Tải bản đầy đủ (.doc) (2 trang)

Nghị luận về danh và thực trong đời sống

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (76.72 KB, 2 trang )

Nghị luận về danh và thực trong đời sống
Xưa nay có kẻ danh để không “nát với cỏ cây” thường hiếm. Vì hiếm nên qúy. Quý nên được ngưỡng
vọng, tôn kính. Giầu có chưa là gì. Quyền thế chưa là cái đinh gì so với danh vọng, danh tiếng. Chính thế
mà chữ danh luôn luôn là nỗi khao khát đầy mầu sắc bi kịch của biết bao người. Có cả muôn vạn cách để
lưu danh ở đời. Nhưng có lẽ cái cách mà nhiều người tìm đến nhất là học. Thuận theo lẽ trời sẽ là: học để
thành tài, để có dịp đem cái tài ra phụng sự đất nước, “ích quân trạch dân” rồi danh tiếng sẽ tự đến, sẽ lưu
truyền đời nào sang đời khác, thành tên đất, tên làng… tồn tại cùng trời đất. Có danh là để dễ bề làm sáng
nghiệp tổ tiên, làm cho ngay thẳng công lý. Khổng Tử bảo: “Danh có chính thì ngôn mới thuận” vừa nói
nên khát vọng của kẻ sĩ nhưng đồng thời cũng gắn cho họ một sử mệnh thật lớn lao mà một kẻ vô đạo
cũng sẽ vô dụng nếu như không là tai họa cho nhân quần.
Vì thế, chỉ cần có thực tài thì hiển nhiên là sẽ có danh. Tài cao, đức trọng, lĩnh hội được mệnh trời thì có
danh lớn. Tài hèn, sức mọn thì chỉ cần sống cho ra một con người, cũng là có danh rồi. Cái “thực” trong
trường hợp này chính là tự biết mình không có tài cao.
Danh là thế, thực là thế, từ cổ đã thế, tưởng mãi về sau vẫn thế. Nhưng bắt đầu từ khi chữ danh đi kèm
với chữ lợi, với quyền lực thì cái thuận trình trên kia bị đảo ngược. Vốn bắt đầu từ sự ghi nhận, suy tôn
của mọi người, chữ danh trở thành vật có thể chiếm đoạt, mua bán, với không ít người. Nó bị biến thành
một thứ giả trang hào nhoáng, dễ lòe bịp, che đậy những toan tính tầm thường. Giờ đây không phải thực
tài tạo ra danh tiếng mà là tiền, vàng, ngoại tệ mạnh, là thói xu thời hèn nhát, là sự vô đạo không bị
nguyền rủa. Khi đã không bắt đầu từ tài (thực cái mình có) thì cái thứ danh khoác lên mình hiển nhiên là
danh hão, danh giả. Tức là “Hữu đanh vô thực”, “danh bất xứng thực”. Điều đáng nói là những kẻ “hữu
danh” kiểu ấy biết rất rõ họ không xứng với cái danh ấy. Họ biết rằng: vì mưu lợi cho bản thân họ phải
chui luồn đi cổng hậu, dùng tiền mua một cách khuất tất cởi thứ danh bán lại không được nửa xu ấy. Họ
biết nhưng họ không xấu hổ, không thấy vô liêm sỉ mà còn coi như một sự khôn ngoan. Mục tiêu của họ
là phải “hữu danh” và họ cần đạt được bằng mọi cách. Bởi vì thứ danh mà họ có chỉ được dùng vào việc
vụ lợi, leo lên những nấc thang quyền lực để dễ bề đục khoét, vơ vét mà lại an toàn. Chưa có thời kỳ nào
mà công việc vật lộn để “hữu danh” sôi động, trắng trợn và đầy tính bi hài như mấy chục năm qua. Kẻ dốt
nát kiên quyết chứng tỏ mình không dốt nát bằng đủ thứ bằng cấp, học hàm, học vị mà cả đời họ không
thể có bất cứ cơ hội nào đem ra dùng. Tình trạng Phó Tiến sĩ, Tiến sĩ, Giáo sư… chưa có bằng Phổ thông
trung học, chưa có bằng Đại học, một chữ nước ngoài không biết, viết sai cả lỗi chính tả, văn hóa tối thiểu
còn chưa đủ… như báo chí và dư luận nêu ra, là sản phẩm tất yếu của cơ chế dung túng thứ danh hão,
danh suông. Nhưng nếu chỉ có thế thì họ cũng chẳng hơn vì bọn người đáng thương hại được cuộc đời


cho mượn chiếc sân khấu để càng múa máy càng lố (ngoại trừ một sự xúc phạm đến cái đạo học xa vời và
vô hình nào đó). Vấn đề là chuyện không chịu dừng ở đấy. Khi có được bộ phục giả trang, khi từ cục đất
được nặn thành tượng, họ muốn thiên hạ phải quỳ mọp dưới chân mình. Chúng ta đang chịu đựng một sự
quá tải cái nghịch lý này. Và rồi ở đâu cũng cứ phải gặp những kẻ “học làm phép” ngồi chồm chỗm, lì
lợm, tráo trở, bất luân…
Hàng ngày, ở bất cứ đâu cũng rung lên những hồi chuông khẩn thiết báo động về tệ nạn chuyên quyền,
tham nhũng, tệ hàng rởm, văn bằng rởm, người rởm…. Nhưng chưa thấy ai nhắc đến tệ nạn danh rởm,
“hữu danh vô thực” – là nguyên nhân của các tệ nạn kia. Trong văn học, nhân vật khoác áo Giáo sư, Tiến
sĩ cả đời không đọc nghiêm chỉnh, trọn vẹn một cuốn sách mới chỉ lác đác xuất hiện ở đâu đó trong khi
ngoài trời có thể gặp nhan nhản. Họ không chỉ chầu chực ăn nhờ vào cơ chế mà còn làm bẩn, làm hoen gỉ
chính cái cơ chế đó. Hơn thế, nó khuyến khích một lối học thực dụng học hình thức, về thực chất còn hại
gấp nhiều lần sự thất học. Nó đánh tráo những tiêu chí quan trọng thường là định hướng cho một đời
người, một thế hệ. Có khá nhiều vấn đề nhức nhối mà xã hội đang xoay trần ra tháo gỡ, có nguyên nhân
cắm rễ từ việc trọng dụng những người không có thực tài. Đã đến lúc cần phải hiểu đến nơi, đến chốn về
chữ đức trong cặp phạm trù tài – đức. Tôi thiển nghĩ rằng, cái đức của kẻ có học, có tài là cái đức lớn, là
lương tri có thể tạo ra không chỉ lòng tốt, sự thuần hậu mà còn biết nương theo quy luật để thay đổi cuộc
sống theo hướng tốt lên, không thể đánh đồng với thứ đạo đức thông thường theo lối gọi dạ, bảo vâng, chỉ
biết nghe theo, làm theo, đành rằng đôi khi cũng cần nhưng lắm khi vô dụng thậm chí còn vô tình tạo ra
tai họa. Sự lựa chọn giữa tài và đức phả là sự lựa chọn giữa tài và đức lớn trên kia. Một người chỉ tốt bản
năng, thậm chí tốt mù quáng chắc gì đã là tốt?
Có lẽ tôi đã hơi lạc xa vấn đề ban đầu. Tôi xin dừng ở đây với lời biết ơn thành kính giáo sư N, người đã
khích lệ tôi viết bài này không chỉ bằng lời đề nghị, mà còn bằng cả vẻ đau khổ của một bậc Thầy trước
sự quay cuồng, điên đảo của đạo học.
Các từ khóa trọng tâm " cần nhớ " của bài viết trên hoặc " cách đặt đề bài " khác của bài viết trên:
• bai van nghi luan Ve VAN de danh bat thu quy hiem
• bai van nghi luan xa hoi ve danh va thuc
• ban luan ve danh va thuc
• Nghi luan Cai danh cai thuc la gi
• ngi luan cai danh va cai thuc
• suy nghi ve cai danh va cai thuc trog cuoc song van nghi luan van hoc xa hoi,

×