Tải bản đầy đủ (.pdf) (49 trang)

tìm hiểu một số chỉ tiêu sinh lý, sinh thái của cá sặc rằn (trichogaster pectoralis) giai đoạn phôi, cá bột, cá hương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (339.11 KB, 49 trang )


1

TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY ĐÔ
KHOA SINH HỌC ỨNG DỤNG










LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
CHUYÊN NGÀNH NUÔI TRỒNG THỦY SẢN
MÃ SỐ: 304


TÌM HIỂU MỘT SỐ CHỈ TIÊU SINH LÝ,
SINH THÁI CỦA CÁ SẶC RẰN
GIAI ĐOẠN PHÔI, CÁ BỘT, CÁ HƯƠNG









Sinh viên thực hiện
Ngô Đinh Thị Phương Thảo
MSSV: 0753040087

Lớp: NTTS K2





Cần Thơ, 2011

2

TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY ĐÔ
KHOA SINH HỌC ỨNG DỤNG










LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
CHUYÊN NGÀNH NUÔI TRỒNG THỦY SẢN
MÃ SỐ: 304



TÌM HIỂU MỘT SỐ CHỈ TIÊU SINH LÝ,
SINH THÁI CỦA CÁ SẶC RẰN
GIAI ĐOẠN PHÔI, CÁ BỘT, CÁ HƯƠNG









Cán bộ hướng dẫn Sinh viên thực hiện
Ts. Phạm Minh Thành Ngô Đinh Thị Phương Thảo
MSSV: 0753040087

Lớp: NTTS K2




Cần Thơ, 2011

3

XÁC NHẬN CỦA HỘI ĐỒNG BẢO VỆ LUẬN VĂN
TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

Luận văn: Tìm hiểu một số chỉ tiêu sinh lý, sinh thái của cá sặc rằn (Trichogaster

pectoralis) giai đoạn phôi, cá bột, cá hương.
Sinh viên thực hiện: Ngô Đinh Thị Phương Thảo
Lớp: Nuôi trồng thủy sản K2.
Luận văn đã được hoàn thành theo yêu cầu của cán bộ hướng dẫn và hội đồng bảo
vệ luận văn tốt nghiệp Đại học – Khoa Sinh Học Ứng Dụng – Trường Đại học Tây
Đô.


Cần Thơ, ngày tháng năm 2011
Cán bộ hướng dẫn Sinh viên thực hiện

(chữ ký) (chữ ký)





Ts. PHẠM MINH THÀNH NGÔ ĐINH THỊ PHƯƠNG THẢO

CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG
(Chữ ký)




Ths. NGUYỄN VĂN TRIỀU


4


LỜI CẢM TẠ
Sau 4 tháng thực tập từ tháng 02 năm 2011 đến tháng 06 năm 2011, tại trại giống thực
nghiệm trường Đại học Tây Đô, áp dụng những kiến thức đã học kết hợp với kinh
nghiệm thực tế, nay luận văn đã được chỉnh sửa và hoàn thành.
Trước hết tôi xin chân thành cảm tạ Ban Giám Hiệu trường Đại học Tây Đô đã tạo mọi
điều kiện thuận lợi cho tôi trong suốt thời gian học tập tại trường.
Tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc đến thầy Ts. Phạm Minh Thành
đã tận tình quan tâm, hướng dẫn chỉ bảo và tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tôi trong suốt
quá trình thực hiện đề tài tốt nghiệp một cách trọn vẹn.
Tôi xin chân thành cảm ơn đến tất cả quý Thầy, Cô Khoa Sinh Học Ứng Dụng – Trường
Đại Học Tây Đô đã tận tình dạy bảo, truyền đạt cho tôi những kiến thức quý báu trong
suốt thời gian học tập tại trường, động viên tôi trong thời gian thực hiện đề tài.
Cuối cùng tôi xin cảm ơn đến gia đình, bạn bè, và tập thể lớp thuỷ sản K2 đã giúp đỡ,
động viên tôi trong suốt quá trình học tập và thực hiện đề tài.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

Cần thơ, ngày tháng năm 2011
Sinh viên thực hiện





NGÔ ĐINH THỊ PHƯƠNG THẢO





5


TÓM TẮT
Đề tài: “Tìm hiểu một số chỉ tiêu sinh lý, sinh thái của cá Sặc Rằn (Trichogaster
pectoralis) giai đoạn phôi, cá bột, cá hương” được tiến hành từ tháng 2/2011 đến tháng
6/2011 tại trại giống thực nghiệm trường Đại học Tây Đô. Mục tiêu là thu thập một số
dẫn liệu về các chỉ tiêu sinh lý, sinh thái của cá ở giai đoạn phôi, cá bột, cá hương; góp
phần làm cơ sở cho biện pháp kỹ thuật ương nuôi loài cá Sặc Rằn đạt hiệu quả cao. Các
phương pháp nghiên cứu được xây dựng dựa theo “Hướng dẫn nghiên cứu cá” của
I.F.Pravdin 1973 và “Sinh thái học cá” của Nicolski (1963). Kết quả nghiên cứu trên đối
tượng là cá Sặc Rằn ở các giai đoạn phát triển phôi, cá bột, cá hương cho thấy:
Nhiệt độ không sinh học là 9,14±0,2
o
C.
Ngưỡng nhiệt độ trên của phôi, cá bột, cá hương có các giá trị tương ứng là 41±0,3
o
C;
41,5
o
C và 41,5±0,5
o
C.
Ngưỡng nhiệt độ dưới của phôi, cá bột, cá hương có các giá trị tương ứng là 11,5
o
C;
11,5±0,3
o
C; 10±0,3
o
C.
Ngưỡng oxy của phôi, cá bột, cá hương có các giá trị tương ứng là 1,3±0,05 mg/lít;

1,15±0,05 mg/lít; 2,25±0,05 mg/lít.
Cường độ hô hấp của phôi, cá bột, cá hương có các giá trị tương ứng là 2,2±0,1
mgO
2
/g/giờ; 1,3±0,05 mgO
2
/g/giờ; 1,15±0,05 mgO
2
/g/giờ.
Ngưỡng pH trên của phôi, cá bột, cá hương có các giá trị tương ứng là 10±0,2;
10,5±0,06; 10,5±0,15.
Ngưỡng pH dưới của phôi, cá bột, cá hương có các giá trị tương ứng là 4,5±0,06; 4±0,06
và 3,5±0,1.
Ngưỡng độ mặn của phôi, cá bột, cá hương có các giá trị tương ứng là 9,83±0,3‰;
11,17±0,3‰; 12,33±0,3‰.
Từ khóa: sinh lý, sinh thái, ngưỡng nhiệt độ, ngưỡng pH, ngưỡng độ mặn, ngưỡng oxy, cường độ hô hấp,
nhiệt độ không sinh học.

6

CAM KẾT KẾT QUẢ

Tôi xin cam kết luận văn này được hoàn thành dựa trên các kết quả nghiên cứu của tôi và
các kết quả của nghiên cứu này chưa được dùng cho bất cứ luận văn cùng cấp nào khác.

Cần Thơ, ngày tháng năm 2011
Ký tên




NGÔ ĐINH THỊ PHƯƠNG THẢO








7

MỤC LỤC
Trang
LỜI CẢM TẠ i
TÓM TẮT ii
MỤC LỤC iv
DANH SÁCH CÁC BẢNG vi
DANH SÁCH CÁC HÌNH vii
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT viii
CHƯƠNG 1 1
ĐẶT VẤN ĐỀ 1
1.1 Giới thiệu 1
1.2 Mục tiêu nghiên cứu 2
1.3 Nội dung nghiên cứu 2
CHƯƠNG 2 3
LƯỢC KHẢO TÀI LIỆU 3
2.1 Đặc điểm phân loại và hình thái 3
2.1.1 Phân loại 3
2.1.2 Hình thái 4
2.2 Phân bố 5

2.3 Khả năng thích ứng với môi trường 6
2.4 Đặc điểm sinh trưởng 6
2.5 Đặc điểm dinh dưỡng 7
2.6 Đặc điểm sinh sản 8
2.6.1 Thành thục sinh dục và đặc điểm phân biệt cá đực, cá cái 8
2.6.2 Sự sinh sản 9
2.7 Vai trò của một số yếu tố môi trường đối với đời sống thủy sinh vật 9
2.7.1 Vai trò của nhiệt độ 9
2.7.2 Vai trò của pH 11
2.7.3 Vai trò của oxy 12
2.7.4 Vai trò của độ mặn 13
2.8 Các giai đoạn phát triển của cá 13
CHƯƠNG 3 15
VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 15
3.1 Thời gian và địa điểm nghiên cứu 15
3.1.1 Thời gian 15
3.1.2 Địa điểm 15
3.2 Vật liệu nghiên cứu 15
3.2.1 Dụng cụ nghiên cứu 15
3.2.2 Đối tượng nghiên cứu 15
3.2.3 Thức ăn thí nghiệm 15

8

3.2.4 Nguồn nước cho thí nghiệm 16
3.3 Phương pháp tiến hành 16
3.3.1 Xác định nhiệt độ không sinh học 16
3.3.2 Xác định ngưỡng nhiệt độ 17
3.3.3 Xác định ngưỡng oxy 17
3.3.4 Xác định cường độ hô hấp 18

3.3.5 Xác định ngưỡng pH 19
3.3.6 Xác định ngưỡng độ mặn 21
3.4 Xử lý số liệu và đánh giá kết quả 23
CHƯƠNG 4 24
KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 24
4.1 Nhiệt độ không sinh học của cá Sặc Rằn (T
o
) 24
4.1.1 Điều kiện môi trường thí nghiệm 24
4.1.2 Nhiệt độ không sinh học 25
4.2 Ngưỡng nhiệt độ của phôi, cá bột, cá hương cá Sặc Rằn 25
4.2.1 Điều kiện môi trường thí nghiệm 25
4.2.2 Ngưỡng nhiệt độ của cá 26
4.3 Ngưỡng oxy của phôi, cá bột, cá hương cá Sặc Rằn 27
4.3.1 Điều kiện môi trường thí nghiệm 27
4.3.2 Ngưỡng oxy 27
4.4 Cường độ hô hấp của phôi, cá bột, cá hương cá Sặc Rằn 28
4.4.1 Điều kiện môi trường thí nghiệm 29
4.4.2 Cường độ hô hấp 29
4.5 Ngưỡng pH của phôi, cá bột, cá hương cá Sặc Rằn 30
4.5.1 Điều kiện môi trường thí nghiệm 30
4.5.2 Ngưỡng pH 30
4.6 Ngưỡng độ mặn của phôi, cá bột, cá hương cá Sặc Rằn 31
4.6.1 Điều kiện môi trường thí nghiệm 31
4.6.2 Ngưỡng độ mặn 31
CHƯƠNG 5 33
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT 33
5.1 Kết luận 33
5.2 Đề xuất 34
TÀI LIỆU THAM KHẢO 35

Phụ lục A 37

9

DANH SÁCH BẢNG

Trang
Bảng 4.1 Điều kiện môi trường thí nghiệm 24
Bảng 4.2 Thời gian phát triển phôi cá Sặc Rằn 25
Bảng 4.3 Nhiệt độ không sinh học của cá Sặc Rằn 25
Bảng 4.4 Điều kiện môi trường thí nghiệm 26
Bảng 4.5 Ngưỡng nhiệt độ của cá Sặc Rằn giai đoạn phôi, cá bột, cá hương 26
Bảng 4.6 Ngưỡng oxy của cá Sặc Rằn giai đoạn phôi, cá bột, cá hương 28
Bảng 4.7 Cường độ hô hấp của cá Sặc Rằn giai đoạn phôi, cá bột, cá hương 29
Bảng 4.8 Ngưỡng pH của cá Sặc Rằn giai đoạn phôi, cá bột, cá hương 30
Bảng 4.9 Ngưỡng độ mặn (‰) của cá Sặc Rằn giai đoạn phôi, cá bột, cá hương 32

10

DANH SÁCH HÌNH
Trang
Hình 1. Cá Sặc Rằn Trichogaster pectoralis (Regan, 1910) 4

Hình 2. Sơ đồ bố trí thí nghiệm xác định ngưỡng pH dưới 21
Hình 3. Sơ đồ bố trí thí nghiệm xác định ngưỡng độ mặn 23


11

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

D: vi lưng.
A: vi hậu môn.
P: vi ngực.
HSTT: hệ số thành thục
ĐBSCL : đồng bằng sông Cửu Long.


12

CHƯƠNG 1
ĐẶT VẤN ĐỀ

1.1 Giới thiệu
Trong những năm gần đây, ngành nuôi trồng thủy sản (NTTS) đã đạt được những thành
tựu to lớn, đóng góp đáng kể cho sự phát triển nền kinh tế quốc dân nói chung, cung cấp
nguồn thực phẩm quý giá cho con người, góp phần giải quyết việc làm cũng như nâng
cao chất lượng cuộc sống của người dân cả nước. Nổi bật nhất là vùng đồng bằng sông
Cửu Long (ĐBSCL) với diện tích rộng lớn xấp xỉ 4 triệu ha, chiếm 12% diện tích cả
nước. ĐBSCL có điều kiện tự nhiên thuận lợi cho phát triển NTTS, địa hình bằng phẳng,
đa dạng sinh cảnh, nguồn lợi dồi dào với hệ thống sông ngòi chằng chịt, khí hậu ấm áp
quanh năm. Những điều kiện thuận lợi như thế rất phù hợp cho việc phát triển nghề
NTTS, đặc biệt là phát triển nghề nuôi thủy sản nước ngọt.
Một trong những loài cá có giá trị kinh tế, góp phần phục vụ nhu cầu tiêu dùng cho con
người là cá Sặc Rằn – loài cá có giá trị kinh tế trong các vũng trũng phèn, rừng tràm,
ruộng lúa ven biển ở một số nước vùng Đông Nam châu Á như Thái Lan, Lào,
Campuchia, Indonesia và Việt Nam. Cá sặc rằn tuy có kích thước nhỏ nhưng có khả năng
khôi phục quần đàn nhanh nên có sản lượng cao trong các thủy vực tự nhiên. Với chất
lượng thịt ngon, thơm và dai, cá có thể được chế biến ở dạng tươi hoặc dạng khô, được
tiêu thụ khá mạnh cả ở nông thôn và thành phố. Cá sặc rằn được xem là đặc sản của vùng
ĐBSCL. Cá sặc rằn cũng là một loài thủy sản dễ nuôi, có phổ thức ăn rộng bao gồm mùn

bã hữu cơ, phiêu sinh động thực vật sẵn có trong môi trường nước… Cá cũng có khả
năng chịu đựng tốt với các điều kiện bất lợi của môi trường: mức nước thấp, độ trong
thấp, nhiệt độ cao, pH thấp và đặc biệt là chịu đựng được nước có hàm lượng oxy thấp
nhờ có cơ quan hô hấp phụ.
Tuy nhiên, trong những năm gần đây sản lượng cá tự nhiên nói chung và cá sặc rằn nói
riêng có sự giảm sút rõ rệt, cá có kích cỡ nhỏ cũng được khai thác triệt để. Đứng trước
tình hình đó, để có thể cung cấp đủ lượng cá giống đạt số lượng và chất lượng phục vụ
nhu cầu nuôi thì việc nghiên cứu hoàn thiện qui trình sản xuất giống nhân tạo loài cá này
là một yêu cầu cần thiết và có ý nghĩa to lớn. Trong suốt quá trình phát triển, sinh trưởng
và sinh sản, hầu hết các loài cá đều trải qua quá trình biến đổi phức tạp dưới tác dụng của
các yếu tố môi trường, trong đó nổi bật nhất là: nhiệt độ, oxy, pH và độ măn. Các yếu tố
này sẽ ảnh hưởng đến toàn bộ vòng đời phát triển của cá, từ khi còn là trứng trong bụng
mẹ cho đến khi đẻ ra môi trường bên ngoài. Trứng sau khi được thụ tinh sẽ trải qua quá

13

trình phát triển và sinh trưởng để trở thành cá thể trưởng thành và tham gia vào sinh sản.
Quá trình phát triển phôi và giai đoạn cá bột, cá hương sẽ chịu ảnh hưởng của các yếu tố
môi trường nhiều nhất. Đây là giai đoạn biến đổi sinh lý, sinh thái phức tạp, từ một trứng
đã được thụ tinh qua quá trình biến đổi dưới tác dụng của môi trường để trở thành ấu thể.
Ấu thể có hay không hoàn chỉnh hoặc phát triển đến giai đoạn phôi nang thì dừng lại, đều
chịu sự chi phối bởi: nhiệt độ, oxy, pH và độ mặn.
Để góp phần vào sự phát triển của kỹ thuật sinh sản nhân tạo và ương nuôi một số loài cá
ngọt, những giá trị của cá Sặc Rằn mang lại cho con người mà đề tài: “Tìm hiểu một số
chỉ tiêu sinh lý, sinh thái của cá Sặc Rằn (Trichogaster pectoralis) giai đoạn phôi, cá
bột, cá hương” được thực hiện.
1.2 Mục tiêu nghiên cứu
Thu thập một số dữ liệu về các chỉ tiêu sinh lý, sinh thái của giai đoạn phôi, cá bột, cá
hương của cá Sặc Rằn, để góp phần làm cơ sở cho các biện pháp phát triển kỹ thuật ương
nuôi loài cá Sặc Rằn đạt hiệu quả cao.

1.3 Nội dung nghiên cứu
Xác định nhiệt độ không sinh học của cá.
Xác định ngưỡng nhiệt độ, oxy, pH, độ mặn của phôi, cá bột và cá hương.
Xác định cường độ hô hấp của phôi, cá bột và cá hương.

14

CHƯƠNG 2
LƯỢC KHẢO TÀI LIỆU
2.1 Đặc điểm sinh học của cá Sặc Rằn
2.1.1 Hệ thống phân loại
Theo tham khảo một số tài liệu của tác giả Trương Thủ Khoa và Trần Thị Thu Hương
(1993), tác giả Lê Như Xuân (1997), hệ thống phân loại cá sặc rằn được sắp xếp như sau:
Ngành: Vertebrata
Ngành phụ: Craniata
Tổng lớp: Gnathostomata
Lớp: Osteichthyes
Lớp phụ: Actinopterygii
Tổng bộ: Pereomorpha
Bộ: Perciformes
Bộ phụ: Anabantoidei
Họ: Anabantoidae
Giống: Trichogaster pectoralis (Regan), 1910.
Ngoài tên gọi là cá sặc rằn, thì cá còn có các tên gọi khác (tùy vùng, địa phương hay mỗi
quốc gia có tên gọi khác nhau).
Tên địa phương: cá sặc rằn, cá sặc bổi, cá lò tho
Tên Thái Lan: Plasalis, Plabaimai
Tên Indonesia: Septasiam, Sibatsiam, Siem
Tên Malaisia: Sepatsiam
Tên Campuchia: Traycantho

Tên tiếng Anh: Snake Skin Gouramy.

15

2.1.2 Hình thái

Hình 1. Cá Sặc Rằn Trichogaster pectoralis (Regan, 1910)
Theo Trương Thủ Khoa và Trần Thị Thu Hương (1993) sau khi phân tích 23 mẫu trong
tổng số 30 mẫu thu được ở nhiều nơi tại vùng đồng bằng sông Cửu Long đã mô tả như
sau: D. (VI-VIII),(10-11). A. (X-XI),(35-40). P. 3,(7-8). V. 3-4. Vảy đường bên: 49-55.
Hệ số Depth= 2,4 (2,25-3,1).
Cá có đầu nhỏ, dẹp bên, mõm ngắn, miệng hơi trên, nhỏ, rạch miệng rất ngắn, góc miệng
cách xa bờ trước của mắt. Cá không có râu, lỗ mũi trước mở ra bằng một ống ngắn. Mắt
lớn vừa nằm trên trục giữa thân, gần chót mõm hơn gần điểm cuối nắp mang. Phần trán
giữa hai mắt cong lồi. Cạnh dưới xương trước mắt và xương nắp mang trước có gai mịn.
Lỗ mang lớn vừa, màng mang hai bên dính nhau nhưng không dính với eo mang.
Thân cá dẹp bên. Vảy lược, phủ khắp thân và đầu, có một số vảy nhỏ chồng lên gốc vi
hậu môn, vi đuôi, vi lưng, vi ngực. Đường bên bắt đầu từ mép trên lỗ mang cong lên phía
trên một đoạn ngắn rồi uốn cong đến trục giữa thân sau đó chạy ngoằn ngoèo đến điểm
giữa gốc vi đuôi.
Khởi điểm vi lưng ngang với vảy đường bên thứ 17-19 và gần như cách đều chót mõm và
điểm giữa gốc vi đuôi. Dài chuẩn tương đương 3,8 dài gốc vi lưng. Ở con đực trưởng
thành ngọn vi lưng kéo dài khỏi gốc vi đuôi, còn con cái thì ngọn vi lưng kéo dài chưa
đến gốc vi đuôi. Gốc vi hậu môn kéo dài, khởi điểm vi hậu môn ngang với vảy đường
bên thứ 5 và phần cuối nối với vi đuôi. Gai vi lưng, vi hậu môn cứng, nhọn. Tia phân
nhánh đầu tiên của vi bụng kéo dài có thể chạm đến ngọn vi đuôi. Vi đuôi chẻ hai, rảnh
chẻ cạn và phân cuối của hai thùy vi đuôi tròn.

16


Phần lưng của thân và đầu có màu xanh đen hoặc xám đen và lợt dần xuống bụng. Có
nhiều sọc đen nằm xiên vắt ngang thân cá, chiều rộng hai sọc lớn hơn khoảng cách hai
sọc. Ở cá nhỏ các sọc ngang chưa rõ nhưng có một sọc dọc chạy từ mõm đến gốc vi đuôi
và ở gốc vi đuôi có một chấm đen tròn, chấm và sọc này lợt dần và mất hẳn theo sự lớn
lên của cá. Vi cá có màu xanh đen hoặc xám đen.
Theo Trương Thủ Khoa và Nguyễn Minh Trung (1980) thì cá Sặc Rằn có những đặc
điểm sau:
Đầu nhỏ, dẹp bên. Mõm ngắn, nhọn. Miệng hơi hướng trên, nhỏ, khi khép miệng lại thì
mép miệng không chạm tới đường thẳng vuông góc kẻ từ viền trước của mắt. Môi cử
động được. Mắt lớn nằm trên trục giữa thân và gần chóp mõm, đường kính mắt bằng 1/5
chiều dài đầu. Chiều dài đầu bằng 1/5 chiều dài chuẩn, chiều cao thân bằng 2/5 chiều dài
chuẩn.
Ở xương hàm trên và xương hàm dưới có nhiều răng nhỏ, mịn. Lược mang có dạng sợi
rất dày, phân bố đều trên xương cung mang. Lỗ mũi trước mở ra bằng một ống ngắn.
Thân cá ngắn, dẹp bên. Dạ dày có kích thước to, vách dày, trên có một túi hình dạng
giống như bầu diều ở gà và kế đến là hai manh tràng khá dài. Ruột có đường kính nhỏ,
rất dài, vách mỏng, cuộn nhiều vòng. Vảy lược phủ khắp thân và đầu, có một số vảy nhỏ
chồng lên gốc vi hậu môn, vi đuôi, vi bụng và vi ngực.
2.2 Phân bố
Cá sặc rằn là loài cá nước ngọt nhưng có thể sống được ở nước lợ. Cá phân bố ở các thủy
vực nước ngọt thuộc Ấn Độ, Mã Lai, Thái Lan, Lào, Campuchia, Việt Nam và di giống
sang nhiều nước khác. (Lê Như Xuân và Phạm Minh Thành, 1994). Chúng phân bố rộng
rãi trong nhiều thủy vực như kênh rạch, ruộng lúa, ao, hồ… tại Lào. Ở Thái Lan, cá cũng
phân bố rất rộng trong các vực nước ngọt như ao, hồ, ruộng lúa, sông, suối…, tập trung
nhiều tại vùng đồng bằng trung tâm và không phân bố tự nhiên ở các tỉnh phía Bắc và
phía Tây. Chúng cũng phân bố rộng rãi ở Campuchia và một số tỉnh của bán đảo Đông
Dương (Hora and Pilay, 1962; trích bởi Nguyễn Thị Ngọc Thúy, 1998). Tại Việt Nam,
trong vùng châu thổ sông Mêkông cá phân bố tập trung trong các vùng trũng ngập nước
quanh năm, sinh sản tự nhiên trong ao, ruộng, kênh, mương nơi chúng cư trú; đặc biệt là
những nơi có nhiều cây cỏ thủy sinh với nhiều chất hữu cơ. Hai tỉnh Cà Mau, Kiên Giang

là vùng phân bố tập trung và có sản lượng cao hiện nay, loài cá này được nuôi phổ biến
trong ruộng lúa và ao hồ gia đình ở ĐBSCL.


17

2.3 Khả năng thích ứng với môi trường
Theo Nguyễn Văn Kiểm (2004), cá Sặc Rằn có khả năng chịu đựng được môi trường
nước bẩn, hàm lượng chất hữu cơ cao cũng như môi trường nước phèn có độ pH thấp
(pH = 4 – 4,5), nhiệt độ thích hợp cho cá phát triển và sinh trưởng là từ 25
o
C – 30
o
C,
nhiệt độ thích ứng của cá từ 11
o
C – 39
o
C.
Cá Sặc Rằn sống ở nước ngọt nhưng có thể sống được ở nước lợ. Chúng thích sống ở
những thủy vực có nhiều cây cỏ thủy sinh với nhiều chất hữu cơ là nguồn thức ăn tự
nhiên của cá. Chúng có cơ quan hô hấp khí trời, cơ quan này nằm ở mặt lưng của cung
mang thứ nhất và hình thành khi cá được 23 ngày tuổi, cá có thể lấy khí trời cho hoạt
động hô hấp của nó, vì vậy chúng có thể sống được ở điều kiện nước thiếu hoặc không có
oxygen. Dựa vào đặc điểm sinh học này của cá Sặc Rằn mà người ta có thể nuôi cá với
mật độ cao và vận chuyển chúng một cách dễ dàng (Dương Nhựt Long, 1999).
2.4 Đặc điểm sinh trưởng
Theo Lê Như Xuân và Phạm Minh Thành (1994), cá sặc rằn sau khi đẻ 20 giờ ở điều kiện
nhiệt độ 28-30
0

C trứng nở, lúc đầu cá nằm trên mặt nước và cử động liên tục, sau dần
dần di chuyển xuống lớp nước sâu hơn.
Cá 1 ngày tuổi dài 3mm, màu đen dinh dưỡng bằng noãn hoàng, nằm ngửa trên mặt nước
và bơi lội không định hướng. Cá có khoảng 14 đốt cơ thân.
Cá 3 ngày tuổi dài 4-5mm, trên thân có nhiều sắc tố đen nằm rải rác, ngoại trừ vi P đã có
và cử động mạnh, còn các vi lưng D và vi hậu môn A chưa xuất hiện. Cá dinh dưỡng
bằng thức ăn bên ngoài. Cá nằm sấp và thường tập trung nơi có ánh sáng.
Cá 5 ngày tuổi dài 5mm, noãn hoàng tiêu biến, xương nắp mang xuất hiện, tia mang hình
thành nhưng chưa đầy đủ. Tim có cấu tạo hoàn chỉnh gồm bầu động mạch, tâm nhĩ, tâm
thất.
Cá 7 ngày tuổi dài 6mm, xuất hiện vi lưng như một màng mỏng.
Cá 15 ngày tuổi dài 10-14,3mm, trên thân có sắc tố đen chạy từ sau mắt đến cuống đuôi
nhưng chưa rõ và chấm dứt bằng một đám sắc tố màu đen tròn. Ống tiêu hóa giống cá
trưởng thành (gồm miệng, thực quản, dạ dày, ruột). Hệ thống hô hấp bằng mang hoàn
chỉnh.
Cá 35 ngày tuổi dài 23-27mm, lưng màu đen, thân phủ vảy, vi đuôi, vi lưng, vi hậu môn
đã hoàn chỉnh. Ruột cuộn 1,5-2 vòng (cá có hình dạng của cơ thể cá trưởng thành). Lúc
này cá chuyển sang ăn thức ăn đặc trưng của loài.

18

Theo Lê Như Xuân (1997) thì cá Sặc Rằn là loài có tốc độ sinh trưởng chậm. Kể từ khi
nở, trong điều kiện thức ăn tự nhiên đầy đủ sau 6 tháng nuôi cá dài 7-9 cm, sau 9 tháng
cá dài 10-12 cm và sau 12 tháng cá dài 16-18 cm. Trong điều kiện nhiệt độ thích hợp 25-
35
0
C cá đạt trọng lượng khoảng 140-160gr/con sau 2 năm. Chiều dài tối đa của cá đạt
khoảng 25 cm.
Ở Việt Nam, nếu ương cá trong ao đất theo phương pháp bón phân gây màu và có bổ
sung thêm các loại thức ăn như cám gạo, bột đậu nành, bột cá , mật độ ương từ 300-

1400con/m
2
sau 30 ngày sẽ đạt trọng lượng 146,6-225,5mgr/con; và khi nuôi cỡ
0,2gr/con với mật độ 20-25con/m
2
, cho ăn phân heo tươi 3kg/100m
2
/ngày, cá đạt trọng
lượng 45-70gr/con sau 10 tháng, tương đương với năng suất 6,7 - 7,2 tấn/ha.
Ở ĐBSCL trong các ao nuôi cũng như trong các thủy vực tự nhiên sau 1 năm cá nặng 60-
80gr/con, 2 năm đạt trọng lượng 100-150gr/con. (Lê Như Xuân và Phạm Minh Thành,
1994).
Ở khu vực ĐBSCL, quan sát cá đực và cá cái cùng kích thước, thường cá đực có trọng
lượng nhỏ hơn cá cái, có thể là do trong quá trình sinh sản, cá đực phải giữ tổ và chăm
sóc cá con nên ăn ít, hoặc không ăn trong thời gian này.
2.5 Đặc điểm dinh dưỡng
Cũng như nhiều loài cá khác, ở thời kì đầu sau khi nở (khoảng 2,5 – 3 ngày), cá Sặc Rằn
dinh dưỡng bằng noãn hoàng, sau khi hết noãn hoàng cá chuyển sang ăn thức ăn bên
ngoài. Theo Phạm Minh Thành và Nguyễn Văn Kiểm (2009), noãn hoàng là nguồn vật
chất dinh dưỡng chính cung cấp năng lượng cho quá trình phát triển và được tiêu thụ chủ
yếu ở thời kì này. Thời gian cần thiết để hoàn thành thời kì này tùy thuộc vào lượng noãn
hoàng nhiều hay ít theo loài và tùy thuộc vào nhiệt độ nước. Những loài cá có khối lượng
noãn hoàng lớn so với khối lượng chung của phôi thì thời gian kéo dài (như tai tượng,
thát lát có khi tính bằng tuần), những loài có khối lượng noãn hoàng nhỏ thì thời gian
ngắn (như mè vinh, he vàng, bống tượng… có khi chỉ một hai ngày). Vào cuối thời kì
phôi tự do, noãn hoàng đã được sử dụng nhiều tới mức gần hết thì cá xuất hiện phase hỗn
dưỡng (phase chuyển tính ăn lần 1); cá vừa dinh dưỡng bằng năng lượng từ noãn hoàng,
lại vừa dinh dưỡng bằng năng lượng từ thức ăn được cá tiếp nhận trong môi trường nước.
Đặc trưng cho giai đoạn này là cá bột có kích thước nhỏ, chiều dài khoảng 4-5mm, cơ thể
yếu ớt, khả năng bắt mồi kém, phạm vi thức ăn hẹp, thiếu khả năng đối phó với điều kiện

bất lợi của môi trường và địch hại.
Thức ăn của cá Sặc Rằn ở thời kì đầu gồm nhiều loại như: phiêu sinh động vật (Protozoa,
Rotifera, Cladocera, Copepoda), phiêu sinh thực vật (Bacillarihyceae, Cyanophyceae,

19

Chlorophyceae… và thủy thực vật tan rã) (Hora and Pilay, 1962; trích bởi Nguyễn Thị
Thùy Trang, 1998).
Ở thời kì trưởng thành thì cấu tạo bộ máy tiêu hóa của cá sặc rằn dần được hoàn thiện,
phù hợp với loài ăn tạp. Những loại thức ăn thường xuyên bắt gặp và chiếm khối lượng
lớn trong ruột cá bao gồm: mùn bã hữu cơ, thực vật phiêu sinh, động vật phiêu sinh, mầm
non thực vật, cũng như các loại thực vật thủy sinh mềm trong nước. Ngoài những loại
thức ăn này, cá cũng sử dụng các loại thức ăn do con người cung cấp như: bột ngũ cốc
các loại, xác bã động thực vật, bột cá… Và khi thiếu thức ăn chúng có thể ăn cả trứng của
chính nó (Lê Như Xuân, 1993).
2.6 Đặc điểm sinh sản
2.6.1 Thành thục sinh dục và đặc điểm phân biệt cá đực, cá cái
Cá Sặc Rằn thành thục lần đầu sau 7 tháng tuổi (Hora and Pilay, 1962, trích bởi Nguyễn
Thị Thùy Trang, 1998). Ngoài ra sự phát triển tuyến sinh dục của cá sặc rằn ở ĐBSCL
theo mùa rất rõ. Vào mùa khô (tháng 1 – tháng 2) phần lớn cá ở giai đoạn II, sang tháng 3
giai đoạn III tăng dần và đã thấy xuất hiện những cá thể ở thời kì đầu của giai đoạn IV.
Trong khoảng thời gian ngắn của thời điểm giao mùa – từ mùa khô sang mùa mưa – là sự
chuyển biến rất nhanh của tuyến sinh dục. Thời kì này cá phần lớn ở giai đoạn IV, chỉ
một số ít cá ở giai đoạn III. Cá sinh sản suốt mùa mưa nên trong đàn luôn xuất hiện
những cá thể ở nhiều giai đoạn khác nhau (giai đoạn IV, V, VI) và giai đoạn trung gian
VI-II Vào cuối mùa mưa (tháng 10 – tháng 11), hệ số thành thục (HSTT) của cá giảm
dần và rất ít bắt gặp cá có tuyến sinh dục ở giai đoạn IV, phần lớn tuyến sinh dục của cá
lúc này ở giai đoạn VI, VI-II và giai đoạn II (Trương Thủ Khoa, Nguyễn Minh Trung,
1980 và Lê Như Xuân, 1993). Mặt khác, HSTT là một chỉ số quan trọng để đánh giá khả
năng sinh sản, cũng như các vấn đề có liên quan khác. Ở ĐBSCL, khi tuyến sinh dục

chuyển sang giai đoạn IV, HSTT cũng tăng dần và đạt giá trị cao vào tháng 5, tháng 6 với
số liệu lần lượt là 11,22% và 12,97%. HSTT giảm dần ở các tháng cuối mùa mưa, đầu
mùa khô (tháng 10, 11, 12, 1 và 2). (Trương Thủ Khoa, Nguyễn Minh Trung, 1980 và Lê
Như Xuân, 1993).
Khi thành thục có thể phân biệt dễ dàng cá đực, cá cái bằng các biểu hiện bên ngoài của
dấu hiệu sinh dục phụ như:
Ở cá đực, phần tia mềm của vi lưng kéo dài tới hoặc vượt khỏi gốc vi đuôi, các sợi sọc
đen từ lưng xuống bụng rất rõ. Các sợi sọc đen chạy dọc thân không liên tục, chấm đen ở
xương nắp mang không rõ, bụng thon cứng.

20

Còn ở cá cái, phần tia mềm của vi lưng ngắn, không kéo dài tới gốc vi đuôi, các sợi sọc
từ lưng xuống bụng không rõ. Các sợi sọc đen chạy dọc thân gần như liên tục, chấm đen
ở xương nắp mang rõ, bụng mềm rộng. (Lê Như Xuân, 1993).
2.6.2 Sự sinh sản
Trong tự nhiên, khi mùa mưa tới, nhất là sau những trận mưa rào đầu mùa, cá sặc rằn bắt
cặp và tìm đến vùng nước cạn, vùng nước ven bờ (ruộng lúa, ao nuôi, kênh, rạch, rừng
tràm, nơi có nhiều cây cỏ thủy sinh) để đẻ. Hoạt động sinh sản với làm tổ bằng bọt của cá
đực, sau đó trứng được đẻ ra ngoài được thụ tinh và cũng chính cá đực dùng miệng gom
trứng lại và đặt vào tổ bọt. Mỗi tổ khoảng 7000 – 8000 trứng, nhưng chỉ nở được khoảng
4000 cá bột. Kể từ khi trứng thụ tinh, trong điều kiện nhiệt độ nước từ 27-29
o
C cá nở sau
20-23 giờ. Trong suốt thời gian kể từ khi trứng đẻ tới nở và dinh dưỡng bằng noãn hoàng,
cá đực thường xuyên bơi lội quanh tổ để bảo vệ và dùng vây quạt nước cung cấp oxy cho
trứng (Lê Như Xuân, 1997).
Cá Sặc Rằn phân bố tự nhiên trong những vùng ở Thái Lan, mùa đẻ cũng kéo dài từ
tháng 4 đến tháng 10. Tuy nhiên khi nuôi trong ao, có cho ăn, cá đẻ quanh năm và không
có mùa rõ rệt (Hora and Pilay, 1962, trích bởi Nguyễn Thị Ngọc Thúy, 1998). Theo

Nguyễn Văn Kiểm (2004) thì cá Sặc Rằn đẻ quanh năm nhưng tập trung vẫn là vào
những tháng mùa mưa từ tháng 4-10.
2.7 Vai trò của một số yếu tố môi trường đối với đời sống của thủy sinh vật
2.7.1 Vai trò của nhiệt độ
Nhiệt độ là nhân tố môi trường ảnh hưởng rất lớn đến quá trình quang hợp của tảo, đời
sống của cá và sự phân hóa vật chất hữu cơ trong thủy vực làm thay đổi hàm lượng khí
hòa tan trong thủy vực. Khi nhiệt độ thay đổi sẽ ảnh hưởng đến chu kỳ phát triển của
những loài vi khuẩn, phiêu sinh vật, quá trình sinh trưởng, sinh sản và phát triển của cá.
(Đặng Ngọc Thanh, 1974)
Mặt khác, nhiệt độ là yếu tố cần thiết mà không thể thiếu được đối với đời sống của thủy
sinh vật, đặc biệt là các loài cá. Cá là động vật biến nhiệt, nhiệt độ ảnh hưởng rất lớn đến
hoạt động sống, quá trình sinh học xảy ra trong cơ thể cá như trao đổi chất, hô hấp, sinh
trưởng và cường độ bắt mồi của cá.
Sự phát triển của phôi cá rất nhạy cảm đối với sự thay đổi của nhiệt độ. Khi các yếu tố
của môi trường có giá trị trong khoảng thích ứng thì sự thay đổi của nhiệt độ có ảnh
hưởng quyết định tới tốc độ phát triển của phôi. Ảnh hưởng của nhiệt độ ở thời kỳ phôi
vị, hình thành các đốt cơ và thời kỳ phần đuôi tách khỏi noãn hoàng rõ ràng hơn so với

21

các thời kỳ khác của quá trình phát triển phôi. (Phạm Minh Thành, Nguyễn Văn Kiểm,
2009)
Khi nhiệt độ tăng thì thời gian nở của trứng rút ngắn và ngược lại, khi nhiệt độ tăng cao,
gần tới cực đại của nhiệt độ thích ứng thì thời gian nở của trứng chênh lệch không đáng
kể. Theo Chung Lân và csv (1969) thời gian phát triển phôi cá mè trắng ở nhiệt độ nước
20
o
C là 50h, ở 25
o
C là 24h và ở 30

o
C là 16h.
Khi nhiệt độ thay đổi quá lớn, ngoài giới hạn nhiệt độ thích hợp, cá có một số biến dị
hình thái tương ứng. Khi nhiệt độ thấp thì số đốt sống đuôi tăng lên. Tác động của nhiệt
độ làm thay đổi số lượng đốt sống đuôi cá chỉ xảy ra ở giai đoạn phân tiết cơ thể cá (Mai
Đình Yên và csv., 1979).
Trong phạm vi nhiệt độ thích hợp, khi nhiệt độ tăng sẽ thúc đẩy quá trình trao đổi chất
của cơ thể qua đó ảnh hưởng đến sinh sản của cá (Dương Tuấn, 1981).
Theo Châu Thị Hoàng Điệp (2000) đối với cá Sặc Rằn nếu đem ấp trứng cá ở nhiệt độ
26
o
C - 26,5
o
C thời gian nở là 21h – 22h và nếu khi ấp trứng ở nhiệt độ 32
o
C – 33
o
C thời
gian nở 17h – 18h. Tuy nhiên, tỷ lệ dị hình thường cao hơn khi ấp trứng ở nhiệt độ 27
o
C
– 29
o
C.
Hầu hết các loài cá nuôi có xuất xứ phân bố ở ĐBSCL và những vùng phân bố có vĩ độ
thấp thì nhiệt độ thích hợp cho phôi phát triển từ 27-31
0
C.
Theo Nguyễn Văn Bé (1995), nhiệt độ thích hợp cho đa số các loài cá nuôi là từ 20-30
o

C,
giới hạn nhiệt độ cho phép là 10-40
o
C. Nhiệt độ thích hợp cho cá sặc rằn là 24-30
o
C,
nhưng cá có thể chịu đựng được nhiệt độ từ 11-39
o
C (Lê Như Xuân và Phạm Minh
Thành, 1994).
Trong suốt quá trình phát triển phôi có hai thời kỳ nhạy cảm nhất với các yếu tố môi
trường. Đó là thời kỳ phôi vị và thời kỳ phần đuôi tách khỏi noãn hoàng. Ở thời kỳ này
mọi sự thay đổi đột ngột các yếu tố môi trường (nhất là nhiệt độ) đều có ảnh hưởng xấu
đến phôi (tỷ lệ dị hình, tỷ lệ phôi chết cao trước khi nở). Khi nhiệt độ 30-31
o
C tỉ lệ dị
hình của phôi 60-70% và tỉ lệ phôi chết trước khi nở 50-60%. Trong giới hạn thích hợp
của nhiệt độ (28±2
o
C) nhưng biên độ thay đổi lớn (T
o
>2) đều có ảnh hưởng tới sự phát
triển phôi. (Nguyễn Văn Kiểm, 2004).
Theo Trương Quốc Phú (2006), nhiệt độ thích hợp cho cá tôm vùng nhiệt đới nằm trong
khoảng 25-32
o
C. Tuy nhiên cá có thể chịu đựng được nhiệt độ trong khoảng 20-35
o
C.


22

2.7.2 Vai trò của pH
pH là một trong những nhân tố môi trường có ảnh hưởng rất lớn trực tiếp và gián tiếp đến
đời sống thủy sinh vật như: sinh trưởng, tỉ lệ sống, sinh sản và dinh dưỡng. pH thích hợp
cho thủy sinh vật là 6,5-9. Khi pH môi trường quá cao hay quá thấp đều không thuận lợi
cho quá trình phát triển của thủy sinh vật. Tác động chủ yếu của pH khi quá cao hay quá
thấp là làm thay đổi độ thẩm thấu của màng tế bào dẫn đến làm rối loạn quá trình trao đổi
muối-nước giữa cơ thể với môi trường ngoài. Do đó, pH là nhân tố quyết định giới hạn
phân bố của các loài thủy sinh vật. (Trương Quốc Phú, 2006).
pH phụ thuộc vào tính chất đất, nguồn nước. Ngoài ra nó còn phụ thuộc gián tiếp qua quá
trình quang hợp và hô hấp của thủy sinh vật, quá trình phân hủy vật chất hữu cơ và cả
hoạt động của con người. Nếu nguồn nước tốt, quá trình cải tạo tốt thì pH tương đối ổn
định, không gây hại cho quá trình phát triển của thủy sinh vật nói chung và cá nói riêng.
Cũng theo Nguyễn Văn Bé (1995) nhận xét thì pH là một trong những yếu tố môi trường
ảnh hưởng rất lớn đến đời sống của thủy sinh vật. pH của máu tất cả các động vật đều
gần bằng 7.
pH còn ảnh hưởng gián tiếp đến cá qua khâu thức ăn: trong các ao có pH thấp vi sinh vật
hoạt động rất yếu hay ngưng hoạt động làm cản trở quá trình chuyển hóa các chất hữu cơ
thành các muối vô cơ hòa tan – môi trường nghèo dinh dưỡng – hạn chế sự phát triển của
động thực vật phù du và động vật đáy – hạn chế thành phần thức ăn tự nhiên của cá –
năng suất cá nuôi sẽ giảm.
Theo Nguyễn Văn Kiểm (2004) thì hầu hết các loài cá đều không có khả năng phát triển
trong môi trường có pH quá cao (môi trường kiềm) hoặc quá thấp (môi trường acid), (pH
< 5 hoặc pH > 8). Nhưng điều quan trọng nhất là pH phải ổn định, bất kỳ một sự thay đổi
nào dù rất nhỏ về pH cũng làm cho trứng ngừng phát triển hoặc làm cho phôi bị dị tật, dị
hình. Do vậy nguồn nước cung cấp cho quá trình ấp phải có pH ổn định để hạn chế
những ảnh hưởng xấu đến quá trình phát triển phôi.
pH có ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển phôi, quá trình dinh dưỡng, sinh trưởng và sinh
sản của cá. Cá sống trong môi trường có pH thấp sẽ chậm phát dục, nếu pH quá thấp sẽ

không đẻ hoặc đẻ rất ít (Trương Quốc Phú, 2006). pH tốt nhất là 7, tuy nhiên mỗi loài cá
khác nhau thích ứng với một khoảng pH khác nhau. Khoảng pH thích hợp cho các loài cá
nước ngọt từ 6.5-7.5, đầm nuôi tôm, cá nước lợ khoảng 8.3. Đa số các loài cá có thể chịu
đựng một giới hạn rộng của pH từ 5-9 (Nguyễn Văn Bé, 1995). Theo Lê Như Xuân và
Phạm Minh Thành (1994) cá sặc rằn có thể sống ở khoảng pH= 4.5-9.

23

2.7.3 Vai trò của oxy
Oxy là chất khí quan trọng nhất trong số các chất khí hòa tan trong môi trường nước. Nó
rất cần đối với đời sống sinh vật, đặc biệt đối với thủy sinh vật, vì hệ số khuếch tán của
oxy trong nước nhỏ hơn rất nhiều so với trong không khí.
Oxy có trong môi trường nước chủ yếu là sản phẩm của quá trình quang hợp của thực vật
thủy sinh và sự khuếch tán từ không khí vào. Oxy trong môi trường nước được tiêu thụ
do thủy sinh vật hô hấp, sự phân hủy các hợp chất hữu cơ có trong nước ở nền đáy thủy
vực. Hàm lượng oxy quá bão hòa có thể khuếch tán trở lại không khí, do sự thay đổi
nhiệt độ và áp suất.
Theo Nguyễn Văn Kiểm (2004), trong từng giai đoạn phát triển của phôi, tùy đặc điểm
của từng loại trứng mà nhu cầu về oxy cũng khác nhau. Những loại trứng bán trôi nổi, có
hàm lượng carotenoid thấp, thường cần môi trường có hàm lượng oxy hòa tan cao hơn so
với loại trứng có hàm lượng carotenoid cao hơn.
Cá Sặc Rằn có cơ quan hô hấp khí trời nên sống được ở điều kiện môi trường nước thiếu
hoặc không có hàm lượng oxygen. Tuy nhiên, cá bột từ 7 ngày tuổi trở về sau có thể hô
hấp bằng cơ quan hô hấp khí trời (mê lộ). Vì vậy giai đoạn phôi và cá bột mới nở cần
phải cung cấp đầy đủ oxy cho chúng. Nếu hàm lượng oxy quá thấp sẽ làm cho cá bị chết
ngạt trong môi trường nước và ngược lại, nếu hàm lượng oxy quá cao cũng không có lợi
cho sự sống của cá.
Theo Tuyết Minh (1999) thì nồng độ oxy hòa tan trong nước thích hợp cho cá hoạt động
sinh trưởng và phát triển là 5ppm để đảm bảo cho phôi phát triển bình thường.
Theo Phạm Minh Thành và Nguyễn Văn Kiểm (2009) trong hầu hết trường hợp, hàm

lượng oxy hòa tan trong nước thấp hơn 2ppm thì phôi sẽ chết ngạt, phôi phát triển bình
thường khi hàm lượng oxy từ 3mg/l trở lên. Nồng độ oxy hòa tan trong nước lý tưởng
cho tôm cá là trên 5mg/l. Nhu cầu oxy của trứng tăng dần theo quá trình phát triển nhưng
sẽ tăng đột ngột từ giai đoạn xuất hiện mầm đuôi, nhất là giai đoạn trước và sau khi nở.
Cũng theo Swingle (1969) thì nồng độ oxy hòa tan trong nước lý tưởng cho tôm, cá là
trên 5ppm. Tuy nhiên, nếu hàm lượng oxy hòa tan vượt quá mức độ bão hòa cá sẽ bị
bệnh bọt khí trong máu, làm tắc nghẽn các mạch máu dẫn đến não và tim đưa đến sự xuất
huyết ở các vây, hậu môn. (Trương Quốc Phú và csv, 2006).
Nắm vững điều kiện sinh thái cho phôi thai phát dục và tạo điều kiện thích hợp nhất cho
trứng nở là một khâu quan trọng nhất để nâng cao tỷ lệ nở của trứng.

24

Lượng tiêu thụ oxy của cá mè trắng ở mỗi giai đoạn trong quá trình phát dục cá thể có
khác nhau rất rõ rệt. Do đặc trưng cường độ dinh dưỡng cao, tốc độ tăng trưởng nhanh
mà cá con có đòi hỏi cao về hàm lượng oxy hòa tan. Giai đoạn còn nhỏ, cá con có
ngưỡng oxy cao, cao nhất đó là giai đoạn phôi tự do và cá bột. Vì vậy, cá rất dễ bị chết
khi môi trường thiếu oxy. Lượng oxy tiêu thụ nhiều nhất là trước và sau khi nở, đặc biệt
là trong giai đoạn cá bột, sau đó giảm dần.
2.7.4 Vai trò của độ mặn
Nồng độ muối là một nhân tố môi trường quan trọng có ảnh hưởng đến quá trình nở của
trứng. Trong thiên nhiên, nhu cầu về muối của cơ thể động vật thủy sinh và quan hệ về
nồng độ muối giữa cơ thể và môi trường ngoài được thể hiện rõ rệt nhất ở giới hạn phân
bố theo nồng độ muối (Nguyễn Văn Thường, 1999). Mỗi loài có một khoảng nồng độ
muối thích hợp. Ngoài khoảng này, động vật phải sử dụng năng lượng của các quá trình
sinh trưởng, phát triển,… để phục vụ cho việc điều hòa áp suất thẩm thấu của cơ thể.
Tương tự, mỗi loài có nồng độ muối thích hợp cho quá trình phát triển phôi. Nếu nằm
ngoài khoảng này, phôi sẽ không điều hòa được áp suất thẩm thấu dẫn đến ấu trùng bị dị
hình hoặc không nở được. Nếu trong môi trường có nồng độ muối quá cao, lượng ion đi
vào tế bào sẽ quá khả năng điều hòa của cơ thể, làm cho nồng độ muối trong tế bào tăng

lên. Hiện tượng này sẽ làm tế bào bị mất nước, vì thế mà thiếu nước phục vụ cho quá
trình trao đổi chất, điều này làm cho tế bào phát triển chậm hơn (Thân Trọng Ngọc Lan,
2005).
Độ mặn phù hợp cho sự phát triển tốt nhất dao động trong khoảng từ 8-20‰, nhưng
không phải tất cả đều theo quy luật đó mà có sự liên quan đến cường độ trao đổi chất cơ
bản thấp nhất mà chúng có thể duy trì. Đối với rất nhiều loài cá nói chung thì quá trình
thụ tinh và ấp trứng, sự hình thành túi noãn hoàng, giai đoạn tiền phôi và sự tăng trưởng
của ấu trùng đều phụ thuộc lớn bởi độ mặn. Còn đối với các loài cá lớn, độ mặn là yếu tố
chủ chốt quyết định quá trình tăng trưởng.
2.8 Các giai đoạn phát triển của cá
Theo Nicolski (1963) một chu kỳ sống của cá trải qua 5 giai đoạn; bao gồm:
-Giai đoạn phôi: đặc trưng của giai đoạn này là cá dinh dưỡng bằng noãn hoàng. Giai
đoạn này được chia thành 2 giai đoạn phụ là: thời kỳ phụ trứng và thời kỳ phụ phôi tự do.
Thời kỳ phụ trứng là thời kỳ phôi phát triển trong vỏ trứng. Thời kỳ phụ phôi tự do là
thời kỳ sau khi trứng đã nở.

25

-Giai đoạn ấu trùng: đặc trưng cơ bản của giai đoạn này là cá không có hình thái ổn định,
không có đặc trưng hình thái của cá mẹ. Đồng thời, giai đoạn này thức ăn ưa thích và phù
hợp với cá là động vật phù du.
-Giai đoạn tiền trưởng thành: giai đoạn này cá có hình thái giống cơ thể mẹ và chưa có
khả năng sinh sản.
-Giai đoạn trưởng thành: đặc trưng cơ bản là cá có khả năng sinh sản.
-Giai đoạn già: chức năng sinh dục giảm cùng với cường độ dinh dưỡng.

×