Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

TIỂU LUẬN SỰ TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT GIỮA TRIẾT HỌC HY LẠP CỔ ĐẠI VÀ TRIẾT HỌC ẤN ĐỘ CỔ ĐẠI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (305.35 KB, 27 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HCM
KHOA ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
Đề tài:
SỰ TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT GIỮA
TRIẾT HỌC HY LẠP CỔ ĐẠI VÀ TRIẾT HỌC
ẤN ĐỘ CỔ ĐẠI
HVTH : TRƯƠNG MINH NGỌC
STT : 69
NHÓM : NHÓM 8
LỚP : CAO HỌC ĐÊM 1 - K20
GV : TS. BÙI VĂN MƯA
HCM, Tháng 5/2011
MỤC LỤC
Chương 1: Khái quát về triết học Hy Lạp cổ đại và Ấn Độ cổ đại ……… 1
1.1. Khái quát chung về triết học Hy Lạp cổ đại Error: Reference source not
found
1.1.1. Điều kiện lịch sử ra đời Error: Reference source not found
1.1.2. Sự phát triển của triết học Hy Lạp cổ đại Error: Reference source not
found
1.1.3. Những đặc điểm cơ bản của triết học Hy Lạp cổ đại Error: Reference
source not found
1.1.4. Các tư tưởng, trường phái triết học Error: Reference source not found
1.1.4.1. Chủ nghĩa duy vật Error: Reference source not found
1.1.4.2. Chủ nghĩa duy tâm Error: Reference source not found
1.2. Khái quát chung về triết học Ấn Độ cổ đại Error: Reference source not
found
1.2.1. Điều kiện ra đời Error: Reference source not found
1.2.2. Sự hình thành và phát triển của tư tưởng triết học Ấn Độ cổ đại Error:
Reference source not found


1.2.3. Đặc điểm của triết học Ấn Độ cổ đại Error: Reference source not found
1.2.4. Các trường phái triết học Error: Reference source not found
1.2.4.1. Tư tưởng triết học trong UpanisatError: Reference source not found
1.2.4.2. Hệ thống triết học chính thống Error: Reference source not found
1.2.4.3. Hệ thống triết học không chính thống Error: Reference source not
found
Chương 2: So sánh triết học Hy Lạp cổ đại và Ấn Độ cổ đại…………… 8
2.1. Sự tương đồng giữa triết học Ấn Độ cổ đại và Hy Lạp cổ đại Error:
Reference source not found
2.1.1. Đều chịu sự ảnh tác động của điều kiện tự nhiên, lịch sử và xã hội Error:
Reference source not found
2.1.2. Tương đồng khi xem xét nguồn gốc thế giới tự nhiên và sự ra đời vạn
vật Error: Reference source not found
2.1.3. Tương đồng khi nhận thức thế giới quan duy vật và vô thần có tính biện
chứng sâu sắc Error: Reference source not found
2.1.4.Triết học Ấn Độ và Hy Lập có cả hai trường phái duy tâm và duy vật
Error: Reference source not found
2.1.5. Tương đồng trong mối quan tâm về con người và đều tìm cách đem lại
cho con người cuộc sống hạnh phúc Error: Reference source not found
2.1.6. Một số điểm tương đồng khác Error: Reference source not found
2.2.Sự khác biệt giữa triết học Ấn Độ cổ đại và Hy Lạp cổ
đại…………… Error: Reference source not found
Tài liệu tham khảo
LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Khi nhắc đến khởi nguyên tiềm tàng của nền triết học nhân loại chúng ta
không thể không nói đến hai nền triết học lớn của thế giới, đó chính là triết học
Hy Lạp cổ đại và Ấn Độ cổ đại. Có thể nói Hy Lạp cổ đại và Ấn Độ cổ đại là
những cái nôi của triết học thế giới, là khúc dạo đầu cho một bản nhạc giao
hưởng, bản hợp xướng của triết học, làm nền tảng cho toàn bộ hệ thống triết học

thế giới sau này. Nét nổi bật của triết học Hy Lạp cổ đại là đã đặt ra hầu hết các
vấn đề cơ bản của triết học mà sau này các học thuyết triết học khác từng bước
giải quyết theo nội dung của thời đại mình Trong khi đó, triết học Ấn Độ cổ đại
đã đặt ra và giải quyết những vấn đề của tư duy triết học. Việc tìm hiểu sự tương
đồng và khác nhau của triết học Hy Lạp cổ đại và Ấn Độ cổ đại giúp chúng ta có
khái niệm gần như hoàn chỉnh về triết học phương Tây và triết học phương
Đông, những ảnh hưởng của nó đến thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng, từ
đó chúng ta biết cách vận dụng những tinh hoa của hai nền triết học này, nâng
cao khả năng tư duy, nhận thức thế giới, con người và xã hội.
2. Mục đích nghiên cứu::
Bài viết không chỉ nêu lên hoàn cảnh ra đời, đặc điểm, những tư tưởng cùng
những trường phái của hai nền triết học Hy Lạp cổ đại và Ấn Độ cổ đại, mà mục
đích chính của bài viết là làm rõ nét được những tương đồng và khác biệt giữa
hai nền triết học cổ đại này.
3. Phương pháp nghiên cứu:
Bài viết hình thành trên cơ sở phương pháp nghiên cứu lịch sử, phương
pháp phân tích tổng hợp và so sánh các nguồn tư liệu tham khảo với nhau để có
được kết quả chính xác nhất, tránh cách nhìn phiến diện.
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TRIẾT HỌC
HY LẠP CỔ ĐẠI VÀ ẤN ĐỘ CỔ ĐẠI
1.1. Khái quát chung về triết học Hy Lạp cổ đại
1.1.1. Điều kiện lịch sử ra đời
Triết học Hy Lạp cổ đại ra đời trong bối cảnh diễn ra sự chuyển biến lâu dài
và sâu sắc các quan hệ xã hội. Đó là sự ra đời của xã hội có giai cấp đầu tiên
trong lịch sử - chế độ chiếm hữu nô lệ. Chế độ chiếm hữu nô lệ đã tạo ra cơ sở
cho sự phân hóa lao động và đề cao lao động trí óc, coi thường lao động chân
tay. Điều này thúc đẩy sự hình thành tầng lớp trí thức biết xây dựng và sử dụng
hiệu quả tư duy lý luận để nghiên cứu triết học và khoa học. Như vậy, có thể thấy
rằng sự ra đời của triết học Hy Lạp cổ đại là một tất yếu - đó là kết quả nội sinh
của cả một dân tộc, một thời đại.

1.1.2. Sự phát triển của triết học Hy Lạp cổ đại
Triết học Hy Lạp cổ đại trải qua 3 giai đọan: Giai đoạn hình thành, giai
đọan cực thịnh và giai đọan suy tàn. Trong đó sự đấu tranh giữa hai khuynh
hướng nhất nguyên duy vật và nhất nguyên duy tâm của giai đọan cực thịnh đã
để lại dấu ấn sâu đậm nhất trong lịch sử triết học Hy Lạp cổ đại.
1.1.3. Những đặc điểm cơ bản
Thứ nhất: thể hiện thế giới quan, ý thức hệ và phương pháp luận của giai
cấp chủ nô thống trị.
Thứ hai: Có sự phân chia và sự đối lập rõ ràng giữa các trào lưu, trường
phái duy vật - duy tâm, vô thần - hữu thần và gắn liền với cuộc đấu tranh chính
trị - tư tưởng
Thứ ba: đã xây dựng nên phép biện chứng chất phác.Các nhà triết học Hy
Lạp cổ là “những nhà biện chứng bẩm sinh”. Họ nghiên cứu và sử dụng phép
biện chứng để bảo vệ quan điểm triết học của mình, để tìm ra chân lý
Thứ tư: gắn bó mật thiết với khoa học tự nhiên để tổng hợp mọi hiểu biết về
các lĩnh vực khác nhau, nhằm xây dựng một bức tranh về thế giới như một hình
ảnh chỉnh thể thống nhất mọi sự vật, hiện lại xảy ra trong nó.
Thứ năm: coi trọng vấn đề về con người. Dù còn có nhiều bất đồng, song
nhìn chung, các triết gia đều khẳng định con người là tinh hoa cao quý nhất của
tạo hóa
1.1.4. Các tư tưởng, trường phái triết học
1.1.4.1. Chủ nghĩa duy vật:
Trường phái Milet: Đóng góp chính quan trọng nhất của trường phái Milet
này là đã được đặt nền móng cho sự hình thành các khái niệm đó như khái niệm
triết học để các triết gia sau này tiếp tục bổ sung và làm phong phú thêm những
khái niệm đó như khái niệm chất, không gian, sự đấu tranh giữa các mặt đối lập.
Trường phái Héraclite: Héraclite là nhà triết học đã nêu lên các phán đoán
thiên tài về quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập mà sau này
Marx đã đề cập và đi sâu. Phép biện chứng duy vật chất phác là đóng góp của
triết học Héraclite vào tư tưởng của nhân loại.

Trường phái đa nguyên Empédocle – Anaxago: Để giải thích tính đa
dạng của vạn vật trong thế giới theo tinh thần duy vật, Empédocle và Anaxago cố
vượt qua quan niệm đơn nguyên sự phát minh của các trường phái Milet, trường
phái Héraclite, xây dựng quan niệm đa nguyên về bản chất của thế giới vật chất
đa dạng. Tuy nhiên quan điểm của họ cũng còn mang tính sơ khai, còn hạn chế.
Trường phái nguyên tử luận Leucippe – Démocrite: là một hệ thống
quan điểm duy vật đầy đủ, nhất quán, trường phái nguyên tử làm cho chủ nghĩa
duy vật đạt được đỉnh cao. Nó xung đột mạnh với chủ nghĩa duy tâm của Xocrat
Platong sau này.
Quan điểm về nhận thức- đạo đức:
+ Quy nạp là phương pháp nhận thức đúng đắn
+ Hiểu biết là cơ sở của hành vi đạo đức. Sống có đạo đức là sống đúng
mực, ôn hoà, không hại mình, không hại người.
Quan điểm về chính trị - xã hội:
+ XH tốt nhất được cai trị bởi nhà nước dân chủ chủ nô
+ Quản lý nhà nước là một nghệ thuật mang lại hạnh phúc, vinh quang, tự
do & dân chủ cho con người.
1.1.4.2. Chủ nghĩa duy tâm:
Trường phái Pytago: Do ảnh hưởng của toán học ông cho rằng “con số” là
bản nguyên của thế giới, là bản chất của vạn vật. Chính trường phái Pytago đã
đặc nền móng ban đầu cho trào lưu duy tâm thời cổ đại của triết học Hy Lạp.
Trường phái Êle: Do Xenophan thành lập trên tinh thần duy vật, nhưng
sau đó được Pacmenit phát triển theo hướng duy lý ngả về duy tâm
Trường phái duy tâm khách quan của Xocrat – Platong: do Xocrat đặt
nền móng và Platong, học trò của ông hoàn thiện
+ Xocrat: Xuất phát từ đạo đức học duy lý, ông cho rằng, hiểu biết là cơ sở
của điều thiện, ngu dốt là cội nguồn của cái ác; chỉ có cái thiện mới là cơ sở của
đạo đức, tiêu chuẩn của đức hạnh.
+ Platong: xây dựng chủ nghĩa duy tâm khách quan với nội dung chính là
“thuyết ý niệm”, với giá trị bên trong là phép biện chứng của khái niệm và nhiều

tư tưởng sâu sắc khác về đạo đức, chính trị, xã hội.Quan điểm chính trị - xã hội
của Platong đầy mâu thuẫn và bảo thủ. Ông vừa đòi hỏi xóa bỏ tư hữu, lại vừa
đòi bảo vệ chế độ đẳng cấp và sự bất bình đẳng trong xã hội; vừa kêu gọi xây
dựng nhà nước cộng hòa lý tưởng, lại vừa bảo vệ địa vị và lợi ích của chủ nô quý
tộc.
Triết học nhị nguyên của Arixtốt: Arixtốt là người tổng kết Triết học Hy
Lạp cổ đại, người đặt nền móng vững chắc cho chủ nghĩa duy lý, góp phần thúc
đẩy lý trí Hy Lạp nẩy nở, khoa học, văn minh phương Tây phát triển.
Quan niệm về sinh thể, con người, linh hồn & nhận thức:
- Sinh thể (cả con người) đều có thể xác & linh hồn
- Con người là sinh thể có lý trí, luôn khát vọng nhận thức, bản chất con
người sinh ra là để nhận thức.
- Nhận thức là hoạt động bản tính của linh hồn, nhưng khi con người mới
sinh ra, linh hồn như một tấm bảng trắng.
Quan điểm về đạo đức, chính trị - xã hội:
- XH tốt nhất phải dựa trên chế độ cộng hoà quý tộc, do chủ nô trung lưu
lãnh đạo.
- Công bằng trong trao đổi sản phẩm là nền tảng của công bằng XH & bình
đẳng giữa các cá nhân…
- Lý trí, lẽ phải là cơ sở của điều thiện, là nền tảng của phẩm hạnh
1.2. Khái quát chung về triết học Ấn Độ cổ đại
1.2.1. Điều kiện ra đời
Điều kiện kinh tế - xã hội:
Xã hội Ấn Độ cổ đại là xã hội mang tính chất công xã nông thôn, toàn bộ ruộng
đất thuộc quyền sở hữu của Nhà nước, sự phân chia đẳng cấp hết sức khắc
nghiệt. Xã hội có 4 đẳng cấp lớn: Tăng lữ (Bà la môn), Đẳng cấp quý tộc, Đẳng
cấp bình dân tự do, Đẳng cấp nô lệ. Xã hội Ấn Độ có nhiều tôn giáo: Đạo Ấn
(Thờ bò) (HinDu), Đạo Hồi (không ăn thịt heo), Đạo Thiên chúa, Đạo Cơ Đốc
Điều kiện về khoa học và văn hóa:
- Về tri thức khoa học, người Ấn Độ đã có những tri thức rất sớm và phong

phú về nhiều lĩnh vực như: thiên văn, lịch pháp, toàn học, y học, nông nghiệp,
kiến trúc…
- Nền văn hóa Ấn Độ mang đậm nét tín ngưỡng, tôn giáo, tâm linh có pha
trộn sự thần bí.
1.2.2. Sự hình thành và phát triển của tư tưởng triết học Ấn Độ cổ
Triết học thời kỳ Véđa (khoảng thế kỷ XV đến VIII TCN): thời kỳ này tập
trung phản ánh ước vọng của người dân thường như mong mưa thuận gió hòa,
mong có thức ăn, có gia súc ; đồng thời phản ánh một tín ngưỡng ma thuật và
đa thần giáo, chưa có những khái quát triết học. Tuy nhiên qua các tập Véđa đã
thể hiện sự phát triển của tư duy trừu tượng trong đó người ta đã thừa nhận một
nguyên lý vũ trụ với sức mạnh vô hạn, biểu hiện ra trong thiên nhiên, trong tinh
thần và các nghi lễ.
Triết học thời kỳ cổ điển hay thời kỳ Bàlamôn – Phật giáo (khoảng thế kỷ
VI TCN đến thế kỷ VI): được hình thành và phát triển trong truyền thống Vêđa
nhưng các trường phái triết học Ấn Độ lại sung đột lẫn nhau
1.2.3. Đặc điểm của triết học Ấn Độ cổ đại
Thứ nhất, triết học ấn độ cổ đại phát triển rất phong phú nhưng không
mang tính cách mạng; các nhà triết học thường kế tục mà không gạt bỏ hệ thống
triết học có trước, không đặt cho mình nhiệm vụ phải sáng tạo ra một hệ thống
triết học mới. Điều đó phản ánh sự trì trệ của xã hội ấn độ cổ đại
Thứ hai, triết học ấn độ cổ đại gắn bó chặt chẽ với tôn giáo, trên cơ sở tín
ngưỡng tôn giáo hình thành nên các hệ thống triết học - tôn giáo.
Thứ ba, các hệ thống triết học - tôn giáo ở ấn độ cổ đại đều quan tâm tới
vấn đề nhân sinh quan, đặc biệt là vấn đề luân hồi, nghiệp báo.
1.2.4. Các trường phái triết học Ấn Độ cổ đại
1.2.4.1. Tư tưởng triết học trong Upanisát: Sự xuất hiện của Upanishad đánh
dấu bước chuyển tiếp từ thế giới quan thần thoại tôn giáo sang tư duy triết học.
Tư tưởng đó được thể hiện trong các vấn đề chủ yếu sau: Brátman (đại ngã),
Átman (tiểu ngã), Giải thoát và thực trạng giải thoát.
1.2.4.2. Hệ thống triết học chính thống

Bao gồm trường phái Vêđanta. Samkhya, Yoga, Mimansa, Nyaya,
Vaisêsika
- Nguyên nhân dẫn đến sự luân hồi của mỗi cá nhân là vì linh hồn cá biệt
nơi mỗi người thường bị những ham muốn dục vọng che lấp, nên linh hồn rơi
vào vòng ám muội của thế giới vật chất, thường biến, hữu hình, hữu hạn, không
giữ được bản lai thanh tịnh của mình.
- Theo trường phái này, không thể giải thoát bằng cách lễ bái, tích lũy khổ
hạnh hay tin tưởng vào sự cứu rõi của đấng tối cao. Đối với họ, phương pháp đưa
đến sự giải thoát là phải chế dục theo pháp Yoga, diệt trừ nghiệp lực và phải thấu
triệt sáu nguyên lý tạo thành vũ trụ. Nếu thực hiện được như thế thì linh hồn cá
biệt mới đạt đến sự giải thoát hoàn toàn
1.2.4.3. Hệ thống triết học không chính thống
Bao gồm 3 trường phái là Jaina, Lokayata và Buddhsam
- Triết phái Jaina (Kỳ na giáo): Trường phái này mang đượm màu sắc tôn
giáo, ra đời vào khoảng thế kỷ VI trước công nguyên.
- Triết phái Lokayata (hay còn gọi là Carvaka): Triết học Lokayata mang
tính duy vật chủ nghĩa và vô thần tương đối triệt để, nhưng chỉ tồn tại trong một
thời gian tương đối ngắn Nó được trình bày trong chính kinh Veda, trong các sử
thi và cả trong kinh sách của Phật giáo. Thuyết ấy tuyên bố rằng chỉ có thể biết là
hiện hữu những gì ta tri giác được. Không có thế giới bên kia: chết là hết. Niềm
tin vào những cái như thế bị xem là tưởng tượng kỳ quái. Không có bằng chứng
hợp lý luận cho tính khả thi của cái không thể thấy; không thể dùng sự suy ra như
một nguồn có giá trị của tri thức mới vì không thể chứng minh nó một cách vô
điều kiện.
- Triết phái Budđhsam (Phật giáo): Là một trường phái triết học tôn giáo
lớn của Ấn Độ cố đại. Những tư tưởng cơ bản của triết học Phật giáo Ấn độ cổ
đại được thể hiện: thế giới quan (phản ánh trong ba pham trù : vô ngã, vô thường,
duyên khởi ) & nhân sinh quan tập trung vào tứ diệu ( 4 chân lý tuyệt diệu): khổ
đế, nhân đế, diệt đế, đạo đế.
CHƯƠNG 2: SO SÁNH TRIẾT HỌC HY LẠP CỔ ĐẠI

VÀ ẤN ĐỘ CỔ ĐẠI
2.1. Sự tương đồng giữa triết học Ấn Độ cổ đại và Hy Lạp cổ đại
2.1.1. Đều chịu sự ảnh tác động của điều kiện tự nhiên, lịch sử và xã hội
Triết học Hy Lạp cổ đại và Ấn độ cổ đại cùng ra đời dựa trên những thành
tựu rực rỡ của các lĩnh vực văn hóa và khoa học tự nhiên, gắn bó mật thiết với
khoa học tự nhiên để tổng hợp mọi hiểu biết về các lĩnh vựa khác nhau, nhằm
xây dựng một bức tranh về thế giới như một hình ảnh chỉnh thế thống nhất. Tuy
Ấn Độ và Hy Lạp cố đại có điền kiện tự nhiên và lịch sử không giống nhau
nhưng tất cả điều ảnh hưởng sâu sắc đến tư tưởng và sự phát triển của Triết học.
Bên cạnh đó, cả hai nền Triết học này cùng ra đời trong bối cảnh xã hội có sự
phân chia giai cấp rất khắc nghiệt, đặc biệt là sự đàn áp tàm khốc đối với tầng lớp
nô lệ. Tại Hy Lạp, Ph.Ăngghen nhận xét: “Không có chế độ nô lệ thì không có
quốc gia Hy Lạp, không có nghệ thuật và khoa học Hy Lạp, không có chế độ nô
lệ thì không có đế quốc La Mã mà không có cái cơ sở là nền văn minh Hy Lạp và
đế quốc La Mã thì không có Châu Âu hiện đại được”. Trong khi Ấn độ cũng trải
qua rất nhiều thời kỳ bị xâm lăng bởi nhiều quốc gia và các dân tộc, tạo nên sự
da dạng của đủ loại hình tôn giáo, từ mê tín sâu sắc, với những lý thuyết trái
ngược nhau và các vị thánh, khất sĩ, ẩn sĩ, hiền giả và người vô tín ngưỡng. Theo
thống kê năm 2001, người Ấn theo Ấn giáo 80.5%, Hồi giáo 13.4 %, Kitô giáo
2.3%, Sikh 1.9%, các tôn giáo khác 1.8%, không xác định 0.1%.
2.1.2. Tương đồng khi xem xét nguồn gốc thế giới tự nhiên và sự ra đời
vạn vật
- Nghiên cứu về con người, đạo đức nhân sinh quan, đặt vai trò của con
người lên hàng đầu. Tuy nhiên, triết học vẫn chưa tách rời được yếu tố thần linh
ra khỏi ý thức của con người. Hai nền triết học đều có những trường phái chịu
ảnh hưởng của thần thánh, tôn giáo. Quan điểm linh hồn con người tồn tại và trải
qua luân hồi. Thế giới tự nhiên là do thần thánh sáng tạo, sắp xếp, có nguồn gốc
thần bí.
+ Ấn Độ: Trường phái Upanisat với khái niệm đại ngã, tiểu ngã dựa trên ý
niệm thần thánh hóa căn nguyên vạn vật, xem đại ngã là linh hồn vũ trụ, sinh ra

vạn vật, tiểu ngã là linh hồn con người, biểu hiện cụ thể của đại ngã, chịu luân
hồi báo ứng. Đến trường phái Vêđanta tiếp tục thừa nhận sự tồn tại của đại ngã
và tiểu ngã, khuyến khích giải thoát tiểu ngã khỏi vây hãm thể xác, quay về với
đại ngã.
+ Hy Lạp: Trường phái duy tâm của Pytago ủng hộ quan điểm duy tâm – tôn
giáo của phương đông, coi linh hồn tồn tại bất tử, độc lập với thể xác và chịu
luân hồi. Trường phái Xôcrát-Platông cho rằng hiện tượng tự nhiên do thần thánh
sáng tạo và an bài. Ý niệm của Platông là lý tính, tồn tại trên trời, chân thực tuyệt
đối. Thế giới sự vật là sự sao chép của ý niệm, sinh ra từ ý niệm, do thần Tạo hóa
mô phỏng từ ý niệm. Linh hồn vũ trụ là thần linh, tồn tại dưới dạng các tinh tú,
và chỉ được nhận thức bằng linh hồn vũ trụ của con người. Con người bao gồm
thể xác khả tử và linh hồn bất tử.
- Hai nền triết học đều có những trường pháo cho rằng thế giới tạo thành từ
vật chất, không tồn tại thần thánh. Tại Ấn Độ, trương phái Nyaga, Vaisesika, và
Lokayata thể hiện qua thuyết nguyên tử luận và sự cho rằng sự vật kết thành bởi
tứ đại bao gồm đất, nước, gió lửa. Về phía Hy Lạp, sự tương đồng này thể hiện
qua trường phái suy vật và trường phái Loxip-Đemocrit.
2.1.3. Tương đồng khi nhận thức thế giới quan duy vật và vô thần có tính
biện chứng sâu sắc
Tại Ấn Độ, nhận thức luận của Nyaga thừa nhận đối tượng nhận thức tồn
tại khách quan cần phải tìm tòi thông qua bốn phương thức là cảm giác, kết luận,
tương tự và bằng chứng. Bên cạnh đó, phái Nyaga và Vaisesika đều xây dựng
trên những phương thức logic học. Đối với Hy Lạp, Đemocrit đề cao nhận thức
lý tính, xuất phát từ nhận thức cảm tính để tìm ra nhận thức lý tín và ông cũng
tiến hành xây dựng những phương pháp nhận thức logic hịc như quy nạp, so
sánh, giả thuyết, định nghĩa.
2.1.4.Triết học Ấn Độ và Hy Lập có cả hai trường phái duy tâm và duy vật
Cả hai nền triết học đều có trường phái duy tâm và duy vật, cụ thể:
Tại Ấn Độ:
Duy vật: Gaimini, Gotama, Kanada,

Duy tâm: Upanisad
Tại Hy Lạp:
Duy vật: Thalet, Anaximen, Hecralit, Democrit,
Duy tâm: Pythago, Pacmeni, Xocrat, Platon,
2.1.5. Tương đồng trong mối quan tâm về con người và đều tìm cách đem lại
cho con người cuộc sống hạnh phúc
Trải qua nhiều thời kỳ phát triển, tất cả đều nghiên cứu về vai trò của con
người và tự nhiên, mỗi thời kỳ có một sự quan tâm khác biệt nhưng cùng tô màu
vẽ sắc cho các nền triết ấy. Vì vậy, đây chính là nền tảng, tiền đề cho sự phát
triển của 2 nền Triết học này trong các giai đoạn sau.
- Ấn Độ: giải quyết các vấn đề thuộc lĩnh vực nhân sinh (bản chất, ý nghĩa
cuộc sống, nguồn gốc nỗi khổ)
- Hy Lạp: tìm hiểu, lí giải quan hệ linh hồn – thể xác, đời sống đạo đức,
chính trị, xã hội của con người.
2.1.6. Một số điểm tương đồng khác
Bên cạnh những ưu điểm, hai nền triết học đều chưa rõ ràng, chưa hệ thống
hóa và giải thích được nguồn gốc, tín chất vai trò của phạm trù đối với nhân thức
và hoạt động thực tiễn.
Cả hai nền triết học đều đề cao lao động trí óc đã thúc đẩy hình thành tầng
lớp tri thức, họ đã sử dụng tư duy lý luận để nghiên cứu thế giới và xây dựng nền
triết học và khoa học đồ sộ và sâu sắc.
Trong quá trình nhận thức, suy tư triết lý, đôi khi đã đạt tới ý tưởng siêu
thực, vượt qua tầm suy nghĩ, nhận thức giác quan đạt tới những phán đoán siêu
hình về sự tồn tại.
2.2.Sự khác biệt giữa triết học Ấn Độ cổ đại và Hy Lạp cổ đại
Ấn Độ Hy Lạp
1.Về đối tượng nghiên cứu
Lấy xã hội, cá nhân làm gốc là tâm
điểm để nhìn xung quanh. Do đó đối
tượng chủ yếu là xã hội, chính trị, đạo

đức, tâm linh và do vậy xu hướng là
hướng nội, lấy trong để giải thích
ngoài.
2.Triết học có đan xem với tôn giáo
……
-Tư tưởng triết học ít khi tồn tại dưới
dạng thuần túy mà thường đan xen với
các hình thái ý thức xã hội khác. Cái nọ
lấy cái kia làm chỗ dựa và điều kiện để
tồn tại và phát triển cho nên ít có
những triết gia với những tác phẩm độc
lập. Và có những thời kỳ người ta đã
lần tưởng triết học là khoa học của
khoa học và thường ẩn dấu đằng sau
các khoa học.
1.Về đối tượng nghiên cứu
Rất rộng bao gồm toàn bộ tự nhiên, xã
hội, tư duy mà gốc là tự nhiên. Nó ngả
theo hướng lấy ngoại (ngoài con
người) để giải thích trong (con người),
nói chung xu hướng nổi trội là duy
vật.
2.Triết học gắn bó mật thiết với
khoa học tư nhiên
- Ngay từ thời kỳ đầu triết học Hy Lạp
đã là một khoa học độc lập với các
môn khoa học khác mà các khoa học
lại thường ẩn dấu đằng sau triết học.
- Triết học Hy Lạp cổ đại gắn bó mật
thiết với khoa học tự nhiên để tổng

hợp mọi hiểu biết về các lĩnh vực khác
nhau nhằm xây dựng bức tranh về thế
giới như một hình ảnh chỉnh thể thống
nhất mọi sự vật, hiện tượng xảy ra
- Nét nổi bật của văn hóa Ấn Độ cổ đại
là mang dấu ấn sâu đậm về tín ngưỡng
tôn giáo. Triết học Ấn Độ cổ đại là một
nền triết học chịu ảnh hưởng lớn của
những tư tưởng tôn giáo. Giữa triết học
và tôn giáo rất khó phân biệt. Tư tưởng
triết học ẩn giấu sau các lễ nghi huyền
bí, chân lý thể hiện qua các bộ kinh
Vêđa, Upanisát.
- Ấn Độ cổ đại phát triển qua 3 thời kỳ
với hai hệ thống triết học, là hệ thống
chính thống và hệ thống không chính
thống dựa trên cơ sở thái độ đối với
kinh Vêđa. Mà thực chất kinh Veda lại
là những một bộ sách thâu lượm tất cả
các câu ca dao, vịnh phú về sự giàu
đẹp, hùng vĩ của thiên nhiên Ấn Độ, về
những tập tục nghi lễ, quan điểm tư
tưởng và những bài thánh ca cầu
nguyện các đấng thần linh của người
Arya.
- Cụ thể, trừ trường phái Lokayata, các
trường phái khác đều có sự thống nhất
giữa tư tưởng triết học và những tư
tưởng tôn giáo. Ngay cả hai trường
phái: Jaina và Phật giáo, tuy tuyên bố

đoạn tuyệt với truyền thống Veda
nhưng trong thực tế nó vẫn không thể
vượt qua truyền thống ấy. Về thế giới
trong nó. Do trình độ tư duy lý luận
còn thấp, nên khoa học tự nhiên chưa
đạt tới trình độ mổ xẻ, phân tích tự
nhiên để đi sâu vào bản chất sự vật,
mà nó nghiên cứu tự nhiên trong tổng
thể để dựng nên bức tranh tổng quát
về thế giới. Vì vậy các nhà triết học
đồng thời là các nhà khoa học tự
nhiên, họ quan sát trực tiếp các hiện
tượng để rút ra những kết luận triết
học.
- Sự xuất hiện của những tri thức khoa
học và triết học trong thời kỳ này đã
tạo nên một bước ngoặt lớn về nhận
thức của con người, phá vỡ ý thức hệ
thần thoại và tôn giáo nguyên thủy.
Xuất phát từ nhu cầu thực tiễn của nền
sản xuất, những tri thức khoa học tự
nhiên phát triển mạnh, được trình bày
trong hệ thống triết học tự nhiên của
các nhà triết học cổ đại, bên cạnh đó,
khoa học thời bấy giờ chưa phân
ngành nên các nhà triết học đồng thời
cũng là các nhà toán học, vật lý học,
Từ đó có thể khẳng định, triết học y
Lạp cổ đại ngay từ khi ra đời đã có sự
gắn bó với khoa học.

- Hy Lạp cho rằng triết học là sự ham
hiểu biết, yêu thích sự thông thái
tự nhiên, bằng sự phân tích nhân quả,
Phật giáo cho rằng không thể tìm ra
một nguyên nhân đầu tiên cho vũ trụ,
có nghĩa là phủ nhận đấng tối cao
Bratman sáng tạo ra vũ trụ và phủ nhận
luôn atman nghĩa là không có tôi, và
quan điểm “vô thường”. Tuy nhiên tính
tôn giáo của Ấn Độ cổ đại có xu hướng
“hướng nội” - đi sâu tìm hiểu đời sống
tâm linh, tinh thần để phát hiện ra sức
mạnh của linh hồn cá nhân con người,
mà không phải là “hướng ngoại” như
nhiều tôn giáo Phương Tây. Xuất phát
từ những đòi hỏi và hiện thực xã hội,
các nhà triết học Ấn Độ cổ đại là
những nhà hiền triết, nhà tôn giáo, nhà
giáo dục, đạo đức, chính trị - xã hội,
thiên về cải tạo thế giới, giải thoát
chúng sinh ra khỏi điều kiện tự nhiên,
kinh tế, xã hội khắc nghiệt.
3.Triết học có sự đan xen giữa chủ
nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm,
phép biện chứng và siêu hình
- Do chịu ảnh hưởng bởi tinh thần
Vêđa mà triết học Ấn Độ cổ đại không
thể phân chia rõ ràng thành chủ nghĩa
duy vật và chủ nghĩa duy tâm, phép
biện chứng và phép siêu hình mà chủ

(philosophia). Triết học được coi như
“người mẹ” của các ngành khoa học,
“triết học là khoa học của mọi khoa
học”. Triết học mang lại cho chúng ta
năng lực hiểu biết, “người mẹ” đó
nuôi “con” bằng tư duy lý luận, vì nếu
không có tư duy lý luận nhà khoa học
không thể trở thành nhà khoa học
đúng nghĩa.
uy nhiên tính tôn giáo của Ấn Độ cổ
đại có xu hướng “hướng nội mà không
phải là “hướng ngoại” như nhiều tôn
giáo Phương Tây.
3.Triết học có sự phân chia và đối
lập rõ ràng giữa các trào lưu,
trường phái duy vật – duy tâm, vô
thần – hữu thần
- Triết học Hy Lạp thì sự phân chia
các trường phái rõ nét hơn và các hình
thức tồn tại lịch sử rất rõ ràng như duy
vật chất phác thô sơ đến duy vật siêu
hình rồi đến duy vật biện chứng.
yếu được chia thành hệ thống chính
thống và hệ thống không chính thống.
Chẳng hạn như những nhà tư tưởng của
phái Samkhya sơ kỳ bộc lộ những tư
tưởng có tính duy vật chứa ít nhiều
biện chứng về bản nguyên hiện hữu.
Họ đưa ra học thuyết về sự tồn tại của
kết quả trong nguyên nhân trước khi nó

xuất hiện và học thuyết về sự chuyển
hóa thực tế của nguyên nhân trong kết
quả. Họ cho rằng loại nào có nguyên
nhân của loại đó “Trồng Sali được Sali,
trồng Vrihi được Vrihi”. Ngược lại, các
nhà tư tưởng của phái Samkhya hậu kỳ
lại có khuynh hướng nhị nguyên luận
khi thừa nhận sự tồn tại song song của
hai yếu tố đầu tiên là vật chất (Prakriti)
và tinh thần (Purusa). Hay khi xét tới
các nhà triết học Mimansa dựa vào tư
tưởng triết học - tôn giáo của Vêđa,
nhưng coi Vêđa như các tập công thức
hay thần chú về nghi lễ. Mimansa sơ
kỳ không thừa nhận sự tồn tại của thần.
Theo Sabara thì chúng ta thiếu chứng
cứ về sự tồn tại của thần và cảm giác
không nhận thức được thần. Nhưng
cảm giác lại được coi là nguồn gốc của
mọi tri thức khác. Phái Mimansa không
phản đối việc coi thần linh như cái tên
hay âm thanh cần thiết cho các câu
- Cụ thể, triết học Hy Lạp cổ đại đã
giải quyết các vấn đề cơ bản của triết
học và chia ra thành các trường phái
khác nhau: trường phái nhất nguyên
(duy vật, duy tâm) và trường phái nhị
nguyên, thậm chí còn chia ra những
nhà vô thần và hữu thần, gắn liền với
cuộc đấu tranh chính trị tư tưởng,

trong đó điển hình là cuộc đấu tranh
giữa trào lưu triết học duy vật của
Đêmôcrit và trào lưu triết học duy tâm
của Platông. Hai học thuyết đó ảnh
hưởng sâu đậm đến đời sống phương
Tây. Học thuyết Đêmôcrit ảnh hưởng
sâu đậm đến đời sống tinh thần, còn
học thuyết Platông để lại dấu ấn sâu
đậm đến đời sống tinh thần. Có thể nói
triết học Hy Lạp cổ đại rất nhất quán,
kiên định một quan điểm, một lập
trường.
+ Chủ nghĩa duy vật nổi bật với các
trường phái: Mile, Loxip-Đêmôcrit.
+ Chủ nghĩa duy tâm: xuất phát từ
Pytago và dừng lại phát triển đỉnh cao
với trường phái của thấy trò Xoocrat-
Platon, đặc biệt là quan điểm của
Platon. Platông đã hoàn thiện chủ
nghĩa duy tâm và hệ thống duy tâm
của ông là mẫu mực nhất, nhất quán
thần chú của nghi lễ. Tuy nhiên, tinh
thần duy vật và vô thần của phái
Mimansa không được tiếp tục phát
triển. Những nhà triết học Mimansa
hậu kỳ đã thừa nhận sự tồn tại của thần.
Về nguồn gốc thế giới, phái Mimansa
có quan điểm duy vật cho rằng thế giới
được sinh ra từ các nguyên tử. Khi giải
quyết mối quan hệ giữa tinh thần với

thể xác, họ lại đứng trên lập trường duy
tâm coi tinh thần tồn tại mãi mãi, còn
thể xác thì mất đi.
- Có thể nói, trong triết học Ấn Độ cổ
đại sự phân chia các trường phái triết
học chỉ có tính đại thể, còn khi đi sâu
vào những nội dung cụ thể thì có mặt
duy vật, có mặt duy tâm, sơ kỳ là duy
vật thì hậu kỳ là nhị nguyên hay duy
tâm. Điều đó thể hiện rõ sự thiếu nhất
quán trong thế giới quan, sự thiếu triệt
để của triết học vì phân kỳ lịch sử trong
các xã hội Ấn Độ không mạch lạc như
phương Tây. Ấn Độ không mạch lạc
như phương Tây
4.Triết học lấy nhân sinh quan làm
gốc đặc biệt là vấn đề luân hồi,
nghiệp báo, sau đó mới là vũ trụ
quan, bản thể luận
- Triết học Ấn Độ cổ đại đã đặt ra
nhất trong tất cả các học thuyết duy
tâm thời cổ đại.
+ Chủ nghĩa nhị nguyên: nổi bật là
triết học của Arixtot. Ông đã tổng kết
toàn bộ triết học Hy Lạp nên bắt buộc
phải đứng trên của hai trường phái
duy tâm và duy vật để thấy được cái
hay cái dở của các trường phái.
- Cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy
vật và chủ nghĩa duy tâm trong lịch sử

triết học Hy Lạp-La Mã cổ đại chứng
tỏ rằng, ngay từ đầu, lịch sử triết học
là lịch sử đấu tranh giữa hai thế giới
quan, hai phương pháp luận đối lập
nhau. Cuộc đấu tranh ấy phản ánh lợi
ích của những tầng lớp, những giai
cấp khác nhau trong xã hội có giai cấp
đối kháng. Cuộc đấu tranh ấy phản
ánh lợi ích của những tầng lớp, những
giai cấp khác nhau trong xã hội có giai
cấp đối kháng
4.Triết học đi từ thế giới quan, vũ
trụ quan, bản thể luận từ đó xây
dựng nhân sinh quan con người
nhiều vấn đề thuộc về lĩnh vực nhân
sinh (bản chất, ý nghĩa đời sống, nguồn
gốc nổi khổ của con người) nhằm tìm
kiếm phương tiện, con đường, cách
thức giải thoát chúng sinh ra khỏi điều
kiện tự nhiên và kinh tế - xã hội khắc
nghiệt mà không thấy mối quan hệ giữa
con người trong lao động sản xuất.
-Xu hướng cơ bản trong triết học Ấn
Độ cổ đại là quan tâm giải quyết các
vấn đề nhân sinh dưới gốc độ tâm linh
tôn giáo với xu hướng “hướng nội”. Có
thể thấy điều này qua tư tưởng của Phật
giáo, họ đặc biệt chú trọng triết lý nhân
sinh, đặt mục tiêu tìm kiếm sự giải
thoát cho chúng sinh khỏi vòng luân

hồi, nghiệp báo để đạt tới trạng tái tồn
tại Niết bán (Nirvana). Từ sự lý giải về
căn nguyên nỗi khổ của con người,
Thích Ca Mâu Ni đã đưa ra thuyết “Tư
Diệu Đế” và “Thập nhị nhân duyên” để
giải thoát chúng sinh ra khỏi mọi nổi
khổ và kiếp nghiệp báo, luân hồi.
Thuyết “Tứ diệu đế” là cốt lõi của quan
niệm nhân sinh của Phật giáo.
5.Triết học nhấn mạnh sự thống nhất
- Các nhà triết học Hy Lạp đầu tiên có
khuynh hướng chung là suy tư về bản
chất và khởi thuỷ của thế giới. Họ lấy
một thực thể bản nguyên tượng trưng
làm nguồn gốc của tất cả mọi vật.
Chẳng hạn đối với Talet đó là nước,
đối với Anaximăngđrơ đó là cái vô
hạn bất định, đối với Anaxago đó là
tinh thần. Từ thế giới quan, các nhà
triết học Hy Lạp cổ đại mới đi đến vấn
đề nhân sinh quan, đạo đức, xã hội.
Các nhà ngụy biện thì thiên về cá nhân
hơn, đã nhiệt thành với việc giáo dục
các nhà lãnh đạo, những người sẽ gây
ảnh hưởng xã hội và sử dụng xã hội
như là phương tiện để đạt các mục
đích riêng của mình Mỗi con người
là thước đo sự vật cho mình, không
phải chỉ sự vật được nhận thức, mà cả
sự vật thuộc thiện, ác trong xã hội.

Platông và Xôcrat chống lại "chủ
nghĩa cá nhân" và "chủ nghĩa tương
đối" cực đoan này của các nhà ngụy
biện. Cái tư tưởng hiện đại cho rằng
cá nhân không thể tách khỏi xã hội và
"nhân tính" là hình thành do xã hội và
phát triển trong xã hội, tư tưởng đó
không lớn mạnh trong tư tưởng Hy
giữa con người và vũ trụ theo
nguyên tắc “thiên nhân hợp nhất”
- Ở Ấn Độ tư tưởng triết học Ấn Độ cổ
đại được hình thành từ cuối thiên niên
kỷ II đầu thiên niên kỷ I trước công
nguyên, bắt nguồn từ thế giới quan
thần thoại, tôn giáo, giải thích vũ trụ
bằng biểu tượng các vị thần mang tính
chất tự nhiên, có nguồn gốc từ những
hình thức tôn giáo tối cổ của nhân loại.
Ở Ấn Độ nguyên tắc “thiên nhân hợp
nhất” lại có màu sắc riêng như: khi
xem xét về trường phái Upaanishad là
nhằm biện hộ cho học thuyết duy tâm,
tôn giáo trong kinh Veda về cái gọi là
“tinh thần sáng tạo tối cao” sáng tạo và
chi phối thế giới này. Để trả lời câu hỏi
cái gì là thực tại cao nhất, là căn
nguyên của tất cả mà khi nhận thức
được nó, người ta sẽ nhận thức được
mọi cái còn lại và có thể giải thoát
được linh hồn khỏi sự lo âu của đời

sống trần tục và ràng buộc của thế giới
này là “tinh thần vũ trụ tối cao”.
Brahman, là thực thể duy nhất, có trước
nhất, tồn tịa vĩnh viễn, bất diệt, là cái
từ đó tất cả thế giới đều nảy sinh và
nhập về với nó sau khi chết. Tóm lại
Brahman là tinh thần vũ trụ, là đấng
Lạp đạ
5.Các nhà triết học Hy Lạp cổ đại
tách chủ thể với khách thể để nhận
thức khách quan
- Các nhà triết học Hy Lạp đã nhấn
mạnh tách con người ra khỏi vũ trụ,
coi con người là chủ thể để nghiên
cứu, chinh phục vũ trụ - thế giới khách
quan. Và cũng chính từ thế giới khách
quan khác nhau nên dẫn đến hướng
nghiên cứu tiếp cận cũng khác nhau.
Đặt trọng tâm nghiên cứu vào thế giới
– tính chất hướng ngoại; còn vấn đề
con người chỉ được nghiên cứu để giải
thích thế giới mà thôi. Cho nên triết
học Hy Lạp cổ đại thể hiện đậm nét về
bản thể luận của vũ trụ.
-Sự tách biệt này đã làm cho triết học
Hy Lạp đặt trọng tâm nghiên cứu vào
thế giới-tính chất hướng ngoại; còn
vấn đề con người chỉ được nghiên cứu
để giải thích thế giới mà thôi, chính
đều này làm cho triết học Hy Lạp nói

chung và phương Tây nói riêng bàn
đậm nét về bản thể luận của vũ trụ.
Platông đã chia thế giới thành thế giới
ý niệm (lý tính, tồn tại trên trời, mang
tính phổ biến, chân thực tuyệt đối, bất
sáng tạo duy nhất, là đại ngã, là vũ trụ
xung quanh cái tồn tại thực sự, là
khách thể. Đối với Rig Vêđa quan hệ
giữa thế giới vĩ mô và vi mô, quan hệ
giữa tự nhiên và con người, Rig Vêđa
không phân chia con người và tự nhiên
thành chủ thể và khách thể mà đồng
nhất con người và tự nhiên.
- Quan điểm “thiên nhân hợp nhất” làm
cho triết học Ấn Độ có một số đặc thù
như: lấy con người làm đối tượng
nghiên cứu chủ yếu- tính chất hướng
nội; hay nghiên cứu thế giới cũng là để
làm rõ con người và vấn đề bản thảo
luận bị mờ nhạt.
6.Triết học ngã về dùng trực giác
Triết học Ấn Độ thường dùng trực giác
hay nói cách khác là đi thẳng đến sự
hiểu biết, vào cái sâu thẳm bản chất của
sự vật hiện tượng. Trực giác giữ được
cái tổng thể mà tư duy phân tích, mổ xẻ
đạt đến. nhưng nó có tiềm tàng nhược
diểm là không phổ biến rộng được bởi
trực giác mỗi người mỗi khác và
khkoong phải lúc nào cũng đúng.

Nhận thức trong triết học Ấn Độ bắt
đầu từ luân lý đạo đức, nhận thức gắn
liền với đạo đức. Trong nhận thức, triết
biến, vĩnh hằng, duy nhất…) và thế
giới sự vật (cảm tính, tồn tại dưới đất,
mang tính cá biệt, ảo giả, tương đối,
khả biến, thoáng qua, đa tạp…). Bằng
thuyết ý niệm này, ông đã lý giải sự
sinh thành của thế giới sự vật, con
người và hoạt động của linh hồn…
6.Triết học Hy Lạp ngã về tư duy
duy lý
Triết học Hy Lạp ngã về tư duy duy
lý, phân tích mổ xẻ. Thế mạnh của Hy
Lạp là khoa học, kỹ thuật và nhận
thức luôn hướng đến nhận thức cái
chân lý vô hạn cùng. Triết học Hy Lạp
đi gần mãi đến chân lý qua hàng loạt
những trừu tượng, khái niệm, quy
luật của toàn thể vũ trụ, liên tiếp đi
từ cấp độ bản chất thấp đến mức độ
học Ấn Độ đề cao việc tự nhận thức, tự
hiểu. Điều này quy định tính chất trực
nhận, trực giác trong triết học Ấn Độ.
Từ đó, một lôgíc kéo theo là công cụ,
phương tiện nhận thức lại nghiêng về
ẩn dụ, hình ảnh. Cụ thể, trường phái
Mimansa coi cảm giác là nguồn gốc
duy nhất của nhận thức.
7.Triết học thường tôn trọng, có

khuynh hướng phục cổ và không có
những bước nhảy vọt về chất
- Triết học Ấn Độ ít thấy có những
bước nhảy vọt về chất mà chỉ là sự phát
triển cục bộ, kế tiếp xen kẽ. Nội dung
có phát triển nhưng chỉ là sự phát triển
cục bộ, thêm bớt hay đi sâu vào từng
chi tiết, xuất phát từ tinh thần Vêđa
chia ra làm hai hệ thống: hệ thống
chính thống ủng hộ tinh thần Vêđa và
trường phái không chính thống phản
đối lại tinh thần Vêđa.
- Các nhà triết học ở các thời đại chỉ
giới hạn mình trong khuôn khổ ủng hộ,
bảo vệ quan điểm hay một hệ thống
nào đó để hoàn thiện và phát triển nó
hơn là vạch ra những sai lầm và không
đặt ra mục đích tạo ra thứ triết học mới.
bản chất cao hơn cũng do vậy họ có
xu hướng cô lập hoá, cách ly hoá, làm
mất đi tính tổng thể.
7.Triết học Hy Lạp cổ đại có sự đấu
tranh giữa các trường phái mang
tính chất quyết liệt, triệt để, có sự
phát triển về chất khá rõ rệt
- Triết học Hy Lạp thay đổi theo
hướng nhảy vọt về chất, nên càng tiến
hoá càng phong phú hơn, xa rời gốc
ban đầu. Thậm chí có xu hướng cái
sau phủ định hoàn toàn cái ở giai đoạn

trước.
- Ở mỗi giai đoạn, mỗi thời kỳ, bên
cạnh các trường phái cũ lại có những
trường phái mới ra đời có tính chất
vạch thời đại như thời cố đại bên cạnh
trường phái Talét, Hêraclit đến
Đêmôcrit. Lịch sử triết học Hy Lạp -
La Mã cổ đại có thể chia làm ba thời
kỳ. Xuyên suốt ba thời kỳ ấy là cuộc
Do vậy nó không mâu thuẫn với các
học thuyết đã được đặt nền móng từ
ban đầu, không phủ định nhau hoàn
toàn và dẫn đến cuộc đấu tranh trong
các trường phái không gay gắt và cũng
không triệt để. Có tình trạng đó chính
là do chế độ phong kiến kéo dài quá lâu
và bảo thủ, kết cấu kinh tế, giai cấp
trong xã hội đan xen, cộng sinh bên
nhau.
8.Hệ thống thuật ngữ được sử dụng
- Về bản thể luận: Để nói về bản chất
của vũ trụ đặc biệt là khi bàn về quan
hệ giữa con người và vũ trụ dùng tâm-
vật, năng-sở, lí-khí, hình-thần. Trong
đó hình-thần là những phạm trù xuất
hiện sớm và dùng nhiều nhất.
đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và
chủ nghĩa duy tâm mà đỉnh cao là
cuộc đấu tranh giữa đường lối duy vật
của Đê-mô-crít và đường lối duy tâm

của Pla-tôn.
+ Thời kỳ thứ nhất (thế kỷ VI tr.CN):
Đây là thời kỳ chế độ chiếm hữu nô lệ
mới hình thành. Triết học với tư cách
là một khoa học bao quát mọi tri thức
(khoa học của khoa học) ra đời.
+ Thời kỳ thứ hai (bắt đầu từ thế kỷ V.
tr.CN): Đây là thời kỳ chế độ chiếm
hữu nô lệ phát triển đến hình thức cao.
Đối tượng nghiên cứu được mở rộng
sang các vấn đề về kết cấu của vật
chất, nhận thức luận và đời sống chính
trị.
+ Thời kỳ thứ ba (từ thế kỷ thứ III
TCN): Đây là thời kỳ khủng hoảng và
suy vong của chế độ chiếm hữu nô lệ
ở Hy Lạp - La Mã.
8.Hệ thống thuật ngữ được sử dụng
- Về bản thể luận: dùng thuật ngữ
“giới tự nhiên”, “bản thể”, “vật chất”.
Để nói về bản chất của vũ trụ đặc biệt
là khi bàn về quan hệ giữa con người
và vũ trụ dùng phạm trù khách thể-chủ
-Về tính chất, sự biến đổi của thế giới
thì dùng thuật ngữ động-tính, biến
dịch, vô thường, lấy cái tính làm gốc vì
triết học được xây dựng trên quan điểm
vũ trụ là một phải mang tính nhịp điệu.
-Khi diễn đạt về mối liên hệ của các sự
vật hiện tương trên thế giới thì dùng

thuật ngữ “lý”, “mệnh”, “thần”, cũng
xuất phát từ thế giới quan thiên nhân
hợp nhất nên tất cả phải mang tính nhịp
điệu, tính quy luật, tính xoắn ốc của vũ
trụ như thái cực đến lưỡng nghi.
thể; con người với tự nhiên, vật chất
với ý thức, tồn tại và tư duy.
-Về tính chất, sự biến đổi của thế giới
thì dùng thuật ngữ “biện chứng” siêu
hình, thuộc tính, vận động, đứng im
nhưng lấy cái đấu tranh, cái động là
chính. vật chất với ý thức, tồn tại và tư
duy.
-Khi diễn đạt về mối liên hệ của các
sự vật hiện tương trên thế giới thì
dùng thuật ngữ “liên hệ”, “quan hệ”,
“quy luật”.

×