Tải bản đầy đủ (.pdf) (72 trang)

Nghiên cứu sản xuất cá trê phi Clarias gariepinus (Burchell, 1822) đực bằng hormone 17-α Methyltestosterone

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.92 MB, 72 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA THỦY SẢN





ĐÀM ANH TUẤN






NGHIÊN CỨU SẢN XUẤT
CÁ TRÊ PHI Clarias gariepinus (Burchell, 1822) ĐỰC
BẰNG HORMONE 17-α METHYLTESTOSTERONE







LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP CAO HỌC
NGÀNH NUÔI TRỒNG THỦY SẢN









2010
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA THỦY SẢN





ĐÀM ANH TUẤN





NGHIÊN CỨU SẢN XUẤT
CÁ TRÊ PHI Clarias gariepinus (Burchell, 1822) ĐỰC
BẰNG HORMONE 17-α METHYLTESTOSTERONE




LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP CAO HỌC
NGÀNH NUÔI TRỒNG THỦY SẢN






CÁN BỘ HƯỚNG DẪN
NGUYỄN VĂN KIỂM






2010
i

LỜI CẢM TẠ
Trước hết xin cảm ơn Ban Giám Hiệu, Ban Chủ Nhiệm Khoa Thủy Sản, Phòng
Quản Lí và Đào Tạo Sau Đại Học Trường Đại Học Cần Thơ đã tạo điều kiện cho
tôi học tập, nghiên cứu trong những năm qua.
Tôi rất cảm ơn Thầy T.S Nguyễn Văn Kiểm đã tận tình hưỡng dẫn, động viên và
giúp đỡ trong suốt thời gian học tập, nghiên cứu.
Tôi xin cảm ơn Thầy T.S Bùi Minh Tâm, Th.S Lê Sơn Trang, K.S Nguyễn Thanh
Thảo, K.S Lê Ngọc Thị Thanh Trúc, K.S Nguyễn Bích Tuyền, các đồng nghiệp
và các anh em trong Trại Thực Nghiệm Cá Nước Ngọt luôn sẵn lòng giúp đỡ và
hỗ trợ tôi trong suốt quá trình nghiên cứu và thực hiện đề tài.
Tôi xin gởi lời cảm ơn đến toàn bộ quí Thầy, Cô, Anh, Chị trong Khoa Thủy Sản
Trường Đại Học Cần Thơ đã giúp đỡ và hỗ trợ tôi trong suốt thời gian học tập tại
trường.
Tôi chân thành cảm ơn gia đình và người thân đã hỗ trợ và giúp đỡ tôi trong thời
gian học tập và nghiên cứu.
Cuối cùng xin cảm ơn các bạn lớp Cao Học Nuôi Trồng Thủy Sản Khóa 15 đã
đồng hành cùng tôi suốt thời gian học tập.

ii

TÓM TẮT
Nghiên cứu sản xuất cá trê phi đực bằng hormon 17-α Methyltestosterone (MT)
với các phương pháp ngâm, cho ăn và cho ăn kết hợp với ngày tuổi khác nhau
nhằm sơ bộ xác định nồng độ, thời điểm và phương pháp xử lí MT có tác dụng
chuyển giới tính cá trê phi. Kết quả hai đợt nghiên cứu bằng phương pháp ngâm
cá trong môi trường có chứa MT với nồng độ hormon 3, 5 và 7 ppm nước trong
thời gian 3 ngày, sau đó ương đến 100 ngày cho kết quả tỉ lệ sống từ 0,05% -
42%, tốc độ tăng trưởng bình quân từ 0,03-0,35 g/ngày và tỉ lệ đực từ 93,85% -
100%. Kết quả 2 đợt nghiên cứu bằng phương pháp trộn MT vào thức ăn với
nồng độ hormon 30, 60, 90 và 120 mg/kg thức ăn, cho ăn trong thời gian 21
ngày, sau đó ương đến 100 ngày tuổi. Kết quả, tỉ lệ sống đạt từ 5,08% - 54,33%,
tốc độ tăng trưởng bính quân từ 0,03 - 0,55 và tỉ lệ đực là 100%. Nghiên cứu với
phương pháp cho cá ăn MT với ngày tuổi khác nhau 7; 8; 9 và 10 tuổi với nồng
độ 60 mg/kg) thức ăn trong thời gian 21 ngày, sau đó ương đến 100 ngày. Kết
quả tỉ lệ sống đạt từ 13,67%- 37,67%, tốc độ tăng trưởng bình quân từ 0,13- 0,37
g/ngày và tỉ lệ đực đạt từ 92,68- 96,34%. Cả ba phương Pháp nghiên cứu đều có
tác dụng làm tăng tỉ lệ đực, chứng tỏ MT đã có tác động lên giới tính của cá trê
phi.






iii

ABSTRACT
A study on sex reversal of African Catfish Clarias gariepinus using hormone 17-

α Methyltestosterone (MT) with immersion method, feeding and feeding with
different days of age to determination the concentration, time and method to sex
reverse. The first, two experiments
of fry were subjected to discrete immersion
treatment at different 17 -methyltestosterone (MT) doses (viz. 3, 5 and 7 ppm)
for a constant duration 3 day and frequency 100 day after hatching. The survival
rate varies 0,05% to 34%, the daily weigh gain (DWG) varies 0,03 to 0,35 g/day
and the rate of male varies 93,85% to 100%. The second, two experiments with
different MT doses (viz. 30, 60, 90 and 120 mg kg
−1
MT in the diet for 3 weeks
and frequency 100 day after hatching). The survival rate varies 5,08% to 54,33%,
the daily weigh gain varies 0,03 to 0,55 g/day and the rate of male is 100% . The
third, experiment on feeding method with different fish ages (7, 8, 9 and 10 age)
and concentration 60 mg kg
−1
MT in the diet for 3 weeks and then frequency 100
day after hatching. The survival rate varie 13,67% to 37,67%, the daily weigh
gain varies 0,13 to 0,37 g/day and the rate of male varies 92,68% to 96,34%. All
three methods of research are allowed to increase the rate of males. It is
concluded that this effect is pharmacological rather than physiological
.

iv

LỜI CAM KẾT
Tôi xin cam kết luận văn này hoàn thành dựa trên kết quả nghiên cứu của tôi
trong khuôn khổ của đề tài “Nghiên cứu sản xuất cá trê phi Clarias gariepinus
đực bằng hormone 17-α Metyltestosterone” và kết quả này chưa được dùng cho
bất cứ luận văn cùng cấp nào khác.


Ngày 30 tháng 09 năm 2010
Tác Giả


ĐÀM ANH TUẤN

v

MỤC LỤC

Trang
LỜI CẢM TẠ i
TÓM TẮT ii
ABSTRACT iii
LỜI CAM KẾT iv
MỤC LỤC v
DANH SÁCH BẢNG vii
DANH SÁCH HÌNH viii
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT ix
CHƯƠNG 1 GIỚI THIỆU 1
CHƯƠNG 2 LƯỢC KHẢO TÀI LIỆU 3
2.1 Sơ lược một số đặc điểm sinh học của cá trê phi (Clarias gariepinus) 3
2.2 Một số kết quả nghiên cứu chuyển giới tính của cá 7
2.3 Cải tiến giống cá trê phi bằng kỹ thuật chuyển đổi giới tính 11
CHƯƠNG 3 VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 12
3.1 Địa điểm và thời gian nghiên cứu 12
3.1.1 Địa điểm nghiên cứu 12
3.1.2 Thời gian nghiên cứu 12
3.2 Phương pháp nghiên cứu 12

3.2.1 Vật liệu nghiên cứu 12
3.2.2 Phương pháp bố trí thí nghiệm 13
3.2.3 Các bước thực hiện nghiên cứu 14
3.2.4 Kiểm tra các chỉ tiêu môi trường 15
3.2.5 Phương pháp xử lý số liệu 15
Tỉ lệ đực hóa: được tính theo công thức 15
CHƯƠNG 4 KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 16
4.1 Khảo sát một số yếu tố môi trường nghiên cứu. 16
4.2 Kết quả đực hóa cá trê phi bằng PP ngâm cá với nồng độ MT khác nhau .16
4.3 Kết quả đực hóa cá trê phi bằng MT trộn vào thức ăn 20
4.4 Kết quả đực hóa cá có ngày tuổi khác nhau khi ăn thức ăn có trộn MT 23
vi

4.5 Hình thái và tổ chức học của TSD cá trê phi sau khi xử lí hormon 25
CHƯƠNG 5 KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT 28
5.1 Kết luận 28
5.2 Đề xuất 28
TÀI LIỆU THAM KHẢO 29
PHỤ LỤC 34

vii

DANH SÁCH BẢNG
Trang
Bảng 2.1 Một số trường hợp chuyển đổi giới tính cá bằng hormon 9

Bảng 4.1 Các yếu tố môi trường trong nghiên cứu sản xuất cá trê phi đực 16

Bảng 4.2 Tỉ lệ sống của cá sau 21 và 100 ngày nuôi 16


Bảng 4.3 Tốc độ tăng trưởng (g/ngày) của cá trê phi sau 21 và 100 ngày nuôi 18

Bảng 4.5 Tỉ lệ sống của cá sau 21 và 100 ngày ương bằng thức ăn có trộn MT 20

Bảng 4.6 Tốc độ tăng trưởng của cá theo PP cho cá ăn thức ăn có trộn MT 22

Bảng 4.7 Tỉ lệ đực của cá thu được sau 100 ngày ương bằng PP trộn MT 23

Bảng 4.8 Tỉ lệ sống của cá sau 21 và 100 ngày ăn thức ăn có trộn 60mg MT 23

Bảng 4.9 Tăng trưởng của cá có ngày tuổi khác nhau ăn MT 24

Bảng 4.10 Tỉ lệ đực của cá có ngày tuổi khác nhau ăn MT. 25

viii

DANH SÁCH HÌNH
Trang
Hình 2.1 Cá trê phi Clarias gariepinus. 3

Hình 2.2 Đặc điểm hình thái của cá trê phi Clarias gariepinus 4

Hình 2.3 Cơ quan sinh dục đặc trưng của cá trê phi 4

Hình 2.4 Giai đoạn phát triển đầu tiên của cá trê bột. 6

Hình 2.5 Tinh hoàn cá trê phi: (1) lúc chưa thành thục, (2) lúc thành thục. 6

Hình 2.6 Sơ đồ kiểm soát giới tính ở động vật có vú. 7


Hình 4.4 Tuyến sinh dục cá trê phi của nghiệm thức đối chứng 27

Hình 4.5 Mô tuyến sinh dục của cá trê đực 27

Hình 4.6 Đặc điểm tế bào trứng của cá trê phi cái 27

ix

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
TN Thí nghiệm
NC Nghiên cứu
NT Nghiệm thức
PP Phương pháp
TLS Tỉ lệ sống
TSD Tuyến sinh dục
ctv Cộng tác viên.
MT 17-α Methyltestosterone
VN Việt Nam
lít Litre
kg Kilogram
ml Mililít
mg Miligram
gr Gram

1

CHƯƠNG 1
GIỚI THIỆU
Đồng Bằng Sông Cửu Long có khoảng 950.000 ha diện tích mặt nước, chiếm
29,7% diện tích đồng bằng. Trong đó, diện tích mặt nước lợ khoảng 310.000 ha

(chiếm 32,8%), thủy vực nước ngọt và nhiễm phèn (chiếm 67,2%). Đây là nơi
phát triển nghề nuôi trồng thủy sản (Nguyễn Văn Thường và ctv, 1994).
Cá trê phi Clarias gariepinus là loài cá da trơn sống trong nước ngọt có nguồn
gốc ở châu phi. Theo Graaf và ctv (1996), ở nhiều quốc gia châu phi cá trê phi
Clarias gariepinus được đánh giá rất cao về tốc độ tăng trưởng và khả năng
chống chịu của cá và cá đã được thực hiện sinh sản nhân tạo bằng hormon thành
công bởi các tác giả: Hogendoorn và ctv (1976); Hogendoorn và ctv (1980);
Micha (1976); Kelleher và ctv (1976); El Bolock (1976). Cá trê phi sống được
trong các môi trường nước như ao, hồ, sông, đầm,…, và nổi bật là có thể thích
nghi với điều kiện nuôi khắc nghiệt, pH dao động từ 6,5 đến 8,0; nhiệt độ dao
động từ 8
o
C đến 35
o
C, tuy nhiên nhiệt độ thích hợp nhất cho tăng trưởng là 28
o
C
đến 30
o
C (Teugels, 1986). Cá sống được trong môi trường oxy thấp nhờ có cơ
quan hô hấp phụ (Pienaar, 1968). Theo Liêm và ctv (2008) cho biết cá trê có sức
đề kháng cao với vi khuẩn Aeromonas hydrophila (vi khuẩn gây bệnh lở loét).
Cá trê phi Clarias gariepinus có tốc độ tăng trưởng cao và trọng lượng (cá trưởng
thành) con đực lớn hơn con cái (Skelton, 1993). Kích cỡ thu hoạch của cá trê phi
tùy thuộc vào mật độ nuôi, từ đó có thể điều chỉnh mật độ nuôi nuôi cho phù hợp
(Graaf và ctv, 1996). Cá nuôi được với mật độ cao, sau 5 tháng nuôi kể từ khi
mới sinh đạt được 200 gr/con (Hogendoorn, 1983). Cá trê phi nuôi lớn nhanh, sau
6 tháng nuôi cá đạt bình quân 01kg/con (Ngô Trọng Lư và ctv, 2002). Ở Việt
Nam, cá trê phi được De Kimpe, một chuyên gia thủy sản người Pháp nhập vào
miền Nam cuối năm 1974 (Nguyễn Tường Anh, 2005).

Thông thường ở nước ngọt, trong cùng loài, cá cái có tốc độ sinh trưởng nhanh
hơn cá đực. tuy nhiên một số loài, cá đực tăng trưởng nhanh hơn cá cái. Tốc sinh
trưởng khác nhau theo giới tính dẫn đến việc lựa chọn đối tượng nuôi và cũng là
lí do chuyển đổi giới tính cá. Bằng kĩ thuật này, có thể tạo ra thế hệ con bất thụ
hoặc chỉ một giới tính mong muốn (toàn đực hoặc toàn cái), những cá thể đực
XX, XY, cá thể cái XY, YY có thể cho ra thế hệ con chỉ một giới tính với tỉ lệ
mong muốn. Cũng như các loài cá khác như: cá rô phi, cá rô đồng,… tốc độ tăng
trưởng của cá trê phi đực và cái có sự khác biệt rất rõ rệt. Trong đó, cá đực tăng
trưởng nhanh hơn cá cái (Phạm Văn Bé, 1981).

2

Trong tự nhiên tỷ lệ giới tính của một đàn cá được sinh ra là 1:1. Việc làm thay
đổi tỷ lệ này theo hướng cái hóa hoặc đực hóa có ý nghĩa rất quan trọng trong
việc tăng năng suất nuôi, qua đó giúp tăng thu nhập cho người nông dân. Một
trong những phương pháp đơn giản tác động đến sự hình thành giới tính của cá là
sử dụng hormone sinh dục tác động vào cá trong giai đoạn cá chưa có sự biệt hóa
giới tính. Trên thế giới và trong nước đã có nhiều công trình nghiên cứu thành
công trong việc sản xuất giống cá đơn tính như: cá rô phi đơn tính đực, cá rô
đồng và cá mè vinh đơn tính cái… một số khác nghiên cứu chuyển giới tính trên
cá Hồi (Galbreath và ctv, 2003). Đối với cá trê phi Clarias gariepinus đã có một
số nghiên cứu sử dụng 17-α Methyltestosterone và 11-β

hydroxyandrostenedione
để chuyển giới tính cho loài cá này (Hurk và ctv, 1989). Tuy nhiên vấn đề chuyển
giới tính cho cá ở Việt Nam bằng các hormon còn ít và chủ yếu cũng chỉ tập
trung trên cá Rô phi như nghiên cứu của Phạm Minh Truyền và ctv (2006), hoặc
Đặng Khánh Hồng (2006) đã có kết quả nghiên cứu ban đầu về vấn đề cái hóa cá
Rô đồng, cá xiêm cũng được một vài tác giả nghiên cứu: Lương Tuấn Kiệt
(1993); Nguyễn Thị Thanh Thúy (1997); Trịnh Quốc Trọng (1998). Tuy nhiên,

việc sử dụng hormone 17-α Methyltestosterone nhằm tạo ra cá trê phi đơn tính
đực vẫn chưa được nghiên cứu. Trên cơ sở đó mà đề tài: “Nghiên cứu sản xuất cá
trê phi Clarias gariepinus đực bằng hormone 17-α Methyltestosterone” được
thực hiện.
Mục tiêu của đề tài
Bước đầu xác định khả năng đực hóa cá trê phi dưới tác dụng của MT với
phương pháp nồng độ và thời gian xử lí khác nhau.
Nội dung của đề tài: Để đạt được mục tiêu nghiên cứu, đề tài tiến hành 3 nội
dung sau.
Đực hóa cá trê phi theo phương pháp ngâm với nồng độ MT khác nhau.
Đực hóa cá trê phi theo phương pháp trộn MT vào thức ăn với nồng độ khác
nhau.
Đực hóa cá trê phi theo phương pháp cho cá có ngày tuổi khác nhau ăn thức ăn có
trộn hormon MT với nồng độ 60 mg/kg thức ăn

3

CHƯƠNG 2
LƯỢC KHẢO TÀI LIỆU
2.1 Sơ lược một số đặc điểm sinh học của cá trê phi (Clarias gariepinus)
Ngoài Châu Phi, Cá trê phi Clarias gariepinus đang được nuôi ở Châu Âu, Châu
Á và Trung Đông (Teugels, 1986). Theo dẫn liệu từ (2009)
hệ thống phân loại của loài cá trê phi được xác định như sau :
Giới: Animalia
Ngành: Chordata
Lớp: Actinopterygii
Bộ: Siluriformes
Họ: Clariidae
Giống: Clarias
Loài: Clarias gariepinus (Burchell, 1822)

Tên tiếng Anh African Catfish.
Ở Việt Nam có tên địa phương: Cá trê phi
Cá trê phi là cá da trơn cá có màu xám tro nhạt xen kẽ với hoa vân màu cẩm
thạch 2 bên mặt lưng, dưới bụng có màu hơi xám trắng, cá có 8 râu (Nandi và ctv,
1992) (Hình 2.1), (Hình 2.2), (Hình 2.3). Theo Huỳnh Văn Dứt (2005), thân cá
trê phi hình trụ, đuôi dẹp, xương chẩm có hình “M” rất nhọn và rõ, đây là đặc
điểm phân biệt với các loài cá trê khác. Cá có cơ quan hô hấp phụ, có khả năng
sống trong môi trường khắc nghiệt, oxy hòa tan thấp, hàm lượng chất hữu cơ cao
(Phạm Minh Thành và ctv, 2009)

Hình 2.1 Cá trê phi Clarias gariepinus.

4


Hình 2.2 Đặc điểm hình thái của cá trê phi Clarias gariepinus
(Graaf và ctv, 1996)

Hình 2.3 Cơ quan sinh dục đặc trưng của cá trê phi (Graaf và ctv, 1996).

5

Theo Munro (1967) tính ăn của cá thay đổi theo trọng lượng thân và tùy thuộc
vào điều kiện môi trường sống, thức ăn của cá là côn trùng, sinh vật trôi nổi, ấu
trùng và cá có kích thước nhỏ. Theo Nandi và ctv (1992), cá có thể tiêu thụ thức
ăn ngoài sớm vào ngày thứ 2 hoặc thứ 3. Cá có thể tiêu thụ thức ăn nhân tạo từ
ngày thứ nhì với đạm thức ăn là đạm động vật. Ngoài ra, cá còn ăn các loài thực
vật và mùn bã hữu cơ. Cá trê mới nở có chiều dài 3,5-4mm (Nandi, 1996) và
trọng lượng 0,04 ± 0,003gr (Sahoo, 2004). Trong bể xi măng cá trê phi có thể
ương với mật độ từ 1000-2000 (con/m

2
) ở mức nước 0,2-0,3m, sau 20-25 ngày
ương cá có thể đạt chiều dài bình quân 4,0cm với tỉ lệ sống 50-60% (Nguyễn Văn
Kiểm, 2000).
Cá trê phi có tốc độ tăng trưởng nhanh nhất, trọng lượng lớn nhất trong các loài
cá trê được nuôi ở Đồng Bằng Sông Cửu Long. Tốc độ tăng trưởng của cá phụ
thuộc vào mật độ thả nuôi, số lượng và chất lượng thức ăn, điều kiện ao nuôi.
Nếu chăm sóc và quản lý tốt, sau thời gian nuôi từ 4-7 tháng cá có thể đạt 0,3-1
(kg/con) (Từ Thanh Dung và ctv, 1994), với mật độ thả từ 2-10 (con/m
2
) thì kích
cỡ thương phẩm là 200-500 (gr/con) sau 6 tháng nuôi. (Micha, 1976).
Một số nghiên cứu về đặc điểm thành thục sinh dục của cá trê phi đã khẳng định
buồng trứng cá trê Clarias gariepinus có 6 giai đoạn phát triển: Giai đoạn 1 tuyến
sinh dục là dải màu trắng, giai đoạn 2-3 trứng màu nâu đỏ sẫm, giai đoạn 4 trứng
màu xanh lá cây hoặc đỏ vàng, giai đoạn 5-6 trứng di động và rụng (Clay, 1979).
Trong tự nhiên cá sinh sản vào tháng 7 đến tháng 11. Cá trê phi thành thục theo
mùa, chu kì thành thục thay đổi theo năm và phụ thuộc vào nhiệt (Graaf và ctv,
1996). Cá sinh sản từ một đến hai lần trong năm tùy thuộc vào môi trường sống
(Nandi và ctv, 1992). Cá Trê phi cái có buồng trứng phát triển đầy đủ chiếm 5%
trọng lượng cơ thể cá. Tinh hoàn của cá đực phát triển ở độ tuổi 8-12 tháng
(Graaf và ctv, 1996).
Thời gian phát triển phôi trong nước phụ thuộc dưỡng khí và nhiệt độ nước.
Nhiệt độ nước tăng trong khoảng từ 20
0
C đến 30
0
C thì thời gian ấp dao động và
giảm tương ứng 57 giờ xuống 20 giờ (Janssen, 1987) (Hình 2.4).
Theo Nandi và ctv (1992), trứng và ấu trùng phát triển ở điều kiện oxy hòa tan

lớn hơn 6,0 mg/lít, NH
3
nhỏ hơn 0,05 (mg/lít), pH là 7,2 (mg/lít) và trong ao là
9,0 (mg/lít).

6


Hình 2.4 Giai đoạn phát triển đầu tiên của cá trê bột (Janssen, 1987).
Cá lớn hơn 17 cm có thể xác định giới tính bên ngoài theo dấu hiệu sinh dục phụ.
Nếu cá nhỏ hơn 13 cm thì có thể phân biệt giới tính bằng hình thái trứng và tinh
trùng bằng cách giải phẫu. Tuyến sinh dục cá đực là 2 dải và khi thành thục chứa
đầy tinh trùng xem (Hình 2.5) (Janssen, 1987).

Hình 2.5 Tinh hoàn cá trê phi: (1) lúc chưa thành thục, (2) lúc thành thục
(Janssen, 1987).

7

Theo Graaf (1994), cá trê phi có thể nuôi đơn hoặc nuôi ghép, cá chịu được điều
kiện môi trường nước xấu, nuôi được mật độ cao. Việc ấp và ương ấu trùng cá trê
phi cũng giống như các loài cá khác. Cơ quan hô hấp phụ của cá hoàn thiện trước
khi đạt tới giai đoạn cá giống và cá có thể sống trong điều kiện môi trường khó
khăn (Nandi và ctv, 1992).
2.2 Một số kết quả nghiên cứu chuyển giới tính của cá
Cá xương là lớp thấp nhất trong ngành phụ động vật có xương sống và đa số
được định đoạt giới tính bằng nhiễm sắc thể. Giới tính ở đa số cá được kiểm soát
bởi nhiễm sắc thể giới tính và chia ra hai giai đoạn. Giai đoạn đầu là định đoạt
giới tính xảy ra khi thụ tinh và phôi đực hay phôi cái được hình thành, giai đoạn
sau là biệt hóa tuyến sinh dục hình thành trong giai đoạn hậu phôi hay khi ấu

trùng nở ra từ trứng (Hình 2.6). Từ đây có thể hướng tuyến sinh dục phát triển
theo giới tính mong muốn bằng cách can thiệp vào giai đoạn này (Nguyễn Tường
Anh, 2001)
Theo Wang và ctv (2009), vùng gen quyết định giới tính nằm trên nhiễm sắc thể
Y (SRY) có từ phản ứng dây truyền polymerase, SRY quyết định giới tính đực và
sự di chuyển SRY đến nhiễm sắc thể X tạo ra con đực XX.

Hình 2.6 Sơ đồ kiểm soát giới tính ở động vật có vú (Nguyễn Tường Anh, 2001).
Ghi chú:
SRY: Vùng giới tính trên nhiễm sắc thể Y
TDF: Gen quyết định giới tính đực
AMDF: Nhân tố ức chế ống dẫn chứng

8

Theo Pandian và ctv (1995), cho biết có 47 loài (15 họ) có thể chuyển đổi giới
tính bằng một trong 31 hormon steroid (16 androgen và 15 estrogen). Trong đó
dùng phổ biến nhất là 17-α Methyltestosterone và 17-β Estradiol. Phương pháp
cho ăn hoặc ngâm là hai phương pháp được sử dụng. Trình tự hoạt tính của
androgen: Mibolerone > 19-nor-Ethynyltestosterone > 17-α Methyltestosterone >
Testosterone. Cường độ tiết của tuyến nội tiết khi chuyển giới tính giữa các nhóm
cá khác nhau: Cichlidae < Cyprinodondidae < Anabantidae < Poecilidae <
Salmonidae < Cyprinidae. Đối với cá đẻ con họ Poecilidae dùng liều 300-500
(mg/kg) thức ăn. Đối với những loài cá nuôi lấy thịt như họ cá hồi Salmonidae,
họ cá chép Cyprinidae sử dụng liều 50-200 (mg/kg) thức ăn, đối với những loài
cá kích thước nhỏ đẻ trứng thuộc họ cá rô Anabantidae và cá rô phi Cichlidae
dùng liều thấp 5-50 (mg/kg) thức ăn.
Hiện tại, phương pháp tạo ra cá toàn đực hoặc toàn cái được áp dụng cho 35
giống cá khác nhau: họ cá hồi Salmonids, cá chép Cyprinids, cá bảy màu
Poecilids, cá rô phi Cichlids, cá sặc Gouramies và cá lưỡi trâu Flatfishes

(Piferrer, 2001).
Khi cá mới nở, các tế bào của tuyến sinh dục vẫn đang trong giai đoạn phát triển
và chưa biệt hoá đực, cái. Khi biệt hoá đực cái, các tế bào bào kẽ của tuyến sinh
dục tiết ra hormon sinh dục, quyết định hình thành và phát triển các đặc điểm
sinh dục thứ cấp (Purdom, 1993).
Theo Phạm Thanh Liêm và ctv (2008) khi dùng hormone nhân tạo như MT với
liều lượng thích hợp ở giai đoạn sớm, lượng hormone này sẽ át chế hormone tự
nhiên có trong cơ thể cá cái hoặc át gen quyết định giới tính, vì thế cá sẽ có biểu
hiện kiểu hình là con đực.
Nhiều tác giả nghiên cứu chuyển đổi giới tính bằng hormon cho rằng: Khi dùng
liều càng cao thì tỉ lệ sống của cá chuyển giới tính càng thấp. Một điều nghịch lí
là khi dùng hormon sinh đực như testosterone thì kết quả đực hóa chỉ tăng khi
tăng liều xử lí và tới một giá trị nhất định, nếu vượt qua giá trị này thì tỉ lệ cái
tăng lên (Pandian và ctv, 1990).
Trong sản xuất giống, để thu được giới tính theo mong muốn, xu hướng sử dụng
hormone để điều khiển giới tính ở những cá con chưa biệt hóa giới tính bởi
những steroid ngoại sinh được nghiên cứu nhiều trên một số loài cá trước khi đưa
ra nuôi thịt. (Nguyễn Thanh Tuyền, 2008).
Dùng hormon đổi giới tính cá, có thể dẫn đến tỉ lệ tử vong cao ở cá có kiểu gen
đồng giao tử (XX hoặc ZZ). Tuy nhiên cá đổi giới tính thuộc họ cá chép
Cyprinidae và cá rô phi Cichlidae có thể tăng trưởng nhanh gấp 2 hoặc 3 lần khi

9

dùng liều tối ưu. Cá chuyển đổi giới tính bằng hormon có thể bị hạn chế về sinh
sản (Pandian và ctv, 1995).
Theo Nguyễn Tường Anh, (2001) điều khiển giới tính bằng hormon 17-α
Methyltestosterone, cá đổi giới tính được tạo ra là cá đực XX hoặc cá cái XY
hoặc cá bất thụ nếu cá được xử lí hormon hợp lí. Phần cơ bản của phương pháp
xử lí là loại hoạt chất, nồng độ xử lí, hình thức đưa vào cơ thể cá (hình thức cho

ăn, ngâm cá và tiêm), thời điểm bắt đầu và lượng thời gian xử lí. Một số trường
hợp chuyển giới tính được trích bởi (Nguyễn Tường Anh, 2001) trình bày ở
(Bảng 2.1)
Bảng 2.1 Một số trường hợp chuyển đổi giới tính cá bằng hormon cho kết quả đạt
gần 100% đực.
Thời gian xử lí
Loài & loại thuốc
Liều dùng
(mg/kg)
thức ăn
Hoặc
(ml/lít)
nước nuôi
Ngày tuổi
hoặc
kích thước
(mm)
Thời lượng
(ngày)
Ghi chú
Cá chép
Cyprinus carpio
Methyltestosterone
(MT)
200-500 Ngày thứ 2 30-50
1% ♂, 99% bất thụ
Basavaraja và ctv,
1988
Rô phi
O.mossambicus, MT

5-40 Ngày thứ 10 10
Pandian và ctv,
1987
Rô phi
O.niloticus, MT
30 11 mm 28
Liều > 60 mg/kg
làm tăng số cái và
lưỡng tính
Okoko và ctv, 1995
Rô phi O.mossambicus
Miboleron
0,5-0,75 Ngày 7 30 Nandeesha, 1989
Rô phi O.aureus
Mibolerone
1
(ngâm)
9-11 mm 28
Meriwether và ctv,
1986
Rô phi
O.mossambicus, MT
5-10
(ngâm)
Ngày 7-10 11-19
Varadaraj và ctv,
1987
Rô phi O.mossambicus
Ethyltestosterone
5 (ngâm)

thêm
DMSO
2,5ml/l
9-11 mm 28
Pandian và ctv,
1990
Rô phi O.aureus
Ethyltestosterone
10
(ngâm)
9-11 mm 28
Meriwetther và ctv,
1986
Rô phi O.niloticus
Mestanolone
0,5
(ngâm)
2 lần,
mỗi lần 3h,
ngày
10 & 13
sau thụ tinh
Gale và ctv, 1995
Cá xiêm
Betta splendens, MT
80-140 4-8 30 Jessy và ctv, 1988

10

Cá xiêm

Betta splendens, MT
15
Từ khi
biết ăn
40
Kavumpurath và
ctv, 1994
Cá xiêm
Betta splendens
19-Norethyltestosterone
8
Từ khi
biết ăn
40
Kavumpurath và
ctv, 1994
Cá xiêm
Betta splendens
11-Ketotestosteron
60
Từ khi
biết ăn
40
Kavumpurath và
ctv, 1994
Cá xiêm
Betta splendens
Androstenedion
90
Từ khi

biết ăn
40
Kavumpurath và
ctv, 1994
Cá bảy màu
Poecilids reticulata
Androstenedion
200
5-10 ngày
trước đẻ

Kavumpurath và
ctv, 1993
Cá bảy màu
Poecilids reticulata,
19-Norethyltestosterone
300
5-10 ngày
trước đẻ

Kavumpurath và
ctv, 1993
Cá bảy màu
Poecilids reticulata,
17-α Ethyltestosterone
500
5-10 ngày
trước đẻ

Kavumpurath và

ctv, 1993
Cá đuôi kiếm
Xiphophorus helleri,
MT
80-140 1 30 Jessy và ctv, 1988
Cá đuôi kiếm
Xiphophorus helleri,
MT
500 28
10 (xử lí
cách ngày)
Lim và ctv, 1992
Theo Lâm Minh Trí và ctv (1998), thực hiện cái hóa cá bảy màu với 2 loại
estrogen là Estradiol Propionat (EP) và Ethynylestradiol (EE) bằng cách cho cá
mẹ mang thai ăn thức ăn có chứa Estrogen trước khi đẻ 7 - 9 ngày. Kết quả cái
hóa với EP ở liều 400 (mg/kg) thức ăn là 91,03%; EE ở liều 250 (mg/kg) thức ăn
là 91,02%. Phạm Minh Truyền (2006) sản xuất cá rô phi đơn tính dòng GIFT với
phương pháp trộn hormone 17-α Methyltestosterone vào thức ăn (liều 60mg/kg
thức ăn) và bắt đầu cho cá bột ăn sau khi hết noãn hoàng đến ngày thứ 21. Kết
quả tỷ lệ chuyển giới tính trung bình đạt từ 92.6-93.1%. Đối với phương pháp
ngâm có tỉ lệ là 81,1-81,6%, 74-84%. Cá rô đồng cho ăn với liều 40 (mg/kg) thức
ăn với thời gian xử lí 2 tuần thì tỉ lệ cá được đực hóa là 93,12% (Đặng Khánh
Hồng, 2006).
Nghiên cứu chuyển đổi giới tính trên cá bảy màu (Poecilia sp.) với các nồng độ
hormone 30, 40, 45 (mg MT/kg) thức ăn, kết quả ở hàm lượng 45 (mg MT/kg)
thức ăn cho tỷ lệ đực cao nhất (Lê Thị Bình, 1998). Theo nghiên cứu của Trịnh
Quốc Trọng và ctv (1998) thì có thể đực hóa cá xiêm (Betta splendens Regan)
bằng phương pháp ngâm cá trong nước có hormone 17-α Methyltestosterone ở
các liều 0,1; 0,2; 0,5; 1,0; 2,5 và 5,0 mg/lít. Đồng thời có thể đực hóa cá xiêm
bằng phương pháp trộn MT vào thức ăn. Kết quả tỷ lệ đực cao nhất là 83,03% và

84,16% khi xử lý MT ở các nồng độ 2,5 và 5,0 mg/lít bằng phương pháp ngâm.

11

Đối với phương pháp trộn MT vào thức ăn thì tỷ lệ đực là 83,72% ở liều 40
mg/kg thức ăn. Lê Văn Thắng và ctv (1998) cho rằng chuyển giới tính cá rô phi
bằng phương pháp ngâm hormone thì thời gian xử lý ngắn hơn, tốc độ tăng
trưởng bình quân lớn hơn nhưng cho tỷ lệ sống 60% và tỷ lệ chuyển sang cá đực
(81,6 – 84,7%) thấp hơn so với phương pháp cho ăn hormone (tỷ lệ sống 67,2%
và tỷ lệ chuyển sang cá đực là 84,2 - 86,7%).
Theo Phạm Thị Thúy Em (2009) cho rằng có thể chuyển đổi giới tính cá la hán
bằng hormone 17-α

Methyltestosterone ở hàm lượng 60mg (MT/kg) thì thu được
cá toàn đực. Nguyễn Thanh Tuyền (2008) đã thành công trong việc tạo ra cá mè
vinh đơn tính cái bằng cách ngâm cá trong hormone 17-β Estradiol 4 ngày liên
tục khi cá được 17 ngày tuổi với nồng độ là 5 ppm. Tỷ lệ cái hóa cao đạt đến
79,2%.
2.3 Cải tiến giống cá trê phi bằng kỹ thuật chuyển đổi giới tính
Hormone MT tên đầy đủ là 17-α Methyltestosterone, còn được gọi là hormone
sinh dục nam tổng hợp, từ lâu đã được ứng dụng trong ngành thủy sản với tác
dụng tăng tỷ lệ cá đực trên nhiều loài thủy sản khác nhau như cá rô phi
Oreochromis niloticus (Lê Hoàn Hảo, 2009). Cá Trê bột Clarias lazera cho ăn
17-α Methyltestosterone với liều lượng 100 (µg/g) thức ăn, cho cá ăn 60 ngày. Cá
đực tạo ra bằng xử lí MT được tách riêng ra cho tham gia sinh sản, kết quả sinh
sản là toàn cái và chứng minh con cái là đồng giao tử. Con đực giả có 2 tinh hoàn
và một vài trứng chín trên ống dẫn tinh, điều này chứng minh xử lí MT làm cho
giới tinh đực đảo lộn với giới tính cái (Liu và ctv, 1996). Bằng phương pháp
ngâm cá trê Clarias gariepinus trong hormon Phytoestrogen 3 ngày với nồng độ
420 (mg/30 lít) cho tỉ lệ cá cái là 69,77% (Erdal Yılmaz và ctv, 2009).

Tuyến sinh dục cá trê phi được nghiên cứu từ ngày 12 đến ngày 114, đặc điểm
hình thành trứng được nhận biết bằng phương pháp mô học vào ngày 28 và ngày
thứ 42 đối với tinh hoàn. Dùng 17-α Methyltestosterone (30 µg/l) and 11-β
Hydroxyandrostenedione (300 µg/l) trong 4 tuần từ ngày 28 tuổi có tác dụng
chuyển đổi giới tính đực và không ảnh hưởng đến hệ số thành thục (GSI). Ở con
cái chỉ số di truyền giảm khi dùng liều MT cao và với liều dùng 100 (µg/l) từ
ngày tuổi 14 có hiệu lực chuyển đổi giới tính. Giới tính của cá ảnh hưởng bởi
dược lí hơn là sinh lí. (Hurk và ctv 1989).

12

CHƯƠNG 3
VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1 Địa điểm và thời gian nghiên cứu
3.1.1 Địa điểm nghiên cứu
Trại thực nghiệm cá nước ngọt, khoa Thủy Sản Trường Đại Học Cần Thơ.
3.1.2 Thời gian nghiên cứu
Các thí nghiệm được tiến hành hai đợt:
Đợt thí nghiệm 1: Từ tháng 03/2010 đến tháng 06/2010.
Đợt thí nghiệm 2:
Từ tháng 04/2010 đến tháng 07/2010.

Các thí nghiệm ương cá của hai đợt thí nghiệm được tiến hành hai giai
đoạn:
Giai đoạn 1: Từ khi xử lí hormon đến khi cá được 21 ngày tuổi.
Giai đoạn 2: Từ sau 21 ngày tuổi đến kết thúc thí nghiệm (cá 100 ngày tuổi).

3.2 Phương pháp nghiên cứu
3.2.1 Vật liệu nghiên cứu
Cá trê phi bột: Cá bột dùng bố trí thí nghiệm là từ cá trê phi bố mẹ thuần cho

sinh sản nhân tạo tại Trại thực nghiệm Khoa thủy sản.
Dụng cụ bố trí thí nghiệm: Gồm có thùng nhựa (70 lít) dùng ương cá trê phi
bột đến 21 ngày, bể xi măng có kích thước 1 m x 1 m x 1 m để ương cá từ 21
ngày đến 100 ngày.
Nguồn nước: Nước dùng bố trí thí nghiệm là nước ao chảy qua hệ thống lọc cát
đá, tại trại cá.
Hóa chất:
Hormon 17-α Methyltestosterone (Trung Quốc) dùng chuyển đổi giới tính cá.
LH-RHa (Trung Quốc) dùng sinh sản nhân tạo cá trê phi.
Aceto-carmin: 100 ml acetic acid 50%, 5g carmine (Trung Quốc) dùng để nhuộm
mẫu.
Thức ăn: Sử dụng thức ăn công nghiệp có hàm lượng đạm: 40% đạm (sản phẩm
Brine Shrimp Flakes của công ty TNHH thương mại - sản xuất Tân Chánh Phát,
thức ăn sử dụng cho tôm biển giai đoạn hậu ấu trùng) cho cá ăn từ giai đoạn cá

13

bột đến 21 ngày tuổi và thức ăn có hàm lượng đạm 35% đạm (sản phẩm
Aquafeed của công ty Grobest & I-Mei Industrial Việt Nam) với kích thước viên
thức ăn 1,06 mm cho cá ăn từ giai đoạn 21 ngày tuổi đến 100 ngày tuổi.
Các dụng cụ khác: Đá bọt, ống sục khí, máy thổi khí, máy bơm nước, ống PVC
R: 21 và ống nhựa R:16 dùng thiết kế hệ thống nước trong thí nghiệm.
Nhiệt kế và bộ test kit môi trường nước: Dùng theo dõi các chỉ tiêu môi trường
nước ương cá trong thời gian xử lí MT.
Dụng cụ thu mẫu: Vợt, thau, thùng nhựa.
Cân điện tử: Dùng cân trọng lượng cá.
Dụng cụ dùng giải phẫu cá: Lam, lame, kéo, kẹp.
Dụng cụ dùng để kiểm tra tổ chức tuyến sinh dục cá: Kính hiển vi quang học.
3.2.2 Phương pháp bố trí thí nghiệm.
Thí nghiệm 1: Đực hóa cá trê phi bằng phương pháp ngâm cá trong môi trường

có chứa hormon MT với nồng độ hormon khác nhau. Thí nghiệm gồm 04 nghiệm
thức có xử lí hormon MT với nồng độ xử lí: 3, 5, 7 mg/lít nước ương và nghiệm
thức đối chứng. Thí nghiệm được bố trí hoàn toàn ngẫu nhiên, mỗi nghiệm thức
được lập lại 3 lần, mật độ ương 8 con /lít ở đợt 1 (2 con /lít ở đợt 2) và thời gian
ngâm cá là 3 ngày.
Thí nghiệm 2: Đực hóa cá trê phi bằng phương pháp cho cá ăn thức ăn có trộn
hormon MT với nồng độ hormon khác nhau: Thí nghiệm gồm 05 nghiệm thức có
xử lí hormon MT với nồng độ xử lí: 30, 60, 90, 120 mg/kg thức ăn và nghiệm
thức đối chứng. Thí nghiệm được bố trí hoàn toàn ngẫu nhiên, mỗi nghiệm thức
được lập lại 3 lần, mật độ ương 8 con /lít ở đợt 1 (2 con /lít ở đợt 2) và thời gian
cho cá ăn có MT là 21 ngày. Thí nghiệm đợt 2 được bố trí nhằm kiểm chứng lại
kết quả thí nghiệm ở đợt 1.
Thí nghiệm 3: Đực hóa cá trê phi có ngày tuổi khác nhau ăn thức ăn có trộn
hormon MT với nồng độ 60 mg/kg thức ăn (Phạm Minh Truyền và ctv (2006),
ứng dụng quy trình sản xuất giống cá rô phi dòng gift đơn tính tại Trà Vinh ). Thí
nghiệm gồm 05 nghiệm thức với thời điểm xử lí hormon MT: 7, 8, 9, 10 ngày
tuổi và 1 nghiệm thức đối chứng. Thí nghiệm được bố trí hoàn toàn ngẫu nhiên,
mỗi nghiệm thức được lập lại 3 lần, mật độ ương 2 con t/lít và thời gian cho cá ăn
có MT là 21 ngày.

×