Tải bản đầy đủ (.pdf) (17 trang)

VAI TRÒ CỦA LÃNH TỤ NGUYỄN ÁI QUỐC ĐỐI VỚI QUÁ TRÌNH THÀNH LẬP ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (958.88 KB, 17 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI
KHOA KHOA HỌC CHÍNH TRỊ

TÊN ĐỀ TÀI

VAI TRÒ CỦA LÃNH TỤ NGUYỄN ÁI QUỐC ĐỐI VỚI QUÁ TRÌNH
THÀNH LẬP ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

BÀI TẬP LỚN KẾT THÚC HỌC PHẦN

Học phần:Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
Mã phách:………………………………….

Hà Nội – 2021


MỤC LỤC
MỤC LỤC ............................................................................................................. 1
PHẦN MỞ ĐẦU ............................................................................................................. 2
1.
2.
3.
4.

LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI ........................................................................................ 2
MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU. ...................................................... 2
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU. ....................................................................... 3
Ý NGHĨA CỦA VIỆC NGHIÊN CỨU ĐỀ. .......................................................... 3

PHẦN NỘI DUNG ............................................................................................... 4
1. KHÁI QUÁT VỀ XÃ HỘI VIỆT NAM TRƯỚC KHI ĐẢNG CỘNG SẢN


RA ĐỜI. .................................................................................................................................... 4
1.1.

TÌNH HÌNH CHÍNH TRỊ....................................................................................... 4

1.2.

TÌNH HÌNH KINH TẾ. .......................................................................................... 5

1.3.

TÌNH HÌNH VĂN HĨA – XÃ HỘI. ...................................................................... 6

2. CÁC PHONG TRÀO ĐẤU TRANH CỦA NHÂN DÂN TA TRƯỚC KHI
ĐẢNG RA ĐỜI. ..................................................................................................................... 7
2.1.

PHONG TRÀO CẦN VƯƠNG ............................................................................. 7

2.2.

PHONG TRÀO DÂN TỘC, DÂN CHỦ CỦA TẦNG LỚP SĨ PHU YÊU

NƯỚC. ............................................................................................................................. 8

3. QUÁ TRÌNH THÀNH LẬP ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VÀ VAI
TRÒ CỦA NGUYỄN ÁI QUỐC ...................................................................................... 9
PHẦN KẾT LUẬN ............................................................................................. 15
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................. 16



PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Có một câu thơ như này:
“ Ngày ngày mặt trời đi qua chân lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ"
Và cũng chỉ qua hai câu thơ này, đã một phần nào đó cho ta thấy được công
lao to lớn của Hồ chủ tịch – vị lãnh tụ vĩ đại của Việt Nam đối với sự nghiệp giải
phóng dân tộc giải phóng đất nước và quan trọng hơn là đối với Đảng cộng sản
Việt Nam. Những trang sử vẻ vang của dân tộc đều in theo những dấu chân của
Bác và cũng từ những trang sử vẻ vang ấy ta càng cảm thấy Bác đối với lịch sử
nước nhà có nhiều đóng góp to lớn khơng thể cân đo đong đếm. Chính điều đó
làm cho em khơng thể nào bỏ qua đề tài vai trò của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đối
với quá trình thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam vì nó khơng chỉ nói đến q trình
hoạt động của Nguyễn Ái Quốc mà cịn nói lên được sự cống hiến thầm lặng và
vai trò to lớn của Nguyễn Ái Quốc đối với sự hình thành và phát triển của Đảng
đồng thời đề tài còn khơi gợi lên niềm tự hào dân tộc sâu thẳm bên trong mỗi
người dân Việt Nam.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.
- Mục đích nghiên cứu: đề tài vai trò của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đối với quá
trình thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam nghiên cứu về sự đóng góp, vai trị của
Nguyễn Ái Quốc trong quá trình đi tìm con đường và xác định hướng đi của Đảng
và trong quá trình thành lập Đảng.

2


- Nhiệm vụ nghiên cứu: là sinh viên của trường Đại học Nội Vụ Hà Nội khóa
2019-2023, việc nghiên cứu vai trò của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đối với quá trình
thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam vừa là nhiệm vụ vừa là trách nhiệm của mội

người sinh viên trong quá trình học tập tiếp thu kiến thức. Nghiên cứu đề tài giúp
sinh viên hiểu rõ hơn về vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc và biết được sự hi sinh cống
hiến to lớn của người đối với dân tộc, với Đảng.
3. Phương pháp nghiên cứu.
Sử dụng các phương pháp như phương pháp phân tích, phương pháp chứng
minh, phương pháp tổng hợp.
4. Ý nghĩa của việc nghiên cứu đề tài.
Nghiên cứu đề tài này mang ý nghĩa rất quan trọng đối với mỗi người sinh viên,
giúp sinh viên hiểu rõ về lịch sử, giúp sinh viên khơi gợi lòng yêu nước, lòng tự
hào dân tộc. Bồi dưỡng ý chí và thơi thúc sinh viên học tập và làm theo tấm gương
đạo đức Hồ Chí Minh. Từ đó tìm cách bảo vệ và phát triển những thành quả của
thế hệ đi trước.

3


PHẦN NỘI DUNG
1. Khái quát về xã hội Việt Nam trước khi Đảng Cộng sản ra đời.
Đầu thế kỉ XIX, trong tình cảnh thế giới có nhiều sự biến động. Sự áp bức và
bành trướng thế lực của chủ nghĩa đế quốc tăng lên rõ rệt. Các dân tộc thuộc địa
bị lôi kéo vào con đường tư bản thực dân Chủ Nghĩa. Bên cạnh đó thì hình thành
ý thức giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị của bọn thực dân một cách mạnh mẽ.
Việt Nam cũng là một dân tộc, một đất nước ảnh hưởng bởi tình cảnh của thế giới.
Việt Nam là quốc gia có lịch sử bị đô hộ và xâm lược tương đối lâu dài kéo dài
cả nghìn năm. Trong đó có những đế quốc lớn luôn nhăm nhe tới lãnh thổ Việt
Nam. Ngay từ năm 1858 thực dân Pháp đã bắt đầu xâm lược nước ta mở màn là
tấn công vào cảng Đà Nẵng. Chúng thiết lập chế độ thống trị độc ác tàn bạo của
chủ nghĩa thực dân lên dân ta. Sau khi đã hồn thành việc xâm lược và bình định
vũ trang chúng bắt đầu vào công cuộc khai thác thuộc địa, vơ vét cướp bóc tài
nguyên thiên nhiên một cách trắng trợn, bóc lột sức lao động của cơng nhân, đưa

các tệ nạn như rượu và thuốc phiện vào tàn phá dân ta. Chúng lấy lí do vào “khai
hóa văn minh” cho nhân dân ta nhưng thực chất đó chỉ là bình phong để họ áp đặt
sự thống trị, thực hiện công cuộc khai thác ở một nước thuộc địa. Và đã bị Nguyễn
Ái Quốc vạch trần: “ khi người ta là một nhà khai hóa thì người ta có thể làm
những việc dã man mà vẫn cứ là văn minh nhất” và nếu dân bản xứ đứng dậy đấu
tranh thì nhà khai hóa sẽ điều qn đơi, vũ khí tới để đàn áp. Chúng kìm hãm dân
tộc ta trên tất cả mọi mặt của đời sống từ kinh tế, chính trị tới văn hóa.
1.1.

Tình hình chính trị

Sau khi xâm chiếm Việt Nam, “văn minh” của thực dân Pháp được thể hiện ở
chỗ, họ đã không áp dụng những thành tựu của cuộc Đại cách mạng Pháp năm
1789 để thủ tiêu chế độ phong kiến chuyên chế đã lỗi thời mà trái lại, những “nhà
4


khai hóa” lại duy trì chế độ phong kiến làm tay sai cho bộ máy thống trị thực dân.
Đặc biệt, thi hành chính sách pháp luật hết sức phản động, phân biệt đối xử giữa
người da trắng và người bản địa. Trong tác phẩm “Bản án chế độ thực dân Pháp”
(năm 1925), Hồ Chí Minh (Nguyễn Ái Quốc) viết: “Về hành chính và pháp lý: cả
một vực thẳm cách biệt người Âu với người bản xứ. Người Âu hưởng mọi tự do
và ngự trị như người chủ tuyệt đối; còn người bản xứ thì bị bịt mõm và bị buộc
dây dắt đi, chỉ có quyền phải phục tùng, khơng được kêu ca, vì nếu anh ta dám
phản đối thì anh ta liền bị tuyên bố là kẻ phản nghịch hoặc là một tên cách mạng,
và bị đối xử đúng với tội trạng ấy”.
Chúng thi hành chính sách “chia để trị”, trực tiếp nắm giữ bộ máy chủ chốt của
đất nước, bên cạnh đó cịn lập nên một chính quyền tay sai bù nhìn người Việt,
nhiều nhà tù để đàn áp nhân dân nổi dậy. Chúng thi hành các chính sách cai trị đàn
áp tàn độc như thẳng tay chém giết những người Việt Nam yêu nước dám đứng

lên chống lại sự thống trị tàn bạo của chúng, tắm các cuộc khởi nghĩa, các phong
trào đấu tranh yêu nước trong biển máu. Làm cho dân ta mất hết quyền độc lập,
quyền tự do dân chủ.
1.2.

Tình hình kinh tế.

Nhằm vơ vét tài ngun, khống sản, làm giàu cho chính quốc, thực dân Pháp
đã đẩy mạnh công cuộc khai thác thuộc địa, đỉnh cao là cuộc khai thác thuộc địa
lần thứ nhất (1897 - 1914) và lần thứ hai (1919 - 1929), làm khánh kiệt tài nguyên
của đất nước. Đi kèm với đó, hệ thống giao thông (đường bộ, đường sắt, đường
thủy, cảng biển,…) phục vụ cho việc khai thác thuộc địa được mở mang; một số
cơng trình dân sinh phục vụ cho nhu cầu của giới thực dân được xây dựng, chứ
không nhằm đem lại cuộc sống tốt đẹp cho người dân bản xứ.

5


Nhằm nơ dịch, đầu độc, bóc lột dân ta, chính quyền thuộc địa đã áp dụng chính
sách độc quyền, khuyến khích tiêu thụ rượu, thuốc phiện. Đồng thời, sử dụng nhiều
biện pháp ép buộc người dân sử dụng thuốc phiện. Chế độ đó đã làm hại giống nịi
Việt Nam nhưng đem lại nguồn thu không nhỏ cho những tên thực dân. Điều này
đã được chính tồn quyền Đơng Dương viết trong thư gửi cho những người thuộc
quyền: “Kính gửi ơng Cơng sứ, Tơi trân trọng u cầu ơng vui lịng giúp đỡ những
cố gắng của Nha Thương chính trong việc đặt thêm đại lý bán lẻ thuốc phiện và
rượu, theo chỉ thị của ơng Tổng Giám đốc Nha Thương chính Đơng Dương. Để
tiến hành việc đó, tơi xin gửi ơng một bản danh sách những đại lý cần đặt trong
các xã đã kê tên; phần lớn các xã này, vẫn hồn tồn chưa có rượu và thuốc phiện”.
Thực dân Pháp còn thực hiện chế độ cho vay nặng lãi, sưu cao, thuế nặng, với
nhiều loại thuế. Điều đó làm cho đời sống người dân vốn đã cơ cực lại càng cơ

cực, nhiều người vì gánh nặng nợ nần đã phải “bán vợ, đợ con” và nhà cửa, ruộng
vườn để thoát nợ nần, tù tội.
Tiếp đến chúng cịn cướp bóc ruộng đất của dân cày để lập nên các đồn điền
cao su, cà phê và bắt dân ta lao động không công hoặc thuê giá rẻ mạt cho chúng.
Trong lĩnh vực cơng nghiệp Việt Nam cũng bị chúng kìm hãm và ngành công
nghiệp trở nên nhỏ bé, kiệt quệ thể hiện rõ nhất ở chỗ chúng chỉ chú trọng khai
thác mỏ mà không chú trọng các ngành nghề khác.
Bọn thực dân đã kìm hãm sự phát triển kinh tế của Việt Nam, tìm mọi cách đưa
nền kinh tế Việt Nam vào quỹ đạo phát triển của chủ nghĩa tư bản theo kiểu thực
dân.
1.3.

Tình hình văn hóa – xã hội.

Thực dân Pháp đã thể hiện sự “khai hóa” bằng “chính sách ngu dân” để trị. Tuy
người Pháp có mở một số trường dạy chữ, dạy nghề, nhưng khơng phải vì mục
6


tiêu nâng cao dân trí, mà chủ yếu nhằm đào tạo ra một đội ngũ người Việt có thể
giúp việc đắc lực cho việc khai thác, bóc lột và duy trì lâu dài nền thống trị thuộc
địa của mình. Với chính sách khai thác thuộc địa triệt để của thực dân Pháp xã hội
Việt Nam đã hình thành hai giai cấp là giai cấp công nhân và giai cấp tư sản,
chuyển từ chế độ phong kiến sang chế độ thuộc địa nửa phong kiến và xuất hiện
hai mâu thuẩn là mâu thuẫn giữa nông dân và địa chủ phong kiến, mâu thuẫn giữa
dân tộc ta với đế quốc Pháp. Hai mâu thuẫn này tồn tại song song và không tách
rời nhau cho nên nhiệm vụ chống đế quốc xâm lược và chống bọn phong kiến tay
sai không tách rời nhau. Đây cũng là yêu cầu của Cách mạng Việt Nam đặt ra cần
được giải quyết.
2. Các phong trào đấu tranh của nhân dân ta trước khi Đảng ra đời.

Trong quá trình đấu tranh chống xâm lược đầy gian khổ của dân tộc ta. Nhân
dân ta đã hình thành truyền thống yêu nước và tinh thành đấu tranh quyết liệt. dân
ta anh dũng đứng lên đấu tranh dưới ngọn cờ khởi nghĩa của các sĩ phu yêu nước
theo nhiều khuynh hướng từ tự phát tới có tổ chức. Các phong trào đều ngày càng
hoàn thiện hơn từng ngày tuy đều bị đàn áp một cách dã man và thất bại nhưng tất
cả các cuộc khởi nghĩa đều để lại tiếng vang lớn và gây tổn thất về tinh thần lẫn
vật chất của kẻ địch.
2.1.

Phong trào Cần Vương

Nổ ra vào cuối thế kỷ XX do đại thần nhà Nguyễn là Tôn Thất Thuyết nhân
danh vị hoàng đế trẻ Hàm Nghi đề xướng trước nạn xâm lược của thực dân Pháp.
Mở đầu là cuộc tấn cơng vào trại lính Pháp nằm cạnh kinh thành Huế, dưới sự chỉ
huy của Tôn Thất Thuyết kết quả là bị thất bại. Tơn Thất Thuyết phị tá vua Hàm
Nghi chạy vào rừng Quảng Trị. Tháng 7 năm 1885, vua Hàm Nghi hạ chiếu Cần
Vương với nội dung: Tố cáo âm mưu xâm lược của thực dân Pháp; Tố cáo sự phản
7


bội của 1 số quan lại thuộc địa. Đồng thời ra lời kêu gọi văn thân, sỹ phu và nhân
dân cả nước đứng lên giúp vua cứu nước và nhận được sự hưởng ứng của nhiều
tầng lớp nhân dân, từ đó phong trào Cần Vương phát triển lan rộng ra nhiều tỉnh
thành Trung Kỳ và Bắc Kỳ. Cho đến những năm cuối thế kỉ XIX thì phong trào
Cần Vương thất bại vì sự rời rạc, lẻ tẻ, khơng có sự liên kết giữa các cuộc khởi
nghĩa, khơng có sự chỉ huy thống nhất, các chiến thuật nặng về thủ hiểm và thực
dân Pháp đã củng cố được nền thống trị của chúng ở Việt Nam cuối cùng là sự
tương quan lực lượng chênh lệch.
2.2.


Phong trào dân tộc, dân chủ của tầng lớp sĩ phu yêu nước.

2.2.1. Trào lưu dân tộc chủ nghĩa.
Đây là trào lưu kế thừa của phong trào Cần Vương tuy nhiên cũng có một số
nét mới. Về tầng lớp khởi xướng là tầng lớp sĩ phu yêu nước tiến bộ, lòng yêu
nước của họ hướng về lợi ích chung của dân tộc. Những sĩ phu yêu nước lúc đó ý
thức được rằng muốn đánh đuổi thực dân Pháp thì phải khởi nghĩa vũ trang kết
hợp nhiều biện pháp mới về chính trị, ngoại giao, tiến hành cải cách sâu rộng trong
quần chúng nhân dân.
Hai gương mặt tiêu bảo cho trào lưu này là Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh.
Cả hai người đều là những sĩ phu sớm có lịng u nước, từng bơn ba ở nước ngoài
và sớm được tiếp thu những tư tưởng tiến bộ của phương Tây, có chủ trương cứu
nước bằng phương pháp nâng cao dân trí, dân quyền. Tuy nhiên các chủ trương
cải cách đất nước này đều thất bại do không hợp với tình hình thực tế của xã hội
Việt Nam lúc bấy giờ.
2.2.2. Phong trào đấu tranh của quần chúng công, nông, binh.
Các phong trào của tầng lớp sĩ phu yêu nước đã ảnh hưởng rất nhiều đến phong
trào đấu tranh của quần chúng cơng, nơng, binh tại thời kì này. Các phong trào của
8


cơng, nơng, binh ở thời kì này thường thiếu tổ chức, đường lối nhưng lại được sự
ủng hộ và tham gia đông đảo quyết liệt hơn. Năm 1908, tiếp thu tư tưởng cải cách
của Phan Châu Trinh và phong trào Duy Tân hàng ngàn nông dân ở nhiều tỉnh đã
nổi dậy đấu tranh đòi giảm sưu thuế. Tiêu biểu là cuộc khởi nghĩa của nơng dân
n Thế do Hồng Hoa Thám lãnh đạo, họ đã liên lạc với tổ chức yêu nước của
Phan Bội Châu trong kế hoạch tấn công vào Hà Nội.
Tiếp đó giai cấp cơng nhân mới ra đời, số lượng người ở giai cấp này tuy ít
nhưng họ cũng bước đầu tham gia đấu tranh. Điển hình là cuộc bạo động của công
nhân các công trường đường sắt (Yên Bái) , học sinh trường Bách Nghệ (Sài Gịn),

và một số cơng nhân tàu biển. Ngồi ra cịn có một số cuộc đấu tranh của dân tộc
ít người.
Đầu thế kỉ XX, tầng lớp sĩ phu và công nông binh cịn đón nhận them sự tham
gia của một tầng lớp xã hội mới là binh lính người Việt phục vụ trong quân đội
Pháp. Tầng lớp xã hội mới này tham gia đấu tranh do họ thấy được sự tàn độc của
thực dân Pháp qua chính sách dùng người Việt đánh người Việt và đã khơi gợi lại
được sự căm phẫn, lịng u nước của họ. Bên cạnh đó cịn khi phục vụ quân Pháp
họ bị khinh miệt, bạc đãi vì vậy họ càng them sự căm phẫn và họ quyết định tham
gia đấu tranh bạo động khởi nghĩa.
Các phong trào dân tộc, dân chủ chống Pháp đầu thế kỉ XX tuy không thành
công nhưng cũng đã gây được những tiếng vang lớn nhất định, họ đã có được sự
ủng hộ của đông đảo quần chúng nhân dân và đã có những người lãnh đạo có tư
tưởng tiển bộ. Đó là bước đầu của quá trình tìm ra một con đường mới cho cách
mạng Việt Nam.
3. Quá trình thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam và vai trò của Nguyễn
Ái Quốc
9


Bắt đầu từ đầu thế kỉ XX, cùng với sự phát triển của phong trào yêu nước và
dân chủ theo kiểu tư sản thì phong trào cơng nhân nổi dậy đấu tranh bằng hình
thức bãi cơng biểu tình nhằm chống lại chế độ bóc lột của bọn địa chủ và thực dân
Pháp cũng lần lượt diễn ra. Nhưng các phong trào này đều bị thất bại do nguyên
nhân cơ bản là chưa xác định được con đường cứu nước phù hợp với xã hội Việt
Nam thời điểm đó. Cách mạng Việt nam đang đứng trước cuộc khủng hoảng về
đường lối.
3.1.

Nguyễn Ái Quốc ra đi tìm đường cứu nước.


Giữa lúc cách mạng Việt Nam đứng trước cuộc khủng hoảng về đường lối cứu
nước, nhiều nhà yêu nước đương thời tiếp tục con đường cứu nước theo lối cũ thì
từ tháng 6 năm 1911 người thanh niên Nguyễn Tất Thành (tức là Nguyễn Ái Quốc,
Hồ Chí Minh sau này) ra đi tìm đường cứu nước theo phương hướng mới là sang
phương Tây. Lí do HCM chọn con đường sang Phương Tây là để sang một nền
văn minh mới khác với văn minh Phương Đơng, sang tận nơi để tìm hiểu ngọn
nguồn của chế độ thực dân đô hộ Việt Nam và cũng là để học hỏi tinh hóa văn hóa
thế giới, sau về giúp đồng bào, đó là một đột phá mới trong tư duy chính trị lúc
bấy giờ của Nguyễn Ái Quốc. Trải qua q trình bơn ba đến nhiều nước, Nguyễn
Ái Quốc đã nghiên cứu nhiều cuộc cách mạng, nghiên cứu nhiều lý thuyết cách
mạng trên thế giới. Đến cuối năm 1918, sự kiện đánh dấu bước chuyển biến quan
trọng của cuộc đời Nguyễn Ái Quốc đó là Người tham gia Đảng xã hội Pháp, là
người Việt Nam đầu tiên tham gia một đảng chính trị mẫu quốc, là người Đảng
viên đầu tiên của nước ta. Trong quá trình hoạt động Đảng vè nghiên cứu về cách
mạng Mỹ, Pháp, Nguyễn Ái Quốc đã tập hợp được nhiều bài học quý giá về lực
lượng cách mạng, tổ chức, tinh thần ý chí cách mạng và bài học quan trọng nhất
là con đường cách mạng.
10


Giữa tháng giêng năm 1911 Pari tổ chức hội nghị hịa bình, Nguyễn Ái Quốc
đã gửi tới hội nghị bản tài liệu “Bản yêu sách của nhân dân An Nam” địi pháp
cơng nhận các quyền tự do dân chủ và các quyền bình đẳng của Việt Nam. Tuy
nhiên bản yêu sach này khơng được chấp thuận. Vì vậy Người đưa ra một kết luận
đó là để giải phóng được mình các dân tọc phải lật đổ ách thống trị của bọn áp
bức. Bản u sách trở thành tun ngơn chính trị báo hiệu sự mở đầu của giai đoạn
phát triển phong trào giải phóng dân tộc.
Trong những ngày hoạt động cách mạng sơi nổi của Nguyễn Ái Quốc thì cách
mạng tháng Mười Nga năm 1917 bùng nổ và giành thắng lợi. Sự thắng lợi này có
ý nghĩa rất quan trọng đối với phong trào giải phóng của các nước thuộc địa trên

thế giới trong đó có Việt Nam, và từ đó xác định được kẻ thù chung là chủ nghĩa
đế quốc. Nguyễn Ái Quốc đã hướng đến con đường Cách mạng tháng Mười Nga
và chú tâm tìm hiểu đường lối của cuộc cách mạng đó. Bước ngoặt lớn trong tư
tưởng của Nguyễn Ái Quốc là khi Người đọc được bản “Sơ khảo lần thứ nhất
những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lê–nin” Người cố
gắng hiểu sâu về tư tưởng của Lê-nin và khi đã hiểu được người nói: “Tơi vui
mừng đến phát khóc lên. Ngồi một mình trong buồng mà tơi nói to lên như đang
nói trước quần chúng đơng đảo: "Hỡi đồng bào bị đọa đầy đau khổ! Đây là cái cần
thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta!" và Nguyễn Ái Quốc đã
đưa ra kết luận: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc khơng có con đường nào
khác là con đường cách mạng vô sản”, chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng
sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế
giới khỏi ách nô lệ". Từ đây Người quyết định sẽ đi theo con đường cách mạng
của Lê-nin, của cách mạng tháng Mười Nga. Đây là một bước ngoặt lớn từ chủ
nghĩa yêu nước sang chủ nghĩa cộng sản. Nguyễn Ái Quốc là người Việt Nam đầu
11


tiên được tiếp thu chủ nghĩa Mác-Lênin và là người tìm ra con đường cứu nước
giải phóng dân tộc.
3.2.

Con đường “Cách mệnh” của Nguyễn Ái Quốc.

Từ năm 1921-1930, Nguyễn Ái Quốc vừa tiếp tục hoạt động trong Đảng Cộng
sản Pháp, nghiên cứu bổ sung và hoàn thiện tư tưởng cứu nước, vừa tích cực truyền
bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt
Nam qua các tờ báo “Người cùng khổ”, ”Nhân Đạo”, “Đời sống công nhân” sau
này là tác phẩm “Bản án chế độ thực dân Pháp (1925)” của Người. Nguyễn Ái
Quốc còn được cử làm Trưởng Tiểu ban nghiên cứu về Đông Dương, Người vừa

nghiên cứu lý luận vừa tham gia các hoạt động thực tiễn phong trào cách mạng ở
các nước trên thế giới, Người tích cực lên án tố cáo bản chất bóc lột của chủ nghĩa
thực dân đối với nhân dân các nước thuộc địa. Và kêu gọi thức tỉnh nhân dân bị
áp bức đấu tranh giải phóng. Người đã góp phần quan trọng vào việc tố cáo tội ác
chu nghĩa thực dân Pháp ở các thuộc địa. Đồng thời tuyên truyền tư tưởng MácLênin, xây dựng mối quan hệ gắn bó giữa người cộng sản và nhân dân lao động
Pháp với các nước thuộc địa.
Tháng 12 năm 1924, Nguyễn Ái Quốc về Quảng Châu (Trung Quốc) để trực
tiếp chỉ đạo việc chuẩn bị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, Người lập ra Hội
liên hiệp các dân tộc bị áp bức ở Á Đông,. Tháng 2 năm 1925 Người chọn ra một
số thanh niên tích cực trong Tâm tâm xã lập ra nhóm Cộng sản đồn, tháng 6 năm
1925 thành lập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên tại Quảng Châu (Trung
Quốc), nịng cốt là Cộng sản đồn. Hội đã cơng bố chương trình điều lệ của Hội
với mục đích làm cách mệnh dân tộc (đập tan bọn Pháp và giành độc lập cho xứ

12


sở) rồi sau đó làm cách mạng thế giới. Để tuyên truyền Người còn sáng lập và viết
bài cho báo “Thanh niên”
Năm 1927 tác phẩm “Đường cách mệnh” được xuất bản đã chỉ ra để đánh thắng
kẻ thù thì cách mạng Việt Nam phải giải quyết ngay hai nhiệm vụ cơ bản là nắm
vững chủ nghĩa Mác-Lênin và thành lập đội tiên phong tức là Đảng lãnh đạo. Tác
phẩm là cuốn sách chính trị đầu tiên của cách mạng Việt Nam, tầm quan trọng của
lý luận cách mạng được đặt ở vị trí hang đầu.
Hệ thống quan điểm và quan điểm cách mạng của Nguyễn Ái Quốc đi theo chủ
nghĩa Mác-Lênin, được truyền bá vào Việt Nam những năm 20 của thế kỉ XX trở
thành tư tưởng cách mạng hướng dẫn chỉ đạo các phong trào giải phóng dân tộc
và các tổ chức chính trị theo khuynh hướng cách mạng vơ sản dẫn đến sự hình
thành của Đảng Cộng sản Việt Nam.
3.3.


Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam

Chủ nghĩa Mác-Lênin và sự tuyên truyền của Nguyễn Ái Quốc được giai cấp
cơng nhân và nhân dân Việt Nam đón nhận. Lôi cuốn những người yêu nước của
Việt Nam tham gia vào con đường cách mạng vô sản, phong trào cách mạng dấy
lên một cách mạnh mẽ, sôi nổi lan rộng cả nước. Giai cấp công nhân trở thành lực
lượng chính trị độc lập. Các phong trào đấu tranh ngày càng phát triển mạnh mẽ
và có ý thức giác ngộ chính trị ngày càng cao. Sự xuất hiện của các nhóm cộng
sản bí mật trong các xí nghiệp cơng nghiệp địi hỏi phải có tổ chức Đảng lãnh đạo.
Chỉ trong một thời gian ngắn đã có 3 tổ chức cộng sản được thành lập đó là:
An Nam Cộng sản Đảng, Đông Dương Cộng sản Đảng và Đông Dương Cộng sản
Liên đồn. Giữa các tổ chức có sự mâu thuẫn ngay từ khi thành lập vì mỗi tổ chức

13


đều có ý trở thành Đảng Cộng sản duy nhất. Do sự mâu thuẫn đó làm các tổ chức
đó mất hết tính chiến đấu và hoạt động khơng hiệu quả trong quần chúng. Yêu cầu
bức thiết nhất lúc bấy giờ là cần phải có một Đảng duy nhất lãnh đạo vì vậy
Nguyễn Ái Quốc người duy nhất có đủ năng lực và uy tín đáp ứng u cầu đó là
hợp nhất ba tổ chức đó thành một Đảng Cộng sản duy nhất.
Tại Cửu Long (Hương Cảng – Trung Quốc) hội nghị hợp nhất ba tổ chức Cộng
sản được diễn ra từ ngày 3 đến ngày 7 tháng 2 năm 1930 đã nhất trí thành lập Đảng
lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam, Các đại biểu cũng tán thành chính cương vắn
tắt, sách lược văn tắt, chương trình tóm tắt, Điều lệ tóm tắt của Đảng, Điều lệ tóm
tắt của các hội quần chúng, vạch ra kế hoạch thành lập Ban Chấp hành Trung ương
lâm thời…
Chính cương vắn tắt, sách lược văn tắt do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo là cương
lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam, là cương lĩnh đúng đắn, phù

hợp với xu thế phát triển của xã hội, nhuần nhuyễn và thấm đượm tinh thần dân
tộc, Lấy chủ nghĩa Mác-Lênin và tu tuỏng Hồ Chí Minh làm nền tảng, kim chỉ
nam cho mọi hoạt động. Cương lĩnh chứa đựng những giá trị nội dung, ý nghĩa
lớn lao riêng và có vai trị lịch sử trọng đại đối với vận mệnh của dân tộc ta.
Đảng là sản phẩm của sự kết hợp giữa lý luận Mác-Lênin với phong trào cách
mạng của giai cấp công nhân, nhân dân lao động. Sự ra đời của Đảng cịn chứng
tỏ được giai cấp vơ sản nước ta đã trưởng thành và đủ sức lãnh đạo cách mạng. Sự
ra đời của Đảng gắn liền với tên tuổi của Nguyễn Ái Quốc – người sang lập, dẫn
dắt, lãnh đạo Đảng ta.

14


PHẦN KẾT LUẬN
Việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam là bước ngoặt quan trọng trong lịch
sử cách mạng Việt Nam, chấm dứt sự khủng hoảng về đường lối cứu nước và tổ
chức lãnh đạo phong trào yêu nước đầu thế kỉ XX, Đảng cùng nhân dân xây dựng
nên một lực lượng cách mạng to lớn, vững chắc, Đảng lãnh đạo nhân dân đấu tranh
và giành thắng lợi vẻ vang trong các phong trào cách mạng, cao trào là phong trào
cách mạng 1930-1931 đỉnh cao là Xô Viết Nghệ Tĩnh, cao trào đấu tranh chính trị
1936-1939….và sự lãnh đạo tài tình của Đảng được chứng minh rõ nét nhất ở cuộc
Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945 thành công trọn vẹn, khai sinh ra nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa, nhà nước của dân, do dân, vì dân.
Sự lựa chọn con đường cách mạng vô sản và đi lên chủ nghĩa xã hội là lựa chọn
hoàn toàn đúng đắn sang suốt mà tiên phong là Nguyuễn Ái Quốc người lãnh tụ
vĩ đại của dân tộc Việt Nam, người thầy vĩ đại của Đảng. Người là một tấm gương
sáng của người chiến sĩ cộng sản cống hiến cả cuộc đời vì nước vì dân, là biểu
tượng của ý chí độc lập tự cường, sáng tạo và kiên trì lý tưởng.

15



TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đồng chí Hồ Chí Minh – Đp – Ghê – Nhi Ca – bê - lép
2. Nhà xuất bản Thanh niên Hà Nội – 1985
3. Giáo trình “Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam” – Nhà xuất bản giáo dục
4. Giáo trình “Những vấn đề cơ bản về Đảng Cộng sản và lịch sử Đảng Cộng
sản Việt Nam” – Nhà xuất bản lý luận chính trị
5. Tài liệu học tập chính trị - Nhà xuất bản Chính trị quốc gia.

16



×