Tải bản đầy đủ (.pdf) (111 trang)

rèn luyện kỹ năng lập ý ở kiểu bài nghị luận về một số hiện tượng đời sống cho học sinh lớp 12 trung học phổ thông

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (847.31 KB, 111 trang )

Số hóa bởi Trung tâm Học Liệu – Đại học Thái Nguyên


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM







NGUYỄN THU HÀ







RÈN LUYỆN KĨ NĂNG LẬP Ý Ở KIỂU BÀI
NGHỊ LUẬN VỀ MỘT HIỆN TƯỢNG ĐỜI
SỐNG CHO HỌC SINH LỚP 12 THPT






LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC















THÁI NGUYÊN - 2011
Số hóa bởi Trung tâm Học Liệu – Đại học Thái Nguyên


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM






NGUYỄN THU HÀ






RÈN LUYỆN KĨ NĂNG LẬP Ý Ở KIỂU BÀI
NGHỊ LUẬN VỀ MỘT HIỆN TƯỢNG ĐỜI
SỐNG CHO HỌC SINH LỚP 12 THPT




Chuyên ngành: Lí luận và phương pháp dạy học Văn - Tiếng việt
Mã số: 60.14.10




LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC

Người hướng dẫn khoa học: GS. TS Lê A








THÁI NGUYÊN - 2011
Số hóa bởi Trung tâm Học Liệu – Đại học Thái Nguyên

MỤC LỤC


MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài……………………………………….……………1
2. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu………………………………… 2
3. Lịch sử vấn đề……………………………………………………….2
4. Phƣơng pháp nghiên cứu………………………………… ……….5
5. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu………………………………… 6
6. Dự kiến đóng góp của luận văn… ……………………………… 6
7. Cấu trúc của luận văn……………………………………………… 6
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA VIỆC RÈN LUYỆN KĨ
NĂNG LẬP Ý Ở KIỂU BÀI NGHỊ LUẬN VỀ MỘT HT………….… 8
1.1.NLXH và kiểu bài nghị luận về một HTĐS……………….……. 8
1.1.1 NLXH và các kiểu bài NLXH………………………………… 8
1.1.2. Nghị luận về một HTĐS……………… …………………… 11
1.2. Ý và kĩ năng lập ý ở kiểu bài nghị luận về một HTĐS………… 14
1.2.1. Ý trong bài văn nghị luận về một HTĐS…… ……………… 14
1.2.2. Kĩ năng lập ý trong kiểu bài NL về một HTĐS……… …… 16
1.3. Thực trạng dạy và học lập ý ở kiểu bài NL về một HTĐS……….21
1.3.1. Đối tƣợng điều tra…………………………………………… 21
1.3.2. Nội dung điều tra……………………………………………….21
1.3.3. Cách thức điều tra………………………………………………21
1.3.4. Cách đánh giá kết quả………………………………………… 22
CHƯƠNG 2:RÈN LUYỆN KĨ NĂNG LẬP Ý Ở KIỂU BÀI NL VỀ
MỘT HTĐS CHO HS QUA HỆ THỐNG BÀI TẬP…………….…….34
2.1. Trang bị cho HS những kiến thức về cách thức lập ý……… 34
Số hóa bởi Trung tâm Học Liệu – Đại học Thái Nguyên

2.1.1. Các căn cứ lập ý……………………………………… 34
2.1.2. Qui trình lập ý cho kiểu bài NL về một HTĐS…………… .35
2.2. Hệ thống bài tập- phƣơng tiện chủ yếu để rèn luyện cho HS kĩ

năng lập ý…………… ………………………………………… 39
2.2.1. Một số nguyên tắc xây dựng hệ thống bài tập……… … …39
2.2.2. Miêu tả hệ thống bài tập…………… ………………………42
2.3. Phƣơng hƣớng sử dụng hệ thống bài tập………… …………68
2.3.1. Vận dụng hệ thống bài tập trong tiết lí thuyết……… ….…68
2.3.2. Vận dụng hệ thống bài tập trong tiết viết bài……………….69
2.3.3. Vận dụng hệ thống bài tập trong tiết trả bài…………………69
CHƯƠNG 3 : THỂ NGHIỆM SƢ PHẠM……………………… 70
3.1 . Mục đích thể nghiệm………… ………………….…….…….70
3.2. Đối tƣợng và địa bàn thể nghiệm………………………….… 71
3.3. Phƣơng pháp thể nghiệm……………… …………… …….72
3.4. Nội dung thể nghiệm………………………………………… 72
3.5. Cách đánh giá kết quả thể nghiệm…………………………….73
3.6. Giáo án thể nghiệm……………………………………………74
3.7. Kết quả thể nghiệm……………………………………… … 88
KẾT LUẬN CHUNG………………… …………………………99
TÀI LIỆU THAM KHẢO………………… ……… …… 104








Số hóa bởi Trung tâm Học Liệu – Đại học Thái Nguyên

1
MỞ ĐẦU


1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Nghị luận về một hiện tượng đời sống là dạng văn bản chính thức được
đưa vào chương trình Tập làm văn ở THCS và THPT.
Nghị luận về một hiện tượng đời sống thường đề cập đến những hiện
tượng có thật trong đời sống, được nhiều người quan tâm. Đó là những hiện
tượng có thể là tích cực, tiêu cực hoặc có cả mặt tích cực lẫn tiêu cực.
Chính vì nó bàn về những hiện tượng quen thuộc trong đời sống nên đây là
loại văn bản giúp ích nhiều cho người học như: tạo ý thức cho học sinh
thường xuyên quan tâm đến các hiện tượng trong đời sống xã hội; có khả
năng nhạy bén trước những vấn đề của cuộc sống; có khả năng nhận thức,
đánh giá đúng đắn trước các hiện tượng đang xảy ra trong cuộc sống hàng
ngày. Trên cơ sở đó học sinh có những ứng xử phù hợp trong cuộc sống.
Bên cạnh đó kiểu bài nghị luận về một hiện tượng đời sống được đưa vào
giảng dạy trong nhà trường tạo sự gắn bó mật thiết giữa nhà trường và xã
hội; đồng thời rèn luyện năng lực tư duy và năng lực biểu đạt của học sinh.
Lập ý là một khâu quan trọng trong Làm văn nói chung, làm văn NLXH
và NL về một HTĐS nói riêng. Bởi một bài văn NL về một HTĐS nói riêng
và một bài văn nghị luận nói chung được tạo thành từ một hệ thống các ý
với các cấp độ khác nhau.Nếu không có phương pháp lập ý thì không thể tạo
lập thành công văn bản làm văn được. Nói như vậy để chúng ta thấy rằng vị
trí và vai trò cực kì quan trọng của các phương pháp lập ý hoặc phương
pháp lập ý là vấn đề cốt lõi, nòng cốt, trọng tâm nhất của phương pháp dạy
và học làm văn nói chung và phương pháp làm văn NL về một HTĐS nói
riêng.
Số hóa bởi Trung tâm Học Liệu – Đại học Thái Nguyên

2
Thực tế khảo sát cho thấy khâu lập ý cho một bài văn NL về một HTĐS là
khâu mà học sinh còn gặp nhiều khó khăn, còn non kém nhất trong làm kiểu
bài này.

Không chỉ học sinh mà cả giáo viên cũng gặp lúng túng trong việc rèn kĩ
năng lập ý cho học sinh trong kiểu bài NL về một HTĐS bởi đây là loại văn
bản mới được đưa vào chương trình sách giáo khoa nên chưa có nhiều tài
liệu tham khảo. Hơn nữa, cả giáo viên và học sinh đều ít hứng thú với kiểu
bài này nói riêng và với môn Làm văn nói chung bởi sự khô khan, không
bay bổng mượt mà như những giờ giảng văn.
Xuất phát từ những lí do trên và thông qua thực tiễn dạy học, chúng tôi
chọn đề tài “ Rèn luyện kĩ năng lập ý ở kiểu bài nghị luận về một HTĐS cho
học sinh lớp 12 THPT”.
2. ĐỐI TƢỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
2.1.Đối tƣợng nghiên cứu
Quá trình dạy và học văn nghị luận về một HTĐS đặc biệt lưu ý quá trình
lập ý ở kiểu bài NL về một HTĐS.
2.2. Phạm vi nghiên cứu
Nội dung và biện pháp rèn cho học sinh lớp 12 kĩ năng lập ý ở kiểu bài
NL về một HTĐS.
3. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ
Văn nghị luận là loại văn có vai trò quan trọng trong đời sống của mỗi
con người và cũng là loại văn có lịch sử lâu đời. Thế nhưng nếu chỉ tính
riêng những bài nghiên cứu, những tài liệu dạy học và kĩ năng lập ý cho
loại bài NLXH thì không phong phú. Bởi vì tuy có phân biệt hai loại NLXH
Số hóa bởi Trung tâm Học Liệu – Đại học Thái Nguyên

3
và NLVH nhưng trong thực tế kĩ năng lập ý bao giờ cũng chỉ được trình bày
trong phần kĩ năng làm văn nói chung và chủ yếu ở loại bài NLVH.
Thời kỳ phong kiến cách lập ý cho văn nghị luận được tiến hành chủ yếu
theo cách: Thầy đưa ra các bài văn mẫu, từ những bài văn mẫu này Thầy
căn cứ vào đặc điểm về nội dung và hình thức của từng loại mà phân tích và
giảng giải cho trò. Học trò cứ thế mà luyện tập theo. Có thể thấy, thực chất

của việc lập ý thời phong kiến ở một bài văn nghị luận là giúp người học
nắm vững đặc điểm và những yêu cầu về bố cục của từng loại văn mà thôi.
Ở thời kì pháp thuộc việc dạy lập ý trong văn nghị luận cũng chủ yếu là
cung cấp bài mẫu, người học cứ theo đó mà làm, mà luyện tập.
Với yêu cầu đổi mới dạy và học văn trong đó có phân môn Làm văn thì kĩ
năng lập ý lại chủ yếu được chú ý ở loại bài nghị luận văn học. Kĩ năng này
được đề cập đến nhiều trong các bộ SGK làm văn cho HS, sách giáo viên,
sách bồi dưỡng giáo viên dạy môn làm văn do trường ĐHSP Hà Nội biên
soạn; tài liệu bồi dưỡng dạy SGK cải cách giáo dục môn làm văn do Vụ
giáo viên biên soạn; sách làm văn 12 của Trần Thanh Đạm… nhưng tất cả
cũng chỉ chú trọng đến NLVH.
Kĩ năng lập ý nói riêng và kĩ năng làm văn nói chung chủ yếu được đề cập
đến ở các tài liệu dạy học trong nhà trường ( từ phổ thông đến đại học).
Ngoài ra một số ít chuyên ngành cũng đề cập đến kĩ năng làm văn nói
chung.
Ở dạng văn NLXH cũng có một số cuốn sách đề cập tới kĩ năng lập ý tiêu
biểu là cuốn Làm văn của nhóm tác giả Đỗ Ngọc Thống – Nguyễn Thành
Thi – Phạm Minh Diệu có đưa ra 2 bước để lập ý như sau: Dựa vào yêu cầu
và chỉ dẫn của đề để tìm ra vấn đề trọng tâm và các ý lớn mà bài viết cần
Số hóa bởi Trung tâm Học Liệu – Đại học Thái Nguyên

4
làm sáng tỏ; tìm ý nhỏ bằng cách đặt ra các câu hỏi, vận dụng những hiểu
biết về văn học và cuộc sống, xã hội để trả lời các câu hỏi đó.
- Trong cuốn Làm văn ( Giáo trình đào tạo giáo viên THCS) tác giả Lê A
cũng đề cập đến kĩ năng lập ý ở bài văn nghị luận hay trong cuốn sách Làm
văn 11 do tác giả Trần Thanh Đạm chủ biên cũng nói tới thao tác lập ý trong
văn nghị luận tuy nhiên còn rất chung chung.
Nghị luận về một HTĐS thuộc thể loại NLXH. Nó cũng ra đời, tồn tại và
phát triển cùng với sự ra đời của NLXH. Tuy nhiên, trước đây trong nhà

trường phổ thông nghị luận về một HTĐS chưa được đưa vào giảng dạy và
chưa được nhiều người chú ý quan tâm.
Trong những năm gần đây, Nghị luận về một HTĐS là loại văn bản chính
thức được đưa vào giảng dạy ở chương trình PT cụ thể là ở kỳ II lớp 9 cấp
THCS và kỳ I lớp 12 cấp THPT. Đây cũng là loại văn NL được đưa vào cơ
cấu trong đề thi của các cấp tuyển sinh và thi tốt nghiệp.
Đây là một loại văn bản rất mới nên chưc có một công trình cụ thể nào đi
nghiên cứu trực tiếp về loại văn bản này . Các kĩ năng làm kiểu bài này cũng
chưa có nhiều tài liệu đề cập đến. Có một số tài liệu nói về loại bài nghị luận
về một HTĐS, cụ thể:
(1) Dạy và học NLXH: Đỗ Ngọc Thống- NXBGD Việt Nam- 2010.
(2) Các dạng đề và hướng dẫn làm bài nghị luận xã hội: Lê A, Nguyễn
Thị Ngân Hoa ( đồng chủ biên)- NXB GD- 2009.
(3) Thực hành làm văn 10, 11, 12: Lê A ( chủ biên)- NXB GD- 2009.
(4) Các tài liệu luyện tập và luyện thi môn Ngữ văn….
Tuy nhiên, chỉ có cuốn “Dạy và học NLXH” của tác giả Đỗ Ngọc Thống-
NXBGD Việt Nam- 2010 và cuốn “Thực hành làm văn 12” của tác giả Lê A
( chủ biên)- NXB GD- 2009 là có bàn đến cách làm dạng bài nghị luận về
một HTĐS nhưng không cụ thể nói đến kĩ năng lập ý ở kiểu bài này.
Số hóa bởi Trung tâm Học Liệu – Đại học Thái Nguyên

5
Tóm lại, kĩ năng lập ý cho loại bài nghị luận nói chung là một kĩ năng rất
cơ bản, thiết yếu đối với học sinh. Một số tài liệu có bàn về kĩ năng này
nhưng chủ yếu lại liên quan đến kiểu bài NLVH và NLXH nói chung còn kĩ
năng lập ý trong kiểu bài nghị luận về một HTĐS thì chưa có tài liệu nào
bàn đến một cách cụ thể.
4. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Để thực hiện đề tài này, chúng tôi thực hiện những phương pháp nghiên cứu
sau:

4.1. Phƣơng pháp nghiên cứu tiếp thu lí thuyết
Nghiên cứu lí thuyết chung về văn NL và NL về một HTĐS
4.2. Phƣơng pháp điều tra, khảo sát
Điều tra thăm dò ý kiến giáo viên và học sinh về thuận lợi, khó khăn
khi học các bài NL về một HTĐS, về hứng thú của học sinh và hiệu quả các
bài học này.
4.3. Phƣơng pháp thực nghiệm
Phương pháp này có vị trí quan trọng với khoa học giáo dục và công tác
nghiên cứu. Trong đoạn văn này chúng tôi tiến hành thiết kế giáo án thể
nghiệm và làm một số dàn ý chi tiết cho loại bài thuộc phạm vi nghiên cứu
của đoạn văn. Đồng thời thể nghiệm với một số đề thuộc dạng NL về một
HTĐS để xác định đúng đắn tính khả thi của những đề xuất đưa ra trong
luận văn này.
4.4. Phƣơng pháp chuyên gia
Đây là một phương pháp quan trọng đối với những người làm công tác
khoa học và nghiên cứu đặc biệt là những người đang học làm khoa học.Đối
với đề tài này, chúng tôi tìm gặp những người có kinh nghiệm trong lĩnh
vực dạy học và nghiên cứu về NLXH để trao đổi đồng thời trao đổi với các
Số hóa bởi Trung tâm Học Liệu – Đại học Thái Nguyên

6
đồng nghiệp để bàn về vấn đề có liên quan nhằm rút ra những kinh nghiệm
quý báu cho luận văn của mình.
5. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
5.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở tiếp thu thành tựu nghiên cứu, luận văn tổng kết cơ sở lí thuyết
và thực tiễn của việc rèn kĩ năng lập ý ở kiểu bài NL về một HTĐS, đề xuất
nội dung và biện pháp rèn luyện kĩ năng này cho học sinh, góp phần nâng
cao chất lượng dạy học kiểu bài NL về một HTĐS.
5.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Xác định cơ sở khoa học của việc rèn luyện kĩ năng lập ý ở kiểu bài NL về
một HTĐS.
Đề xuất nội dung và biện pháp rèn luyện kĩ năng lập ý ở kiểu bài NL về
một HTĐS.
Tổ chức thể nghiệm sư phạm để điều chỉnh và đánh giá hiệu quả cũng như
khả năng thực thi của giải pháp được đề xuất.
6. DỰ KIẾN ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN
Đưa ra một số giải pháp giúp giáo viên và học sinh khắc phục những khó
khăn khi rèn kĩ năng lập ý ở kiểu bài NL về một HTĐS thông qua một hệ
thống bài tập với các dạng cụ thể.
7. CẤU TRÚC LUẬN VĂN
Từ việc xác định mục tiêu, đối tượng, phạm vi, phương pháp nghiên cứu
luận văn có cấu trúc như sau:
Chƣơng 1: Cơ sở khoa học của việc rèn luyện kĩ năng lập ý ở kiểu bài
NL về một HTĐS
1.1 .Nghị luận xã hội và kiểu bài NL về một HTĐS.
1.2 .Ý và kĩ năng lập ý ở kiểu bài NL về một HTĐS .
1.3 .Thực trạng dạy và học lập ý cho học sinh ở kiểu bài NL về một HTĐS.
Số hóa bởi Trung tâm Học Liệu – Đại học Thái Nguyên

7

Chƣơng 2: Rèn luyện kĩ năng lập ý ở kiếu bài NL về một HTĐS cho học
sinh qua hệ thống bài tập
2.1. Một số vấn đề chung.
2.2. Miêu tả hệ thống bài tập.
2.3. Phương hướng sử dụng hệ thống bài tập.

Chƣơng 3: Thể nghiệm sƣ phạm
Chương này nhằm kiểm tra, đánh giá khả năng thực thi, hiệu quả của

những đề xuất trong luận văn, với các bước cụ thể:
- Thiết kế giáo án cho các bài: NL về một HTĐS; Bài viết số 2; Trả bài
kiểm tra số 2.
- Đưa ra một số đề NL về một HTĐS và hướng dẫn cách lập ý cho mỗi đề.
- Tổ chức thể nghiệm ở các lớp thuộc lớp theo chương trình chuẩn.
- Đánh giá kết quả thể nghiệm.












Số hóa bởi Trung tâm Học Liệu – Đại học Thái Nguyên

8
Chƣơng 1
CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA VIỆC RÈN LUYỆN KĨ NĂNG LẬP Ý Ở
KIỂU BÀI NGHỊ LUẬN VỀ MỘT HIỆN TƢỢNG ĐỜI SỐNG

1.1.Nghị luận xã hội và kiểu bài nghị luận về một hiện tƣợng đời sống.
1.1.1.Nghị luận xã hội và các kiểu bài nghị luận xã hội.
1.1.1.1. Nghị luận xã hội.
Theo từ điển từ và ngữ Hán Việt: “ Nghị luận” là dùng lí luận để phân tích
ý nghĩa phải trái, bàn bạc, mở rộng vấn đề. Còn “xã hội” trước hết là một

tập thể người cùng sống, gắn bó với nhau trong quan hệ sản xuất và các
quan hệ khác. Cũng có thể hiểu “ xã hội” là những gì thuộc về quan hệ giữa
người và người về các mặt chính trị, kinh tế, triết học, lịch sử, văn học, ngôn
ngữ… Từ đó có thể hiểu NLXH là thể văn hướng tới phân tích, bàn bạc các
vấn đề liên quan đến các mối quan hệ của con người trong đời sống xã hội.
Mục đích cuối cùng của nó là tạo ra những tác động tích cực đến con người
và những mối quan hệ giữa người với người trong xã hội [43,5].
SGK Làm văn 10 cho rằng: NLXH bàn đến mối quan hệ giữa con người
với con người. Những lời bàn này góp phần làm cho đời sống tinh thần của
con người thêm phong phú, tạo cho mỗi người ý thức chăm sóc cuộc sống
tinh thần của bản thân mình và xây dựng cho mối quan hệ trong xã hội ,
trong cộng đồng mỗi này một văn minh, tốt đẹp hơn [21,40].
Theo tác giả Đỗ Hữu Châu , Lê A thì: NLXH lấy đề tài từ các lĩnh vực
chính trị, xã hội, đạo đức làm nội dung bàn bạc nhằm làm sáng tỏ cái đúng,
sai, tốt, xấu, phải trái của vấn đề được nêu ra. Nội dung ấy thường được cô
đúc trong các câu tục ngữ, danh ngôn hoặc một lời nhận xét khái quát nào
đấy. Các vấn đề đặt ra trong NLXH thường rất rộng: là những quan niệm
đối nhân xử thế cách sống hay nói cách khác đó là mối quan hệ giữa con
Số hóa bởi Trung tâm Học Liệu – Đại học Thái Nguyên

9
người với con người. Có thể vấn đề đặt ra cũng có thể rất hẹp như: nên tập
thể dục buổi sáng như thế nào, học sinh cần đi học đúng giờ…
Nói chung NLXH là dùng lí lẽ, dẫn chứng bàn bạc về các vấn đề xã hội,
chính trị, đạo đức để chỉ ra các mặt trái- phải, đúng- sai, tốt- xấu của những
vấn đề ấy. Trong nhà trường THPH thì NLXH thường xoay quanh các vấn
đề về tư tưởng, đạo đức, lối sống gần gũi với tuổi trẻ hay bày tỏ ý kiến, suy
nghĩ về một hiện tượng tốt hoặc xấu trong đời sống xã hội. Và, trong những
bài văn nghị luận ở nhà trường các em cần phát biểu những suy nghĩ
nghiêm túc, chín chắn của mình về một vấn đề có ý nghĩa xã hội đặt ra cho

mình, lứa tuổi mình, không thể phát biểu tùy tiện như trong sinh hoạt hàng
ngày.
1.1.1.2. Các kiểu bài nghị luận xã hội
Về nghị luận xã hội trong nhà trường phổ thông có 3 dạng chính sau:
- Bàn về một vấn đề tư tưởng, đạo lí thông qua những nhận xét, phán đoán
về tinh thần, tình cảm, tư tưởng, đạo lí, lối sống…
- Bàn về một hiện tượng, con người, sự việc có thật trong cuộc sống ở mọi
phương tiện, mọi khía cạnh của nó.
- Bàn về một vấn đề đặt ra trong tác phẩm văn học.
Mỗi dạng bài lại có những đòi hỏi và phương pháp riêng.[43,6]
a. Dạng bài nghị luận về một tƣ tƣởng, đạo lí
Nghị luận về một tư tưởng, đạo lí là bàn về một vấn đề thuộc lĩnh vực tư
tưởng, đạo đức, lối sống …của con người.[8,35]
Trong nhà trường phổ thông, do tâm lí, lứa tuổi, tầm nhận thức nên những
vấn đề đặt ra để bàn luận không phải là những vấn đề quá phức tạp, lớn lao
mà chỉ là những khía cạnh đạo đức, tư tưởng, tình cảm gắn liền với cuộc
sống hàng ngày như tình cảm quê hương, gia đình, bạn bè, ý thức trách
nhiệm, tinh thần học tập, phương pháp nhận thức…Những vấn đề này có thể
Số hóa bởi Trung tâm Học Liệu – Đại học Thái Nguyên

10
đặt ra một cách trực tiếp nhưng thường là được gợi mở qua một câu danh
ngôn ( tục ngữ, ca dao, câu nói của các bậc hiền triết, các lãnh tụ, các nhà
văn hóa, khoa học, nhà văn nổi tiếng…).[43,6]
Nội dung của kiểu bài nghị luận này là phải làm sáng tỏ các vấn đề tư
tưởng, đạo lí bằng cách giải thích, chứng minh, so sánh, đối chiếu, phân
tích,…để chỉ ra chỗ đúng ( hay chỗ sai) của một tư tưởng nào đó, nhằm
khẳng định tư tưởng của người viết. Hình thức của bài viết phải có bố cục 2
phần, có luận điểm rõ ràng, sáng tỏ, lời văn chính xác, sinh động.
b. Dạng bài nghị luận về một hiện tƣợng đời sống

Dạng bài này thường nêu lên một hiện tượng có thật trong đời sống. Đó có
thể là một hiện tượng tích cực nhưng cũng có thể là một hiện tượng tiêu cực
trong xã hội hoặc một hiện tượng có cả mặt tích cực lẫn tiêu cực…Như thế
đòi hỏi người viết phải thể hiện được chủ kiến của bản thân hoặc ca ngợi,
biểu dương cái tốt- cái thiện và lên án , vạch trần cái xấu- cái ác…Những
hiện tượng đời sống nêu lên trong các đề văn dạng này vừa phải gần gũi với
tuổi trẻ học đường vừa phải có ý nghĩa lớn lao đối với cả cộng đồng dân tộc
và thế giới.[43,12]
c. Dạng bài nghị luận về một vấn đề xã hội đặt ra trong tác phẩm văn
học
Đây là dạng đề tổng hợp, đòi hỏi học sinh kiến thức về cả hai mảng văn học
và đời sống, cũng đòi hỏi kĩ năng phân tích văn học và kĩ năng phân tích,
đánh giá các vấn đề xã hội. Nghĩa là có thể kiểm tra người viết cả về kiến
thức văn học và kiến thức đời sống. Đề thường xuất phát từ một vấn đề xã
hội giàu ý nghĩa có trong một tác phẩm văn học nào đó để yêu cầu học sinh
bàn bạc rộng ra vấn đề xã hội đó. Vấn đề xã hội được bàn bạc có thể rút ra
từ một tác phẩm văn học đã học trong chương trình nhưng cũng có thể từ
Số hóa bởi Trung tâm Học Liệu – Đại học Thái Nguyên

11
một câu chuyện chưa được học ( thường là một câu chuyện ngắn gọn, giàu
ý nghĩa).[43,15]
Ví dụ : Trong tác phẩm “ Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu
nếu đặt ra vấn đề về bạo lực gia đình thì lúc này là bàn về lĩnh vực thuộc NL
về một HTĐS. Còn nếu đưa ra vấn đề quan niệm về cái đẹp của nghệ sĩ thì
lúc này lại bàn về lĩnh vực thuộc NL về một TTĐL. Như vậy, cùng là một
tác phẩm nhưng vấn đề được trích ra thuộc lĩnh vực tư tưởng, đạo lí thì nó
thuộc loại NL về một TTĐL còn vấn đề được trích ra thuộc lĩnh vực hiện
tượng đời sống thì nó thuộc NL về một HTĐS.
Nghị luận về một hiện tƣợng đời sống

1.1.2.1. Khái niệm
Bài nghị luận về một HTĐS thường có nội dung: nêu rõ hiện tượng, phân
tích các mặt đúng- sai, lợi- hại, chỉ ra nguyên nhân và bày tỏ thái độ, ý kiến
của người viết về hiện tượng xã hội đó [10,67].
1.1.2.2. Đặc điểm
- Nghị luận về một HTĐS thường nêu lên một hiện tượng có thật trong đời
sống, được nhiều người quan tâm.
- Đó có thể là một hiện tượng tích cực nhưng cũng có thể là một hiện tượng
tiêu cực trong xã hội hoặc một hiện tượng có cả mặt tích cực lẫn tiêu cực.
- Người viết phải thể hiện được chủ kiến của bản thân hoặc ca ngợi, biểu
dương cái tốt- cái thiện và lên án , vạch trần cái xấu- cái ác.

1.1.2.3. Cách làm dạng đề nghị luận về một hiện tƣợng đời sống
Nhìn chung để tìm ý cho dạng đề này thì người viết biết đặt ra và trả lời các
câu hỏi có ý nghĩa xung quanh vấn đề trọng tâm mà đề yêu cầu. Các câu hỏi
và nội dung trả lời có thể sắp xếp theo 3 bước với nội dung cụ thể như sau:

Số hóa bởi Trung tâm Học Liệu – Đại học Thái Nguyên

12

a. Giới thiệu thực trạng được nêu trong đề bài
Ở bước này để luyện tập viết các bài văn NL về một HTĐS trước hết người
viết cần biết nhận diện hiện tượng ấy như: các biểu hiện, các dạng tồn tại,
thậm chí cần cả những số liệu cụ thể.Thực hiện thao tác này đòi hỏi học sinh
có một sự quan tâm, hiểu biết đến các vấn đề đang tồn tại trong đời sống xã
hội hiện nay.Nghĩa là phải luôn chú ý lắng nghe thời sự hàng ngày, cập nhật
thông tin trong nước và quốc tế chứ không đợi đến lúc nhận đề bài mới tìm.
Không phải hiện tượng nào cũng được đặt ra trong các đề NLXH mà phải là
những vấn đề có ý nghĩa sâu sắc, có ảnh hưởng rộng đến đời sống cộng

đồng cũng như cuộc sống của chính lứa tuổi học sinh. Ví dụ như các vấn đề
sau: ô nhiễm môi trường, tai nạn giao thông, căn bệnh HIV/AIDS, các tệ
nạn xã hội, hút thuốc lá,quay cóp bài trong học hành thi cử, phong trào
thanh niên tình nguyện,những tấm gương hiếu thảo,vượt khó của thanh
niên…Khi phản ánh thực trạng, người viết cần đưa ra những con số, những
thông tin cụ thể tránh lối nói chung chung, mơ hồ để tạo sự thuyết phục với
người nghe.
b.Phân tích và bình luận nguyên nhân- kết quả ( hậu quả) của vấn đề
được nêu ra trong đề bài
Sau khi xác định rõ thực trạng, cần phân tích hiện tượng ở các mặt nguyên
nhân, hậu quả và cố gắng tìm các giải pháp để giải quyết thực trạng đó. Việc
này không quá khó. Chỉ cần chú ý một chút tới cách nói của các phóng viên,
bình luận viên trên các báo, đài, chú ý quan tâm đến dư luận xã hội và chịu
khó tìm hiểu cuộc sống xung quanh mình là HS sẽ làm được. Tuy nhiên, khi
nghe và tiếp nhận thông tin, dư luận, cần có sự tỉnh táo để xem xét, chọn lọc
và xử lí đích đáng trên cơ sở hiểu biết và cố gắng xây dựng một lập trường
tư tưởng vững vàng, tránh chạy theo dư luận không chính thống mà dẫn tới
Số hóa bởi Trung tâm Học Liệu – Đại học Thái Nguyên

13
chủ quan, hồ đồ khi phân tích, đánh giá hiện tượng. Lưu ý là khi phân tích
nguyên nhân, nên chú ý đến các mặt khách quan – chủ quan. Chẳng hạn, với
hiện tượng tai nạn giao thông thì nguyên nhân khách quan là do hệ thống
giao thông còn nhiều bất cập (cách phân luồng, phân tuyến, hệ thống biển
báo chỉ dẫn, chất lượng của phương tiện tham gia giao thông…), nguyên
nhân chủ quan là người tham gia giao thông chưa ý thức đầy đủ về trách
nhiệm, chưa nắm vững luật pháp, chưa có ý đúng mức tới vấn đề an toàn…
Khi đánh giá hậu quả, cần phải xem xét ở các phạm vi cá nhân – cộng đồng,
hiện tại – tương lai… Ví dụ: hiện tượng nghiện Internet không chỉ làm hao
tổn về sức lực, tiền của, ảnh hưởng xấu đến sự phát triển nhân cách cá nhân

mà còn tạo mầm mống cho những bất ổn trong xã hội.[43,14]
c.Đề xuất ý kiến ( giải pháp) với vấn đề được đưa ra trong đề bài
Sau khi phân tích và bình luận nguyên nhân – kết quả, thường là phần nêu,
đề xuất giải pháp khắc phục. Trước hết cần xem lại phần nguyên nhân vì
chính nó là gợi ý tốt nhất để tìm ra các giải pháp khắc phục. Chẳng hạn một
trong những nguyên nhân của nạn bạo hành phụ nữ thì một trong những
giải pháp khắc phục tình trạng này là tuyên truyền, giáo dục để nâng cao
nhận thức và ý thức về bình đẳng giới cho cộng đồng ; nguyên nhân của tai
nạn giao thông là do người tham gia giao thông chưa có ý thức trách nhiệm,
chưa nắm vững luật pháp và chưa chú ý đầy đủ đến sự an toàn thì một trong
những giải pháp có thể thực hiện là tuyên truyền, giáo dục về an toàn giao
thông, xây dựng chế tài xử phạt đối với những trường hợp vi phạm an toàn
giao thông…
Về cơ bản, bài NL về một HTĐS cần là sự bộc lộ vốn hiểu biết và lập
trường, thái độ của người viết về hiện tượng được nêu. Vì vậy, bên cạnh
việc nắm vững các bước cơ bản trong quá trình làm bài, người viết còn cần
Số hóa bởi Trung tâm Học Liệu – Đại học Thái Nguyên

14
thể hiện tiếng nói cá nhân và quan điểm đánh giá thật rõ ràng, sắc sảo thì bài
viết mới có tính thuyết phục.[43,14]
1.2. Ý và kĩ năng lập ý ở kiểu bài NL về một HTĐS
1.2.1. Ý trong bài văn NL về một HTĐS
1.2.1.1. Quan niệm về ý trong bài văn NL về một HTĐS
Nói chung ý trong bài văn NL về một HTĐS là toàn bộ hệ thống luận
điểm, luận cứ nhằm làm sáng rõ và giải quyết sáng tỏ cho luận đề của bài
văn. Ý trong bài văn NL về một HTĐS nhằm phân tích, đánh giá để hiểu
được bản chất của HTĐS được nêu ra, để thấy rõ mặt tích cực, tiêu cực của
vấn đề và từ đó rút ra bài học về các HTĐS ấy. Từ những bài học đó rút ra ý
nghĩa, phương hướng hành động cụ thể đối với HTĐS đó. Tất cả các ý đều

phải được đưa vào một sự sắp xếp, vào một bố cục cụ thể.

1.2.1.2.Mô hình ý trong kiểu bài NL về một HTĐS
Mô hình ý là kết quả của quá trình lập ý được đưa vào bố cục ba phần của
văn bản. Có thể hình dung mô hình ý trong bài văn nghị luận nói chung qua
phác thảo của nhà nghiên cứu Đỗ Ngọc Thống sau đây:










Số hóa bởi Trung tâm Học Liệu – Đại học Thái Nguyên

15
Mở bài: Nêu luận đề khái quát.

Thân bài:
Luận điểm I
Luận cứ 1
Luận cứ 2 Làm sáng tỏ cho luận điểm I
Luận cứ 3
Làm sáng tỏ
cho luận đề ở
mở bài
Luận điểm II

Luận cứ 1 Làm sáng tỏ cho luận điểm II
Luận cứ 2

Luận điểm III
Luận cứ 1
Luận cứ 2 Làm sáng tỏ cho luận điểm III
Luận cứ 3

Kết bài : Nêu ý tổng kết toàn bàì

Vận dụng phác thảo trên, có thể hình dung mô hình ý trong bài văn nghị
luận về MHTĐS như sau:

Mở bài: Giới thiệu hiện tượng hiện tượng đời sống và những định hướng
nghị luận khái quát

Số hóa bởi Trung tâm Học Liệu – Đại học Thái Nguyên

16
Thân bài:
- Luận điểm 1: Giải thích, chứng minh các biểu hiện của sự việc, hiện
tượng
+ Luận cứ 1
+ Luận cứ 2
+ …….
- Luận điểm 2: Phân tích nguyên nhân và hậu quả… của sự việc, hiện
tượng
+ Luận cứ 1
+ Luận cứ 2
+ ……

- Luận điểm 3: Bình luận, nhận xét về hiện tượng. Đánh giá hiện tượng
tốt, xấu, lợi, hại như thế nào
+ Luận cứ 1
+ Luận cứ 2
+…
- Luận điểm 4: Nêu phương hướng hành động
+ Luận cứ 1
+ Luận cứ 2
+ …….
Kết bài: Từ hiện tượng đời sống rút ra bài học tư tưởng đạo lí
1.2.2. Kĩ năng lập ý trong kiểu bài NL về một HTĐS
1.2.2.1. Quan niệm về kĩ năng lập ý trong kiểu bài NL về một HTĐS
Nhìn chung khái niệm ý trong bài văn nghị luận được hiểu khá thống nhất.
Ý, đó là những những nội dung chính tạo nên nội dung cơ bản của một bài
viết. Và nếu quan niệm ý là những nội dung chính cần trình bày trong bài
văn thì lập ý là một quá trình suy nghĩ (có ý thức) nhằm định ra các nội
Số hóa bởi Trung tâm Học Liệu – Đại học Thái Nguyên

17
dung cơ bản của bài viết trước khi diễn đạt thành văn. Như vậy ý là kết quả
của những dự định sẽ trình bày ra bằng lời được hình thành trong quá trình
tư duy có định hướng. Vì thế lập ý là định ra trong đầu óc những nội dung
chính, những ý cơ bản sẽ được thể hiện ra bằng lời (bằng chữ) theo một
trình tự hợp lý; là giai đoạn tiền văn bản.
Đối với HS THPT lập ý cho đề văn là một quá trình suy nghĩ trong một
tình huống có vấn đề (đề văn tạo nên tình huống có vấn đề này) nhằm đưa
ra, lựa chọn và sắp xếp những nội dung chính, những ý cơ bản mà học sinh
dự định sẽ triển khai vào bố cục ba phần của bài văn. Việc lập ý giúp cho
HS bao quát được những nội dung chủ yếu, những ý cơ bản cần triển khai
cũng như xác định được phạm vi nghị luận và mức độ triển khai các ý cơ

bản (ý chính) trong bài văn nhờ đó mà tránh được tình trạng xa đề, lạc đề
hoặc lặp ý; tránh được việc bỏ sót hoặc triển khai không cân đối. Hơn nữa,
việc lập ý sẽ giúp người viết phân phối thời gian làm bài hợp lý. Quá trình
lập ý bắt đầu từ khi học sinh đọc đề đến khi học sinh bắt tay vào viết thành
bài văn hoàn chỉnh.
Đối với kiểu bài NL về một HTĐS việc lập ý cũng tương tự như vậy, là
quá trình tìm, chọn và sắp xếp các ý thành một hệ thống hợp lí trước khi viết
thành một bài văn hoàn chỉnh.
Ví dụ: Hãy xác lập ý cho đề bài sau : Hiện nay, khủng bố đang là một vấn
nạn có ảnh hưởng trên phạm vi toàn cầu. Anh ( chị) suy nghĩ như thế nào
về hiện tượng này?[43,96]
Với đề bài trên chúng ta có thể trình bày các ý như sau:
- Giải thích khái niệm khủng bố là gì và nêu thực trạng khủng bố hiện nay.
- Nạn khủng bố đem đến những hậu quả như thế nào.
- Cắt nghĩa những nguyên nhân dẫn đến khủng bố
- Tìm những giải pháp gì để hạn chế nạn khủng bố.
Số hóa bởi Trung tâm Học Liệu – Đại học Thái Nguyên

18
Chúng ta có thể khẳng định rằng trong viết một văn bản hoàn chỉnh thì
khâu lập ý là một khâu rất quan trọng với kiểu bài NL về một HTĐS cũng
vậy để có một bài văn hoàn chỉnh, không bị thừa hay thiếu ý hoặc mức độ
các ý phải được trình bày sao cho hợp lí thì lập ý là vô cùng quan trọng, là
không thể thiếu được.
1.2.2.2. Quan hệ giữa kĩ năng lập ý và các kĩ năng khác trong quá trình
làm văn NL về một HTĐS
Trong một bài văn nghị luận nói chung và nghị luận về một HTĐS nói
riêng có 5 kĩ năng cơ bản sau:
- Kĩ năng tìm hiểu đề, xác định yêu cầu bài viết
- Kĩ năng tìm ý

- Kĩ năng lập dàn bài
- Kĩ năng diễn đạt, trình bày
- Kĩ năng kiểm tra, hoàn chỉnh bài viết
Trong 5 kĩ năng trên, mỗi kĩ năng có một vai trò và vị trí riêng nhưng
chúng có liên quan chặt chẽ với nhau. Xét trong sự sắp xếp trình tự các kĩ
năng đó ta nhận thấy kĩ năng lập ý đứng ở vị trí thứ 2 sau kĩ năng tìm hiểu
đề, xác định yêu câu bài viết và đứng trước kĩ năng lập dàn ý, kĩ năng diễn
đạt, trình bày và kĩ năng kiểm tra, hoàn chỉnh bài viết.
Có thể thấy rằng mỗi kĩ năng có một vai trò riêng và nếu thiếu 1 trong 5 kĩ
năng trên thì bài văn sẽ thiếu chính xác, thiếu sự đầy đủ. Chúng ta cũng
không thể nói kĩ năng nào là quan trọng nhất bởi mỗi kĩ năng có một chức
năng riêng tạo thành một mắt xích trong quá trình viết một bài văn nghị
luận.



Số hóa bởi Trung tâm Học Liệu – Đại học Thái Nguyên

19
a. Quan hệ với kĩ năng tìm hiểu đề, xác định yêu cầu bài viết
Để lập được ý trong bài văn nghị luận nói chung và trong bài văn nghị
luận về một HTĐS nói riêng thì chúng ta phải dựa vào kết quả của kĩ năng
tìm hiểu đề, xác định yêu cầu bài viết.
b.Quan hệ với kĩ năng lập dàn ý
Dàn ý chính là sự sắp xếp các ý vào bố cục ba phần theo một trình tự lôgic
để tạo sự mạch lạc, liên kết, thống nhất trong bài văn. Có ý thì mới lập được
dàn ý. Như vậy, trong quan hệ với lập dàn ý thì lập ý là cơ sở để lập dàn ý
xây dựng kết cấu của bài văn. Ngược lại, lập dàn ý lấy kết quả của lập ý làm
tư liệu cho mình.
c. Quan hệ với kĩ năng diễn đạt, trình bày

Trong quan hệ với kĩ năng diễn đạt, trình bày ta thấy rằng lập ý cũng đóng
một vai trò quan trọng. Trong một bài văn nghị luận nói chung và nghị luận
về một HTĐS nói riêng bao gồm nhiều ý với các cấp độ khác nhau. Không
phải có bao nhiêu ý thì tất cả các ý đều được trình bày tương đương nhau
mà ta phải xác định trong hệ thống các ý đó thì ý nào là quan trọng nhất, là ý
trọng tâm, ý nào là phụ, không quan trọng. Với những ý trọng tâm thì ta
phải trình bày nhiều hơn, nói kĩ hơn còn những ý phụ thì không cần trình
bày nhiều bằng các ý trọng tâm. Như vậy mới tạo sự cân đối, hài hòa cho
bài văn và khi đọc thì người đọc sẽ dễ dàng nhận ra trong bài viết ấy thì ý
nào là cốt lõi, là vấn đề chính.
d. Quan hệ với kĩ năng kiểm tra, hoàn chỉnh bài viết
Kĩ năng kiểm tra và hoàn chỉnh bài viết là khâu cuối cùng trong quá trình
tạo lập một văn bản. Đây là khâu cũng rất quan trọng bởi trong quá trình tạo
lập văn bản có khi người viết mắc phải một số lỗi thì đây chính là lúc để
chúng ta hoàn chỉnh và sửa chữa các lỗi mắc phải ấy. Nếu hệ thống các ý
rành mạch, rõ ràng sắp xếp theo trình tự hợp lí thì khâu hoàn chỉnh sẽ dễ
Số hóa bởi Trung tâm Học Liệu – Đại học Thái Nguyên

20
dàng và ngược lại. Để kiểm tra và hoàn chỉnh được bài viết thì bài viết phải
có ý. Như vậy, giữa kĩ năng lập ý và kĩ năng kiểm tra, hoàn chỉnh bài viết
cũng có mối quan hệ gắn bó với nhau.
1.2.2.3.Cơ sở của việc hình thành kĩ năng lập ý ở kiểu bài NL về một
HTĐS
Cơ sở của việc hình thành kĩ năng lập ý ở kiểu bài NL về một HTĐS dựa
trên lí thuyết tâm lí học thần kinh cao cấp của Paplôp và lí thuyết hành vi
chủ quan của Skiner. Từ hai thực nghiệm của Paplôp và Skiner ta thấy cùng
là những phản xạ có điều kiện nhưng ở thực nghiệm của Paplôp thì việc
hình thành phản xạ có điều kiện ấy hoàn toàn là thụ động, không có sự nỗ
lực tích cực chủ động của chủ thể mà hoàn toàn phụ thuộc điều kiện bên

ngoài. Còn thực nghiệm của Skiner đã tăng cường được tính chủ động tích
cực của chủ thể không phụ thuộc bên ngoài. Trong quá trình tìm kiếm chủ
thể có thể có kết quả sai nhưng bằng kinh nghiệm, tự lực tìm kiếm cuối cùng
chủ thể tìm đến kết quả đúng. Ta có thể khẳng định rằng tất cả các hiện
tượng tâm lí đều có cơ sở sinh lí là phản xạ có điều kiện. Chính vì vậy hoạt
động học cũng là phản xạ có điều kiện. Dạy học chính là dạy phản xạ có
điều kiện. Trong hoạt động dạy học thì chủ thể học sinh phải tích cực, chủ
động hoạt động tìm kiếm kiến thức. Phải làm đi làm lại nhiều lần một hoạt
động nào đó thì mới tạo thành đường hằn trong vỏ não và từ đó mới hình
thành được kĩ năng mình mong muốn một cách thành thục.
Cũng như vậy, muốn hình thành kĩ năng làm văn nghị luận về một HTĐS
thì cá nhân phải chủ động tích cực rèn luyện. Ngoài việc tiếp thu, áp dụng
những kiến thức về lí thuyết đã được giáo viên truyền đạt thì điều quan
trọng hơn là học sinh phải được làm được thực hành nhiều. Quá trình thực
hành ấy phải được tiến hành ở nhiều hình thức khác nhau như: Đọc những
bài văn mẫu của những tác giả có uy tín; tham khảo nhiều dạng đề khác
Số hóa bởi Trung tâm Học Liệu – Đại học Thái Nguyên

21
nhau; làm nhiều loại bài tập khác nhau. Những hoạt động đó được làm đi
làm lại nhiều lần dần dần thành thục và tạo thành kĩ năng. Tuy nhiên, những
hoạt động đó phải được chủ thể chủ động làm, làm một cách say mê, không
gò bó ép buộc cũng không phải đi chép lại của người khác thì mới tạo thành
kĩ năng được.
Như vậy, cơ sở của việc hình thành kĩ năng nói chung và kĩ năng lập ý nói
riêng ở kiểu bài NL về một HTĐS chính là bằng cách tiến hành các hoạt
động tích cực chủ động có định hướng lặp đi lặp lại nhiều lần thông qua hệ
thống bài tập thực hành như một phương tiện chủ yếu.
1.3. Thực trạng dạy và học lập ý cho học sinh ở kiểu bài NL về một
HTĐS

1.3.1. Đối tƣợng điều tra
Để nắm được thực trạng năng lực và việc dạy học về kĩ năng lập ý ở kiểu
bài NL về một HTĐS chúng tôi tiến hành điều tra học sinh 4 lớp ở 2 trường
THPT trên địa bàn thị xã Sông Công và huyện Phổ Yên đó là trường THPT
Sông Công và THPT Phổ Yên.
1.3.2. Nội dung điều tra
Điều tra thực trạng năng lực lập ý của học sinh ở kiểu bài NL về một HTĐS
thông qua hệ thống bài tập trong tiết lí thuyết bài “Nghị luận về một
HTĐS”, thông qua bài kiểm tra và tiết trả bài kiểm tra.
1.3.3.Cách thức điều tra
a. Đối với học sinh
Chúng tôi đã tiến hành 03 cách đo như sau:
Cách thứ nhất: Cho một đề văn (NLXH), yêu cầu học sinh lập ý trong thời
gian 10 – 15 phút. Sau đó chấm bài và thống kê kết quả. Qui định 10 – 15
phút theo chúng tôi, đó là thời gian cần thiết để HS lập ý trước khi bắt tay

×