Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

CON NGƯỜI và THIÊN NHIÊN TRONG TRUYỆN NGẮN của SƯƠNG NGUYỆT MINH từ góc NHÌN PHÊ BÌNH SINH THÁI đỗ THỊ NGỌC THANH CH VHVN k18

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (150.23 KB, 14 trang )

CON NGƯỜI VÀ THIÊN NHIÊN TRONG TRUYỆN NGẮN
CỦA SƯƠNG NGUYỆT MINH TỪ GĨC NHÌN PHÊ BÌNH SINH THÁI

(Đỗ Thị Ngọc Thanh – Lớp Cao học Văn học Việt Nam K18)

Tóm tắt: Sương Nguyệt Minh là một nhà văn quân đội, có nhiều đóng góp vào sự
đổi mới văn xi sau năm 1975. Ông là tác giả của bảy tập truyện ngắn, hai tập bút kí –
tản văn và mới đây nhất là tiểu thuyết Miền hoang. Sáng tác của nhà văn được khơi
nguồn cảm hứng từ chính cuộc sống. Gần đây, các vấn đề về môi trường ngày càng
được quan tâm: lũ lụt, hạn hán, biến đổi khí hậu… Cùng với các ngành khoa học khác,
văn học cũng góp phần thay đổi nhận thức của con người về cách ứng xử đối với thiên
nhiên – người bạn đồng hành không thể thiếu cho sự tồn tại và phát triển của con người.
Truyện ngắn của nhà văn Sương Nguyệt Minh bên cạnh những bức tranh cuộc sống với
muôn nẻo số phận con người còn thể hiện nỗi niềm của thiên nhiên bị tàn phá và những
bi kịch phía sau ấy. Đồng thời, trong các truyện ngắn của nhà văn, ta có thể nhận thấy
sự gắn bó, hịa điệu giữa con người và tự nhiên. Những trang viết của Sương Nguyệt
Minh đã chạm sâu đến những vấn đề cốt lõi của phê bình sinh thái.
Từ khóa: Sương Nguyệt Minh, thiên nhiên và con người
1. Dẫn nhập
Từ xa xưa, con người và thiên nhiên có mối quan hệ gắn bó với nhau. Trong quá
trình lao động, sinh sống, con người nhận thấy thiên nhiên có sức mạnh, có tiếng nói
riêng. Điều này thể hiện rất rõ thông qua hệ thống các truyện kể dân gian: Thần trụ trời,
Ơng trời, thần mưa, thần gió… Trải qua bao thế kỷ, con người vừa cải tạo, vừa tàn phá
thiên nhiên và có những lúc phải gánh chịu những hậu quả nặng nề. Hẳn ta còn nhớ
truyện dân gian Thần lúa, vị thần này đã nổi giận vì sự phũ phàng của con người nên đã
trừng phạt bằng cách bắt con người phải lao động khổ nhọc mới có được hạt lúa. Và đơi
khi cay nghiệt hơn nữa, nữ thần không cho các bông lúa nảy bông. Phải chăng ngay từ
thời xa xưa, con người đã nhận thấy cách ứng xử giữa thiên nhiên và con người? Đó là
điều con người hiện đại cần suy nghĩ lại, khi mỗi năm môi trường sống lại càng bị tàn
phá nặng nề hơn! Văn học nghệ thuật không tách rời mà luôn song hành cùng các
ngành khoa học khác trong hành trình bảo vệ màu xanh của Trái Đất.


Nhà văn Sương Nguyệt Minh đặc biệt thành công với thể loại truyện ngắn và trở
thành một phong cách độc đáo trong nền văn xuôi Việt Nam sau năm 1975. Truyện
ngắn của Sương Nguyệt Minh khắc khoải những nỗi niềm của một người lính bước ra


từ chiến trường, về những điều chưa làm được cho đồng đội của mình và cả những suy
tư, trăn trở về cuộc sống hiện đại, luyến tiếc vẻ đẹp yên bình của nơng thơn đang dần
thay đổi. Khơng chỉ vậy truyện ngắn của nhà văn Sương Nguyệt Minh còn chứa đựng
những thông điệp sinh thái đầy ý nghĩa như Sâm cầm Hồ Tây, Nơi hoang dã đồng vọng,
Chuyến đi săn cuối cùng… Đọc truyện ngắn của nhà văn Sương Nguyệt Minh, người
đọc sẽ nhận thấy những cảnh báo về nguy cơ sinh thái và nỗi bất an của con người thời
hiện đại. Thiên nhiên bị đối xử một cách tàn bạo, con người phá vỡ mơi trường sinh thái
vì lợi ích của mình. Chính vì vậy, truyện ngắn của nhà văn Sương Nguyệt Minh đã
chạm sâu vào những vấn đề của văn học sinh thái.
2. Sơ lược về phê bình sinh thái
Thuật ngữ sinh thái học (ecology) có nguồn gốc từ chữ Hy Lạp: oikos (nhà, nơi ở)
và logos (khoa học, học thuật). Hiểu đơn giản, sinh thái học là khoa học nghiên cứu về
“nhà”, “nơi ở” của sinh vật. Hiểu rộng hơn, sinh thái học là khoa học nghiên cứu mối
quan hệ giữa sinh vật với môi trường xung quanh.
Khuynh hướng phê bình sinh thái (ecocriticism) được hình thành ở Mĩ vào giữa
những năm 90 của thế kỉ XX. Có rất nhiều định nghĩa về phê bình sinh thái, trong đó
định nghĩa của Glotfelty được xem là ngắn gọn và dễ hiểu hơn cả. Phê bình sinh thái là
nghiên cứu mối quan hệ giữa văn học và môi trường tự nhiên. Trong bài giới thiệu
“Nghiên cứu văn học trong thời kì khủng hoảng mơi trường” của Tuyển tập Phê bình
sinh thái, các mốc quan trọng trong sinh thái học, Glotfelty đã thể hiện tầm quan trọng
của phương pháp tiếp cận trái đất là trung tâm (earth-centered approach) để nghiên cứu
văn học. “Bạn sẽ nhanh chóng nhận ra rằng chủng tộc, giai cấp, và giới tính trở thành
những vấn đề nóng bỏng vào những năm cuối thế kỉ XX. Thế nhưng, bạn cũng sẽ
không bao giờ biết được rằng sự sống của Trái đất – cái nền tảng đang làm nhiệm vụ
chống đỡ tất cả những hệ thống ấy – là cái đang nằm sâu bên dưới tất cả những giao

tranh căng thẳng đó. Thật vậy, có thể bạn sẽ không bao giờ biết được rằng, dù thế nào,
trên tất cả những điều ấy, là chúng ta chỉ có duy nhất một Trái đất mà thôi” 1.
Trong tiểu luận Một số nguyên tắc của phê bình sinh thái (Some Principles of
Ecocriticism), từ góc độ của từ nguyên, William Howarth đã định nghĩa phê bình sinh
thái thành “phán quyết việc nhà”. “Eco (sinh thái) và Critic (nhà phê bình) đều có
nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp, xuất phát từ oikos và kritis. Ý nghĩa của hai từ này ghép lại
chính là “phán quyết việc nhà” (house judge). Điều này sẽ khiến rất nhiều người yêu
thích lối viết xanh và đề tài hướng về thế giới bên ngoài lấy làm kinh ngạc. Cụm từ
“phán quyết việc nhà” có thể được giải thích dài dịng và quanh co như sau: Nhà phê
bình sinh thái là “người đánh giá những ưu nhược tốt xấu trong các tác phẩm miêu tả
ảnh hưởng của văn hóa đến tự nhiên, chủ trương ca ngợi tự nhiên, lên án kẻ tàn phá tự
nhiên và thông qua hành động chính trị để làm giảm bớt sự thương tổn của tự nhiên” 2.


Nhiệm vụ của phê bình sinh thái là qua văn học thể hiện văn hóa ứng xử của con
người với tự nhiên. Con người đang đối mặt với nhiều nguy cơ sinh thái và phê bình
sinh thái cảnh tỉnh mọi người về sự khai thác, tận diệt tự nhiên quá mức, nhắc nhở con
người về vị trí của mình trong sinh quyển. Phê bình sinh thái nhấn mạnh sự tồn tại độc
lập của tự nhiên, tự nhiên có tiếng nói riêng của mình.
3. Truyện ngắn – khởi đầu làm nên sự thành công trong sự nghiệp của nhà văn
Sương Nguyệt Minh
Nhà văn Sương Nguyệt Minh,sinh ngày 15-9-1958, tên thật là Nguyễn Ngọc Sơn,
q ở n Mỹ, n Mơ, Ninh Bình. Lúc đầu, nhà văn lấy bút danh là Sơn Nguyệt Minh
(Lấy tên Sơn của nhà văn, tên vợ là Nguyệt và tên con trai là Minh, ghép lại thành Sơn
Nguyệt Minh). Dạo mới viết, nhà văn hay in ở báo Quân đội nhân dân, bài gửi đi đến
khi báo ra cứ thành Sương Nguyệt Minh. Từ đó, nhà văn đành lấy bút danh là Sương
Nguyệt Minh, và bút danh ấy tồn tại đến bây giờ.
Ông là nhà văn quân đội, đến với nghiệp văn chương khá muộn màng, năm 1992,
lần đầu tiên có truyện ngắn (Nỗi đau dịng họ) đăng trên Tạp chí văn nghệ quân đội.
Nhưng Sương Nguyệt Minh đã chứng tỏ khả năng của mình sau đó, góp mặt vào những

nhà văn tiêu biểu sau năm 1975 với những đổi mới, sáng tạo.
Các nhà phê bình văn học tìm ra con đường vận động trong văn chương của Sương
Nguyệt Minh đi từ “hiện thực – lãng mạn” đến “hiện thực – lãng mạn và kỳ ảo” gắn với
nhiều mảng đề tài sinh động: chiến tranh, lịch sử, thiên nhiên, thế sự… Ở mảng đề tài
nào, chúng ta cũng nhận thấy sự lao động công phu của một nhà văn luôn trăn trở với
những vấn đề của xã hội, con người. Những trang văn chính là sự trải nghiệm sâu sắc
về cuộc đời, về những gì mà nhà văn đã chứng kiến. Khuất Quang Thụy trong lời mở
đầu tập truyện ngắn Mười ba bến nước của Sương Nguyệt Minh đã viết rằng “Vì có
may mắn được cùng làm việc với anh nhiều năm nên tôi cũng được chứng kiến và can
dự vào những trăn trở, những cuộc vật lộn chống chọi để thốt ra khỏi những cái thơng
thường mịn nhẵn trong q trình sáng tác của Sương Nguyệt Minh”.
Đó là khi nhà văn viết và cho in truyện ngắn Người ở bến sơng Châu. Ơng cứ trăn
trở bởi đây là một hiện thực rất lạ ở chiến tranh Việt Nam mà ít người chú ý đến: người
trở về từ chiến trường lại là một người con gái chứ không phải một anh lính, và người
kết hơn khơng phải là một người phụ nữ chờ đợi quá lâu mà không thấy người ra đi trở
về. Người kết hôn lại là người đàn ơng “Ngày dì Mây khốc ba lơ trở về làng, chú San
đi lấy vợ…”. Đó là trăn trở khi in truyện ngắn Mười ba bến nước. Không phải là
mườihai bến nước thơng thường trong cách nói dân gian. Cái đau khổ của con người là
khi cứ lênh đênh mãi, không biết đâu là bờ bến, không biết đâu là điểm dừng. Điều ấy
mới thật là bất hạnh.
Tâp truyện ngắn Dị Hương của nhà văn ngay từ khi phát hành đã gây sự chú ý đối
với bạn đọc. Một cuộc tranh luận sôi nổi trên các tờ báo, các website với các ý kiến
1

Glotfetly C. (1996), “Introduction: Literary Studies in an Age of Enviromental Crisis”, The Ecocritiicism Reader. Landmarks
in Literary Ecology edited by Cheryll Glotfelty and Harold Fromm, University of Georgia Pressxv – xxxvi, p.xxi.
2
Nguyễn Thị Tịnh Thy, Rừng khô, suối cạn, biển độc… và văn chương, nhà xuất bản khoa học xã hội, trang 148



khen, chê khác nhau. Rõ ràng, điều ấy chứng tỏ được sự quan tâm của dư luận, sự yêu
mến của cơng chúng đối với những tác phẩm có chất lượng nghệ thuật cao, chứa đựng
tư tưởng sâu sắc. Đến với Dị Hương, nhà phê bình Ngơ Văn Gía đã tặng cho nhà văn ba
chữ “Hoạt – Phiêu – Thõa” (Hoạt là sự linh hoạt trong trần thuật, Phiêu là sự chuyển
đổi bút pháp từ tâm linh đến siêu thực, Thõa là “chất liệu sex được viết một cách rất cao
tay”). Tập truyện đã thể hiện sự vượt thoát ra khỏi những điều thông thường và thể hiện
sự đổi mới trong những trang văn của Sương Nguyệt Minh.
Nhiều truyện ngắn của ông đã được dựng thành phim như: Người ở bến sông
Châu, Mười ba bến nước… và đã tạo được tiếng vang lớn. Có thể nói rằng, truyện ngắn
là bước khởi đầu đầy thành công của nhà văn Sương Nguyệt Minh. Để sau đó, tiểu
thuyết Miền hoang như một bước ngoặt trong sự nghiệp sáng tác của ông, dẫn dắt người
đọc vào thế giới nghệ thuật phong phú của nhà văn.
Đặc biệt, trong truyện ngắn của nhà văn, ta có thể nhận thấy sự đồng cảm đặc biệt
với thiên nhiên. Khung cảnh thiên nhiên của quê hương là bối cảnh cho những truyện
ngắn của ông. Thiên nhiên hiện lên thật nhẹ nhàng, giản dị, đậm đà phong vị quê hương
trên khắp mọi miền q của đất nước. Có lẽ vì vậy, Sương Nguyệt Minh được nhà phê
bình văn học Nguyễn Hồng Đức mệnh danh là “nhà văn của những cảnh sắc đồng quê
lung linh”. Đọc truyện ngắn của nhà văn, ta cảm nhận được thế giới thiên nhiên, cảm
nhận được tâm hồn của chính mình. Cái tài của nhà văn là khơi dậy những rung động
thẩm mĩ, những tình cảm tốt đẹp trong mỗi con người chúng ta.
4. Mối quan hệ giữa con người và thiên nhiên trong truyện ngắn của nhà văn
Sương Nguyệt Minh
4.1. Sự hủy diệt thiên nhiên
Cùng với sự phát triển của khoa học kĩ thuật, sự bùng nổ dân số… thì nhu cầu cuộc
sống của con người càng gia tăng. Con người vừa cải tạo thiên nhiên theo hướng tích
cực vừa tàn phá thiên nhiên một cách vô tội vạ. Hẳn mỗi người chúng ta phải giật mình
trước những con số thống kê về diện tích đất rừng bị phá, lũ lụt, sạt lỡ, hạn hán… hằng
năm? Phải chăng mẹ thiên nhiên cũng đang phẫn nộ với những hành vi ngang ngược,
cố chấp của con người? Thế nhưng con người dường như vẫn chưa nhận thức hết hành
vi hủy hoại mơi trường sống của mình. Đây đó trong cuộc sống vẫn có những người bất

chấp tất cả vì lợi ích riêng của cá nhân.Cùng với các ngành khoa học khác, văn học
cũng góp phần thay đổi nhận thức của con người về cách ứng xử đối với thiên nhiên –
người bạn đồng hành không thể thiếu cho sự tồn tại và phát triển của con người. Truyện
ngắn của nhà văn Sương Nguyệt Minh bên cạnh những bức tranh cuộc sống với mn
nẻo số phận con người cịn thể hiện nỗi niềm của thiên nhiên bị tàn phá và những bi
kịch phía sau ấy.
Cụ thể, trong sáng tác của mình, nhà văn đã chỉ ra rằng con người xem tự nhiên là
đối tượng để khai thác. Khát vọng làm giàu khiến con người như bị mờ mắt, tận diệt


các khu rừng, săn bắn tràn lan, tách động vật khỏi môi trường sống hoang dã. Truyện
ngắn Sâm cầm Hồ Tây là một minh chứng rõ ràng cho hành động tàn bạo của con
người. Từ bao đời nay, chim sâm cầm hiền lành và ln gắn bó với người dân làng quê,
chim và người sống thân tình, gần gũi. Thế rồi đời sống khấm khá lên, người ta đổ xô đi
tìm đặc sản. “Người giàu thường hay sợ chết. Người giàu tuổi cịn trẻ chết thì tiếc lắm,
chết để vợ đẹp cho ai, tiền bạc của nả cho ai và chơi bời chưa được là bao. Người giàu
càng nhiều tuổi chết lại càng tiếc hơn, tiếc vì thời gian hưởng thụ quá ngắn. Vậy nên
bồi bổ và kéo dài tuổi thọ là mục tiêu hàng đầu của các ông chủ mới phất” 3. Ta có thể
nhận thấy giọng triết lí của nhà văn Sương Nguyệt Minh, đời sống càng khá giả, nhu
cầu con người càng tăng cao, con người càng sợ chết và tìm mọi cách để kéo dài tuổi
thọ của mình. Các nhà hàng đặc sản mọc lên như nấm, khách kéo về càng đông, dân
làng lại càng ham bắt chim sâm cầm để bán lấy tiền. Họ bất chấp tất cả, kể cả việc ngày
càng vắng những cánh chim sâm cầm trên cánh đồng quê, cả việc chim sâm cầm sợ hãi
không về nơi quen thuộc nữa.
Truyện ngắn Nơi hoang dã đồng vọng cũng góp thêm tiếng nói lên án hành vi tàn
bạo của con người với thiên nhiên. Cuộc sống càng hiện đại, con người lại càng có cách
tận hưởng cuộc sống về đủ mọi mặt. Đơi khi, chính cách tận hưởng của họ khiến ta nghi
ngờ về lối sống hiện đại ấy. “Chát. Dùi đục phang mạnh. Miếng chỏm đầu con mèo
trắng bay khỏi lưỡi tràng bạt sáng loáng. Eo. Mèo trắng vẫn kịp gào lên một tiếng. Rồi
nước đái nó tức thì bắn vọt vào mặt ông chủ. Thân mèo co rút, giật giật. Cả bốn thực

khách cười hô hố. Ộc. Ộc. Rượu tràn ly. Bốn vị cầm bốn thìa múc. Mỗi lần thìa thọc
vào óc con mèo, chân nó lại co lên”4. Con người tự cho mình quyền hạn làm chủ và tận
diệt tự nhiên. Hành vi của các vị thực khách qua cách viết của Sương Nguyệt Minh hiện
lên thật thản nhiên và tàn nhẫn.
Không chỉ săn bắt vô tội vạ mà hành vi tách động vật ra khỏi môi trường hoang dã
cũng là tội ác. Trong truyện ngắn Chuyến đi săn cuối cùng, Mại là con của thợ săn
chuyên nghiệp, tường nhà anh treo nhiều loại móng vuốt, sừng, da thú… Mỗi lưu vật là
cuộc đời một con thú. Anh được thừa hưởng cái nỏ săn cha để lại và chỉ khi truy đuổi
đến cùng những con khỉ phá rẫy ngô của mình, Mại đã nhận ra hành vi ấy là vơ nhân
đạo. Mại đã chứng kiến một cảnh tượng khiến anh thay đổi nhận thức.Khi mũi tên
anhbắn ra làm khỉ đực bị thương, khỉ cái đã rút mũi tên ra và nhai lá thuốc đắp vào bả
vaikhỉ đực, nó cịn biết nặn sữa cho khỉ đực uống. Dù là động vật hoang dã, chúng vẫn
có cuộc sống của mình, có tình cảm, có tiếng nói riêng. Đó cũng là một gia đình nhỏ
trong bầy khỉ rừng. Và con người cần phải tơn trọng điều ấy.
Ngồi săn bắn thì q trình đơ thị hóa kéo theo hệ quả đào núi, lấp sơng… cũng
ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường sống của các loài động vật. Điều này được thể
hiện rất tinh tế trong sáng tác của nhà văn Sương Nguyệt Minh. Cách viết cuả Sương
Nguyệt Minh độc đáo ở điểm: ta càng đọc kĩ, càng nhận thấy nhiều lớp ý nghĩa ẩn giấu


bên trong
những
trang
chữ.
động
tiêubảncực
người được thể hiện khéo léo
Sương
Nguyệt Minh,
Đi qua

đồngSự
chiềutác
(2005),
Nhà xuất
Thanhcủa
Niên, con
trang 142
Sương Nguyệt Minh, Đi qua đồng chiều (2005), Nhà xuất bản Thanh Niên, trang 115
trong tâm trạng các nhân vật. Đó có thể là sự tiếc nuối vì làng q khơng cịn những
cảnh n bình, khơng cịn những điều quen thuộc gần gũi, là nỗi bồi hồi lẫn cả sự cô
đơn của con người… Truyện ngắn Động làng đã miêu tả được những tác động tiêu cực
ấy. Qúa trình đơ thị hóa đã dẫn đến việc khai thác một cách ồ ạt mà không biết đến hậu
quả. Những hành động của chúng ta vơ tình đã phá hủy nơi sinh sống, phát triển một
cách tự nhiên của các loài động thực vật. Bởi vậy, nhân vật Tâm cảm thấy “ngỡ ngàng
khơng nhận ra ngơi nhà của mình in đẫm kỉ niệm tuổi ấu thơ. Đâu rồi cây sung nằm
vươn mình che một góc ao sâu. Đâu rồi bè lục bình nở hoa tím ngắt nhởn nhơ trên mặt
nước in bóng trời xanh cùng với các tảng mây trơi. Mãi mãi chẳng cịn đêm đêm khơng
ngủ ngồi trên bờ nhìn cá mè ngóng trăng và giật mình nghe sung chín rụng dưới góc ao.
Người ta lấp ao, nhà tơi ra mặt đường”5.
Sương Nguyệt Minh sinh ra và lớn lên ở vùng đất Ninh Bình, nơi núi non trùng
điệp và có nhiều danh lam thắng cảnh nổi tiếng như Tràng An, Tam Cốc, Bích Động…
Ninh Bình cịn được biết đến bởi nơi đây chính là kinh đơ đầu tiên của nước Việt Nam.
Khung cảnh thiên nhiên và văn hóa của quê hương đi vào trong những câu văn của ông
một cách tự nhiên như máu thịt. Nhà văn Tạ Duy Anh đã viết trong lời tựa Người ở bến
sông Châu: “May mắn lớn nhất cho Sương Nguyệt Minh, đúng hơn cho chức phận nhà
văn của ơng, là ơng có cho riêng mình một mảnh đất của văn chương để trụ vững lại.
Cái mảnh đất đó chính là vùng bán sơn địa n Mơ – Ninh Bình với đầy đủ những yếu
tố để làm nên một vũ trụ, đi vào thế giới tinh thần của ơng như những gì vừa thực, vừa
bí ẩn, vừa có sức cám dỗ ma mị như sau này ông vẽ lên, tái tạo ở hầu hết những tác
phẩm”. Đọc truyện ngắn của ơng, ta cịn nhận ra nỗi niềm luyến tiếc về vẻ đẹp yên

bình, thơ mộng của làng quê đang dần bị biến đổi dưới sự tác động tiêu cực của con
người. Đó chính là tấm lịng của một người con ln hướng về q hương và nhận thấy
những đổi thay hằng ngày, trong đó, có những điều mãi mãi mất đi khơng bao giờ tìm
lại được.
4.2. Con người nạn nhân trong mối quan hệ giữa con người với tự nhiên
Phê bình sinh thái đã thể hiện rằng tự nhiên cũng có địa vị của nó: “Mặc dù con
ngườiđã bỏ ra bao nhiêu nỗ lực để giữ cho mình cái địa vị thống trị, thì có phải tự nhiên
chỉ mang một thân phận lệ thuộc hay không khi thực sự chúng ta đã và đang tiếp tục
được nó nhắc nhở lại về một thứ địa vị thực sự thông qua mỗi trận động đất, mỗi lần núi
lửa phun trào, những ngôi sao chổi vụt qua, cũng như việc khơng ai có thể dự đốn
được một cách chính xác sự thay đổi thất thường của thời tiết”6.
Trong văn học thế giới, từng có rất nhiều nhà văn viết về những trải nghiệm trước
sự khắc nghiệt của tự nhiên.Có thể kể đến nhà văn tiêu biểu là Jack London với những
tác phẩm như: Tiếng gọi nơi hoang dã, Tình u cuộc sống, Nhóm lửa… Ơng đã mơ tả
cuộc sống của người dân vùng Bắc cực, quanh năm phải đối mặt với cái giá buốt, tuyết
3
4


Nguyệt
Minh,
Đi qua đồng
(2005), Nhà
xuất bản
Thanh
Niên,
phủ, vớiSương
những
thử
thách

củachiều
tự nhiên.
Văn
học
thời
kìtrang
sau89cũng thể hiện sự khắc nghiệt
Rigby K. (2014), Chapter 7 : “Ecocritisim”, Introducing Critism at the twenty – First Century, Edinburgh UP, Đặng Thị Thái
của tự nhiên
tính
thờinhìnsựphêrất
vấntácđề
biến
đổi khí
hậu,Nguyễn
hiệuMinh
ứng
Hà dịch, nhưng
Phụ lục luậnlại
vănmang
Cái tự nhiên
từ điểm
bình rõ
sinhkhi
thái (Qua
phẩm
của Nguyễn
Huy Thiệp,
Châu, Nguyễn Ngọc Tư), Luận văn Thạc sĩ, Đại học Sư phạm Hà Nội
nhà kính, động đất, sóng thần… ngày một gia tăng. Các nhà văn với trách nhiệm nghề

nghiệp và thiên chức của mình đã khơng rời xa các vấn đề mang tính tồn cầu này.
Việt Nam là một nước nông nghiệp và bởi vậy, tự nhiên có vai trị quan trọng đối
với cư dân nông nghiệp. Con người vừa cải tạo tự nhiên theo hướng có lợi nhưng con
người cũng âu lo trước những biến đổi của tự nhiên. Ngày trước, bước chân ra, con
người phải “trông trời trông đất trông mây”, phụ thuộc rất nhiều vào tự nhiên. Ngày nay
cùng với sự phát triển của khoa học kĩ thuật, con người chủ động hơn trong canh tác,
thu hoạch… Nhưng con người cũng đang đối mặt với những vấn đề về sự khắc nghiệt
của tự nhiên như: hiệu ứng nhà kính, ngập mặn, khơ hạn, động đất… Con người tồn tại
và phát triển trong, cùng và với môi trường tự nhiên. Khi chỉnh thể sinh thái của tạo
hóa bị hủy hoại thì sự sống của bản thân con người tất sẽ bị đe dọa cả thể chất lẫn tinh
thần7.
Lũ lụt vẫn là thảm họa kinh hoàng của con người ở khắp nơi trên thế giới. Điều này
đã được thể hiện trong các tác phẩm văn học từ xưa đến nay. Truyền thuyết Sơn Tinh,
Thủy Tinh trong kho tàng văn học dân tộc không chỉ là một câu chuyện về tình u mà
cịn phản ánh quy luật dâng nước lũ hằng năm. Ngay từ thời xưa, con người đã ý thức
được sức mạnh và nỗi vất vả của con người khi đối mặt với sự khắc nghiệt của tự nhiên.
Về sau này, truyện ngắn Sống chết mặc bay của Phạm Duy Tốn cũng thể hiện nỗi khốn
khổ của con người trước hiện tượng lũ lụt, đê vỡ. Giai cấp thống trị bóc lột về mọi mặt,
cộng với đê vỡ, nước lũ dâng cao, cuộc sống của người dân đang bị đẩy vào bước
đường cùng.
Truyện ngắn Tiếng lục lạc trong đêm của Sương Nguyệt Minhvẽ ra khung cảnh hỗn
loạn của con người trong cơn lũ. “Nước ngập mênh mông, củi khô, cành cây tươi,rều
rác, gà chết trôi lều bều trên sông Đáy. Rồi vỡ đê nước tràn vào làng Yên Hạ, làngchìm
sâu dưới nước”8. Sau khi cơn lũ đi qua, mọi người vẫn chưa thể khắc phục ngay hậu
quả được, họ kể cho nhau nghe những câu chuyện kinh hồng trong cơn lũ “Nhà nọ ở
xóm trên, nước lụt mấp mép mái bằng, phải đưa cả người cả con trâu nái lên sân
thượng. Bây giờ, nước rút không tài nào đưa trâu xuống được, suốt ngày nó đóng móng
cồng cộc, ỉa đái trên mái bằng… Người lại nói: Buổi sáng hơm bão tan, ở xã dưới, ông
lão kéo vó bè kéo phải một người đàn bà chết ngồi”9.
TựNguyễn

nhiên
nhởConcon
người
vềtrong
sứcvănmạnh
mình.
từtrang
bỏ 117
thái độ
Thị nhắc
Ánh Nguyệt,
người
và tự nhiên
xi VN của
sau năm
1975 từ Con
góc nhìnngười
phê bình cần
sinh thái,
Sương Nguyệt Minh, Mười ba bến nước (2003), Nhà xuất bản Thanh Niên, trang 45
cao ngạo,
làm bá chủ đối với tự nhiên. Điều này cũng đã được Ph. Engels chỉ ra
Sương Nguyệt Minh, Mười ba bến nước (2003), Nhà xuất bản Thanh Niên, trang 49
“Không nên quá tự hào về những thắng lợi của chúng ta đối với tự nhiên. Bởi vì cứ
mỗilần ta đạt được một thắng lợi, là một lần giới tự nhiên lại trả thù chúng ta” 10. Sáng
tác của nhà văn Sương Nguyệt Minh đã thể hiện sự trả giá của con người trước những
hành động ngỗ ngược với tự nhiên.
5
6


7
8
9


Những gì đang diễn ra khiến tự nhiên dường như bị tổn thương và tự nhiên cũng
đang phản ứng lại với những hành vi của con người. Đó có thể là sự rời bỏ những nơi
quen thuộc, chứa chan tình cảm giữa tự nhiên và con người như trong truyện ngắn
Chim sâm cầm lại về. Khi con người cố tình tận diệt, săn bắt vô tội vạ chim sâm cầm để
bán cho các nhà hàng đặc sản thì những mùa đơng sau đó, chim sâm cầm khơng về.
Động vật cũng có tình cảm, có cách nghĩ của mình, nhận ra nơi nguy hiểm, chúng
không về nữa là lẽ tất nhiên.
Con người đã tự tay phá vỡ mối quan hệ gắn bó yêu thương với tự nhiên để trở
thành những kẻ hủy hoại môi trường sống của nhiều loại động thực vật. Truyện ngắn
Chuyến đi săn cuối cùng của nhà văn Sương Nguyệt Minh đã phản ánh một hiện thực
rằng con người đang đào núi, phá rừng kết hợp săn bắn theo kiểu tận diệt đã gieo rắc
những nguy hiểm lên đời sống của động vật. Ngôi nhà xanh của chúng khơng cịn, thức
ăn ngày càng khan hiếm thì việc quay lại phá làng cũng là một hệ quả tất yếu kéo theo.
“Nương ngơ xanh đang độ bắp đọng sữa, có bắp trổ sớm, râu bắt đầu heo héo cũng bị
vặt tóac bẹ, đạp gẫy rạp cây, bắp non bị gặm nham nhở rơi lỏng chỏng” 11.
Phật giáo nhấn mạnh giết hại động vật là tạo nghiệp cho mình. “Tất cả chúng sinh
đều có ân với mình, làm sao có thể giết chúng để ăn? Giết hại sinh mệnh tức là tạo
nghiệp ác, nhất định sẽ nhận lấy báo quả sinh tử”. Truyện ngắn của nhà văn Sương
Nguyệt Minh đã thể hiện những cảnh báo về hành vi giết hại động vật. Trong truyện
ngắn Nơi hoang dã đồng vọng, con người trở thành nạn nhân trước những hành động
tàn sát, mua bán động vật hoang dã. Con người muốn ăn đặc sản, họ đổ xơ tìm những
món lạ như óc mèo, bao tử mèo, cáo, trăn… và chính họ phải đối mặt với những vấn đề
sinh thái: chuột tràn lan, phá phách mọi thứ. Bởi những chú mèo diệt chuột đang nằm
trong các cũi sắt chờ làm thức ăn cho con người. Bà chủ nhà hàng đặc sản ấy cũng phải
trả giá cho những hành vi mua bán, giết chóc động vật hoang dã. Một đêm mưa gió, cây

cối quật đổ bể nuôi rắn, rắn túa ra khắp vườn, cầu thang, giường ngủ, một con rắn răng
còn sắc nhọn đã gặm vào bắp chân bà chủ. Bà chủ không chết nhưng bắp chân cứ teo
dần. Có thể nói rằng “chi tiết nhỏ làm nên nhà văn lớn”, nhà văn Sương Nguyệt Minh
đã xây dựng các chi tiết mang tính ám ảnh cao, nhất là chi tiết Lài mang cơm cho bà
chủ bị liệt, lần nào Lài cũng đầy ám ảnh với bầy chuột. “Từng con, từng con chuột chùi
chũi dưới ống cống ngầm chui lên. Con nọ nối đuôi con kia lốc nhốc. Mũi đỏ, đít đỏ,
lơng xám, mốc thếch, lại có con cụt đi. Chúng ghếch mõm. Chúng thao láo mắt nhìn
chị. Chúng tản ra, dị dẫm trên nền cỏ đầy sương, bị trên bàn ăn, tìm những mẫu thịt,
miếng xương cịn sót lại. Chúng bị qua bụng, nghếch mõm, vênh váo nhìn cáo, trăn,
mèo… nhồi trấu. Những con to nhất leo nhoăn nhoắt lên nóc chuồng mèo… Lũ mèo
trong chuồng ngơ ngẩn như điếc, như mù, như câm, mặc sức cho lũ chuột hoành
hoành”12.Quy luật sinh thái đang bị phá hủy bởi nhu cầu hưởng thụ của con người. Khi
trăn, cáo, mèo… trở thành thức ăn của con người thì chuột mặc sức tung hồnh và


dường K.
như
chúng
sợ tập,
cảTập
con
tấn
lại con
Mark,
F . Engelskhơng
(1994), Tồn
20, người,
NXB Chínhdám
trị Quốc
gia, công

Hà Nội, trang
654 người. “Trong ánh điện
Sương Nguyệt Minh, Đi qua đồng chiều(2005), Nhà xuất bản Thanh Niên, trang 9
yếu vàng ệch, chị nhìn thấy lũ chuột đang gặm cái chân gỗ đặt bên giường bà chủ. Một
con chui vào trong, chỉ cịn thấy cái đi lấp ló thị ra. Ba bốn con nữa châu đầu vào
mỏm chân teo của bà… Bà chủ giật thót ú ớ kêu khơng thành tiếng . Bà nhìn mỏm chân
cụt đã teo: Chuột gặm nham nhở, xương chìa ra trắng hếu” 13. Chính mẹ của Lài cũng bị
rắn cắn chết khi cha Lài làm thợ bắt rắn chuyên nghiệp. Rắn xổng khỏi hom và cắn vào
tay mẹ Lài khi bà vào bếp nấu ăn. Suốt những năm tháng sau đó, cha Lài lúc nào cũng
buồn bã, đứa con gái bé nhỏ thì khơng hiểu vì sao lại mất mẹ. Ơng khơng thể nào trả lời
được câu hỏi của con: “Cha ơi. Mẹ con đâu? Mẹ con đâu?”. Con gái ông quá bé bỏng,
ông không thể nào trả lời tàn nhẫn về sự thật với con. Đó là mất mát mà ơng khơng thể
nào bù đắp cho con mình suốt những năm ấu thơ và cả cuộc đời. Kết thúc tác phẩm, Lài
mải miết vùng chạy cố vượt thoát khỏi nơi khủng khiếp như địa ngục ấy trong sự hoảng
hốt, ám ảnh. Đến khi về với cha mình, Lài lại nhìn thấy đám mộng mạ mới gieo: Phân
chuột, vỏ trấu, vết chân chuột chăm be bét mặt ruộng. Con người càng săn bắt mèo,
rắn… bán cho các nhà hàng đặc sản thì hệ cân bằng sinh thái càng nhanh bị phá hủy.
Con người rơi vào những bi kịch thê thảm trong hành trình săn bắt động vật hoang
dã. Truyện ngắn Chim sâm cầm lại về thể hiện rất bi kịch của nhân vật khi bất chấp tất
cả để dồn đuổi muông thú. Mải bắt chim sâm cầm đầu đỏ để bán cho nhà hàng đặc sản
mà hắn đã bỏ thằng Cò, đứa con bị thọt chân từ bé, lại khơng biết nói trên thuyền giữa
sơng nước. Giữa sương mù dày đặc, hắn mất phương hướng hồn tồn, hắn khơng biết
chiếc thuyền chỗ nào, đầu óc hắn mụ mẫm và tối tăm lại. Gần tối, hắn dạt vào bờ, trên
tay vẫn cầm chim sâm cầm đầu đỏ. Cịn thằng Cị, đứa con trai của hắn thì biến mất
hồn tồn. Bóng tối đã phủ lên cuộc đời hắn với những nỗi đau day dứt đến hết cả cuộc
đời. Làm thế nào để tìm lại đứa con tội nghiệp của hắn, làm thế nào để quên đi những
nỗi đau này? Vì cái lợi trước mắt mà hắn đã trả giá quá đắt.
Ông chủ trong tác phẩm Mùa trâu ăn sương trong lúc làm trâu đã bị trâu đá vào bộ
phận sinh dục, nó cịn bổ móng vào sống lưng khiến ơng bị liệt và cấm khẩu. Từ đó,
Nguyệt

Minh,
Đi qua đồng
chiều(2005),
Nhà xuất
bản Thanh
Niên,
ơng chủSương
sống
như
chiếc
bóng
mờ nhạt
trong
nhà,
lêtrang
lết120với đơi chân liệt, câm lặng.
Sương Nguyệt Minh, Đi qua đồng chiều(2005), Nhà xuất bản Thanh Niên, trang 120
Chàng thạc sĩ tương lai cũng vì mưu sinh mà vào lò mổ làm thêm. Ngày gà gật, tối đến
lại phụ mổ trâu, sáng hôm sau đến lớp máu me vẫn cịn dính đầy trên áo. Kết cục chàng
phải về quê trong đau buồn, tổn thất về sức khỏe và tinh thần. Vì có men rượu, khơng
làm chủ được hành động, anh xin dùng búa bổ vào đầu con trâu, nhưng búa bị trượt
xuống trán, con trâu lồng lộn theo phản ứng tự vệ vặc đầu húc, cái sừng đánh đúng vào
hạ bộ và bụng dưới. Những người thợ mổ trâu ấy đang trả gía cho hành động giết mổ
trâu của mình.
Những trang viết của Sương Nguyệt Minh khắc sâu những bi kịch của con người
khi trực tiếp hủy hoại môi trường sinh thái. Con người trở thành nạn nhân trước những
thảm họa thiên nhiên. Động vật hoang dã có khơng gian sống riêng của mình, khi con
10
11


12
13


người tàn phá ngôi nhà của chúng, tận diệt chúng, phản ứng của mỗi loài vật là khác
nhau, điều này thể hiện trong bi kịch của nhân vật. Điều ấy cảnh báo con người về cách
hành xử đối với tự nhiên.Con người cần phải tơn trọng tự nhiên, hài hịa với tự nhiên.
Lão tử có lẽ là triết gia đầu tiên, cố gắng đi tìm nguyên nhân sâu xa sự xa đọa của con
người. Ơng chủ trương vơ vi. Chữ vơ khơng có nghĩa là hồn tồn khơng, vơ vi khơng
phải là hồn tồn khơng làm gì cả mà là đừng làm gì trái với luật của tự nhiên và vũ trụ.
Ngày nay, đứng trước những nguy cơ sinh thái, con người cần cảnh tỉnh và nâng cao ý
thức bảo vệ mơi trường tự nhiên.
4.3. Sự hịa điệu giữa con người và tự nhiên
Từ xa xưa, mối quan hệ giữa con người và thiên nhiên rất gần gũi. Với đời sống
nông nghiệp, thiên nhiên gắn liền cuộc sống sinh hoạt và tâm hồn của con người. Điều
này được thể hiện rất rõ trong cả văn học dân gian và văn học viết.
Truyện ngắn của Sương Nguyệt Minh đã biểu hiện những cung bậc hòa điệu giữa
thiên nhiên và con người. Đó là sự tìm về thiên nhiên để cảm nhận sự bình n trong
tâm hồn. Người họa sĩ trong Hồng hôn màu cỏ biếc cảm nhận được bấy lâu nay, giữa
phố xá ồn ào, anh chưa cảm nhận trọn vẹn hết vẻ đẹp của cuộc sống cũng như những
nốt huyền giữa cuộc đời:
“Bỏ lại sau lưng những đèn xanh đỏ
những nhà sáng loáng kiêu sa
những bụi bặm ồn ào phố xá

những chen chúc cuồn cuộn dịng đời
Ta trở về hồng hôn

lặng im nghe chiều gọi
lặng im nghe mùa đi.

Ta trở về hồng hơn…”
(Những câu thơ trong truyện ngắn này, tác giả trích trong tập Mười nghìn khát vọng
và tập Làng đảo của nhà thơ Nguyễn Hữu Qúy)
Ở đó, con người cứ sống lăn lóc như con ốc, con cua, nh ư h ạt lúa c ủ khoai… đã
Nguyệt Minh, Đi qua đồng chiều (2005), Nhà xuất bản Thanh Niên, trang 64
thu hútSương
nhân
vật tơi. “Tơi chìm vào hồng hơn trên sơng… Sóng lăn tăn đu ổi nhau.
Lá trang lá súng chao nhẹ dập dờn. Cuống hoa súng nhô cao lên m ặt n ước, cánh
hoa trắng ngà bật tung. Hương thoảng dìu dịu lẫn mùi cỏ rược nồng nồng” 14. Ở
truyện ngắn này, Sương Nguyệt Minh đã thể hiện ngòi bút tinh tế khi miêu tả
thiên nhiên. Đó là một thiên nhiên tràn ngập sắc màu, một thiên nhiên yên bình
với những con người chân chất, thật thà.
Có những giây phút con người phải ngỡ ngàng trước cảnh sắc của thiên nhiên. “
Bên ngoài đám lá trang, lá súng là một cái gị nổi nhỏ mọc đầy tre ngà. Chao ơi! Cò
trắng là cò trắng. Một màu trắng phau phau đến nhức mắt. Con đứng dưới đất, con đậu
ngọn cây, con đung đưa trên cành. Đẹp thật! Đẹp hơn cả bức tranh thủy mặc treo trên
tường nhà tôi”15. Thiên nhiên với những vẻ đẹp riêng giúp nhân vật quên hết những day
14


dứt, bâng khuâng, khắc khoải của cuộc sống. Nhân vật Gấm cảm nhận được hơi thở của
mình đượm mùi hoa sen, hoa súng. Tuổi thơ cơ đắm chìm trong hương bưởi, hương
chanh, mùi thơm lá sả ở làng, ở đồng cỏ, cảm nhận được mình mang dáng hình của núi
Ngọc Mỹ Nhân. Vậy mà có những lúc, nhân vật vẫn cảm thấy ngỡ ngàng trước vẻ đẹp
của thiên nhiên quê nhà. “Ngỡ ngàng quá, tôi thấy một bông hoa súng rất đẹp đặt ngay
trên mũi thuyền. Cọng hoa dài, cánh màu trắng như ngà hơi bung ra, nhìn đã thấy nhụy
hoa vàng lấm tấm phấn ở trong. Nước đầm Vực lúc sớm mai trong xanh, trơng rõ cả
ngó sen trắng dưới nước. Mặt trời nhôlên, nắng sớm tràn đến tận đường chân trời” 16.
Con người tìm về thiên nhiên như một cố nhân. Bởi thiên nhiên lưu giữ những kỉ

niệm tươi đẹp vẹn nguyên dẫu thời gian cứ cuốn trôi đi năm tháng.Truyện ngắn Ngày
xưa nơi đây là cửa rừng, thiên nhiên như người bạn lâu năm mà mỗi lần trở về con
người cảm thấy thổn thức và như sống lại quá khứ. Thiên nhiên chứng kiến những thay
đổi trong cuộc đời con người “Cây sồi già đã chứng kiến khoảnh khắc bồng bột, cuồng
nhiệt của tôi và Sinh từ ngày xưa ấy, chứng kiến mọi đổi thay ở cửa rừng” 17. Lần nào đi
ngang qua cây sồi già, nhân vật cũng rưng rung dòng cảm xúc “Ngày xưa lại dưng dưng
hiện về. Ngày xưa ơi! Ngày xưa nơi đây là cửa rừng. Cửa rừng hun hút gió. Gió thổi.
Gió thổi hồi. Tơi ngước nhìn lên. Cây sồi già đang trở mình rung lá” 18. Thiên nhiên
chứng kiến, lưu giữ và như vỗ về con người để họ tìm lại bình n.

Ta có thể nhận ra những dãy núi mờ xa trong khói lam chiều gợi nỗi nhớ da
Sương Nguyệt Minh, Đi qua đồng chiều (2005), Nhà xuất bản Thanh Niên, trang 170
diết đối
với
những
xa(2005),
quêNhà
trong
Sương
Nguyệt
Minh, Đi người
qua đồng chiều
xuất bảntruyện
Thanh Niên,ngắn
trang 163của Sương Nguyệt Minh.
Sương Nguyệt Minh, Chợ Tình, Nhà xuất bản Hội Nhà Văn, trang 49
Hình ảnh
đồi
trong
hồng

gợi
vẻ đẹp
Sươngnúi
Nguyệt
Minh,
Chợ Tình,
Nhà xuấthơn
bản Hội
Nhà Văn,
trang 62mê đắm lịng người. “Hồng hơn đã
Sương Nguyệt Minh, Người ở bến sông Châu,Nhà xuất bản Hội Nhà Văn, trang 254
màu cỏ úa trùm lên đỉnh núi con Rùa và dãy Tam Điệp. Xa xa nữa là núi Ngọc
Mỹ Nhân mờ nhịa trong hồng hơn đang lụi dần” 19. Cuộc sống của người dân
quê gắn bó với núi đồi, sinh hoạt theo dòng chảy của thiên nhiên. Họ cảm nhận
được gió núi thổi rười rượi trên mặt đầm đang thẫm dần. Âm thanh của tiếng mõ
trâu lốc cốc lẫn tiếng sáo réo rắt từ chân núi vọng đến. Đứng trước khung cảnh
thiên nhiên này vào buổi hồng hơn, tâm trạng nhân vật trơi miên man vào nhiều
dịng hồi ức.
Thiên nhiên còn gợi lại khoảnh khắc lãng mạn, những phút giây nồng ấm
trong tình cảm đơi lứa. Nhân vật người chồng trong truyện ngắn Đêm thánh vô
cùng sau chuỗi ngày mỏi mệt với cuộc sống hiện tại đã hồi tưởng về những ngày
yêu nhau, cùng nhau lang thang trên những con phố đêm đến nhà thờ xứ đạo. Đặc
biệt là đêm giáng sinh ở Sa Pa mù sương “những ngọn núi hình răng cưa và thứa
ruộng bậc thang chìm vào đêm đông lạnh lẽo. Khi sương mù như tấm voan mỏng
nhẹ trắng đục trùm lên nhà thờ đá cổ Sa Pa rêu phong, tôi vẫn nhận ra màu xám
bạc và vẻ trầm tư đến cô độc”20. Thiên nhiên hiện lên với vẻ đẹp của một cô gái
15
16
17
18

19


kiêu sa có dáng vẻ trầm tư, khiến người đọc vừa muốn chiêm ngưỡng, vừa muốn
lại gần.
Có thể nhận thấy, dịng sơng, bến nước xuất hiện nhiều trong truyện ngắn của nhà
văn Sương Nguyệt Minh. Sông chứng kiến và chia sẻ những yêu thương, cả những mất
mát, đau thương trong cuộc đời nhân vật. Trong Dịng sơng Trinh Nữ, những thay đổi
trong tâm hồn Liên, cô gái mới lớn được phản chiếu dưới dịng sơng. “Cơ đứng nhìn
đồng q, bờ bãi, dịng sơng và nhìn mình. Vẫn như hơm qua? Khơng! Dịng sơng
đầy hơn, cịn đồng q trắng nước. Và cô? Trời ơi! Cô đã thành thi ếu nữ” 21. Sơng
cũng nhìn thấy những nỗi đau dai dẳng và thầm lặng của những người như Mây
trong Người ở bến sông Châu. Trở về từ chiến trường với đôi chân không còn lành
lặn, ngày trở về cũng là ngày người yêu lấy vợ. Bi kịch ấy, Mây nu ốt n ước mắt vào
trong. Dịng sơng cũng hiểu những tâm tư trong lòng người y sĩ Tr ường S ơn ấy
nên cũng thao thức cùng “Đất trời như giao hòa một màu bang b ạc. Mn tri ệu vì
sao chi chít, nhấp nháy, rắc đầy xuống bến sông… Mùi hương c ỏ m ật l ẫn vào mùi
hương nồng nàn của đất phù sa dậy lên. Sơng Châu thao th ức. Sóng v ỗ v ề, rì r ầm
bài ca ngàn xưa của đất trời”22. Sông cũng chứng kiến những tháng ngày chiến
đấu trong quân ngũ, cả sự sinh ly tử biệt đau đớn của đời người. Trong truy ện
ngắn Bên dòng Tonle Sap, khi đứng bên dịng sơng, Kiên nhớ lại những ngày tháng
gian lao cùng đồng đội. Bọn Kiên đã từng chèo thuy ền, th ả lưới đánh cá, ngụp l ặn,
đùa giỡn với dịng sơng. Và con sơng xưa ôm ấp v ỗ v ề nh ững th ằng trai đánh gi ặc
quanh năm khơ hạn ở trong lịng. Dịng sơng đã ơm ấp trong lịng nó bao k ỉ ni ệm
xanh mãi với thời gian. Để khi gặp lại Sa Ly, người con gái luôn ngự tr ị trong trái
tim Kiên qua bao năm tháng, “cái bến nước ngày xưa lại vang v ọng trong lòng
Kiên”23. Lòng Kiên lại nơn nao những nỗi vui buồn khó tả, ký ức ng ủ quên l ại l ần
nữa thức giấc…
Thiên nhiên hiện hữu trong tác phẩm của nhà văn Sương Nguyệt Minh vừa thân
Sươnggũi

Nguyệt
Minh,
Dị hương,
Nhà xuất
bản Hội
Văn, trang
thương, gần
như
người
thân
trong
giaNhàđình
lại 77
vừa xen lẫn những cảm xúc nuối tiếc,
Sương Nguyệt Minh, Người ở bến sông Châu,Nhà xuất bản Hội Nhà Văn, trang 245
Nguyệt
Minh, đời
Ngườicủa
ở bến sơng
Châu,Nhà
Hội Nhà
Văn, hịa
trang45hợp giữa thiên nhiên và con
níu kéo…Sương
trong
cuộc
nhân
vật. xuất
Bởibảnvậy,
mối

Sương Nguyệt Minh, Dị Hương , Nhà xuất bản Hội Nhà Văn, trang 178
người trong tác phẩm của nhà văn đã đạt đến độ cao, thiên nhiên sống cuộc sống của
mình và tỏa bóng trong cuộc đời mỗi con người.
5. Kết luận:
Mối quan hệ giữa thiên nhiên và con người được thể hiện khá rõ trong truyện ngắn
của nhà văn Sương Nguyệt Minh. Con người vừa cải tạo lại vừa tàn phá thiên nhiên
một cách vô tội vạ, không chỉ ở các đô thị mà cả ở nông thơn vốn n bình xưa nay.
Những trang viết của nhà văn đã thể hiện sự cảnh báo về hiểm họa hủy diệt mơi trường
sống của chính con người. Chúng ta cần thay đổi nhận thức về mối quan hệ và cách ứng
xử giữa con người với thiên nhiên. Con người cần tôn trọng sự tồn tại và những quy
20
21
22
23


luật riêng của tự nhiên. Bên cạnh đó, truyện ngắn của nhà văn Sương Nguyệt Minh
cònthể hiện sự hòa điệu, gắn bó giữa thiên nhiên và con người. Thiên nhiên như một cố
nhân, một người bạn không thể tách rời trong cuộc đời mỗi nhân vật. Con người tìm về
thiên nhiên như được sống lại những khoảnh khắc tươi đẹp của đời người, ở đó có
những dấu yêu, những kỉ niệm tưởng đã bị phủ bụi thời gian trở nên lung linh, ngời
sang. Phải chăng, đó chính là thơng điệp tác giả muốn gửi đến chúng ta: tìm về thiên
nhiên để xanh hóa cuộc đời, để bớt những bon chen, xô bồ của cuộc sống hiện đại. Bởi
vậy, những trang viết của nhà văn đã chạm sâu vào những vấn đề sinh thái. “Nếu một
tác giả khơng có lối đi riêng của mình thì người đó sẽ khơng bao giờ là nhà văn được”
(Tsê khôp). Điều ấy đã thể hiện được tiếng nói riêng trong những trang viết về mối
quan hệ giữa tự nhiên và con người của nhà văn Sương Nguyệt Minh.


TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1]. Glotfetly C. (1996), “Introduction: Literary Studies in an Age of Enviromental
Crisis”, The Ecocritiicism Reader. Landmarks in Literary Ecology edited by Cheryll
Glotfelty and Harold Fromm, University of Georgia Press xv – xxxvi, p.xxi.
[2]. Nguyễn Thị Tịnh Thy, Rừng khô, suối cạn, biển độc… và văn chương, nhà
xuất bản khoa học xã hội, trang 148
[3]. Cao Minh (2014), Nhà văn quân đội Sương Nguyệt Minh: Văn xuôi sẽ có vụ
mùa bội thu, Địa chỉ:
[4]. Hà Chi (2015), Nhà văn Sương Nguyệt Minh: Văn chương phải chạm tới thân
phận con người, Báo Phụ nữ, Địa chỉ:
[5]. Nguyễn Hoàng Vân Anh (2009), Đẹp dị biệt từ Dị Hương, Địa chỉ:


Thông tin tác giả
Họ và tên: Đỗ Thị Ngọc Thanh
Đơn vị: Lớp Cao học Văn học Việt Nam k18, Khoa Ngữ Văn,
Trường Đại học Quy Nhơn
Địa chỉ: 628, Võ Nguyên Giáp,Phường Trương Quang Trọng, Thành phố
Quảng Ngãi, Tỉnh Quảng Ngãi
Mail:
Số điện thoại: 0978676017



×