PHẦN 1
MỞ ĐẦU
1.1. Lí do nghiên cứu
Xây dựng nông thôn mới là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước
ta. Sau hơn 20 năm thực hiện đường lối đổi mới, Nông thôn nước ta đã đạt
được thành tựu khá toàn diện và to lớn, góp phần quan trọng ổn định tình hình
kinh tế, xã hội, chính trị, xoá đói giảm nghèo, nâng cao đời sống cho người
dân. Tuy nhiên, những thành tựu đạt được chưa tương xứng với tiềm năng, lợi
thế và chưa đồng đều giữa các vùng miền trong cả nước. Nông nghiệp phát
triển còn kém bền vững, sức cạnh tranh thấp, chưa phát huy tốt nguồn lực cho
phát triển sản xuất, chuyển giao khoa học- công nghệ và đào tạo nguồn nhân
lực còn hạn chế, sản xuất nhỏ phân tán, năng suất chất lượng, giá trị gia tăng
nhiều mặt hàng thấp. Xuất phát từ những khó khăn hạn chế nêu trên, chương
trình xây dựng nông thôn mới có ý nghĩa rất to lớn. Để thực hiện chủ trương
này, Thủ tướng chính phủ đã có quyết định 800 ngày 4-6-2010 phê duyệt
chương trình mục tiêu quốc gia, đồng thời ban hành bộ tiêu chí quốc gia về
nông thôn mới gồm 19 tiêu chí để làm căn cứ cho việc thực hiện chương trình
xây dựng NTM. Đây là một trong những chủ trương mang tính chiến lược mở
ra vận hội mới vô cùng quan trọng cho phát triển đất nước.
Trong phạm vi toàn quốc, chương trình xây dựng nông thôn mới đã
được xây dựng thí điểm quy mô cấp xã từ năm 2001 với 11 xã được chọn để
thử nghiệm chương trình này. Kết quả bước đầu rất khả quan đã định hình
được hình thái nông thôn mới của thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Ở Thừa Thiên Huế, bước đầu có 6 xã được tỉnh đưa vào diện quy hoạch
xây dựng điểm nông thôn mới và Phong Mỹ là một trong những địa phương
được chọn làm điểm của Tỉnh. Với lợi thế là một xã vùng cao diện tích đất
lớn, Phong Mỹ có nhiều thế mạnh để thực hiện thành công NTM. Tuy nhiên,
cũng như nhiều địa phương khác trong tỉnh, việc thực hiện chương trình nông
thôn mới đang gặp nhiều khó khăn: Xuất phát điểm thấp còn nhiều tiêu chí
NTM chưa đạt được, nguồn lực hạn chế, tổ chức thực hiện còn gặp nhiều lúng
túng, sự tham gia của người dân còn hạn chế Do đó, chương trình xây
dựng NTM ở địa phương diễn ra chậm chạp, thiếu thống nhất, hiệu quả thực
1
hiện chương trình chưa cao. Xuất phát từ thực tế đó, chúng tôi tiến hành đề tài
"Thực trạng và một số giải pháp xây dựng nông thôn mới ở xã Phong Mỹ,
huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế".
1.2. Mục tiêu nghiên cứu
- Đánh giá thực trạng tình hình kinh tế- xã hội của xã Phong Mỹ theo 19
tiêu chí quốc gia về xây dựng nông thôn mới.
- Đề xuất một số giải pháp để xây dựng thành công nông thôn mới tại xã
Phong Mỹ, Phong Điền, Thừa Thiên Huế.
1.3. Câu hỏi nghiên cứu
- Xã Phong Mỹ đã đạt được những tiêu chí nào trong bộ tiêu chí quốc gia
về xây dựng nông thôn mới?
- Làm thế nào để xây dựng thành công nông thôn mới phù hợp với điều
kiện địa phương ?
1.4. Các giả thuyết nghiên cứu
So với bộ tiêu chí quốc gia về xây dựng nông thôn mới, xã Phong Mỹ
vẫn còn nhiều tiêu chí chưa đạt được. Để xây dựng thành công nông thôn mới
địa phương cần có những giải pháp cụ thể, hợp lí, khoa học.
2
PHẦN 2
CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN
2.1. Cơ sở lí luận
2.1.1. Cơ sở của việc ban hành chương trình xây dựng NTM
Sau hơn 20 năm thực hiện đường đối đổi mới, dưới sự lãnh đạo của
Đảng, nông nghiệp, nông dân, nông thôn nước ta đã đạt được thành tựu khá
toàn diện và to lớn. Nông nghiệp tiếp tục phát triển với tốc độ khá cao theo
hướng sản xuất hàng hoá, nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả. Đảm
bảo vững chắc an ninh lương thực quốc gia. Kinh tế nông thôn chuyển dịch
theo hướng tăng công nghiệp, dịch vụ, ngành nghề, các hình thức tổ chức sản
xuất tiếp tục đổi mới. Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội được tăng cường, bộ
mặt nhiều vùng nông thôn thay đổi. Đời sống vật chất và tinh thần của dân cư
ở hầu hết các vùng nông thôn ngày càng được cải thiện. Xóa đói, giảm nghèo
đạt kết quả to lớn. Hệ thống chính trị ở nông thôn được củng cố và tăng
cường. Dân chủ cơ sở được phát huy. An ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội
được giữ vững. Vị thế chính trị của giai cấp nông dân ngày càng được nâng
cao. [18]
Tuy nhiên, những thành tựu đạt được chưa tương xứng với tiềm năng,
lợi thế và chưa đồng đều giữa các vùng. Nông nghiệp phát triển còn kém bền
vững, tốc độ tăng trưởng có xu hướng giảm dần, sức cạnh tranh thấp, chưa
phát huy tốt nguồn lực cho phát triển sản xuất, nghiên cứu, chuyển giao khoa
học - công nghệ và đào tạo nguồn nhân lực còn hạn chế. Việc chuyển dịch cơ
cấu kinh tế và đổi mới cách thức sản xuất trong nông nghiệp còn chậm, năng
suất, chất lượng, giá trị gia tăng nhiều mặt hàng thấp. Công nghiệp, dịch vụ và
ngành nghề phát triển chậm, chưa thúc đẩy mạnh mẽ chuyển dịch cơ cấu kinh
tế và lao động ở nông thôn. Các hình thức tổ chức sản xuất chậm đổi mới,
chưa đáp ứng yêu cầu phát triển mạnh sản xuất hàng hoá. Nông nghiệp và
nông thôn phát triển thiếu quy hoạch, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội còn yếu
kém, môi trường ngày càng ô nhiễm; năng lực thích ứng, đối phó với thiên tai
còn nhiều hạn chế. Đời sống vật chất và tinh thần của người dân nông thôn
còn thấp, tỉ lệ hộ nghèo cao, nhất là vùng đồng bào dân tộc, vùng sâu, vùng
3
xa, chênh lệch giàu, nghèo giữa nông thôn và thành thị, giữa các vùng còn
lớn, phát sinh nhiều vấn đề xã hội bức xúc.[18]
Những hạn chế, yếu kém trên có nguyên nhân khách quan và chủ quan.
Chưa hình thành một cách có hệ thống các quan điểm lý luận về phát triển
nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Cơ chế, chính sách phát triển các lĩnh vực
này thiếu đồng bộ, thiếu tính đột phá; một số chủ trương, chính sách không
hợp lý, thiếu tính khả thi nhưng chậm được điều chỉnh, bổ sung kịp thời, đầu
tư từ ngân sách nhà nước và các thành phần kinh tế vào nông nghiệp, nông
dân, nông thôn còn thấp, chưa đáp ứng yêu cầu phát triển. Tổ chức chỉ đạo
thực hiện và công tác quản lý nhà nước còn nhiều bất cập, yếu kém. Vai trò
của các cấp uỷ, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể quần chúng
trong việc triển khai các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về
nông nghiệp, nông dân, nông thôn ở nhiều nơi còn hạn chế.[18]
Vì vậy, tại hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá X
về nông nghiệp, nông dân, nông thôn đã ban hành Nghị quyết số 26-NQ/TW
ngày 05 tháng 8 năm 2008 với nội dung: xây dựng nông thôn mới có kết cấu
hạ tầng kinh tế - xã hội từng bước hiện đại. Cơ cấu kinh tế và các hình thức tổ
chức sản xuất hợp lý. Gắn nông nghiệp với phát triển nhanh công nghiệp, dịch
vụ, gắn phát triển nông thôn với đô thị theo quy hoạch. Xã hội nông thôn dân
chủ, ổn định, giàu bản sắc văn hoá dân tộc, môi trường sinh thái được bảo vệ;
an ninh trật tự được giữ vững. Đời sống vật chất và tinh thần của người dân
ngày càng được nâng cao, theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Để thực hiện thắng lợi Nghị quyết 26-NQ/TW của Trung ương Đảng,
chính phủ đã ban hành Nghị quyết 24/2008/NQ-CP và Thủ tướng chính phủ
ban hành Quyết định số 491/QĐ-TTg về bộ tiêu chí NTM.
4
2.1.2. Chương trình xây dựng nông thôn mới
Xây dựng nông thôn mới là một chương trình phát triển tổng hợp cả về
kinh tế-xã hội, xây dựng hệ thống chính trị, đảm bảo an ninh quốc phòng. Nó
có ý nghĩa to lớn đối với sự nghiệp xây dựng nông nghiệp, nông thôn và nông
dân, hướng tới mục tiêu: sản xuất nông nghiệp phát triển, xây dựng cuộc sống
sung túc, thay đổi cơ bản diện mạo nông thôn theo hướng hiện đại, văn minh,
quản lý dân chủ.[20]
Xây dựng nông thôn mới có kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội từng bước
hiện đại, cơ cấu kinh tế và các hình thức tổ chức sản xuất hợp lý, gắn nông
nghiệp với phát triển nhanh công nghiệp- dịch vụ, gắn phát triển nông thôn
với đô thị theo quy hoạch, xã hội nông thôn dân chủ, ổn định, giàu bản sắc
văn hoá dân tộc, môi trường sinh thái được bảo vệ, an ninh trật tự được giữ
vững, đời sống vật chất tinh thần của người dân ngày càng được nâng cao
theo định hướng xã hội chủ nghĩa. [20]
* Đặc trưng của nông thôn mới giai đoạn 2010-2020[19]
Kinh tế phát triển, đời sống vật chất và tinh thần của cư dân nông
thôn được nâng cao
Nông thôn phát triển theo quy hoạch, có kết cấu hạ tầng kinh tế,
xã hội hiện đại, môi trường sinh thái được bảo vệ
Dân trí được nâng cao, bản sắc văn hoá dân tộc được giữ gìn và
phát huy
An ninh tốt, quản lý dân chủ
Chất lượng hệ thống chính trị được nâng cao
* Mục tiêu là xây dựng nông thôn mới[8]
Mục tiêu chung:
Nông thôn mới kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội hiện đại.
Cơ cấu kinh tế, tổ chức sản xuất hợp lý.
Phát triển nhanh công nghiệp, dịch vụ, gắn với phát triển nông
nghiệp.
Xã hội nông thôn dân chủ, ổn định, bản sắc văn hoá, môi tường
sinh thái được bảo vệ, an ninh trật tự được giữ vững, vật chất
tinh thần người dân được nâng cao.
5
Mục tiêu cụ thể:[8]
Đến năm 2015: 20% số xã đạt tiêu chuẩn Nông thôn mới.
Đến năm 2020: 50% số xã đạt tiêu chuẩn Nông thôn mới.
* Các nội dung xây dựng nông thôn mới[8]
Nội dung xây dựng nông thôn mới được thể hiện trong chương trình
mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới bao gồm:
Quy hoạch xây dựng nông thôn
Phát triển hạ tầng kinh tế-xã hội
Chuyển dịch cơ cấu, phát triển kinh tế, nâng cao thu nhập
Giảm nghèo và an sinh xã hội
Đổi mới và phát triển các hình thức tổ chức sản xuất có hiệu quả
ở nông thôn
Phát triển giáo dục - đào tạo ở nông thôn
Phát tiển y tế, chăm sóc sức khỏe cư dân nông thôn
Xây dựng đời sống văn hoá, thông tin và truyền thông nông thôn
Cấp nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn
Nâng cấp chất lượng tổ chức Đảng, Chính quyền, đoàn thể chính
trị-xã hội trên địa bàn
Giữ gìn an ninh, trật tự xã hội nông thôn
* Tóm tắt bộ tiêu chí quốc gia về NTM
Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 491/QĐ-TTg về việc ban
hành bộ tiêu chí NTM, đồng thời Bộ NNPTNT ban hành thông tư
54/2009/TT-BNNPTNT về hướng dẫn thực hiện bộ tiêu chí quốc gia về
NTM. Đây là căn cứ để các địa phương chỉ đạo việc xây dựng, phát triển
NTM, đồng thời là cơ sở để đánh giá công nhận xã đạt chuẩn. Một số nội
dung chính của tiêu chí NTM:[7]
- Quy hoạch và thực hiện quy hoạch: Quy hoạch sử dụng đất và hạ tầng
thiết yếu cho phát triển sản xuất nông nghiệp hàng hóa, công nghiệp, tiểu thủ
công nghiệp, dịch vụ, quy hoạch phát triển hạ tầng kinh tế - xã hội – môi
trường theo chuẩn mới, quy hoạch phát triển các khu dân cư mới và chỉnh
trang các khu dân cư hiện có theo hướng văn minh, bảo tồn được bản sắc văn
hóa tốt đẹp
6
- Tiêu chí về giao thông, thuỷ lợi, điện, trường học, nhà văn hoá, chợ
đáp ứng đạt yêu cầu kỹ thuật của các Bộ, Ngành chuyên trách: Bộ GTVT,
Xây dựng, Văn hoá-Thể thao-Du lịch.
- Đối với tiêu chí về trường học, mỗi xã có các điểm trường mầm non,
nhà trẻ có cơ sở vật chất đạt chuẩn quốc gia, phải đảm bảo tất cả các nhóm
trẻ, lớp mẫu giáo được phân chia theo độ tuổi và tổ chức cho trẻ ăn bán trú.
Diện tích sử dụng bình quân tối thiểu 12m
2
/trẻ đối với khu vực nông thôn,
miền núi và 8m
2
/trẻ đối với khu vực thành phố và thị xã.
- Tiêu chí hình thức tổ chức sản xuất: Có tổ hợp tác hoặc hợp tác xã
hoạt động có hiệu quả là trên địa bàn xã có tổ hợp tác hoặc hợp tác xã được
thành lập chuyên sản xuất, làm một số dịch vụ hoặc kinh doanh tổng hợp
trong lĩnh vực nông, lâm, ngư, diêm nghiệp, kinh doanh có lãi được Uỷ ban
nhân dân xã xác nhận.
- Tiêu chí về y tế được quy định cụ thể như sau: người dân được coi là
tham gia BHYT khi đã tham gia một trong các hình thức do ngân hàng nhà
nước hoặc quỹ bảo hiểm xã hội đóng BHYT
- Tiêu chí về văn hoá: Xã có từ 70% số thôn, bản trở lên đạt tiêu chuẩn
làng văn hoá theo Quy chế công nhận danh hiệu "Gia đình văn hoá", "Làng
văn hoá", "Tổ dân phố văn hoá".
Bên cạnh đó, các tiêu chí về thu nhập, cơ cấu lao động, hệ thống bưu
chính viễn thông, đã được nêu lên và quy định mức cụ thể cho từng miển
trong cả nước đảm bảo chương trình mang lại bộ mặt mới cho nông thôn theo
hướng văn minh, hiện đại.
2.2. Cơ sở thực tiễn
2.2.1. Kinh nghiệm xây dựng NTM ở một số nước trên thế giới
2.2.1.1. Hàn Quốc
Trong khu vực châu Á, Hàn Quốc là nước đầu tiên thực hiện chủ
trương xây dựng nông thôn mới. Vào những năm 1960, nông thôn Hàn Quốc
còn hết sức lạc hậu, đời sống nhân dân gặp vô vàn khó khăn. Cả nước có 34%
hộ nghèo đói và chỉ có 20% hộ tiếp cận với điện. Trước hoàn cảnh đó, bước
vào những năm 1970, chính phủ Hàn Quốc bắt đầu thực hiện chương trình
"Nông thôn mới" với mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông thôn. Cách
7
tiếp cận là huy động tối đa sự tham gia và đóng góp của người dân trong quá
trình thực hiện các mô hình này. Mô hình đã thành công rực rỡ và có sức lan
toả nhanh chóng. Một tác động to lớn là làm tăng thu nhập của người dân.
Năm 1970, thu nhập của người dân ở khu vực nông thôn mới chỉ đạt 824
USD/người/năm nhưng đến năm 1976 thu nhập đã tăng lên 3.000
USD/người/năm. Đó là sự chuyển biến rất nhanh chóng và rõ nét. Do có thu
nhập tăng lên nên người dân đã đầu tư thực hiện các cơ sở hạ tầng nông thôn
dưới sự hỗ trợ kinh phí rất ít của nhà nước. Chính vì vậy, đến những năm
1980 bộ mặt nông thôn Hàn Quốc đã thay đổi to lớn và toàn diện. Quá trình
hiện đại hoá nông thôn được hoàn thành.[1]
2.2.1.2. Đài Loan
Là một trong những nước giải quyết tốt các vấn đề nông nghiệp, nông
thôn và nông dân. Từ cuối những năm 50 của thế kỷ trước,Đài Loan đã cơ
bản đảm bảo tự cung cấp lương thực và có dư. Sau khi giải quyết được vấn đề
lương thực, từ những năm 1963 Đài Loan đã bắt đầu dồn sức cho phát triển
công nghiệp nên chính quyền đã coi nhẹ nông nghiệp. Bởi vậy, từ những năm
1969, sản xuất nông nghiệp trở nên tiêu điều kéo theo cảnh tiêu điều trong sản
xuất công nghiệp. Trong hoàn cảnh đó, chính quyền Đài Loan buộc phải điều
chỉnh chính sách, chuyển từ phương châm "Nông nghiệp bồi dưỡng công
nghiệp" sang "Công nghiệp để bồi dưỡng nông nghiệp". Cụ thể là từ năm
1974 bắt đầu thiết lập một quỹ bình chuẩn lương thực, tăng cường đầu tư vào
nghiên cứu nhằm tăng năng suất nông nghiệp, đầu tư vào các hạng mục công
cộng nông thôn bao gồm thuỷ lợi, rừng chắn gió, đường và nước máy, mở
rộng cơ giới hoá nông nghiệp và kỷ thuật nông nghiệp tổng hợp, Kinh
nghiệm của Đài Loan chứng minh, khi đất đai có hạn cần thiết phải gia tăng
sức lao động và đầu tư tiền bạc để nâng cao hiệu quả sản xuất đất đai. Cùng
với sự phát triển của công nghiệp, sức lao động nông nghiệp bắt đầu có sự
chuyển biến lớn cùng với sự đầu tư ngày càng nhiều vào nông nghiệp, khả
năng sản xuất của đất đai và lao động cũng gia tăng đáng kể giúp nông nghiệp
hiện đại tiếp tục phát triển.[1]
8
2.2.1.3. Nhật Bản
Bắt đầu từ thời Minh Trị Duy Tân cho đến khi công nghiệp phát triển
nhanh chóng sau chiến tranh, lương thực luôn là một trong những vấn đề chủ
yếu mà Nhật Bản luôn phải đối diện. Đến giữa những năm 50 của thế kỷ XX,
sự tăng tốc của công cuộc công nghiệp hoá ở Nhật Bản đã thu hút một lượng
lớn sức lao động của nông nghiệp, lực lượng lao động ở nông thôn thiếu hụt
nghiêm trọng. Lúc này, Nhật Bản đã nhanh chóng chuẩn bị và cung cấp cho
nông nghiệp một lượng lớn máy móc công cụ bắt đầu thời kỳ cơ khí hoá nông
nghiệp quy mô lớn. Để có nền nông nghiệp phát triển như vậy, chính phủ
Nhật Bản đã mạnh dạn đầu tư một khoản kinh phí rất lớn để phát triển cơ sở
hạ tầng nông thôn, cải thiện môi trường, đưa nước, đường, điện, điện thoại
đến tận nhà dân, miễn phí hoàn toàn giáo dục sơ đẳng, tạo dựng mối quan hệ
hài hoà giữa thành thị và nông thôn tác động tới nhau. Về cơ bản, Nhật Bản
đã làm tốt việc phát triển cân bằng và bền vững.[1]
2.2.1.4. Trung Quốc
Việc chỉ đạo của chính phủ trước kia cũng kiểu mệnh lệnh hành chính,
việc thực hiện của cấp dưới khá miễn cưỡng nên kết quả phát triển nông thôn
cũng hạn chế. Gần đây, Trung Quốc đưa ra chương trình "Tam nông". Vấn đề
cốt lõi của "Tam Nông" là giải quyết sự chênh lệch thu nhập giữa dân cư
thành thị và nông thôn. Từ năm 1978, Trung Quốc đã thực hiện nhiều chính
sách cải cách ở nông thôn. Đến năm 2009, thu nhập bình quân của cư dân
nông thôn lần đầu tiên đạt mức 5.000 NDT, tăng 8,5% so với năm trước. Việc
thực hiện xây dựng nông thôn mới linh hoạt hơn dựa trên quy hoạch tổng thể,
căn cứ vào tình hình cụ thể của địa phương, đặc điểm tự nhiên, xã hội để đưa
ra chính sách, biện pháp thích hợp. Định hướng phát triển "Tam nông" ở
Trung Quốc là nông nghiệp hiện đại, nông thôn đô thị hoá và nông dân
chuyên nghiệp hoá.[2]
Có thể thấy rằng, kinh nghiệm cơ bản của phong trào xây dựng nông
thôn mới ở các nước không nằm ngoài công thức: chính phủ kết hợp nông dân
điều tiết quá trình thực thi, trong đó chính phủ đóng vai trò chỉ đạo và nông
dân là chủ thể của các chương trình này. Đồng thời, phải dựa vào tình hình,
9
bối cảnh cụ thể của từng địa phương để có những chính sách, kế hoạch, bước
đi thích hợp.
2.2.2. Một số mô hình Thí điểm về xây dựng NTM ở nước ta
Chương trình xây dựng thí điểm mô hình Nông thôn mới được thực
hiện tại 11 xã, gồm Thanh Chăn (Điện Biên), Tân Thịnh (Bắc Giang), Hải
Đường (Nam Định), Thuỵ Hương (Hà Nội), Tam Phước (Quảng Nam), Tân
Lập (Bình Phước), Gia Phố (Hà Tĩnh), Tân Hội (Lâm Đồng), Tân Thông Hội
(TP. Hồ Chí Minh), Mỹ Long Nam (Trà Vinh) và Đình Hoà (Kiên Giang).
Mục tiêu của chương trình nhằm thử nghiệm các nội dung, phương pháp, cách
làm, cơ chế, chính sách, xác định trách nhiệm và mối quan hệ chỉ đạo giữa
các cấp trong việc xây dựng nông thôn mới; hình thành các mô hình trên thực
tiễn về nông thôn mới để rút kinh nghiệm triển khai chương trình mục tiêu
Quốc gia xây dựng nông thôn mới trên diện rộng. [25]
Đến nay đã có 7/11 xã đạt được 10 tiêu chí trở lên, gồm Thuỵ Hương;
Tân Thịnh; Hải Đường; Gia Phố; Tân Thông Hội; Mỹ Long Nam; Định Hoà;
trong đó có 3 xã đạt 14/19 tiêu chí trở lên là Thuỵ Hương 13, Tân Thịnh 14,
Tân thông Hội 14. Có 3 xã đạt từ 8-10 tiêu chí, gồm Tân Lập, Tân Hội, Tam
Phước. Riêng xã Thanh Chăn (Điện Biên) tuy là xã khó khăn nhất, nhưng đã
đạt 7/19 tiêu chí. Một số xã đạt kết quả tương đối toàn diện như: Hải Đường,
Tân Thịnh, Tân Thông Hội Một số xã đạt được mô hình tốt ở một số mặt
như: quy hoạch và thực hiện tốt quy hoạch ở Hải Đường, phát triển sản xuất,
nâng cao thu nhập ở Mỹ Long Nam, huy động nguồn lực ở Thanh Chăn và
Định Hoà, phát triển sản xuất gắn với quy hoạch đồng ruộng và cơ sở hạ tầng
ở Tam Phước, phong trào cải tạo điều kiện sống của các hộ dân cư ở Tân
Thịnh; liên kết sản xuất giữa nông dân với doanh nghiệp ở Thụy Hương, Tân
Hội, thu hút doanh nghiệp đầu tư vào nông thôn ở Tân Thông Hội, Tân Lập…
Hiện các mô hình này là những điểm thực tiễn được các địa phương khác đến
tham quan và học tập[25]. Một số địa phương điển hình là
2.2.2.1. Tân Thịnh
So với 19 tiêu chí để xây dựng nông thôn mới, sau hơn 1 năm triển khai
xây dựng NTM từ một xã nghèo của tỉnh Bắc Giang, Tân Thịnh đã trở thành
xã điển hình của tỉnh trên nhiều mặt, đạt được 18/19 tiêu chí về NTM.100%
10
trường học trên địa bàn đạt chuẩn quốc gia; có điểm bưu điện văn hóa xã,
internet đã về đến 12/12 thôn; xã đạt chuẩn quốc gia về y tế; 100% đường
giao thông nông thôn được cứng hóa; thu nhập bình quân đầu người gấp 1,38
lần bình quân chung của tỉnh.[30]
Cách làm hay ở Tân Thịnh là chính quyền địa phương đặc biệt chú
trọng phát triển sản xuất nông nghiệp bên cạnh việc đầu tư xây dựng hệ thống
hạ tầng. Chẳng thế mà 2 trạm bơm tại thôn Tân và Non Than đã được cải tạo,
nâng cấp với chiều dài 2km và đang trong quá trình hoàn thiện một số tuyến
kênh mương, đảm bảo tưới tiêu phục vụ sản xuất nông nghiệp[30]
2.2.2.2. Tân Thông Hội-thành phố Hồ Chí Minh
Đến nay xã đã hoàn thành 15/19 tiêu chí xây dựng NTM, đã có hơn
57% lao động qua đào tạo nghề, có 10.000 lao động sau đào tạo đã có việc
làm tại các nhà máy, xí nghiệp. Từ nguồn vốn của chương trình, xã đầu tư chủ
yếu vào giao thông, thủy lợi, văn hóa giáo dục phục vụ nhu cầu sát thực với
người nông dân. Thu nhập bình quân của người nông dân xã Tân Thông Hội
ở thời điểm cuối năm 2010 qua khảo sát của Cục Thống kê thành phố Hồ Chí
Minh là 24,2 triệu đồng/người/năm, cao hơn so với mức bình quân của huyện
(18,6 triệu đồng/người/năm). [24]
Huy động được sức dân, để nông dân thực sự vào cuộc xây dựng NTM
là rất quan trọng. Vốn huy động từ dân của xã đóng góp cho chương trình đã
là hơn 103 tỷ đồng.[24]
Phải có 3 trụ cột là xây dựng cơ sở hạ tầng, phát triển kinh tế, thay đổi
nhận thức của người dân, phát triển thị trường tiêu thụ sản phẩm và phát triển
làng nghề.[24]
Thành công này là sự vào cuộc không chỉ của lãnh đạo xã mà còn là sự
nhất trí, đồng lòng cao của người dân.[24]
2.2.2.3. Mỹ Long Nam – tỉnh Trà Vinh
Sau gần hai năm triển khai thực hiện xây dựng thí điểm mô hình NTM
xã Mỹ Long Nam đã có 11/19 tiêu chí đạt chuẩn NTM.Thu nhập bình quân
đầu người năm 2010 đạt 18.000.000đồng/người/năm, tăng gấp 3 lần so với
năm 2005 (hơn 1,5 lần so với tỉnh). Đây là động lực để đảng bộ khơi dậy sức
dân xây dựng thành công NTM vào cuối năm 2011.[23]
11
Điểm nổi bật trong xây dựng nông thôn mới ở địa phương, qua thực
hiện 8 công trình giao thông liên ấp, toàn xã có 210 đảng viên, người dân tình
nguyện hiến trên 16.000 m2 đất mặt tiền, trị giá hàng tỷ đồng để chung tay
cùng Đảng, Nhà nước đẩy nhanh tiến độ xây dựng nông thôn mới [23]
2.2.2.4. Thuỵ Hương – Hà Nội
Qua 1 năm triển khai và tổ chức thực hiện mô hình nông thôn mới tại
xã, Thuỵ Hương đã đạt được những kết quả quan trọng, trong đó 14/19 tiêu
chí của Trung ương cơ bản hoàn thành; 5/19 tiêu chí đạt trên dưới 70%. [25]
Xã xác định mỗi cán bộ, đảng viên phải đi đầu, gương mẫu.Mọi nội
dung công việc liên quan đến xây dựng nông thôn mới phải được đưa ra nhân
dân bàn bạc một cách công khai, dân chủ để người dân quyết định những việc
gì làm trước, hình thức thực hiện thế nào, đóng góp ra sao. Với cách làm như
vậy, nhân dân đã tin tưởng và tự nguyện thực hiện. Để tạo điều kiện cho việc
huy động đóng góp của nhân dân, xã vận dụng một cách linh hoạt các hình
thức đóng góp bằng tiền, ngày công, vật tư, phương tiện… tuỳ theo điều kiện
từng gia đình để xây dựng, đầu tư cơ sở hạ tầng. Xã xác định việc tổ chức sản
xuất, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, giải quyết việc làm để nâng cao đời sống
nhân dân là những ưu tiên hàng đầu. Do dịch vụ và tiểu thủ công nghiệp chưa
phát triển nên Thuỵ Hương sẽ tập trung dồn điền, đổi thửa, chuyển đổi cơ cấu
cây trồng, vật nuôi để nâng cao năng suất lao động và hiệu quả kinh tế. Xã sẽ
thực hiện 7 dự án chuyển đổi cơ cấu cây trồng và ký kết với một số đơn vị
kinh doanh để đầu tư, bao tiêu sản phẩm[29].
2.2.3. Thực trạng nông thôn và chương trình xây dựng NTM mới ở Thừa
Thiên Huế
Tỉnh Thừa Thiên Huế có diện tích tự nhiên 5.062,59 km
2
, dân số
1.088.822 người, chiếm 1,5% diện tích và 1,35% dân số cả nước. Khu vực
nông thôn có 231.665 hộ, chiếm 62,2% tổng số lao động xã hội. Tỷ trọng lao
động nông lâm thuỷ sản 51,6% (cả nước là 56,7%), tỷ trọng lao động công
nghiệp- tiểu thủ công nghiệp- xây dựng là 20,9%, tỷ trọng lao động trong các
ngành dịch vụ 25,1%.[3]
12
2.2.3.1. Hạ tầng kinh tế - xã hội
Hệ thống giao thông nông thôn: Đường trục xã, liên xã có 991,71 km.
Đã trải nhựa hoặc bê tông hoá 773 km chiếm 73,96%. Đường thôn xóm là
1.739,4 km trong đó 935,7 km ( 53,23%) đã được cứng hoá. Đường ngỏ xóm
là 1.707,87 km trong đó 724,05 km (42,39%) đã được bê tông hoá. Đường
trục chính nội đồng tổng số là 1.122,35 km, trong đó 234,21 km (21,67%) đã
được cứng hoá, xe cơ giới đi lại thuận tiện. Hệ thống giao thông nông thôn
trong những năm qua đã được đầu tư nâng cấp cải tạo bằng nhiều nguồn lực
khác nhau: chương trình 257 của nhà nước, các dự án sử dụng vốn ODA
nên cơ bản đáp ứng phát triển kinh tế cũng như nhu cầu đi lại, sinh hoạt của
nhân dân. Tuy nhiên, các xã khó khăn, vùng thấp ven biển và hệ thống giao
thông nội đồng còn ở mức độ hạn chế nên gặp khó khăn trong việc phát triển
kinh tế cũng như sinh hoạt của người dân.[3]
Hệ thống thuỷ lợi cơ bản đáp ứng nhu cầu sản xuất và dân sinh. Toàn
tỉnh có trên 500 công trình thuỷ lợi vừa và nhỏ, bao gồm 259 trạm bơm
điện,239 hồ đập để chủ động cung cấp nước cho 17.032 ha và tiêu ứng cho
8.000 ha lúa. Ngoài ra, còn có 2 đập ngăn mặn, trên 100 cống lấy nước, trên
2.000 km kênh mương,đê bao, đê vùng ngăn mặn, chống úng. Hệ thống thuỷ
lợi đảm bảo cung cấp nước chủ động cho trên 90% diện tích canh tác.[3
Hệ thống điện lưới quốc gia đáp ứng yêu cầu phụ tải. Đường dây hạ thế
tổng số có 1.615,43 km, trong đó hệ thống đường dây cơ bản đạt yêu cầu. Tỷ
lệ hộ sử dụng điện thường xuyên và an toàn đạt 97,2% gần đạt tiêu chí về
điện 98%.[3]
Giáo dục là lĩnh vực được quan tâm trong những năm qua bằng việc
đầu tư nhiều nguồn vốn cho việc xây dựng hạ tầng và trang thiết bị dạy học.
Bậc mầm non có 190 trường, trong đó đạt chuẩn 14 trường ( 7,46%), tỷ lệ
kiên cố hoá 35,58%. Bậc tiểu học có 239 trường, trong đó đạt chuẩn 87
trường ( 36,40%), tỷ lệ kiên cố hoá 56,53%. Bậc trung học có 104 trường, đạt
chuẩn 20 trường (19,20%), tỷ lệ kiên cố hoá 76,08%. Đội ngũ giáo viên ở khu
vực nông thôn có 12.642 người.[3]
Chợ nông thôn có 126 chợ và điểm dịch vụ ( 39 chợ có quy hoạch xây
dựng và 87 chợ chỉ là lều lán tạm bợ). Trong đó có 27 chợ ( 21,34%) đạt
13
chuẩn của bộ công thương và 99 chợ ( 78,57%) chưa đạt. Diện tích bình quân
mỗi chợ khoảng 1.960 m
2
, số hộ kinh doanh bình quân là 33 hộ/chợ.[3]
Bưu điện: 100% xã có bưu điện văn hoá xã, có 534 điển dịch vụ
internet. Tổng thuê bao điện thoại đạt bình quân 115,9 máy/100 dân, mật độ
thuê bao internet 3,7 thuê bao/100 dân, tỷ lệ hộ có máy thu hình đạt 100%.[6]
Nhà ở dân cư nông thôn: Tổng số có 163.005 nhà ở dân cư nông thôn,
trong đó có 157.383 nhà đạt tiêu chuẩn của bộ xây dựng chiếm 96,55%.[3]
2.2.3.2. Tình hình kinh tế - xã hội[3]
Thu nhập bình quân ở nông thôn 9.695.000đ/người/năm bằng 0,57 lần
so với bình quân chung của tỉnh. Tỷ lệ hộ nghèo khu vực nông thôn theo
chuẩn nghèo năm 2007 là 11,44%. Tỷ lệ lao động trong độ tuổi lao động ở
lĩnh vực nông lâm ngư nghiệp hiện nay là 62,93%. Hình thức tổ chức sản
xuất: Hợp tác xã và các đội sản xuất độc lập là đơn vị sản xuất phổ biến, toàn
tỉnh có 161 hợp tác xã nông nghiệp. Trong đó có 25 hợp tác xã làm ăn có lãi
bình quân hằng năm từ 200 triệu đồng/năm đến 526 triệu đồng/năm. Có 478
trang trại với tổng diện tích sử dụng 4.157,7 ha.
Mặc dù kinh tế khu vực nông thôn đã có bước phát triển, cơ cấu kinh tế
có sự chuyển dịch tích cực theo hướng tăng dần công nghiệp, tiểu thủ công
nghiệp và dịch vụ nhưng còn chậm, nông nghiệp vẫn chiếm tỷ lệ cao. Cơ cấu
lao động trong nông nghiệp còn cao, các hình thức tổ chức sản xuất còn đơn
điệu, chủ yếu là hợp tác xã nông nghiệp. Tỷ lệ lao động nông thôn thiếu việc
làm có xu hướng ngày càng gia tăng, công tác đào tạo nghề cho lao động
nông thôn còn nhiều bất cập, thu nhập người dân còn thấp, tỷ lệ hộ nghèo còn
cao.
Y tế: Tỷ lệ người dân tham gia bảo hiểm y tế là 63,62% cao hơn 2 lần
so với tiêu chuẩn quốc gia. Tỷ lệ người nghèo được cấp thẻ bảo hiểm đạt
143% so với kế hoạch, đã cấp 180.262 thẻ khám bệnh cho trẻ em dưới 6 tuổi,
100% trẻ em được hưởng chính sách khám và chữa bệnh miễm phí, công
bằng. 100% trạm y tế có bác sĩ biên chế tại trạm, hoặc tăng cường để thực
hiện công tác khám, điều trị bệnh chăm sóc sức khoẻ ban đầu cho người dân.
Có 98 trạm y tế (87,50%) đạt chuẩn quốc gia, còn lại 14 xã có trạm y tế
14
nhưng chưa đạt chuẩn do trang thiết bị còn thiếu, công tác duy tu bão dưỡng
chưa được chú trọng.
Văn hoá: Công tác tuyên truyền vận động người dân tham gia xây dựng
nếp sống văn minh được phổ biến sâu rộng dưới nhiều hình thức. Các di tích
lịch sử, văn hoá được đầu tư trùng tu, tôn tạo. Các hoạt động văn hoá thể thao
quần chúng, các lễ hội truyền thống được bảo tồn và phát triển. Đã có 1.135
làng, thôn, bản được công nhận đơn vị đạt chuẩn văn hoá. Có 189.060 gia
đình được công nhận gia đình văn hoá.
Môi trường: Tỷ lệ hộ được sử dụng nước sạch hợp vệ sinh theo chuẩn
quốc gia đến cuối năm 2009 ở khu vực nông thôn là 82,96%. Công tác thu
gom và xử lí chất thải ở khu vực nông thôn đã được chú trọng, hiện có
281/320 cơ sở sản xuất tập trung được xử lí theo nhiều hình thức khác nhau.
2.2.3.3. Hệ thống chính trị
Hệ thống tổ chức: cán bộ xã có 2.292 người bình quân có 20,5
người/xã. Trong đó cán bộ đạt trình độ cao đẳng, đại học, trung cấp
chieems77,23%. Có 89/112 đảng bộ xã đạt danh hiệu trong sạch vững mạnh.
Số đảng viên đạt danh hiệu đảng viên đủ tư cách hoàn thành xuất sắc nhiệm
vụ và đảng viên đủ tư cách hoàn thành nhiệm vụ đạt 92%. Hệ thống chính
quyền các xã 100% đều đạt tiêu chuẩn vững mạnh.[3]
An ninh trật tự: An ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội ở nông thôn
được giữ vững, các vụ khiếu kiện kéo dài đã được giảm, 100% số xã có lực
lượng dân quân tư vệ, lực lượng dự bị động viên hoạt động tốt. Tình trạng
phạm tội và các tệ nạn xã hội cơ bản được hạn chế, an ninh chính trị trên địa
bàn có nhiều chuyển biến tích cực, tình hình dân tộc, tôn giáo, văn hoá tư
tưởng được giữ vững ổn định. Công tác giải quyết đơn thư khiếu nại được
quan tâm, các vụ việc phức tạp tồn đọng kéo dài được giải quyết cơ bản.[3]
Trong quá trình thực hiện chương trình NTM, tỉnh Thừa Thiên - Huế
đã chọn 13/112 xã thuộc khu vực nông thôn Thừa Thiên - Huế thực hiện thí
điểm mô hình xây dựng nông thôn mới theo 19 tiêu chí của quốc gia, phấn
đấu đến năm 2015 có 30% số xã đạt chuẩn nông thôn mới. [22]
Mục tiêu của chương trình là tập trung đầu tư kết cấu hạ tầng kỹ thuật
kinh tế - xã hội từng bước hiện đại; cơ cấu kinh tế và các hình thức tổ chức
15
sản xuất hợp lý, gắn nông nghiệp với phát triển nhanh công nghiệp, dịch vụ;
gắn phát triển nông thôn với đô thị theo quy hoạch; phát triển văn hóa, y tế,
giáo dục; môi trường sinh thái được bảo vệ; an ninh trật tự được giữ vững; đời
sống vật chất và tinh thần của người dân ngày càng được nâng cao; xóa dần
khoảng cách giữa nông thôn và thành thị.[22]
Hiện tại, 100% số xã trong tỉnh có trường tiểu học, trung học cơ sở và
trạm y tế; có đường ô tô đến trung tâm xã. Hệ thống đường liên thôn, liên xã
đều được bê tông hóa và nhựa hóa; 100% số xã có điện sinh hoạt với hơn
99,3% số hộ được dùng điện; 87% số hộ nông thôn và 98,9% số hộ ở thành
thị được dùng nước sạch và nước vệ sinh; 100% số xã được phủ sóng truyền
hình là những cơ sở thuận lợi để thực hiện có hiệu quả chương trình xây
dựng nông thôn mới.[22]
2.3. Một số thuận lợi và khó khăn trong xây dựng NTM
2.3.2. Thuận lợi và khó khăn trong xây dựng NTM của cả nước
2.3.2.1. Thuận lợi
Thuận lợi lớn nhất là được sự đồng thuận của toàn dân. Nhờ làm tốt
công tác tuyên truyền, nên người dân nơi đây đã đồng tình, ủng hộ việc xây
dựng NTM.Người dân được đóng góp ý kiến vào đề án quy hoạch và bản kế
hoạch xây dựng nông thôn mới của xã, tham gia bàn bạc, lựa chọn công trình
xây dựng hoặc các công việc nào cần làm trước, làm sau Bởi vậy, quá trình
thực hiện đã thu hút được đông đảo người dân phấn khởi, đồng lòng tham gia.
Người dân tham gia đóng góp công sức, hiến đất, tiền bạc để thực hiện thành
công chương trình xây dựng NTM.[26]
Một thuận lợi khác là việc xây dựng NTM được đưa ra đúng vào thời
điểm với Đại hội Đảng các cấp tiến tới Đại hội XI của Đảng, cho nên được
bàn rất sâu rộng từ chi bộ đảng tới đại hội.[31]
Ngoài ra, điều kiện để xây dựng NTM thích hợp là một thuận lợi không
nhỏ, nếu xây dựng NTM cách đây vài năm thì không dễ chút nào. Hiện trong
nước và quốc tế đều ủng hộ chúng ta xây dựng NTM. Việt Nam cam kết đến
năm 2020 cơ bản là nước công nghiệp, một nước công nghiệp mà nông thôn
lạc hậu, mà nông dân nghèo thì không thể là nước công nghiệp. Hơn nữa, việc
16
tổng kết 25 năm đổi mới đã cho chúng ta nhiều bài học kinh nghiệm, vấn đề
là chuẩn bị thế nào cho thời gian tiếp theo phù hợp với thực tiễn.[31]
2.3.2.2. Khó khăn
Xuất phát điểm của các vùng nông thôn trong cả nước còn quá thấp là
một trong những khó khăn trong xây dựng NTM trong cả nước. Tình trạng
quy hoạch một cách tự phát, còn yếu là thực trạng chung tại hầu hết các tỉnh,
thành phố. Qua khảo sát, tới nay cả nước mới chỉ có khoảng 23% xã có quy
hoạch dân cư nông thôn nhưng chất lượng quy hoạch chưa cao, kết cấu hạ
tầng kinh tế - xã hội nhiều nơi còn lạc hậu, không đáp ứng yêu cầu phát triển
CNH-HĐH nông nghiệp - nông thôn, kinh tế phát triển chậm, thiếu bền vững;
giá trị nông nghiệp tăng trưởng chậm lại do giảm đầu tư và giảm diện tích đất
canh tác; đời sống của cư dân nông thôn tuy được cải thiện nhưng vẫn còn ở
mức thấp, chênh lệch giàu nghèo giữa thành thị và nông thôn, giữa các vùng
ngày càng lớn… Những mặt yếu kém đó đang thực sự là lực cản cho việc xây
dựng nông thôn mới, thực hiện các mục tiêu CNH-HĐH và sự phát triển bền
vững của cả nước[31]
Thiếu lao động sản xuất ở các vùng nông thôn đang là một khó khăn
trong việc triển khai chương trình NTM. Quá trình CNH-HĐH đất nước trong
những năm qua là một lực hút đáng kể đối với lực lượng lao động trẻ ở các
vùng nông thôn làm cho lực lượng lao động ở vùng nông thôn ngày càng già
hóa Do vậy, lực lượng tham gia vào việc xây dựng và phát triển kinh tế thiếu,
việc phát triển kinh tế hộ còn gặp nhiều khó khăn.[31]
Ngoài ra, Nguồn lực đầu tư để xây dựng chương trình NTM còn hạn
chế là một khó khăn khác đối với chương trình xây dựng NTM trong cả nước.
Chương trình xây dựng NTM là một chương trình lớn, toàn diện trên nhiều
lĩnh vực, vì vậy kinh phí đầu tư rất lớn chỉ tình riêng đầu tư về CSHT để đạt
tiêu chí NTM thì mỗi xã cần đầu tư không dưới 120 tỷ. Trong khi đó, nguồn
kinh phí của các xã còn gặp nhiều khó khăn, hạn chế. Do đó, để thực hiện
thành công chương trình NTM cần có chính sách tốt để thu hút đầu tư, phải
thay đổi cách nghĩ, cách làm thì mới thu hút được doanh nghiệp, dân tự đứng
lên, thu hút vốn trong và ngoài nước thì mới có thể làm được.[31]
17
2.3.3. Thuận lợi và khó khăn trong xây dựng NTM tại Thừa Thiên Huế
2.3.3.1. Thuận lợi
Trong những năm qua tốc độ phát triển kinh tế của Tỉnh Thừa Thiên
Huế luôn duy trì ở mức cao so với bình quân chung của cả nước 12%/năm.
Kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực tăng tỷ trọng của ngành du lịch dịch
vụ từ 16,1% lên 21,2% năm 2010.[17]. Đây là một trong những điều kiện góp
phần đẩy mạnh việc triển khai các chương trình hành động xây dựng nông
thôn mới.
Mặc khác, việc thực hiện chương trình NTM được sự quan tâm của các
cấp, các ngành địa phương. Người dân hưởng ứng tích cực vào công cuộc xây
dựng NTM: Nam Đông người dân hiến đất để xây dựng cơ sở hạ tầng, ở
Quảng Phú người dân tham gia tích cực xây dựng NTM từ ý tưởng lập kế
hoạch đến tổ chức triển khai.[18]
2.3.3.2. Khó khăn
Việc thực hiện chương trình NTM trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế
còn gặp nhiều khó khăn, thách thức. Những chỉ tiêu chung của tiêu chí NTM
là khá cao so với thực trạng nông thôn Tỉnh Thừa Thiên Huế: Cả tỉnh có 152
phường xã, trong đó có 53 xã có tỷ lệ hộ nghèo trên 10% và 99 xã có tỷ lệ hộ
nghèo từ 10% trở xuống so với chỉ tiêu tỷ lệ hộ nghèo trong xây dựng NTM
là dưới 6%. Đến tháng 6/2010 Thừa Thiên Huế chỉ có 25 % số trường đạt
chuẩn quốc gia trong khi để đạt được tiêu chí NTM cần đạt tới 80%.[4].
Mặc khác, tỷ lệ lao động trong lĩnh vực Nông- Lâm- Ngư nghiệp cao
vào khoảng 62,93%. Để đạt được tiêu chí NTM là thấp hơn 35% cần có nhiều
biện pháp đồng bộ, dài hạn mới thực hiện được.[6] Sản xuất của nông dân còn
thiếu chủ động, lệ thuộc hoàn toàn vào thị trường. Tình trạng được mùa rớt
giá diễn ra khá phổ biến. [4]
Ngoài ra, nguồn vốn để thực hiện chương trình còn thiếu, giải ngân vốn
nhà nước còn chậm làm ảnh hưởng lớn đến tiến độ thực hiện các hoạt động
xây dựng NTM.[4]
18
PHẦN 3
ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG, PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các hộ dân ở xã Phong Mỹ, huyện
Phong Điền, Thừa Thiên Huế. Bao gồm cả các hộ có kinh tế khá, trung
bình và nghèo.
3.2. Nội dung nghiên cứu
- Thực trạng kinh tế-xã hội của xã Phong Mỹ theo 19 tiêu chí quốc gia về
xây dựng NTM ở xã Phong Mỹ
- Thực trạng về điều kiện kinh tế, đời sống của hộ
- Một số giải pháp để xây dựng NTM ở Phong Mỹ
3.3. Phương pháp nghiên cứu
3.3.1. Chọn điểm nghiên cứu
Điểm nghiên cứu là xã Phong Mỹ, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên
Huế, đây là xã vừa mới được chọn làm điểm xây dựng NTM. Tuy nhiên, lãnh
đạo và người dân đang còn nhiều lúng túng trong đánh giá, tổ chức thực hiện
và xác định các giải pháp để xây dựng thành công NTM ở địa phương.
3.3.2. Phương pháp thu thập thông tin
3.3.2.1. Thu thập số liệu thứ cấp
Tài liệu thứ cấp được thu thập từ các nguồn thông tin đã công bố chính
thức của các cơ quan nhà nước, công trình nghiên cứu của tập thể, cá nhân, tổ
chức về thực trạng xây dựng NTM. Các tài liệu, báo cáo, tổng kết về thực
hiện chính sách, chủ trương xây dựng NTM tại địa phương. Những thông tin
thống kê về phát triển kinh tế của địa phương. Các tài liệu về tình hình kinh
tế- xã hội của huyện Phong Điền và tỉnh Thừa Thiên Huế. Những tài liệu này
được thu thập ở UBND xã Phong Mỹ, Phòng NN&PTNT huyện Phong Điền,
Phòng Thống kê huyện Phong Điền, phòng Thống kê tỉnh Thừa Thiên Huế,
các đề án xây dựng NTM của xã Phong Mỹ và huyện Phong Điền.
3.3.2.2. Thu thập số liệu sơ cấp
a. Phỏng vấn hộ: Phiếu điều tra đã được xây dựng để phục vụ cho mục tiêu đề
tài. Nội dung phiếu phỏng vấn hộ bao gồm những thông tin cơ bản về năng
lực sản xuất, tình hình sản xuất và thực trạng đời sống của hộ nhằm tìm hiểu
19
tình hình sản xuất, áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật của hộ. Đồng thời
xem xét khả năng quản lí, sử dụng nguồn vốn để đầu tư cho hoạt động tái sản
xuất của hộ. Từ đó đưa ra các giải pháp phát triển kinh tế, cải thiện thu nhập
cho người dân.
Phiếu điều tra đã được thử nghiệm để kiểm tra tính logic, đảm bảo các
phần trong bảng hỏi phản ánh đúng thực tế hoạt động sản xuất của địa
phương, thông tin thu thập chính xác. Sau đó được chỉnh sửa và hoàn thiện
trước khi điều tra chính thức.( Xem nội dung chi tiết ở phụ lục 1)
Chọn mẫu nghiên cứu
Để tiến hành nghiên cứu, 80 hộ đã được lựa chọn theo phương pháp
chọn mẩu ngẩu nhiên có định hướng dựa trên danh sách hộ của 4 thôn: bản
Khe Trăn, thôn Lưu Hiền Hoà, thôn Tân Mỹ, thôn Đông Thái. Định hướng ở
đây là các hộ được chọn có cả các hộ khá, trung bình,nghèo dựa theo tỷ lệ
giàu, nghèo ở địa phương. Các hộ tham gia vào tất cả các lĩnh vực sản xuất
nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, công nghiệp dịch vụ trên địa bàn. Bốn
thôn trên mang tính đại diện ở xã Phong Mỹ
Phương pháp điều tra: Phỏng vấn trực tiếp đại diện hộ được chọn với
phiếu điều tra đã chuẩn bị trước.
b. Phỏng vấn người am hiểu: Phỏng vấn sâu đã được thực hiện ở hai cấp: cấp
xã và cấp thôn.
- Ở cấp xã, tiến hành phỏng vấn Chủ tịch UBND xã, chủ tịch hội Nông
dân, cán bộ phụ trách nông nghiệp xã để tìm hiểu về thực trạng xây dựng
NTM trên địa bàn, các giải pháp mà địa phương đã và đang thực hiện để xây
dựng NTM trong thời gian qua. Đồng thời, để tìm hiểu hoạt động sản xuất,
nguyên nhân nghèo đói tại địa phương. Từ đó đề ra các giải pháp riêng cho
các lĩnh vực cụ thể để góp phần đạt được các tiêu chí quốc gia về xây dựng
NTM. (Xem nội dung chi tiết ở phần 1, phụ lục 2)
- Ở cấp thôn, tiến hành phỏng vấn trưởng thôn, chủ nhiệm HTX, để tìm
hiểu sự tham gia của người dân trong việc xây dựng NTM tại địa phương.
Đồng thời, tìm hiểu kỹ hơn về thực trạng các hoạt động sản xuất tạo thu nhập
của các hộ, nguyên nhân nghèo đói ở địa phương. Từ đó, đề xuất các biện
pháp để thu hút sự tam gia của người dân vào các quá trình xây dựng NTM,
20
thực sự trở thành chủ thể của chương trinh xây dựng NTM. Mặc khác, có thể
đưa ra các giải pháp phát triển sản xuất, tăng thu nhập, giảm tỷ lệ nghèo góp
phần thực hiện thành công chương trình xây dựng NTM trên địa bàn.( Xem
nội dung chi tiết ở phần 2, phụ lục 2).
c. Thảo luận nhóm: Tiến hành 3 cuộc thảo luận nhóm. Mỗi cuộc thảo
luận gồm 10 - 15 người.
- Cuộc thảo luận nhóm cán bộ bao gồm: Phó chủ tịch xã, chủ tịch hội
nông dân, chủ tịch hội phụ nữ, bí thư đoàn thanh niên, cán bộ phụ trách y tế
xã, các trưởng thôn. Mục đích để phân tích các khó khăn thuận lợi trong xây
dựng NTM. Đồng thời đề xuất các giải pháp hiệu quả phù hợp với thực tế địa
phương. Từ đó, góp phần khắc phục những khó khăn, phát huy thế mạnh địa
phương để thực hiện thành công chương trình NTM tại địa phương.
- Cuộc thảo luận nhóm hộ khá: Tham dự cuộc thảo luận là các hộ sản
xuất có kinh tế khá trong xã để tìm hiểu các hoạt động sản xuất, cách thức sản
xuất tăng thu nhập của hộ. Từ đó, rút ra được các kinh nghiệm phát triển sản
xuất, phương thức cách thức sản xuất có hiểu quả ở địa phương để có các biện
pháp phát triển kinh tế thích hợp cho hộ.
- Cuộc thảo luận nhóm hộ nghèo: Tham dự thảo luận là các hộ nghèo
để tìm hiểu các hoạt động sản xuất của hộ. Đồng thời, tìm hiểu các khó khăn,
cản trở trong hoạt động sản xuất của hộ. Từ đó, có thể nhận ra được các
nguyên nhân nghèo đói của các hộ để đưa ra các giải pháp giảm nghèo hiệu
quả, nâng cao thu nhập cho hộ nghèo.
Nội dung của chủ đề và tiểu chủ đề thảo luận nhóm được thể hiện ở
phụ lục 3
Một số công cụ sử dụng trong thảo luận nhóm gồm: SWOT, so sánh
cặp đôi.
3.3.3. Phương pháp xử lý thông tin
Các số liệu thu thập được tổng hợp mã hoá và xử lý bằng phần mềm
EXCEL, SPSS 16.0 for Window để tính các tham số thống kê.
21
PHẦN 4
KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
4.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội của xã Phong Mỹ
4.1.1. Điều kiện tự nhiên
4.1.1.1. Vị trí địa lý: Phong Mỹ là xã vùng gò đồi của huyện Phong Điền,
cách trung tâm huyện lỵ 15 km về phía Tây. Có diện tích đất tự nhiên là
39.400 ha, gồm 1210 hộ và 6279 khẩu. Là một xã thuần nông với các loại cây
trồng chính là lúa, lạc, cây cao su và trồng rừng, trên 90% dân số của xã sống
dựa vào nông nghiệp.
Phía Đông giáp xã Phong Xuân
Phía Tây giáp xã Hải Chánh, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị
Phía Nam giáp huyện Alưới
Phía Bắc giáp xã Phong Thu.
Phong Mỹ có các tuyến đường giao thông kéo dài từ Đông sang Tây:
Tỉnh lộ 17, Tỉnh lộ 9, Tỉnh lộ 11B rất thuận lợi cho giao thông đi lại và phát
triển kinh tế.
4.1.1.2. Đặc điểm địa hình
Địa hình chủ yếu là vùng gò đồi chạy dọc theo dãy Trường Sơn. Vùng
đồi độ cao trung bình so với mực nước biển là 150 m.
Có 2 hệ thống sông chính đó là sông Ô Lâu và sông Quao, 1 đập thuỷ
lợi có sức chứa 9,7 tỷ khối cung cấp nước tưới cho sản xuất nông nghiệp địa
phương.
4.1.1.3. Đặc điểm khí hậu thời tiết
Nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa chung của lãnh thổ cả nước,
kèm theo đặc điểm về vị trí địa lý, địa hình, khí hậu xã Phong Mỹ mang
những nét riêng là: Nhiệt độ trung bình năm: 18 – 20
0
C. Trong năm, nhiệt độ
tối cao nhất vào các tháng 6 và tháng 7 hàng năm. Lượng mưa bình quân hàng
năm từ 500 – 1000 mm, từ tháng 9 - 12 là các tháng có lượng mưa lớn nhất
chiếm 80% tổng lượng mưa cả năm. Mùa khô kéo dài từ tháng 1 đến tháng 8
hàng năm kèm theo gió Tây Nam khô nóng gây ra tình trạng khô hạn diện rộng
ảnh hưởng lớn đến sản xuất của người dân. Độ ẩm trung bình cả năm là 78%.
22
4.1.2. Đặc điểm kinh tế-xã hội
4.1.2.1. Đất đai
Phong Mỹ là một trong những xã có diện tích đất lớn nhất huyện Phong
Điền với tổng diện tích đất tự nhiên là 39.400 ha, trong đó có diện tích đất sản
xuất nông nghiệp là 2.100ha. Số liệu ở bảng 4.1, cho thấy hiện trạng sử dụng
đất ở địa phương trong thời gian qua.
Bảng 4.1. Hiện trạng sử dụng đất ở xã Phong Mỹ
STT Chỉ tiêu
Đơn vị
tính
Diện tích
Tổng diện tích đất tự nhiên ha 39403,02
1. Đất nông nghiệp ha 26464,26
1.1 Đất sản xuất nông nghiệp ha 2100,37
1.2 Đất lâm nghiệp ha 24340,08
1.3 Đất nuôi trồng thuỷ sản ha 19,86
1.4 Đất nông nghiệp khác ha 3.95
2. Đất phi nông nghiệp ha 848,52
2.1 Đất ở ha 354,82
2.1.1 Đất chuyên dùng ha 193,33
2.1.2 Đất trụ sở cơ quan, công
trình sự nghiệp
ha 0,78
2.1.3 Đất quốc phòng ha 17,89
2.1.4 Đất an ninh ha
2.1.5 Đất sản xuất, kinh doanh phi
nông nghiệp
ha 44,49
2.1.6 Đất có mục đích công cộng ha 130,17
2.2 Đất tôn giáo, tín ngưỡng ha 2,54
2.3 Đất nghĩa trang, nghĩa địa ha 25,77
2.4 Đất mặt nước chuyên dùng ha 158,49
3. Đất chưa sử dụng ha 12090,24
(Nguồn: Báo cáo tình hình sử dụng đất xã Phong Mỹ, 2010)
Đất đai trên địa bàn xã chủ yếu là dạng đất thịt nhẹ, phù hợp với các
loại cây trồng công nghiệp: cao su, hồ tiêu, lạc… Cơ cấu sử dụng đất cho
23
thấy, lâm nghiệp là một trong những thế mạnh của xã khi chiếm tới 62%
trong khi, diện tích đất nông nghiệp chỉ chiếm 5% diện tích đất tự nhiên của
xã.
Số liệu ở bảng 1 cũng cho thấy tài nguyên đất của xã vẫn chưa được
khai thác tối đa. Cơ cấu đất chưa sử dụng chiếm đến 31% diện tích đất tự
nhiên của xã. Do đó xu hướng mở rộng diện tích đất sản xuất vẫn còn rất lớn.
4.1.2.2. Tình hình dân số và lao động
Dân số và lao động là nhân tố quyết định đến việc phát triển kinh tế của
địa phương. Nó vừa tạo tiềm lực phát triển, vừa cản trở việc phát triển khi
việc làm và đời sống nhân dân không được đảm bảo. Chúng tôi đã tìm hiểu
chỉ tiêu này và kết quả được trình bày ở bảng 4. 2.
Bảng 4.2. Tình hình dân số và lao động của xã Phong Mỹ
STT Chỉ tiêu Đơn vị Năm 2010
1 Tổng số hô Hộ 1.278
2 Tổng số nhân khẩu Người 5.568
3 Tổng số lao động Người 2.513
4
Bình quân nhân
khẩu/hộ
Khẩu 4,35
5
Bình quân lao
động/hộ
Lao động 1,96
(Nguồn: Báo cáo kinh tế - xã hội xã Phong Mỹ, năm 2010)
Toàn xã hiện có 1.278 hộ với 5.568 nhân khẩu được phân bố ở 10 thôn,
bản, trong đó, có 2 bản đồng bào dân tộc sinh sống là bản Khe Trăn và Hạ
Long. Phong Mỹ là một trong những xã có dân số ít nhất trong tỉnh với mật
độ dân cư thấp 13 người/km
2
. Lao động nằm trong độ tuổi lao động cao gần
50% dân số. Đây là một trong những nhân tố quan trọng góp phần vào sự phát
triển của xã. Tuy nhiên, giải quyết việc làm đang là vấn đề khó khăn trên địa
bàn. Lao động có xu hướng chuyển vào Nam lập nghiệp và sinh sống. Do vậy
lao động trên địa bàn ngày càng già hoá, lao động chủ yếu tại địa phương là
người già và trẻ em.
24
4.1.2.3. Thực trạng về cơ sở hạ tầng
Hạ tầng giao thông cơ bản được xây dựng tương đối hoàn thiện, đáp
ứng nhu cầu đi lại sinh hoạt, vận chuyển hàng hoá của người dân. Các công
trình thuỷ lợi cơ bản đã đáp ứng 100% nhu cầu tưới cho 131,8 ha lúa. Hệ
thống điện lưới quốc gia đã đảm bảo cung cấp cho 10/10 thôn trong xã với
100% hộ được sử dụng điện sinh hoạt. Ngoài ra, các hệ thống công trình phúc
lợi công cộng khác đã cơ bản đáp ứng nhu cầu phục vụ sản xuất và đời sống
của người dân trong xã. Thực trạng CSHT được đảm bảo, tạo thuận lợi cho
việc đi lại, giao lưu buôn bán hàng hóa với các vùng khác, người dân có điều
kiện phát triển sản xuất, đời sống người dân ngày càng được cải thiện.
4.1.2.4. Tình hình phát triển kinh tế
Nông nghiệp là một trong những ngành mang lại thu nhập cho các hộ
dân trên địa bàn với các loại cây lương thực (lúa, lạc), cây cao su, cây sắn.
Sản xuất lúa chủ yếu để cung cấp lương thực và phụ phẩm làm thức ăn cho
chăn nuôi. Diện tích lúa gieo cấy cả năm là 269,4 ha, chủ yếu là giống lúa
Khang dân, HT1. Năng suất lúa còn ở mức thấp bình quân đạt 40 tạ/ha.
Trồng sắn là một trong những thế mạnh của xã với diện tích trồng sắn trong
năm khoảng 225 ha, năng suất bình quân 20 tạ/ha. Ngoài ra, sản xuất lạc cũng
đem lại thu nhập không nhỏ cho các hộ. Lạc Thường được trồng vào vụ Đông
Xuân với diện tích 168 ha, năng suất lạc bình quân khoảng 20 tạ/ha. Bên cạnh
đó, cây cao su là một trong những cây thế mạnh của địa phương với diện tích
lên đến 1.260 ha, đã đưa vào khai thác khoảng 674,3 ha, thu nhập bình quân
đạt từ 43-50 triệu đồng/ha/năm.
Ngành Lâm nghiệp cũng là một trong những ngành sản xuất kinh tế
mũi nhọn của địa phương với tổng diện tích đất trồng rừng có khoảng 21.885
ha. Trong đó, rừng đặc dụng là 19.095 ha do khu bảo tồn thiên nhiên Phong
Điền quản lí. Rừng phòng hộ 1.870 ha do công ty lâm nghiệp Phong Điền
quản lí được phân bổ trồng sát dọc thượng nguồn sông Ôlâu, sông Quao.
Rừng trồng kinh tế là 1.409 ha do các hộ dân trồng theo dự án ngành lâm
nghệp ( WB3), rừng trồng theo dự án 327, trồng rừng kinh tế, gần đất sản
xuất.
25