẳng trong xã hội; vừa kêu gọi xây dựng
nhà nước cộng hòa lý tưởng, lại vừa bảo vệ địa vị và lợi ích của chủ nô quý tộc.
4.2.4 Triết học nhị nguyên của Arixtốt: Arixtốt là người tổng kết Triết học Hy
Lạp cổ đại, người đặt nền móng vững chắc cho chủ nghĩa duy lý, góp phần thúc
đẩy lý trí Hy Lạp nẩy nở, khoa học, văn minh phương Tây phát triển.
 Quan niệm về sinh thể, con người, linh hồn & nhận thức:
+ Sinh thể (cả con người) đều có thể xác & linh hồn
+ Con người là sinh thể có lý trí, luôn khát vọng nhận thức, bản chất con người
sinh ra là để nhận thức.
+ Nhận thức là hoạt động bản tính của linh hồn, nhưng khi con người mới sinh
ra, linh hồn như một tấm bảng trắng.
 Quan điểm về đạo đức, chính trị - xã hội:
+ XH tốt nhất phải dựa trên chế độ cộng hoà quý tộc, do chủ nô trung lưu lãnh
đạo.
+ Công bằng trong trao đổi sản phẩm là nền tảng của công bằng XH & bình đẳng
giữa các cá nhân…
K20 – Đêm 1 - Nhóm 8 Trang 6
GVHD
+ Lý trí, lẽ phải là cơ sở của điều thiện, là nền tảng của phẩm hạnh
II. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TRIẾT HỌC ẤN ĐỘ CỔ ĐẠI
1. Điều kiện ra đời
1.1 Điều kiện kinh tế - xã hội:
Xã hội Ấn Độ cổ đại là xã hội mang tính chất công xã nông thôn, toàn bộ

ruộng đất thuộc quyền sở hữu của Nhà nước, sự phân chia đẳng cấp hết sức khắc
nghiệt. Xã hội có 4 đẳng cấp lớn: Tăng lữ (Bà la môn), Đẳng cấp quý tộc, Đẳng
cấp bình dân tự do, Đẳng cấp nô lệ. Xã hội Ấn Độ có nhiều tôn giáo: Đạo Ấn
(Thờ bò) (HinDu), Đạo Hồi (không ăn thịt heo), Đạo Thiên chúa, Đạo Cơ Đốc.
1.2 Điều kiện về khoa học và văn hóa:
- Về tri thức khoa học, người Ấn Độ đã có những tri thức rất sớm và phong phú
về nhiều lĩnh vực như: thiên văn, lịch pháp, toàn học, y học, nông nghiệp, kiến
trúc…
- Nền văn hóa Ấn Độ mang đậm nét tín ngưỡng, tôn giáo, tâm linh có pha trộn sự
thần bí.
2. Sự hình thành và phát triển của tư tưởng triết học Ấn Độ cổ đại
- Triết học thời kỳ Véđa (khoảng thế kỷ XV đến VIII TCN): Thời kỳ này tập
trung phản ánh ước vọng của người dân thường như mong mưa thuận gió hòa,
mong có thức ăn, có gia súc ; đồng thời phản ánh một tín ngưỡng ma thuật và
đa thần giáo, chưa có những khái quát triết học. Tuy nhiên qua các tập Véđa đã
thể hiện sự phát triển của tư duy trừu tượng trong đó người ta đã thừa nhận một
nguyên lý vũ trụ với sức mạnh vô hạn, biểu hiện ra trong thiên nhiên, trong tinh
thần và các nghi lễ.
K20 – Đêm 1 - Nhóm 8 Trang 7
GVHD
- Triết học thời kỳ cổ điển hay thời kỳ Bàlamôn – Phật giáo (khoảng thế kỷ VI
TCN đến thế kỷ VI): Được hình thành và phát triển trong truyền thống Vêđa
nhưng các trường phái triết học Ấn Độ lại sung đột lẫn nhau.
3. Đặc điểm của triết học Ấn Độ cổ đại
- Thứ nhất, triết học Ấn độ cổ đại phát triển rất phong phú nhưng không mang
tính cách mạng; các nhà triết học thường kế tục mà không gạt bỏ hệ thống triết
học có trước, không đặt cho mình nhiệm vụ phải sáng tạo ra một hệ thống triết
học mới. Điều đó phản ánh sự trì trệ của xã hội Ấn độ cổ đại.
- Thứ hai, triết học Ấn độ cổ đại gắn bó chặt chẽ với tôn giáo, trên cơ sở tín
ngưỡng tôn giáo hình thành nên các hệ thống triết học - tôn giáo.

- Thứ ba, các hệ thống triết học - tôn giáo ở Ấn độ cổ đại đều quan tâm tới vấn
đề nhân sinh quan, đặc biệt là vấn đề luân hồi, nghiệp báo.
4. Các trường phái triết học Ấn Độ cổ đại
4.1. Tư tưởng triết học trong Upanisát: Sự xuất hiện của Upanishad đánh dấu
bước chuyển tiếp từ thế giới quan thần thoại tôn giáo sang tư duy triết học. Tư
tưởng đó được thể hiện trong các vấn đề chủ yếu sau: Brátman (đại ngã), Átman
(tiểu ngã), Giải thoát và thực trạng giải thoát.
4.2 Trường phái triết học chính thống: Trường phái Vêđanta. Samkhya,
Yoga, Mimansa, Nyaya, Vaisêsika
- Nguyên nhân dẫn đến sự luân hồi của mỗi cá nhân là vì linh hồn cá biệt nơi mỗi
người thường bị những ham muốn dục vọng che lấp, nên linh hồn rơi vào vòng
ám muội của thế giới vật chất, thường biến, hữu hình, hữu hạn, không giữ được
bản lai thanh tịnh của mình.
- Theo trường phái này, không thể giải thoát bằng cách lễ bái, tích lũy khổ hạnh
hay tin tưởng vào sự cứu rõi của đấng tối cao. Đối với họ, phương pháp đưa đến
K20 – Đêm 1 - Nhóm 8 Trang 8
GVHD
sự giải thoát là phải chế dục theo pháp Yoga, diệt trừ nghiệp lực và phải thấu triệt
sáu nguyên lý tạo thành vũ trụ. Nếu thực hiện được như thế thì linh hồn cá biệt
mới đạt đến sự giải thoát hoàn toàn.
4.3 Hệ thống triết học không chính thống
- Triết phái Jaina (Kỳ na giáo): Trường phái này mang đượm màu sắc tôn giáo,
ra đời vào khoảng thế kỷ VI trước công nguyên.
- Triết phái Lokayata (hay còn gọi là Carvaka): Triết học Lokayata mang tính
duy vật chủ nghĩa và vô thần tương đối triệt để, nhưng chỉ tồn tại trong một thời
gian tương đối ngắn. Nó được trình bày trong chính kinh Veda, trong các sử thi
và cả trong kinh sách của Phật giáo. Thuyết ấy tuyên bố rằng chỉ có thể biết là
hiện hữu những gì ta tri giác được. Không có thế giới bên kia: chết là hết. Niềm
tin vào những cái như thế bị xem là tưởng tượng kỳ quái. Không có bằng chứng
hợp lý luận cho tính khả thi của cái không thể thấy; không thể dùng sự suy ra như

một nguồn có giá trị của tri thức mới vì không thể chứng minh nó một cách vô
điều kiện.
- Triết phái Budđhsam (Phật giáo): Là một trường phái triết học tôn giáo lớn
của Ấn Độ cố đại. Những tư tưởng cơ bản của triết học Phật giáo Ấn độ cổ đại
được thể hiện: thế giới quan (phản ánh trong ba pham trù: vô ngã, vô thường,
duyên khởi) & nhân sinh quan tập trung vào tứ diệu ( 4 chân lý tuyệt diệu): khổ
đế, nhân đế, diệt đế, đạo đế.
K20 – Đêm 1 - Nhóm 8 Trang 9
GVHD
CHƯƠNG 2
SO SÁNH TRIẾT HỌC HY LẠP CỔ ĐẠI & ẤN ĐỘ CỔ ĐẠI
I. SỰ TƯƠNG ĐỒNG CỦA TRIẾT HỌC ẤN ĐỘ CỔ ĐẠI VÀ TRIẾT HỌC
HỌC HY LẠP CỔ ĐẠI
1. Tư tưởng triết học chịu sự tác động từ điều kiện tự nhiên, lịch sử, xã hội
Ở thời kỳ cổ đại, mặc dù có điều kiện tự nhiên và lịch sử không giống
nhau nhưng cả nền Triết học Hy Lạp và Ấn Độ đều dựa trên những thành tựu ở
các lĩnh vực văn hóa, gắn bó mật thiết với khoa học tự nhiên để xây dựng một
bức tranh tổng thể về thế giới, và do đó đều ảnh hưởng sâu sắc đến tư tưởng và
sự phát triển của Triết học. Bên cạnh đó, cả hai nền Triết học này cùng ra đời
trong bối cảnh xã hội có sự phân chia giai cấp rất khắc nghiệt, đặc biệt là sự đàn
áp tàn khốc đối với tầng lớp nô lệ.
• Tại Hy Lạp, Các nhà triết học cổ đại đã tổng hợp mọi hiểu biết về các lĩnh
vực khác nhau để xây dựng thế giới quan tổng thể và biến triết học thành "khoa
học của các khoa học". Như Ph.Ăngghen nhận xét “Không có chế độ nô lệ thì
không có quốc gia Hy Lạp, không có nghệ thuật và khoa học Hy Lạp; không có
chế độ nô lệ thì không có đế quốc La Mã mà không có cái cơ sở là nền văn minh
Hy Lạp và đế quốc La Mã thì không có Châu Âu hiện đại được”.
• Tại Ấn độ, với nhiều cách thức am hiểu và liên hệ với thế giới, triết học
Ấn Ðộ là một kho tàng chứa đựng các ý tưởng được bảo lưu một cách rộng rãi.
Trong đó một số ý tưởng này cổ đại hơn một số ý tưởng khác tới cả ngàn năm.

2. Tương đồng trong xem xét nguồn gốc thế giới tự nhiên, sự ra đời của vạn
vật
K20 – Đêm 1 - Nhóm 8 Trang 10
GVHD
Mặc dù triết học thời kỳ này vẫn chưa tách rời được yếu tố thần linh ra
khỏi ý thức của con người. Nhưng khi nghiên cứu về con người và đạo đức nhân
sinh quan, các nhà triết học vẫn đặt vai trò của con người lên hàng đầu.
2.1 Hai nền triết học đều có những trường phái chịu ảnh hưởng của thần
thánh, tôn giáo. Quan điểm là linh hồn con người tồn tại và trải qua luân
hồi. Thế giới tự nhiên là do thần thánh sáng tạo, sắp xếp, có nguồn gốc thần
bí.
• Hy Lạp: Trường phái duy tâm của Pytago coi linh hồn tồn tại bất tử, độc
lập với thể xác và chịu luân hồi. Trường phái Xôcrát-Platông cho rằng hiện tượng
tự nhiên do thần thánh sáng tạo và an bài. Ý niệm của Platông là lý tính, tồn tại
trên trời, chân thực tuyệt đối. Thế giới sự vật là sự sao chép của ý niệm, sinh ra từ
ý niệm, do thần Tạo hóa mô phỏng từ ý niệm. Linh hồn vũ trụ là thần linh, tồn tại
dưới dạng các tinh tú, và chỉ được nhận thức bằng linh hồn vũ trụ của con người.
Con người bao gồm thể xác khả tử và linh hồn bất tử.
• Ấn Độ: Trường phái Upanisat với khái niệm đại ngã, tiểu ngã dựa trên ý
niệm thần thánh hóa căn nguyên vạn vật, xem đại ngã là linh hồn vũ trụ, sinh ra
vạn vật, tiểu ngã là linh hồn con người, biểu hiện cụ thể của đại ngã, chịu luân
hồi báo ứng. Đến trường phái Vêđanta tiếp tục thừa nhận sự tồn tại của đại ngã
và tiểu ngã, khuyến khích giải thoát tiểu ngã khỏi vây hãm thể xác, quay về với
đại ngã.
2.2 Hai nền triết học đều có những trường phái cho rằng thế giới tạo thành
từ vật chất, không tồn tại thần thánh.
• Ấn Độ:
- Trường phái Nyaga, Vaisêsika có thuyết nguyên tử luận, cho rằng thế giới
vật chất được cấu thành từ các nguyên tử kết hợp lại.
- Phái Lokayata xem sự vật kết thành bởi tứ đại bao gồm đất, nước, gió, lửa.

K20 – Đêm 1 - Nhóm 8 Trang 11
GVHD
• Hy Lạp:
- Trường phái duy vật cho rằng khởi nguyên vũ trụ hình thành bởi các yếu tố
vật chất. Talet cho rằng nước là khởi nguyên của sự vật. Heraclit cho rằng lửa
tạo ra van vật. Êmpêđốc nhận định vạn vật tạo bởi đất nước, không khí, kết
hợp với lực tình yêu và hận thù.
- Thuyết nguyên tử luận của Lơxíp – Đêmôcrit nhận định vũ trụ được cấu
thành từ nguyên tử và chân không. Nguyên tử tụ lại hình thành sự vật, tan rã
thì sự vật mất. Không có thần thánh sáng tạo ra sự vật.
3. Tương đồng trong nhận thức, thế giới quan duy vật và vô thần có tính
biện chứng sâu sắc.
• Hy Lạp: Trường phái duy vật cho rằng khởi nguyên vũ trụ hình thành bởi
các yếu tố vật chất. Talet cho rằng nước là khởi nguyên của sự vật. Heraclit
cho rằng lửa tạo ra van vật. Êmpêđốc nhận định vạn vật tạo bởi đất nước,
không khí, kết hợp với lực tình yêu và hận thù.
• Ấn Độ: Nhận thức luận của Nyaga thừa nhận đối tượng nhận thức tồn tại
khách quan cần phải tìm tòi thông qua bốn phương thức là cảm giác, kết luận,
tương tự và bằng chứng. Phái Nyaga và Vaisêsika đều xây dựng những
phương thức logic học.
4. Ấn độ và Hy Lạp cổ đại có cả hai trường phái duy vật và duy tâm:
• Ấn Độ:
- Duy vật : Gaimini,Gotama,Kanada,
- Duy tâm : Upanisad(bratman,atman)
K20 – Đêm 1 - Nhóm 8 Trang 12
GVHD
• Hy Lạp:
- Duy vật : Talet,Anaximen,Hecraclit,Democrit,…
- Duy tâm : Pitago,Pacmenic,Xocrat ,Platong,…
5. Tương đồng trong mối quan tâm về con người và đều tìm cách đem lại

cho con người cuộc sống hạnh phúc:
Trải qua nhiều thời kỳ phát triển, cá trường phái triết học đều nghiên cứu
về vai trò của con người và tự nhiên, mỗi thời kỳ có một sự quan tâm khác biệt
nhưng cùng tô màu vẽ sắc cho các nền triết ấy. Vì vậy, đây chính là nền tảng,
tiền đề cho sự phát triển của 2 nền triết học này trong các giai đoạn sau.
• Ấn Độ: giải quyết các vấn đề thuộc lĩnh vực nhân sinh (bản chất, ý nghĩa
cuộc sống, nguồn gốc nỗi khổ).
• Hy Lạp: Tìm hiểu, lí giải quan hệ linh hồn – thể xác, đời sống đạo đức,
chính trị, xã hội của con người.
6. Bên cạnh những ưu điểm, hai nền triết học Hy Lạp và Ấn Độ cổ đại đều
chưa rõ ràng, chưa hệ thống hóa và giải thích được nguồn gốc, tính chất vai
trò của phạm trù đối với nhận thức và hoạt động thực tiễn.
7. Cả hai nền triết học đều đề cao lao động trí óc đã thúc đẩy hình thành
tầng lớp tri thức, họ đã sử dụng tư duy lý luận để nghiên cứu thế giới và xây
dựng nền triết học và khoa học đồ sộ, sâu sắc.
8. Trong quá trình nhận thức, suy tư triết lý, đôi khi đã đạt tới ý tưởng siêu
thực, vượt qua tầm suy nghĩ, nhận thức giác quan đạt tới những phán đoán
siêu hình về sự tồn tại.
K20 – Đêm 1 - Nhóm 8 Trang 13
GVHD
II. SỰ KHÁC BIỆT GIỮA TRIẾT HỌC ẤN ĐỘ CỔ ĐẠI VÀ TRIẾT HỌC
HY LẠP CỔ ĐẠI
1. Triết học Ấn Độ cổ đại
1.1 Triết học có sự đan xen với tôn giáo:
Nét nổi bật của văn hóa Ấn Độ cổ đại là mang dấu ấn sâu đậm về tín
ngưỡng tôn giáo. Giữa triết học và tôn giáo rất khó phân biệt. Tư tưởng triết học
ẩn giấu sau các lễ nghi huyền bí, chân lý thể hiện qua các bộ kinh Vêđa,
Upanisát.
Ấn Độ cổ đại phát triển qua 3 thời kỳ với hai hệ thống triết học, là hệ
thống chính thống và hệ thống không chính thống dựa trên cơ sở thái độ đối với

kinh Vêđa. Thực tế kinh Vêđa không phải là thiên khải, cũng không do một nhân
vật nào đó sáng tác. Nó là một bộ sách thâu lượm tất cả các câu ca dao, vịnh phú
về sự giàu đẹp, hùng vĩ của thiên nhiên Ấn Độ, về những tập tục nghi lễ, quan
điểm tư tưởng và những bài thánh ca cầu nguyện các đấng thần linh của người
Arya.
Người Ấn Độ cổ tin và giải thích rằng trong vũ trụ tồn tại đồng thời 3 thế
lực liên quan nhau là thần linh, con người và ác quỷ ứng với 3 cõi vũ trụ bao la là
thiên giới, trần thế và địa ngục. Họ đã phân tích các hiện tượng tự nhiên và lý
giải chúng qua biểu tượng của thế giới thần linh phong phú, chia nhau chi phối
sự biến hóa của vũ trụ vạn vật theo sự điều khiển của nguyên lý rita (chân xác,
thích hợp, trật tự vận hành vũ trụ), “Toàn thể vũ trụ được thành lập trên nguyên
lý rita và vận hành trong nó”.
Do đó, người Ấn Độ cổ đại rất sùng bái, tín ngưỡng, cầu nguyện và hiến
tế. Triết học của họ đề cao tầng lớp tăng lữ “ Vì sự phồn vinh của thế giới mà từ
mồm, tay, đùi và bàn chân mình, Ngài (Bratman) đã tạo ra tăng lữ, quý tộc, bình
dân tự do và nô lệ”, “Do sinh ra từ bộ phận cao quý nhất của Bratman, do sinh ra
K20 – Đêm 1 - Nhóm 8 Trang 14
GVHD
sớm nhất, do hiểu biết Vêđa mà tăng lữ có quyền làm chúa tể của các tạo vật ấy”
(Luật Manu).
Tôn giáo Ấn Độ cổ đại có xu hướng “hướng nội”, đi sâu tìm hiểu đời sống
tâm linh, tinh thần để phát hiện ra sức mạnh của linh hồn cá nhân con người.
Triết học Ấn Độ cổ đại coi linh hồn vũ trụ là thực tại tinh thần tối cao, là bản
chất, là nguồn sống vĩnh hằng, là cội nguồn chi phối mọi sự sinh thành và hủy
diệt của mọi cái trong thế giới, còn linh hồn cá nhân bị vây hãm, rang buộc bởi
những ham muốn nhục dục của thể xác. Con người phải dốc lòng tu luyện, chiêm
nghiệm tâm linh để nhận ra bản tính thần thánh của mình mà quay về với linh
hồn vũ trụ. Vì vậy, triết học Ấn Độ cổ đại mang nặng tính chất duy tâm, chủ
quan, thần bí.
Xuất phát từ những đòi hỏi và hiện thực xã hội, các nhà triết học Ấn Độ

cổ đại là những nhà hiền triết, nhà tôn giáo, nhà giáo dục, đạo đức, chính trị - xã
hội, thiên về cải tạo thế giới, giải thoát chúng sinh ra khỏi điều kiện tự nhiên,
kinh tế, xã hội khắc nghiệt.
1.2 Triết học có sự đan xen giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm,
giữa phép biện chứng và phép siêu hình:
Do chịu ảnh hưởng bởi tinh thần Vêđa mà triết học Ấn Độ cổ đại không
thể phân chia rõ ràng thành chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm, phép biện
chứng và phép siêu hình mà chủ yếu được chia thành hệ thống chính thống và hệ
thống không chính thống. Trong các trường phái triết học cụ thể luôn có sự đan
xen giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm, giữa phép biện chứng và phép
siêu hình.
Chẳng hạn như những nhà tư tưởng của phái Samkhya sơ kỳ bộc lộ những
tư tưởng có tính duy vật chứa ít nhiều biện chứng về bản nguyên hiện hữu. Họ
đưa ra học thuyết về sự tồn tại của kết quả trong nguyên nhân trước khi nó xuất
hiện và học thuyết về sự chuyển hóa thực tế của nguyên nhân trong kết quả. Họ
K20 – Đêm 1 - Nhóm 8 Trang 15
GVHD
cho rằng loại nào có nguyên nhân của loại đó “Trồng Sali được Sali, trồng Vrihi
được Vrihi”. Từ đó mà trong quan niệm về sự hình thành sự vật, họ cho rằng nếu
vạn vật của thế giới này là vật chất thì yếu tố tạo nên vạn vật với tính cách là
nguyên nhân cũng là vật chất, đó là “vật chất đầu tiên” (Prakriti) một dạng vật
chất tiềm ẩn, không hình dạng, không giới hạn, không thể nhận biết được bằng
cảm tính. Thế giới vật chất là thể thống nhất của ba yếu tố: Sativa (nhẹ nhàng,
thuần khiết), razas (tích cực, năng động), tamas (nặng, ỳ). Khi ba yếu tố trên ở
trạng thái cân bằng thì Prakriti ở trạng thái chưa biểu hiện, tức là trạng thái không
thể trực quan được. Nhưng khi sự cân bằng bị phá vỡ thì sự sinh thành vạn vật
của vũ trụ khởi đầu.
Ngược lại, các nhà tư tưởng của phái Samkhya hậu kỳ lại có khuynh
hướng nhị nguyên luận khi thừa nhận sự tồn tại song song của hai yếu tố đầu tiên
là vật chất (Prakriti) và tinh thần (Purusa). Yếu tố tinh thần (Purasa) mang tính

phổ quát, vĩnh hằng, bất biến, nó truyền sinh khí, năng lượng và biến hóa vào yếu
tố vật chất ở con người. Khi tinh thần chiếu rọi vào Sativa thì sinh ra trí tuệ, khi
tinh thần chiếu rọi vào razas thì sinh ra vận động, khi tinh thần chiếu rọi vào
tamas thì sinh ra hình thể.
Còn các nhà triết học Mimansa dựa vào tư tưởng triết học - tôn giáo của
Vêđa, nhưng coi Vêđa như các tập công thức hay thần chú về nghi lễ. Mimansa
sơ kỳ không thừa nhận sự tồn tại của thần. Theo Sabara thì chúng ta thiếu chứng
cứ về sự tồn tại của thần và cảm giác không nhận thức được thần. Nhưng cảm
giác lại được coi là nguồn gốc của mọi tri thức khác. Phái Mimansa không phản
đối việc coi thần linh như cái tên hay âm thanh cần thiết cho các câu thần chú của
nghi lễ. Nghi lễ không phải là hành động khẩn cầu, sùng bái thần linh, mà nghi lễ
tự nó có sức mạnh, có thể đưa lại hiệu quả. Họ hiểu nghi lễ như một hành động
ma thuật. Tuy nhiên, tinh thần duy vật và vô thần của phái Mimansa không được
tiếp tục phát triển. Những nhà triết học Mimansa hậu kỳ đã thừa nhận sự tồn tại
của thần.
K20 – Đêm 1 - Nhóm 8 Trang 16
GVHD
Về nguồn gốc thế giới, phái Mimansa có quan điểm duy vật cho rằng thế
giới được sinh ra từ các nguyên tử. Khi giải quyết mối quan hệ giữa tinh thần với
thể xác, họ lại đứng trên lập trường duy tâm coi tinh thần tồn tại mãi mãi, còn thể
xác thì mất đi.
Qua đó có thể thấy, trong triết học Ấn Độ cổ đại phân chia các trường phái
triết học chỉ có tính đại thể, còn khi đi sâu vào những nội dung cụ thể thì có mặt
duy vật, có mặt duy tâm, sơ kỳ là duy vật thì hậu kỳ là nhị nguyên hay duy tâm.
Điều đó thể hiện rõ sự thiếu nhất quán trong thế giới quan, sự thiếu triệt để của
triết học vì phân kỳ lịch sử trong các xã hội Ấn Độ không mạch lạc như phương
Tây.
1.3 Triết học Ấn Độ cổ đại lấy nhân sinh quan làm gốc, đặc biệt là vấn đề
luân hồi, nghiệp báo, sau đó mới là vũ trụ quan, bản thể luận:
Triết học Ấn Độ cổ đại đã đặt ra nhiều vấn đề thuộc về lĩnh vực nhân sinh

(bản chất, ý nghĩa đời sống, nguồn gốc nổi khổ của con người) nhằm tìm kiếm
phương tiện, con đường, cách thức giải thoát chúng sinh ra khỏi điều kiện tự
nhiên và kinh tế - xã hội khắc nghiệt mà không thấy mối quan hệ giữa con người
trong lao động sản xuất.
Upanishad bàn tới vấn đề "luân hồi", "nghiệp báo". Vì Atman "linh hồn"
tồn tại trong thể xác con người trần tục nên ý thức con người lầm tưởng rằng
"linh hồn" đó khác với "linh hồn vũ trụ" bất tử. Những cảm giác, ham muốn dục
vọng và hành động của con người nhằm thỏa mãn những ham muốn đó trong đời
sống trần tục đã gây ra những hậu quả, gieo đau khổ ở kiếp này và cả kiếp sau,
gọi là "nghiệp báo" (Karma). Do vậy, linh hồn bất tử cứ bị giam hãm vào hết thể
xác này đến thể xác khác, bị che lấp, ràng buộc bởi thế giới hiện tượng như ảo
ảnh, gọi là sự "luân hồi" (Samsara), không nhận ra và không trở về đồng nhất với
chân bản của mình là Brahman được.
K20 – Đêm 1 - Nhóm 8 Trang 17
GVHD
Muốn giải thoát linh hồn bất tử khỏi vòng vây hãm của luân hồi, nghiệp
báo để đạt tới đồng nhất với "Tinh thần vũ trụ tối cao" tuyệt đối thì con người
phải dốc lòng toàn tâm tu luyện hành động và tu luyện tri thức. Bằng nhận thức
trực giác, thực nghiệm tâm linh, con người mới nhận ra chân bản của mình, khi
đó linh hồn bất tử mới đồng nhất được với "linh hồn vũ trụ tối cao" và bắt đầu
"siêu thoát" (moksa).
Thừa nhận quan niệm "Luân hồi" và "Nghiệp báo" trong Upanishad, Phật
giáo đặc biệt chú trọng triết lý nhân sinh, đặt mục tiêu tìm kiếm sự giải thoát cho
chúng sinh khỏi vòng luân hồi, nghiệp báo để đạt tới trạng thái tồn tại Niết bàn
(Nirvana). Từ sự lý giải về căn nguyên nỗi khổ của con người, Thích Ca Mâu Ni
đã đưa ra thuyết "Tứ diệu đế" và " Thập nhị nhân duyên" để giải thoát chúng sinh
ra khỏi mọi nỗi khổ và kiếp nghiệp báo, luân hồi. Thuyết “tứ diệu đế” là cốt lõi
của quan niệm nhân sinh quan của Phật giáo.
Từ đó cho thấy xu hướng cơ bản trong triết học Ấn Độ cổ đại là quan tâm
giải quyết các vấn đề nhân sinh dưới gốc độ tâm linh tôn giáo với xu hướng

“hướng nội”. Có thể nói sự phản tỉnh nhân sinh là một nét trội và là ưu thế của
nhiều học thuyết triết học Ấn Độ cổ đại.
1.4 Triết học Ấn Độ cổ đại nhấn mạnh sự thống nhất trong mối quan hệ giữa
con người và vũ trụ theo nguyên tắc “thiên nhân hợp nhất”:
Các nhà triết học Ấn Độ cổ đại cho rằng muốn nhận thức tốt thì phải hòa
hợp giữa chủ thể và khách thể với nhau.
Upanisát cho rằng “tinh thần vũ trụ tối cao” Brátman là thực thể cao nhất,
có trước nhất, tồn tại vĩnh viễn, bất diệt, là cái từ đó tất cả thế giới đều nảy sinh
ra và nhập về với nó sau khi chết, là khách thể. Còn Atman là tinh thần con
người, là tiểu ngã, là cái có thể mô hình hóa, là chủ thể, và chẳng qua chỉ là linh
hồn vũ trụ cư trú trong con người mà thôi. Linh hồn con người “Átman” chỉ là sự
biểu hiện, là một bộ phận của “Brátman”.
K20 – Đêm 1 - Nhóm 8 Trang 18
GVHD
Rig Vêđa đã suy tư về quan hệ giữa thế giới vĩ mô và vi mô, quan hệ giữa
tự nhiên và con người. Rig Vêđa không phân chia con người và tự nhiên thành
chủ thể và khách thể mà đồng nhất con người và tự nhiên.
Tư tưởng triết học cốt lõi của trường phái Yôga là sự thừa nhận nguyên lý
hợp nhất của vũ trụ nơi mỗi cá thể, thông qua các phương pháp Yôga mà mỗi cá
thể có thể tập luyện để khai thác được sức mạnh vũ trụ tiềm ẩn trong mình để làm
chủ mình, tiến tới làm chủ môi trường, và sau cùng là vươn đến sự giải thoát.
Từ thế giới quan triết học “thiên nhân hợp nhất” là cơ sở quyết định nhiều
đặc điểm khác của triết học Ấn Độ cổ đại như: lấy con người làm đối tượng
nghiên cứu chủ yếu – tính chất hướng nội, hay nghiên cứu thế giới cũng để làm
rõ con người và vấn đề bản thể luận trong triết học Ấn Độ trong triết học Ấn Độ
cổ đại bị mờ nhạt.
Về vấn đề con người, triết học Ấn Độ cổ đại đặt trọng tâm nghiên cứu mối
quan hệ giữa người với đời sống tâm linh ít quan tâm tới mặt sinh vật của con
người, chỉ quan tâm giải quyết các vấn đề thuộc về lĩnh vực nhân sinh quan (bản
chất, ý nghĩa, đời sống, nguồn gốc, nổi khổ của con người” gắn liền với quan

điểm tôn giáo nhằm tìm kiếm con đường, phương tiện, cách thức giải thoát con
người, mà không thấy mối quan hệ giữa con người trong lao động sản xuất.
1.5 Triết học Ấn Độ cổ đại ngã về dung trực giác
Trường phái Mimansa coi cảm giác là nguồn gốc duy nhất của nhận thức.
Nhận thức trong triết học Ấn Độ bắt đầu từ luân lý đạo đức, nhận thức gắn liền
với đạo đức. Trong nhận thức, triết học Ấn Độ đề cao việc tự nhận thức, tự hiểu.
Điều này quy định tính chất trực nhận, trực giác trong triết học Ấn Độ. Từ đó,
một lôgíc kéo theo là công cụ, phương tiện nhận thức lại nghiêng về ẩn dụ, hình
ảnh.
K20 – Đêm 1 - Nhóm 8 Trang 19
GVHD
1.6 Triết học Ấn Độ cổ đại thường tôn trọng và có khuynh hướng phục cổ,
không có những bước nhảy vọt về chất
Triết học Ấn Độ ít thấy có những bước nhảy vọt về chất mà chỉ là sự phát
triển cục bộ, kế tiếp xen kẽ. Nội dung có phát triển nhưng chỉ là sự phát triển cục
bộ, thêm bớt hay đi sâu vào từng chi tiết, xuất phát từ tinh thần Vêđa chia ra làm
hai hệ thống: hệ thống chính thống ủng hộ tinh thần Vêđa và trường phái không
chính thống phản đối lại tinh thần Vêđa.
Các nhà triết học ở các thời đại chỉ giới hạn mình trong khuôn khổ ủng hộ,
bảo vệ quan điểm hay một hệ thống nào đó để hoàn thiện và phát triển nó hơn là
vạch ra những sai lầm và không đặt ra mục đích tạo ra thứ triết học mới. Do vậy
nó không mâu thuẫn với các học thuyết đã được đặt nền móng từ ban đầu, không
phủ định nhau hoàn toàn và dẫn đến cuộc đấu tranh trong các trường phái không
gay gắt và cũng không triệt để. Có tình trạng đó chính là do chế độ phong kiến
kéo dài quá lâu và bảo thủ, kết cấu kinh tế, giai cấp trong xã hội đan xen, cộng
sinh bên nhau.
2. Triết học Hy Lạp cổ đại
2.1 Triết học gắn bó mật thiết với khoa học tự nhiên:
Triết học Hy Lạp cổ đại gắn bó mật thiết với khoa học tự nhiên để tổng
hợp mọi hiểu biết về các lĩnh vực khác nhau nhằm xây dựng bức tranh về thế giới

như một hình ảnh chỉnh thể thống nhất mọi sự vật, hiện tượng xảy ra trong nó.
Do trình độ tư duy lý luận còn thấp, nên khoa học tự nhiên chưa đạt tới trình độ
mổ xẻ, phân tích tự nhiên để đi sâu vào bản chất sự vật, mà nó nghiên cứu tự
nhiên trong tổng thể để dựng nên bức tranh tổng quát về thế giới. Vì vậy, các nhà
triết học đồng thời là các nhà khoa học tự nhiên, họ quan sát trực tiếp các hiện
tượng tự nhiên để rút ra những kết luận triết học.
K20 – Đêm 1 - Nhóm 8 Trang 20
GVHD
Sự xuất hiện của những trí thức khoa học và triết học trong thời kỳ này đã
tạo nên một bước ngoặc lớn về nhận thức của con người, phá vỡ ý thức hệ thần
thoại và tôn giáo nguyên thuỷ. Xuất phát từ nhu cầu thực tiễn của nền sản xuất,
những tri thức về khoa học tự nhiên phát triển mạnh, được trình bày trong hệ
thống triết học - tự nhiên của các nhà triết học cổ đại, bên cạnh đó, khoa học thời
bấy giờ chưa phân ngành nên các nhà triết học đồng thời cũng là các nhà Toán
học, nhà Vật lý học như Talét, Pytago, Ácximét, Ơclít, Từ các yếu tố đó có thể
khẳng định rằng, triết học Hy Lạp cổ đại ngay từ khi ra đời đã có sự gắn bó với
nhu cầu thực tiễn và gắn với khoa học.
Hy Lạp cho rằng triết học là sự ham hiểu biết, yêu thích sự thông thái
(philosophia). Triết học được coi như “người mẹ” của các ngành khoa học, “triết
học là khoa học của mọi khoa học”. Triết học mang lại cho chúng ta năng lực
hiểu biết, “người mẹ” đó nuôi “con” bằng tư duy lý luận, vì nếu không có tư duy
lý luận nhà khoa học không thể trở thành nhà khoa học đúng nghĩa.
2.2 Triết học có sự phân chia và đối lập rõ ràng giữa các trào lưu, trường
phái duy vật – duy tâm, vô thần – hữu thần
Triết học Hy Lạp cổ đại đã giải quyết các vấn đề cơ bản của triết học và
chia ra thành các trường phái khác nhau: trường phái nhất nguyên (duy vật, duy
tâm) và trường phái nhị nguyên, thậm chí còn chia ra những nhà vô thần và hữu
thần, gắn liền với cuộc đấu tranh chính trị tư tưởng, trong đó điển hình là cuộc
đấu tranh giữa trào lưu triết học duy vật của Đêmôcrit và trào lưu triết học duy
tâm của Platông. Hai học thuyết đó ảnh hưởng sâu đậm đến đời sống phương

Tây. Có thể nói triết học Hy Lạp cổ đại rất nhất quán, kiên định một quan điểm,
một lập trường.
Ba nhà triết học duy vật thuộc trường phái Mi-lê (tên một đô thị cổ Hy
Lạp) là Talét, Anaximăngđrơ và Anaximen cho rằng có những thực thể vật chất
đầu tiên, vĩnh viễn vận động tạo ra mọi vật trên thế giới. Theo Talét đó là nước,
K20 – Đêm 1 - Nhóm 8 Trang 21
GVHD
theo Anaximăngđrơ đó là một thực thể vô định và vô hạn, theo Anaximen đó là
không khí. Hêraclít không thuộc trường phái nói trên, ông cũng cho rằng bản
nguyên của vũ trụ là lửa, lửa thông qua sự đấu tranh giữa các mặt đối lập mà sinh
ra vạn vật.
Ngược lại, một số nhà triết học thuộc trường phái Êlê (tên một đô thị cổ ở
miền nam nước Ý) như Xênôphan, Pácmênít, Dênông và trường phái Pitago lại
có những quan điểm duy tâm, siêu hình về nguồn gốc vũ trụ. Họ cho rằng, thế
giới là một tồn tại bất động và bất biến (trường phái Êlê), con số là bản nguyên
của vũ trụ (trường phái Pitago).
Đối lập lại chủ nghĩa duy vật là chủ nghĩa duy tâm khách quan của Platôn.
Ông là đại biểu lớn nhất của chủ nghĩa duy tâm thời cổ đại Hy Lạp. Ông đã xây
dựng học thuyết về ý niệm để chống lại chủ nghĩa duy vật. Theo ông, giới tự
nhiên bắt nguồn từ ý niệm.
Dao động giữa đường lối duy vật của Đêmôcrít và đường lối duy tâm của
Platôn là Arixtốt. Ông là một nhà triết học lớn, bộ óc bách khoa thời cổ đại Hy
Lạp - La Mã, nhưng là một nhà triết học không triệt để. Một mặt, ông bác bỏ
thuyết ý niệm của Platôn; mặt khác ông lại chủ trương hình thức là bản chất của
mọi sự vật, mà hình thức của mọi hình thức là tư duy (hình thức thuần tuý).
Cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm trong lịch sử
triết học Hy Lạp-La Mã cổ đại chứng tỏ rằng, ngay từ đầu, lịch sử triết học là lịch
sử đấu tranh giữa hai thế giới quan, hai phương pháp luận đối lập nhau. Cuộc đấu
tranh ấy phản ánh lợi ích của những tầng lớp, những giai cấp khác nhau trong xã
hội có giai cấp đối kháng.

2.3 Triết học Hy Lạp cổ đại đi từ thế giới quan, vũ trụ quan, bản thể luận…
từ đó xây dựng nhân sinh quan con người
K20 – Đêm 1 - Nhóm 8 Trang 22
GVHD
Các nhà triết học Hy Lạp đầu tiên có khuynh hướng chung là suy tư về
bản chất và khởi thuỷ của thế giới. Họ lấy một thực thể bản nguyên tượng trưng
làm nguồn gốc của tất cả mọi vật. Chẳng hạn đối với Talet đó là nước, đối với
Anaximăngđrơ đó là cái vô hạn bất định, đối với Anaxago đó là tinh thần. Pytago
tìm cái chìa khoá phổ quát của hiện thực trong các con số, Pacmênic cho rằng
bản chất của thực thể nằm trong tồn tại; Lơxip và Đêmôcrit phỏng đoán mọi sự
vật đều được tạo thành từ những nguyên tử, là những phần tử nhỏ nhất, không
thể phân chia được nữa và số lượng của chúng là vô hạn. Hêraclit đưa ra quan
niệm mọi sự vật của thế giới luôn thay đổi, sự kết hợp của các yếu tố vật chất là
vô hạn, vì vậy cái bất biến trong thế giới chỉ có thể được thừa nhận chính là sự
biến đổi, chuyển hoá vĩnh hằng đó.
Từ thế giới quan, các nhà triết học Hy Lạp cổ đại mới đi đến vấn đề nhân
sinh quan, đạo đức, xã hội. Các nhà ngụy biện thì thiên về cá nhân hơn, đã nhiệt
thành với việc giáo dục các nhà lãnh đạo, những người sẽ gây ảnh hưởng xã hội
và sử dụng xã hội như là phương tiện để đạt các mục đích riêng của mình Mỗi
con người là thước đo sự vật cho mình, không phải chỉ sự vật được nhận thức,
mà cả sự vật thuộc thiện, ác trong xã hội. Platông và Xôcrat chống lại "chủ nghĩa
cá nhân" và "chủ nghĩa tương đối" cực đoan này của các nhà ngụy biện. Con
người, thước đo sự vật, không phải là cá nhân riêng biệt mà là phổ quát. Cấu trúc
xã hội và cấu trúc linh hồn (hay tự ngã) của con người phản ảnh lẫn nhau và phụ
thuộc lẫn nhau. Bản chất của con người là lý trí và được tìm thấy trong một xã
hội được xếp đặt theo trật tự duy lý. Cái tư tưởng hiện đại cho rằng cá nhân
không thể tách khỏi xã hội và "nhân tính" là hình thành do xã hội và phát triển
trong xã hội, tư tưởng đó không lớn mạnh trong tư tưởng Hy Lạp Xôcrat và
Platông thì chỉ rõ xã hội là sự phóng rọi của bản chất con người trên tấm vải thô
lớn, hay là sự phản ánh được khuếch đại của bản chất con người. Con người chỉ

thực sự sống trong xã hội, không thể sống ngoài xã hội Arixtốt, một nhà duy
lý, chấp nhận các nguyên lý chính yếu của Platông “Con người không thể là con
người nếu không có xã hội "
K20 – Đêm 1 - Nhóm 8 Trang 23
GVHD
2.4 Các nhà triết học Hy Lạp cổ đại tách chủ thể với khách thể để nhận xét
khách quan
Các nhà triết học Hy Lạp đã nhấn mạnh tách con người ra khỏi vũ trụ, coi
con người là chủ thể để nghiên cứu, chinh phục vũ trụ - thế giới khách quan. Đặt
trọng tâm nghiên cứu vào thế giới – tính chất hướng ngoại; còn vấn đề con người
chỉ được nghiên cứu để giải thích thế giới mà thôi. Cho nên triết học Hy Lạp cổ
đại thể hiện đậm nét về bản thể luận của vũ trụ.
Platông đã chia thế giới thành thế giới ý niệm (lý tính, tồn tại trên trời,
mang tính phổ biến, chân thực tuyệt đối, bất biến, vĩnh hằng, duy nhất…) và thế
giới sự vật (cảm tính, tồn tại dưới đất, mang tính cá biệt, ảo giả, tương đối, khả
biến, thoáng qua, đa tạp…). Bằng thuyết ý niệm này, ông đã lý giải sự sinh thành
của thế giới sự vật, con người và hoạt động của linh hồn…
2.5 Triết học Hy Lạp ngã về tư duy duy lý
Triết học Hy Lạp ngã về tư duy duy lý, phân tích mổ xẻ. Thế mạnh của
Hy Lạp là khoa học, kỹ thuật và nhận thức luôn hướng đến nhận thức cái chân
lý vô hạn cùng. mãi đến chân lý qua hàng loạt những trừu tượng, khái niệm, quy
luật của Triết học Hy Lạp, đi gần toàn thể vũ trụ, liên tiếp đi từ cấp độ bản chất
thấp đến mức độ bản chất cao hơn cũng do vậy họ có xu hướng cô lập hoá,
cách ly hoá, làm mất đi tính tổng thể.
Triết học Hy Lạp nghiêng về sự đấu tranh và vận động, phát triển theo
hướng đi lên. Một nét nữa của triết học Hy Lạp thiên về hướng ngoại, chủ động,
tư duy lý luận, đấu tranh sống còn, hiếu chiến, cạnh tranh, bành trướng, cá thể,
phân tích, tri thức suy luận, khoa học, tư duy cơ giới, chú ý nhiều đến thực thể
2.6 Triết học Hy Lạp cổ đại có sự đấu tranh giữa các trường phái mang tính
chất quyết liệt, triệt để, có sự phát triển về chất khá rõ rệt

K20 – Đêm 1 - Nhóm 8 Trang 24
GVHD
Triết học Hy Lạp thay đổi theo hướng nhảy vọt về chất, nên càng tiến hoá
càng phong phú hơn, xa rời gốc ban đầu. Thậm chí có xu hướng cái sau phủ định
hoàn toàn cái ở giai đoạn trước.
Mặc dù là học trò của Platông, nhưng Arixtốt đứng trên quan điểm duy vật
tiến bộ phê phán thuyết ý niệm của Platông. Về mặt bản thể luận, ông cho rằng
việc Platông chia thế giới thành thế giới ý niệm và thế giới sự vật là hoàn toàn
thiếu cơ sở. Về mặt nhận thức luận, ông bác bỏ hoàn toàn quan niệm Platông cho
rằng ý niệm là cái có trước và độc lập so với sự vật, theo Arixtốt điều này là vô
dụng ngược đời. Theo ông, bản chất phải nằm ngay bên trong sự vật và phải
được nhận thức của con người khái quát thành cái chung dưới dạng khái niệm,
quy luật, phạm trù. Khái niệm, quy luật, phạm trù không phải là cái có trước, sinh
ra và quyết định sự tồn tại của sự vật mà ngược lại sự tồn tại sự vật được phản
ánh trong khái niệm, quy luật, phạm trù của nhận thức.
Ở mỗi giai đoạn, mỗi thời kỳ, bên cạnh các trường phái cũ lại có những
trường phái mới ra đời có tính chất vạch thời đại như thời cố đại bên cạnh trường
phái Talét, Hêraclit đến Đêmôcrit. Lịch sử triết học Hy Lạp cổ đại có thể chia
làm ba thời kỳ. Xuyên suốt ba thời kỳ ấy là cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy
vật và chủ nghĩa duy tâm mà đỉnh cao là cuộc đấu tranh giữa đường lối duy vật
của Đêmôcrít và đường lối duy tâm của Platông.
Theo khuynh hướng duy vật. Empêđốc cho rằng, bản nguyên của vũ trụ
không phải chỉ là một thực thể riêng biệt (như trường phái Milê) mà gồm 4 thực
thể: đất, nước, lửa, không khí. Anaxago lại cho rằng, mọi vật đều được cấu tạo từ
hạt cực nhỏ nhờ quá trình phân giải và đồng nhất của chúng. Đạt tới đỉnh cao
nhất của chủ nghĩa duy vật thời kì này là học thuyết về nguyên tử của Đêmôcrít.
Theo ông, tất cả mọi vật đều được cấu thành từ những nguyên tử. Nguyên tử là
những phần tử vật chất nhỏ nhất, không thể phân chia được, chúng vĩnh viễn vận
động, không có điểm kết thúc.
K20 – Đêm 1 - Nhóm 8 Trang 25

×