Tải bản đầy đủ (.docx) (36 trang)

Bài tập định tội danh hình phạt mẫu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (372.34 KB, 36 trang )

Bài tập định tội danh và quyết định hình phạt mẫu

Bài tập số 1:
Tối 20/5/2001 Nguyễn Công A (20 tuổi) cùng với Lê Thị Hoài V (18 tuổi) đến vũ
trường Rex để giải trí. Trong lúc A ra ngồi gọi điện thoại thì Đồn Văn K đến mời V
nhảy nhưng bị từ chối. K đã có lời nói miệt thị và đe dọa V. Khi A vào, V đã kể lại sự
việc và nói: “Anh phải cho nó một bài học nhớ đời”. A khơng nói gì, vì sợ lại phải sa
vào con đường tù tội, bởi vì ngày 4/2/1997 A đã bị Tòa án nhân dân phạt 2 năm tù
về tội cố ý gây thương tích theo khoản 2 Điều 109 Bộ luật hình sự 1985.
Khoảng 21 giờ đêm, A và V ra về thì gặp K trước cửa vũ trường, V nói: “Thằng lúc
nãy đó, anh cho nó một trận đi…”. Thấy A khơng có phản ứng gì, V giận rỗi nói tiếp:
“Sao anh hèn nhát vậy, nếu anh không ra tay để bảo vệ danh dự cho em, thì từ nay
chúng ta vĩnh viễn chia tay nhau”.
Thấy V nói vậy, A chỉ tay vào mặt K và nói: “Tại sao lúc nãy mày chửi người yêu
tao”. Sau đó A đấm liên tiếp vào mặt, vào người K. Bị đánh bất ngờ K không kịp
phản ứng, ngã xuống đất. A tiếp tục dùng chân đá, đạp vào người đến khi K ngất
xỉu. Sau đó A và V gọi taxi về nhà.
K được mọi người đưa vào bệnh viện cứu chữa, một tháng sau mới xuất viện.
Kết luận giám định pháp y ghi rõ: “Trên người bệnh nhân có nhiều vết thương trượt
da, ở vùng trán có vết thương sâu dài 6 cm để lại sẹo to. Thương tích ở mắt phải
làm giảm thị lực xuống còn 4%. Tỷ lệ thương tật bệnh nhân phải gánh chịu là 25%”.
Hỏi: Anh (chị) hãy giải quyết vụ án về phương diện định tội danh
và khung hình phạt áp dụng đối với A và V?
Lời giải
Bước 1: Tóm tắt hành vi của từng người trong vụ án
* Đối với A:
– 20 tuổi, 4/2/1997 đã bị Tòa án nhân dân phạt 2 năm tù giam về tội cố ý gây thương
tích theo khoản 2 Điều 109 Bộ luật hình sự năm 1985.
– 21 giờ ngày 20/5/2001 đã liên tiếp đấm vào mặt, vào người K. Mặc dù K ngã
xuống đất nhưng vẫn đá liên tiếp làm K ngất xỉu. K phải điều trị tại bệnh viện 1
tháng. Trên người K có nhiều vết thương trượt da, ở vùng trán có vết thương sâu


dài 6 cm để lại sẹo to, xấu. Thương tích ở mắt phải làm giảm thị lực xuống còn 4%.
Tỷ lệ thương tật bệnh nhân phải gánh chịu là 25%”.
* Đối với V
18 tuổi, trước khi xảy ra vụ án V đã có những lời nói đối với A: “Anh phải cho nó một
bài học nhớ đời”; “Thằng lúc nãy đó, anh đánh cho nó một trận”; “sao anh hèn nhát
vậy, nếu anh không ra tay để bảo vệ danh dự của em, thì từ nay chúng ta chia tay
nhau”.
Bước 2: Xác định hướng xâm hại (khách thể bị xâm hại) và các qui
phạm pháp luật hình sự cần kiểm tra
* Đối với A:
Hành vi của A đã xâm hại tới sự tôn trọng và bảo vệ sức khỏe của người khác. Các
qui phạm pháp luật hình sự cần kiểm tra: Khoản 1 và 2, Điều 104, khoản 2 Điều
49 Bộ luật hình sự.
* Đối với V:


Hành vi của V xâm hại tới sự tôn trọng và bảo vệ sức khỏe của người khác. Các qui
phạm pháp luật hình sự cần kiểm tra: Khoản 1, 2 Điều 104, khoản 1 và đoạn 3
khoản 2 Điều 20 Bộ luật hình sự.
Bước 3: Kiểm tra các qui phạm pháp luật hình sự đã lựa chọn
1) Đối với hành vi của A
* Khoản 1 Điều 104 Bộ luật hình sự.
Điều luật qui định 2 tội: tội cố ý gây thương tích cho người khác và tội cố ý gây tổn
hại cho sức khỏe của người khác.
– Khách thể của tội phạm.
Khách thể trực tiếp của hai tội phạm này là quyền được tôn trọng và bảo vệ sức
khỏe của người khác.
Hành vi của A đấm, đá, đạp vào người K đã trực tiếp xâm hại tới quyền được tôn
trọng và bảo vệ sức khỏe của K được Điều 104 Bộ luật hình sự bảo vệ.
– Mặt khách quan của tội phạm.

Mặt khách quan của tội phạm thể hiện ở hành vi gây thương tích hoặc gây tổn hại
cho sức khỏe của người khác. Người phạm tội đã dùng bạo lực về thể chất tác động
vào cơ thể người khác gây tổn thương một bộ phận hay toàn bộ cơ thể hoặc gây tổn
hại hay làm mất chức năng của một cơ quan nào đó trong cơ thể con người.
Thương tích hoặc tổn hại sức khỏe có thể do chính người phạm tội trực tiếp gây ra
hoặc do người phạm tội bắt người bị hai gây ra.
Mức độ thương tích hoặc mức độ tổn hại sức khỏe cho người khác là từ 11% trở lên
là tỉ lệ thương tích có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Nếu mức độ đó là từ dưới
11% thì phải có một trong những tình tiết sau mới cấu thành tội phạm này, đó là tình
tiết: Dùng hung khí nguy hiểm hoặc dùng thủ đoạn gây nguy hại cho nhiều người;
gây cố tật nhẹ cho nạn nhân; phạm tội nhiều lần đối với cùng một người hoặc đối
với nhiều người; đối với trẻ em, phụ nữ đang có thai, người già yếu, ốm đau hoặc
người khác khơng có khả năng tự vệ; đối với ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng,
thầy giáo, cô giáo của mình; có tổ chức; trong thời gian đang bị tạm giữ, tạm
giam hoặc đang bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục; thuê gây thương tích
hoặc gây thương tích th; có tính chất cơn đồ hoặc tái phạm nguy hiểm; để cản trở
người thi hành cơng vụ hoặc vì lý do cơng vụ của nạn nhân.
Giữa hành vi khách quan nguy hiểm cho xã hội nói trên với hậu quả thương tích
hoặc tổn hại cho sức khỏe của người khác phải có mối quan hệ nhân quả. Tội phạm
hoàn thành từ khi gây ra vết thương hoặc làm tổn hại sức khỏe của người khác.
Còn các dấu hiệu khác như: công cụ, phương tiện phạm tội, phương pháp, thủ đoạn
thực hiện tội phạm, thời gian, địa điểm, hồn cảnh phạm tội khơng phải là dấu hiệu
bắt buộc của tội phạm được qui định tại Điều 104 Bộ luật hình sự.
Trên cơ sở phân tích các dấu hiệu pháp lý đặc trưng thuộc mặt khách quan của
tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác nêu trên
và so sánh, đối chiếu với các tình tiết khách quan trong vụ án cho thấy A đã thực
hiện hành vi gây nguy hiểm cho sức khoẻ của K. A đã liên tiếp đấm vào người, vào
mặt K và đến khi K đã ngã xuống đất hắn vẫn tiếp tục dùng chân đá vào người cho
đến khi bất tỉnh. Hành vi trên của A rất nguy hiểm, trực tiếp xâm hại tới sức khỏe của
K và chính hành vi đó đã làm cho K gánh chịu nhiều vết thương trượt da, ở vùng

trán có vết thương sâu dài 6 cm để lại sẹo to. Thương tích ở mắt phải làm giảm thị
lực xuống còn 4%. Tỷ lệ thương tật K phải gánh chịu là 25%. Giữa thương tích mà K
phải gánh chịu với hành vi của A có mối quan hệ nhân quả. Hành vi của A đã thỏa


mãn đầy đủ các dấu hiệu khách quan của tội cố ý gây thương tích theo khoản 1
Điều 104 Bộ luật hình sự.
– Chủ thể của tội phạm.
Chủ thể của tội phạm qui định tại Điều 104 là chủ thể thường, tức là bất cứ ai đủ tuổi
chịu trách nhiệm hình sự có năng lực trách nhiệm hình sự đều có thể thực hiện tội
phạm này.
A khi thực hiện hành vi gây thương tích cho K đã 20 tuổi, có đủ năng lực nhận
thức và năng lực điều khiển hành vi của mình. Như vậy A đã thỏa mãn các điều kiện
của chủ thể của tội cố ý gây thương tích… theo Điều 104 Bộ luật hình sự.
– Mặt chủ quan của tội phạm.
Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác được thực
hiện bằng lỗi cố ý trực tiếp hoặc cố ý gián tiếp. Động cơ và mục đích phạm tội khơng
phải là dấu hiệu bắt buộc.
A có đủ điều kiện chủ quan về tuổi, về năng lực trách nhiệm hình sự. Khi thực hiện
hành vi gây thương tích cho K, A đã nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho
xã hội, bị pháp luật cấm. A cũng nhận thấy được hậu quả của hành vi đó là sẽ gây
thương tích và gây tổn hại cho sức khoẻ cho K. Mặc dù nhận thức được như vậy
nhưng A vẫn đánh K và mong muốn cho K bị thương nhằm thỏa mãn yêu cầu của
người yêu. A thực hiện tội phạm bằng lỗi cố ý trực tiếp.
Từ những phân tích trên, so sánh với các dấu hiệu pháp lý đặc trưng của tội cố ý
gây thương tích được qui định trong Bộ luật hình sự có đủ cơ sở kết luận A đã phạm
tội cố ý gây thương tích cho người khác theo khoản 1 Điều 104 Bộ luật hình sự.
* Khoản 2 Điều 104, khoản 2 Điều 49 Bộ luật hình sự.
Để xác định khung hình phạt áp dụng đối với A, cần kiểm tra khoản 2 Điều 104 và
khoản 2 Điều 49.

– Kết luận giám định pháp y cho biết A đã gây cho K tỷ lệ thương tích là 25%. Với tỷ
lệ thương tích này, về nguyên tắc A chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự theo khoản 1
Điều 104. Tuy nhiên, theo kết luận của Hội đồng giám định pháp y thì K phải chịu
một vết thương tích ở trán dài 6 cm, sau khi chữa khỏi để lại vết sẹo to và xấu, đồng
thời mắt phải của K cũng bị tổn thương thị lực giảm xuống chỉ còn 4 %. Theo Mục
I.1 Nghị quyết 02 ngày 17/4/2003 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối
cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật hình sự, thương tích trên được
coi là gây cố tật nhẹ cho nạn nhân. Khoản 2 Điều 104 quy định nếu phạm tội gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ nạn nhân từ 31 % đến 60 % thì sẽ áp
dụng khung hình phạt tăng nặng này. Thế nhưng cũng theo quy định tại Khoản 2
Điều 104, trong trường hợp phạm tội gây thương tích cho nạn nhân từ 11% đến 30
% mà có tình tiết gây cố tật nhẹ cho nạn nhân thì khung hình phạt tăng nặng này
cũng được áp dụng với người phạm tội. Vì thế, A phải chịu trách nhiệm hình sự theo
khoản 2 Điều 104 Bộ luật hình sự.
Về khoản 2 Điều 49 Bộ luật hình sự.
Ngày 4/2/1997 A bị phạt 2 năm tù về tội cố ý gây thương tích theo khoản 2 Điều
109. Căn cứ khoản 2 Điều 8 Bộ luật hình sự năm 1985 thì tội phạm ở khoản 2 Điều
109 là tội nghiêm trọng và theo khoản 3 Điều 8 Bộ luật hình sự năm 1999 thì đây
cũng là tội phạm nghiêm trọng. Theo điểm b khoản 2 Điều 64 Bộ luật hình sự năm
1999 thì bản án cũ này chưa được xóa.
Căn cứ vào khoản 1 Điều 49 Bộ luật hình sự năm 1999 thì trường hợp A đã bị kết
án về một tội nghiêm trọng do cố ý chưa được xố án tích mà lại phạm tội nghiêm
trọng do cố ý là trường hợp tái phạm chứ không phải là tái phạm nguy hiểm, cho
nên nó khơng phải là tình tiết định khung tăng nặng.


Tóm lại: Căn cứ vào các tình tiết của vụ án và đối chiếu, so sánh với Điều 104 Bộ
luật hình sự có đủ cơ sở kết luận A phạm tội cố ý gây thương tích cho người khác.
Tội danh và hình phạt được qui định tại khoản 2 Điều 104 Bộ luật hình sự.
2) Đối với hành vi của V

V đã 18 tuổi, có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự. Mặc dù V khơng trực tiếp thực
hiện hành vi gây thương tích cho K nhưng đã có hành vi kích động, thúc đẩy A thực
hiện tội phạm. V chính là người chủ động về tinh thần gây ra tội phạm. A ngay từ
đầu đã khơng có ý định phạm tội. Nhưng V bằng lời nói nhiều lần thúc đẩy, yêu cầu
A đánh K để cho K một bài học. V nói: “Anh phải cho nó một bài học nhớ đời”.
“Thằng lúc nãy chửi em đó, anh đến đánh cho nó một trận”. Thấy A chưa hành động
thì V lại kích động, thúc đẩy A phạm tội: “Anh hèn vậy, nếu anh không ra tay bảo vệ
danh dự cho em thì từ nay chúng ta chia tay nhau”.
Chính những lời nói đó của V đã tác động mạnh vào tinh thần, tâm lý của A làm cho
A từ chỗ khơng có ý định phạm tội, dẫn tới có ý định và thực hiện tội phạm, gây
thương tích nặng cho K. Rõ ràng các tình tiết vụ án cho thấy ở đây có sự liên hiệp
hành động giữa A và V. Hành vi của chúng có mối quan hệ qua lại, hỗ trợ nhau, qui
định lẫn nhau. Trong đó hành vi của A là hành vi trực tiếp thực hiện tội phạm, là
nguyên nhân trực tiếp dẫn đến hậu quả phạm tội chung, đó là K bị nhiều vết thương
trượt da, ở vùng trán có vết thương sâu dài 6 cm để lại sẹo to. Thương tích ở mắt
phải làm giảm thị lực xuống còn 4%. Tỷ lệ thương tật K phải gánh chịu là 25%.
Hành vi của V thông qua hành vi của A dẫn đến hậu quả trên cho K.
V và A cùng cố ý thực hiện tội cố ý gây thương cho K theo khoản 2 Điều 104 Bộ luật
hình sự. V nhận thức được hành vi nguy hiểm cho xã hội của mình, đồng thời cũng
nhận thức được hành vi của A gây thương tích cho K là hành vi bị pháp luật hình sự
cấm, nhận thức được hậu quả phạm tội chung. Tuy biết như thế nhưng V vẫn kích
động, thúc đẩy và mong muốn A thực hiện tội phạm, gây thương tích cho K để cho K
một bài học cảnh cáo.
Tóm lại: Từ những sự phân tích trên có đủ cơ sở kết luận V đồng phạm với A
với vai trò xúi giục về tội cố ý gây thương tích cho người khác. Tội danh và hình phạt
được quy định tại khoản 2 Điều 104 và khoản 2 Điều 19 Bộ luật hình sự.
Bước 4: Kết luận:
1) A phạm tội gây thương tích cho người khác. Tội danh và hình phạt quy định tại
khoản 2 Điều 104 Bộ luật hình sự;
2) V đồng phạm với A với vai trò xúi giục về tội cố ý gây thương tích cho người khác.

Tội danh và hình phạt được quy định tại khoản 2 Điều 104 và khoản 2 Điều 19 Bộ
luật hình sự.

Bài tập số 2:
Lê Thị L, 28 tuổi, lấy chồng là Phạm Văn K (sĩ quan quân đội). Trong những năm
đầu họ chung sống với nhau rất hạnh phúc và đã có 2 con. Thế nhưng, kể từ đầu
năm 2003 K bị đám bạn xấu lôi kéo vào cuộc sống xa đọa. Lương và tiền làm thêm
K khơng đưa về ni gia đình mà mang đi bao một cô tiếp viên nhà hàng tên là Q.
Mỗi khi về nhà K còn thường xuyên nhiếc mắng, đánh đập, hắt hủi L. L nhiều lần
khuyên nhủ nhưng K vẫn không nghe. L rất ghen tức nên có ý định giết K và Q.
Ngày 24/4/2003, biết đơi tình nhân hẹn gặp nhau ở nhà trọ của Q, L lấy khẩu súng
K54 K để ở nhà (khẩu súng này K được giao khi làm nhiệm vụ) đến đó phục. 23 giờ


cùng ngày, thấy K đi cùng với Q và một tiếp viên khác về nhà trọ, L dùng súng bắn
K nhưng K chỉ bị thương, L lại dùng súng bắn Q, khơng ngờ Q lại khơng việc gì, mà
cơ tiếp viên đi bên cạnh là H bị trúng đạn chết.
Hỏi: Anh (Chị) hãy xác định tội danh do L thực hiện ?
Lời giải
1. Tóm tắt và phân tích hành vi của Lê Thị L
Với ý định giết K và Q, 23 giờ ngày 24/4/2003, L lấy khẩu súng K54 của K đến phục
trước nhà trọ của Q (nơi K và Q hẹn nhau). Khi thấy K đi cùng với Q và một tiếp viên
khác về, L dùng súng bắn K nhưng K chỉ bị thương, L lại dùng súng bắn Q, nhưng Q
khơng việc gì, mà H đi bên cạnh bị trúng đạn chết.
2. Xác định hướng xâm hại và quy phạm pháp luật hình sự cần
kiểm tra.
Hành vi bắn K, Q, H xâm phạm vào quyền nhân thân của con người. Quy phạm
pháp luật hình sự cần kiểm tra là khoản 1, 2 Điều 93 và Điều 18 Bộ luật hình sự.
3. Kiểm tra quy phạm pháp luật hình sự đã lựa chọn
* Khoản 1 và 2 Điều 93 Bộ luật hình sự

Khoản 2 Điều 93 BLHS quy dịnh cấu thành cơ bản của tội giết người.
Mặc dù điều luật này khơng có mơ tả các dấu hiệu pháp lý đặc trưng của tội giết
người, nhưng từ thực tiễn xét xử đã được thừa nhận có thể đưa ra định nghĩa: giết
người là hành vi cố ý tước đoạt sự sống của người khác một cách trái pháp luật.
– Khách thể của tội giết người là quyền sống của con người. Đối tượng tác động
của nó là con người đang sống đang tồn tại.
Hành vi của L đã xâm hại tới quyền sống của K, Q, H. Đối tượng tác động của hành
vi phạm tội của L chính là K, Q, H.
– Mặt khách quan của tội phạm này thể hiện ở hành vi khách quan tước đoạt
quyền sống của người khác, tức là hành vi có khả năng trực tiếp gây ra cái chết của
nạn nhân, chấm dứt sự sống của họ. Hành vi tước đoạt tính mạng (quyền sống) của
người khác trong mặt khách quan của tội giết người phải là hành vi trái pháp luật.
Hậu quả chết người không phải là dấu hiệu bắt buộc (dấu hiệu định tội) của tội này,
mà nó chỉ là dấu hiệu để xác định tội phạm hoàn thành. Nếu hậu quả chết người
khơng xảy ra vì do ngun nhân chủ quan thì hành vi phạm tội được coi là giết
người chưa đạt.
Trong trường hợp hậu quả chết người xảy ra người định tội danh cần phải kiểm tra
mối quan hệ nhân quả giữa hành vi phạm tội và hậu quả đó để từ đó xác định mức
độ trách nhiệm hình sự của người phạm tội.
Trong thực tiễn xét xử, nhiều trường hợp việc xác định mối quan hệ nhân quả này
hết sức phức tạp, nên theo hướng dẫn của Toà án tối cao cần thiết phải có kết luận
của Hội đồng giám định pháp y.
Căn cứ vào các tình tiết của vụ án cho thấy hành vi dùng súng K54 bắn vào K và Q
là hành vi nguy hiểm cho xã hội trực tiếp xâm hại đến quyền sống của K và Q. Đây
là hành vi tước đoạt sự sống của K và Q một cách trái phép, bị pháp luật cấm. Tuy
nhiên, nó chưa gây ra cái chết cho nạn nhân nên theo Điều 18 BLHS thì đây là
trường hợp giết người chưa đạt. Còn cái chết của chị H được coi là hậu quả của
hành vi giết người chưa đạt này gây ra.
– Chủ thể của tội giết người là bất cứ ai có năng lực trách nhiệm hình sự và đạt
từ đủ 14 tuỏi trở lên. Theo sự mô tả trong vụ án, L đã xây dựng gia đình với K được

nhiều năm và khơng có biểu hiện gì của người mất hoặc hạn chế năng lực trách


nhiệm hình sự. Như vậy, L là người đã thoả mãn đầy đủ các điều kiện của chủ thể
tội giết người
– Mặt chủ quan của tội giết người thể hiện ở dấu hiệu lỗi cố ý trực tiếp hoặc gián
tiếp. Dấu hiệu mục đích và động cơ phạm tội khơng phải là dấu hiệu bắt buộc.
Các tình tiết của vụ án cho thấy L có ý định giết K và Q. Biết hai người này hẹn hò
nhau tại nhà trọ của Q nên L đã lấy súng K54 phục trước nhà trọ của Q, sau đó bắn
hai người này. Với các tình tiết của sự việc cho thấy L thực hiện hành vi phạm tội
bằng lỗi cố ý trực tiếp, L biết hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội bị pháp luật
cấm nhưng vẫn cứ thực hiện, bởi L mong muốn tước đoạt tính mạng của K và Q
nhằm thoả mãn sự ghen tuông của cá nhân.
So sánh, đối chiếu với các dấu hiệu pháp lý của tội giết người theo khoản 2 Điều 93
và Điều 18 Bộ luật hình sự cho thấy L phạm tội giết người chưa đạt.
Tuy nhiên, căn cứ vào các tình tiết của vụ án cho thấy L có ý định giết K và Q. Do
vậy, L phạm tội trong trường hợp giết nhiều người được quy định tại điểm a khoản 1
Điều 93 Bộ luật hìhn sự với tư cách là một tình tiết tăng nặng định khung.
Tóm lại: Lê Thị L phạm tội giết người chưa đạt. Tội danh và hình phạt được quy
định tại điểm a khoản 1 Điều 93 và Điều 18 Bộ luật hình sự.
Chú ý: Khi giải quyết vụ án này có thể có quan điểm cho rằng cần phải truy cứu
trách nhiệm hình sự đối với L thêm tội vô ý làm chết người. Nhưng theo chúng tôi
việc can phạm làm chết chị H không phải là kết quả của một hành vi vô ý thơng
thường, hay nói cách khác nó khơng phải là hành vi vô ý độc lập mà là kết quả của
hành vi cố ý giết người. Nếu định tội là vô ý làm chết người thì sẽ đánh giá sai tính
chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi đó. Cho nên khơng cần định thêm
tội vơ ý làm chết người, chỉ cần định một tội là tội giết người (chưa đạt) và coi việc
làm chết chị H là một hậu quả của hành vi giết người (chưa đạt) nói trên. Về tính
chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi giết người chưa đạt mà gây ra
hậu quả làm chết người khác này có thể coi khơng khác gì trường hợp giết người đã

hồn thành.
* Khoản 1 và 2 Điều 230 Bộ luật hình sự
Khoản 1 Điều 230 quy định cấu thành cơ bản của tội sử dụng vũ khí qn dụng trái
phép. Đó là hành vi nguy hiểm cho xã hội do người có năng lực trách nhiệm hình sự
thực hiện bằng lỗi cố ý xâm phạm các quy định của Nhà nước về an tồn cơng cộng
liên quan tới vũ khí qn dụng
Khách thể bị tội phạm xâm hại là các quy định của Nhà nước về an tồn cơng cộng
liên quan tới vũ khí quân dụng.
Mặt khách quan của tội phạm được thể hiện ở hành vi sử dụng trái phép vũ khí
qn dụng. Đây là tội có cấu thành hình thức. Tội phạm được coi là hoàn thành khi
người phạm tội thực hiện hành vi khách quan sử dụng trái phép vũ khí qn dụng.
Hậu quả phạm tội khơng có ý nghĩa cho việc định tội danh.
Mặt chủ quan của tội phạm thể hiện bằng dấu hiệu lỗi cố ý (cố ý trực tiếp hoặc cố ý
gián tiếp). Mục đích và động cơ phạm tội không phải là dấu hiệu bắt buộc trong mặt
chủ quan của tội phạm này.
Chủ thể của tội sử dụng trái phép vũ khí quân dụng là những người có năng lực
trách nhiệm hình sự và đạt từ 16 tuổi trở lên nếu phạm tội theo ở khoản 1 và từ đủ
14 tuổi trở lên nếu phạm tội theo khoản 2, 3 và 4 Điều 230 Bộ luật hình sự.


Dựa trên cơ sở phân tích các dấu hiệu pháp lý đặc trưng của tội sử dụng trái phép
vũ khí quân dụng nêu trên và căn cứ vào các tình tiết diễn biến của vụ án cho thấy:
Hành vi của L dùng súng K54 để bắn K và Q, H là hành vi sử dụng trái phép vũ khí
quân dụng. Nó đã xâm phạm trực tiếp những quy định của Nhà nước về an tồn
cơng cộng liên quan tới vũ khí quân dụng (Điều 3 Quy chế quản lý vũ khí … được
ban hành theo Nghị định 47/CP ngày 12/8/1996 của Chính phủ. Hành vi này được L
thực hiện bằng lỗi cố ý trực tiếp. Nó đã gây ra hậu quả nghiêm trọng là làm K bị
thương và làm chết H.
Hành vi phạm tội này của L đã thoả mãn đầy đủ các dấu hiệu của tội sử dụng trái
phép vũ khí quân dụng quy định tại điểm a khoản 2 Điều 230 Bộ luật hình sự.

4. Kết luận
Lê Thị L phạm tội giết người chưa đạt và tội sử dụng trái phép vũ khí qn dụng. Tội
danh và hình phạt được quy định tại điểm a khoản 1 Điều 93 và Điều 18; điểm a
khoản 2 Điều 230 Bộ luật hình sự.

Bài tập số 3:
Chiều ngày 11/6/2001 Phạm Văn D đi lang thang thấy một người đang sửa xe Cub
70 đời 82-89 ở ven đường nên đứng lại xem. Người chủ xe máy chữa xe mãi không
được nên nhờ D chữa giúp. D nhận lời. Sau khi chữa xe xong, D ngồi lên xe khởi
động máy, máy nổ. Lợi dụng chủ xe đang lúi húi buộc hành lý vào sau xe D đã cài số
phóng xe đi thẳng. Ngày hôm sau D đem xe đến một cửa hàng cầm đồ để bán thì
bị Cơng an hình sự bắt giữ. Chiếc xe máy được Cơ quan công an giao trả cho người
chủ xe tên là Trần Quang B.
Qua đấu tranh khai thác, Cơ quan cơng an cịn được biết đêm ngày 14/7/1995, lợi
dụng mọi người trong gia đình nhà ơng Lê Quốc L (ở làng lân cận) đi vắng, D đã
dùng kìm cộng lực cắt khố cửa vào nhà lấy chiếc xe Dream II ông L mới mua với
giá 5 lượng vàng mang lên thành phố Hồ Chí Minh bán tiêu sài. Nhưng trong quá
trình điều tra, Cơ quan điều tra không phát hiện ra D là thủ phạm và trong thời gian
từ đó cho đến khi bị bắt về vụ án ngày 11/6/2001 D vẫn làm ăn sinh sống bình
thường ở nhà.
Hỏi: Hãy xác định trách nhiệm hình sự của D?
Lời giải
1. Tóm tắt và phân tích hành vi phạm tội của D
– Đêm ngày 14/7/1995 lợi dụng gia đình ơng L đi vắng D đã dùng kìm cộng lực cắt
khoá vào nhà lấy chiếc xe Dream II giá trị 5 cây vàng. Trong quá trình điều tra, Cơ
quan điều tra không phát hiện ra D là thủ phạm và trong thời gian từ đó cho đến khi
bị bắt về vụ án ngày 11/6/2001 D vẫn làm ăn sinh sống bình thường ở nhà.
– 11/6/2001 B nhờ D chữa xe. Sau khi chữa xe xong D ngồi lên xe khởi động máy
nổ. Lợi dụng B đang lúi húi buộc hành lý vào sau xe D đã cài số phóng xe đi thẳng.
Ngày hôm sau khi D đem xe đến một cửa hàng cầm đồ để bán thì bị Cơng an hình

sự bắt giữ.
2. Hướng xâm hại của hành vi và lựa chọn quy phạm pháp luật cần
kiểm tra
– Hành vi D thực hiện đêm ngày 14/7/1995 đã xâm hại tới quan hệ sở hữu tài
sản của công dân. Các qui phạm pháp luật hình sự cần kiểm tra: Khoản 1, 2 Điều


155, khoản 2 Điều 8, khoản 1 Điều 45 Bộ luật hình sự 1985 và khoản 1 Điều 138;
khoản 3 Điều 7; khoản 2, 3 Điều 23 Bộ luật hình sự năm 1999.
– Hành vi D thực hiện ngày 11/6/2001 đã xâm hại tới quan hệ sở hữu tài sản của
cơng dân. Quy phạm pháp luật hình sự cần kiểm tra: Khoản 1 Điều 136, Bộ luật hình
sự năm 1999.
3. Kiểm tra các quy phạm pháp luật hình sự đã lựa chọn
* Khoản 1, 2 Điều 155 khoản 2 Điều 8, khoản 1 Điều 45 Bộ luật
hình sự năm 1985 liên quan tới hành vi chiếm đoạt chiếc xe máy
* Khoản 1, 2 Điều 155 Bộ luật hình sự năm 1985
Khoản 1 Điều 155 quy định cấu thành cơ bản của tội trộm cắp tài sản của công dân.
– Khách thể bị tội phạm xâm hại là quan hệ sở hữu tài sản của công dân. Đối
tượng tác động của nó là tài sản của cơng dân.
Hành vi lấy chiếc xe máy Dream II của D đã trực tiếp xâm hại tới quan hệ sở hữu tài
sản của anh L. Ông L đã mất quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt chiếc xe máy
của mình
– Mặt khách quan của tội phạm
Các dấu hiệu thuộc mặt khách quan của tội trộm cắp tài sản của cơng dân gồm có
hành vi chiếm đoạt tài sản bằng thủ đoạn lén lút, bí mật; hậu quả nguy hiểm cho xã
hội và mối quan hệ nhân quả giữa hành vi chiếm đoạt tài sản và hậu quả nguy hiểm
cho xã hội. Tội phạm hoàn thành khi hậu quả phạm tội xảy ra.
Các tình tiết của vụ án cho thấy D lợi dụng mọi người trong gia đình nhà Ơng Lê
Quốc L (ở làng lân cận) đi vắng, đã dùng kìm cộng lực cắt khố cửa vào nhà lấy
chiếc xe Dream II. Như vậy, D đã thực hiện hành vi chiếm đoạt chiếc xe Dream II

của ơng L bằng thủ đoạn lén lút, bí mật che giấu tính chất phạm pháp của hành vi
của mình đối với ông L- chủ sở hữu tài sản. Tội phạm hoàn thành kể từ khi D chiếm
đoạt được chiếc xe Dream II trị giá 5 lượng vàng.
– Mặt chủ quan của tội phạm bao gồm lỗi cố ý trực tiếp, động cơ tư lợi.
Các tình tiết của vụ án cho thấy D đã nhận thức được đầy đủ tính chất nguy hiểm
cho xã hội của hành vi của mình, biết được việc thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản
của ông L là hành vi bị pháp luật cấm. Tuy nhận thức được rất rõ như vậy nhưng D
vẫn thực hiện hành vi phạm tội với động cơ tư lợi.
Chủ thể của tội phạm địi hỏi người có năng lực trách nhiệm hình sự và đạt từ đủ 16
tuổi trở lên ở khoản 1 và từ đủ 14 tuổi trở lên ở khoản 2 và 3 Điều 155 Bộ luật hình
sự năm 1985. D đã thoả mãn các điều kiện của chủ thể của tội phạm này.
Tóm lại: Đối chiếu với các dấu hiệu đặc trưng pháp lý của tội trộm cắp tài sản của
công dân theo khoản 1 Điều 155 Bộ luật hình sự năm 1985 thì hành vi của D đã
thoả mãn các dấu hiệu của tội phạm này. Tuy nhiên, tài sản của ông L là chiếc xe
Dream II với giá trị 5 lượng vàng. Theo Nghị quyết số 01/89/HĐTP ngày 19/4/1989
của Hội đồng Thẩm phán Tồ án nhân dân tối cao thì “khoảng 5 tấn gạo, 5 tấn xăng
dầu, phân đạm, 5 tạ mỳ chính, 2 tấn đường trắng loại 1, hai lượng vàng, đối với tiền
hoặc các loại tài sản hàng hoá, vật tư khác quy ra trị giá tương đương với 5 tấn gạođược coi là số lượng tài sản, hàng hoá, vật tư có giá trị lớn hoặc thu lợi bất chính
lớn. Khi trị giá gấp 3 lần các mức nêu trên thì được coi là giá trị rất lớn hoặc có số
lượng rất lớn, thu lợi bất chính rất lớn”.
Như vậy, Phạm Văn D đã phạm tội trộm cắp tài sản của cơng dân trong
trường hợp chiếm đoạt tài sản có giá trị lớn theo điểm c khoản 2 Điều 155
Bộ luật hình sự năm 1985.
* Khoản 1 Điều 45 Bộ luật hình sự năm 1985


Do hành vi trộm cắp tài sản của công dân xảy ra từ ngày 14/7/1995, nhưng cho đến
ngày 11/6/2001 Cơ quan công an mới phát hiện ra nên cần phải kiểm tra để xác định
hành vi phạm tội này đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự chưa và D có
được hưởng thời hiệu khơng.

Theo khoản 2 Điều 8 Bộ luật hình sự năm 1985, tội trộm cắp tài sản của công dân
theo khoản 2 Điều 155 là tội nghiêm trọng (khung hình phạt từ 2 đến 10 năm tù).
Điểm c khoản 1 Điều 45 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định thời hiệu truy cứu trách
nhiệm hình sự đối với tội này là 15 năm. Kể từ khi D phạm tội trộm cắp tài sản của
công dân (14/7/1995) đến ngày phạm tội mới (11/6/2001) chưa đến 6 năm cho nên
D vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi trộm cắp tài sản của mình.
Nhưng do hành vi phạm tội này lại được phát hiện và xử lý sau khi Bộ luật hình sự
năm 1999 có hiệu lực pháp luật, nên cần phải vận dụng những điều luật có lợi cho D
theo quy định khoản 3 Điều 7 Bộ luật này.
Hai tội trộm cắp tài sản được quy định tại Điều 132 và Điều 155 Bộ luật hình sự năm
1985 được Điều 138 Bộ luật hình sự năm 1999 sáp nhập thành một tội.
Khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định “Người nào trộm cắp tài sản
của người khác có giá trị từ 500.000 đồng đến dưới 50 triệu đồng… thì bị phạt cải
tạo không giam giữ đến 3 năm hoặc bị phạt tù từ 6 tháng đến 3 năm”. Như vậy, so
với quy định về tội trộm cắp tài sản trong Bộ luật hình sự năm 1985 cho thấy
nhà làm luật khơng chỉ phi tội phạm hố mà cịn phi hình sự hố một phần loại tội
phạm này.
Đối chiếu với hành vi trộm cắp chiếc xe máy Dream II (giá trị 5 lượng vàng – dưới 50
triệu đồng) của D chúng ta thấy nó chỉ thoả mãn các dấu hiệu cấu thành cơ bản của
tội trộm cắp tài sản theo khoản 1 Điều 138. Theo khoản 3 Điều 7 Bộ luật hình sự
năm 1999 thì khoản 1 Điều 138 của Bộ luật này được áp dụng với hành vi phạm tội
trên của D (áp dụng theo hướng có lợi cho D). Cũng theo khoản 3 Điều 8 Bộ luật
hình sự năm 1999, tội trộm cắp tài sản do D thực hiện là tội ít nghiêm trọng và căn
cứ vào điểm a khoản 2 Điều 23 Bộ luật hình sự năm 1999 thì thời hiệu truy cứu
trách nhiệm đối với loại tội này là 5 năm.
Theo các tình tiết của vụ án thì từ khi phạm tội trộm cắp tài sản của công dân
(14/7/1995) đến ngày phạm tội mới (11/6/2001) đã qua gần 6 năm. Trong thời gian
này D vẫn làm ăn sinh sống bình thường ở nhà, khơng trốn tránh và cũng khơng có
lệnh truy nã của Cơ quan cơng an. Căn cứ vào các quy định tại khoản 2 và 3 Điều
23 Bộ luật hình sự năm 1999 thì D khơng bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội trộm

cắp tài sản nữa.
* Khoản 1 Điều 136, Bộ luật hình sự năm 1999 liên quan tới hành
vi D thực hiện ngày 11/6/2001
Khoản 1 Điều 136 quy định cấu thành tội cướp giật tài sản
Các dấu hiệu pháp lý đặc trưng của tội này thể hiện ở chỗ tội phạm xâm phạm tới
quan hệ sở hữu tài sản. Mặt khách quan của tội phạm thể hiện ở hành vi nhanh
chóng chiếm đoạt tài sản của nạn nhân rồi nhanh chóng tẩu thốt. Tội phạm hồn
thành khi chiếm đoạt được tài sản. Tội cướp giật tài sản được người có năng lực
trách nhiệm hình sự và đạt đủ tuỏi chịu trách nhiệm hình sự thực hiện bằng lỗi cố ý
trực tiếp với động cơ tư lợi
So sánh, đối chiếu các dấu hiệu cấu thành của tội cướp giật tài sản quy định tại
khoản 1 Điều 136 như đã trình bày ở trên với các tình tiết khách quan và chủ quan
của vụ án cho thấy hành vi của D đã xâm phạm trực tiếp quyền sở hữu tài sản của
công dân được pháp luật hình sự bảo vệ. D đã có hành vi lợi dụng chủ xe đang lúi


húi buộc hành lý vào sau xe đã nhanh chóng nổ máy cài số phóng xe đi thẳng. Sau
đó mang xe đến hiệu cầm đồ để bán. Hành vi này rõ ràng là hành vi cố ý chiếm đoạt
tài sản của cơng dân bằng thủ đoạn nhanh chóng chiếm đoạt rồi tẩu thoát. Đây là
dấu hiệu của tội cưopứp giật chứ không phải là dấu hiệu đặc trưng của tội công
nhiên chiếm đoạt tài sản được quy định tại Điều 137 Bộ luật hình sự. D có đủ năng
lực trách nhiệm hình sự và tuổi chịu trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi
của rmình là nguy hiểm cho xã hội nhận thực được hậu quả của hành vi đó những
vẫn có ý thức chiếm đoạt bằng được tài sản của nạn nhân để thoả mãn động cơ tư
lợi.
Dựa vào những phân tích trên đây cho thấy hành vi của D đã thoả mãn đầy đủ các
dấu hiệu của tội cướp giật tài sản theo khoản 1 Điều 136 Bộ luật hình sự.
4. Kết luận:
Phạm Văn D chỉ chịu trách nhiệm hình sự về tội cướp giật tài sản của cơng dân. Tội
danh và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 136 Bộ luật hình sự.


Bài tập số 4:
A, B, K uống rượu say, đi loạng choạng và ngã ở dọc đường, H và Q phát hiện chị B
cùng với hai người bạn nằm bên đường. Thấy chị B đeo nhiều nữ trang bằng vàng,
H và Q lấy đi toàn bộ tài sản trị giá 10 triệu đồng. Gần sáng cơn say hết, chị B tỉnh
giấc mới biết mình bị mất tài sản và đi báo cơng an.
Về vụ án này có các ý kiến sau đây về tội danh của H và Q:

1. H và Q phạm tội cướp tài sản;
2. H và Q phạm tội công nhiên chiếm đoạt tài sản;
3. H và Q phạm tội trộm cắp tài sản.
Câu hỏi: Hành vi của H, Q cấu thành tội gì? Tại sao?
Lời giải
BƯỚC 1. XÁC ĐỊNH QPPL ĐƯỢC ÁP DỤNG
Trong tình huống trên hành vi của H đã xâm phạm đến quan hệ sở hữu của chị B,
( cụ thể trong lúc chị C say nằm ngủ ở dọc đường H và Q đã lấy đi số trang sức trị
giá 10 triệu đồng của chị) đây là quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ.
Nên trong tình hng này quy phạm pháp luật hình sự sẽ được áp dụng.
BƯỚC 2. XÁC ĐỊNH CÁC DÂU HIỆU CÙNG LOẠI CỦA HÀNH VI VI
PHẠM
1. Ý kiến H và Q phạm tội cướp tài sản: Ý kiến này là sai, vì các
tình tiết của vụ án khơng đủ yếu tố cấu thành tội cướp tài sản
Khoản 1 Điều 168 BLHS 2018 quy định về tội cướp tài sản như sau: “Người
nào dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có hành vi khác
làm cho người bị tấn cơng lâm vào tình trạng khơng thể chống cự được
nhằm chiếm đoạt tài sản, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm.”.
Tội cướp tài sản là “dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có hành vi
khác làm cho người bị tấn cơng lâm vào tình trạng khơng thể chống cự được nhắm
chiếm đoạt tài sản.
Dấu hiệu pháp lý (cấu thành tội cướp tài sản)



* Khách thể của tội phạm:
Hành vi cướp tài sản xâm hại đồng thời hai quan hệ xã hội được luật hình sự bảo
vệ. Đó là quan hệ nhân thân và quan hệ sở hữu. Bằng hành vi phạm tội của mình,
người phạm tội cướp tài sản xâm phạm trước hết đến thân thể, đến tự do của con
người để qua đó có thể xâm phạm được sở hữu.
Trong tình huống trên, H và Q thấy chị B và hai người bạn say rượu nằm
mê mệt bên đường, lại thấy chị B đeo nhiều nữ trang bằng vàng nên H và
Q lấy đi toàn bộ tài sản của chị B trị giá 10 triệu đồng. Như vậy, trong tình
huống này, H và Q không xâm hại đến thân thể, đến tự do của chị B và hai
người bạn hay nói cách khác là không xâm phạm đến quan hệ nhân thân.
H và Q chỉ xâm hại đến quan hệ sở hữu của chị B. Như vậy, trong tình
huống này, H và Q không xâm hại đến quan hệ nhân thân mà chỉ xâm hại
đến quan hệ sở hữu của chị B.
* Mặt khách quan:
Theo quy định của điều luật có 3 dạng hành vi khách quan được coi là hành vi
khách quan của tội cướp tài sản. Đó là: Hành vi dùng vũ lực; hành vi đe dọa dùng vũ
lực ngay tức khắc; hành vi làm cho người bị tấn cơng lâm vào tình trạng khơng thể
chống cự được để nhằm chiếm đoạt tài sản.
Hành vi dùng vũ lực là hành vi mà người phạm tội đã thực hiện, tác động vào cơ thể
của nạn nhân như: đấm, đá, bóp cổ, trói, bắn, đâm chém… Hay có thể nói một cách
khái quát là hành vi dùng sức mạnh vật chất nhằm chiếm đoạt tài sản.
Hành vi đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc là hành vi dùng lời nói hoặc hành động
nhằm đe dọa người bị hại nếu không đưa tài sản thì vũ lực sẽ được thực hiện ngay.
Vũ lực đe dọa sẽ thực hiện có thể sẽ nhằm vào chính người bị đe dọa nhưng cũng
có thể nhằm vào người khác có quan hệ thân thuộc với người bị đe dọa. Để xác
định dấu hiệu đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc, ta thấy ngay tức khắc là ngay lập
tức không chần chừ, khả năng xảy ra là tất yếu nếu người bị hại không giao tài sản
cho người phạm tội. Khả năng này không phụ thuộc vào lời nói hoặc hành động của

người phạm tội mà nó tiềm ẩn ngay trong hành vi của người phạm tội. Đe dọa dùng
vũ lực ngay tức khắc cũng có nghĩa là nếu người bị hại khơng giao tài sản hoặc
không để cho người phạm tội lấy tài sản thì vũ lực sẽ được thực hiện.
Hành vi khác làm cho người khác lâm vào tình trạng khơng thể chống cự được là
hành vi không phải dùng vũ lực, cũng không phải là đe dọa dùng vũ lực ngay tức
khắc nhưng lại làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng khơng thể chống cự
được. Để xác định hành vi này, trước hết xuất phát từ phía người bị hại phải là
người bị tấn công, nhưng không phải bị tấn công bởi hành vi dùng vũ lực hoặc đe
dọa dùng vũ lực ngay tức khắc mà bị tấn công bởi hành vi khác. Như vậy, hành vi
khác mà nhà làm luật quy định trong cấu thành trước hết nó phải là hành vi tấn công
người bị hại, mức độ tấn công tới mức người bị hại không thể chống cự được. Ví dụ
như bỏ thuốc ngủ vào cốc nước cho người bị hại uống làm cho người đó ngủ say, bị
mê mệt khơng biết gì sau đó mới chiếm đoạt tài sản của người bị hại…
Trong tình huống trên, H và Q khơng có hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng
vũ lực hay có hành vi nào khác làm cho chị B và hai người bạn lâm vào
tình trạng không thể chống cự được. Chị B và hai người bạn lâm vào tình
trạng khơng thể chống cự được là do uống quá nhiều rượu nên say, việc
chị B và hai người bạn lâm vào tình trạng khơng nhận thức, khơng chống
cự được khơng có lỗi của H và Q. Vì vậy, trong tình huống này H và Q chỉ
chiếm đoạt tài sản của chị B.


=> Từ phân tích về khách thể và mặt khách quan của tội phạm ta thấy, H
và Q không thỏa mãn dấu hiệu để cấu thành tội cướp tài sản theo quy
định tại Điều 168 BLHS. Như vậy ý kiến cho rằng H và Q phạm tội cướp tài
sản là sai.
2. Ý kiến H và Q phạm tội công nhiên chiếm đoạt tài sản: ý kiến
này cũng sai vì các tình tiết khơng cấu thành tội cơng nhiên chiếm
đoạt tài sản.
Tội công nhiên chiếm đoạt tài sản được quy định tại Điều 172 BLHS 2015. Qua thực

tiễn xét xử có thể hiểu: Tội công nhiên chiếm đoạt tài sản là lợi dụng chủ tài
sản khơng có điều kiện ngăn cản công nhiên chiếm đoạt tài sản của họ.
Đặc điểm nổi bật của tội công nhiên chiếm đoạt tài sản là người phạm tội ngang
nhiên lấy tài sản trước mắt người quản lý tài sản mà họ khơng làm gì được (khơng
có biện pháp nào ngăn cản được hành vi chiếm đoạt của người phạm tội hoặc nếu
có thì biện pháp đó cũng khơng đem lại hiệu quả, tài sản vẫn bị người phạm tội lấy
đi một cách cơng khai). Tính chất công khai, trắng trợn của hành vi công nhiên
chiếm đoạt tài sản thể hiện ở chỗ người phạm tội khơng giấu giếm hành vi phạm tội
của mình , trước, trong hoặc ngay sau khi bị mất tài sản, người bị thiệt hại biết ngay
người lấy tài sản của mình (biết mà không thể giữ được).
Do đặc điểm riêng của tội công nhiên chiếm đoạt tài sản, nên người phạm tội chỉ có
một hành vi khách quan duy nhất là “chiếm đoạt”, nhưng chiếm đoạt bằng hình thức
cơng khai, với thủ đoạn lợi dụng sơ hở của người quản lý tài sản hoặc lợi dụng vào
hoàn cảnh khách quan như: thiên tai, hỏa hoạn, chiến tranh… Mặc dù tội công nhiên
chiếm đoạt tài sản là tội phạm chưa được các nhà nghiên cứu khoa học nghiên cứu
nhiều, nhưng qua thực tiễn xét xử chúng ta có thể thấy một số trường hợp công
nhiên chiếm đoạt tài sản như sau:

Người phạm tội lợi dụng sơ hở, vướng mắc của người quản lý tài sản để
công nhiên chiếm đoạt tài sản của họ;

Người phạm tội lợi dụng hoàn cảnh khách quan như: thiên tai, hỏa hoạn,
bị tai nạn, đang có chiến sự để chiếm đoạt tài sản. Những hoàn cảnh cụ thể
này khơng do người có tài sản gây ra mà do hồn cảnh khách quan làm cho
họ lâm vào tình trạng khơng thể bảo vệ được tài sản của mình, nhìn thấy
người phạm tội lấy tài sản mà khơng làm gì được.
Trong tình huống trên, H và Q đã lợi dụng lúc chị B và hai người bạn say
rượu nằm mê mệt bên đường nên đã chiếm đoạt tài sản của chị B. Trong
trường hợp nếu chị B và hai người bạn khơng hẳn bị mê mệt mà vẫn có
thể nhìn thấy hành vi chiếm đoạt tài sản của H và Q nhưng do quá say

nên họ không thể ngăn cản hành vi của H và Q thì H và Q có thể bị cấu
thành tội cơng nhiên chiếm đoạt tài sản. Nhưng trong tình huống có ghi rõ
“… H và Q phát hiện chị B cùng với hai người bạn đang say nằm mê mệt
bên lề đường. Thấy chị B đeo nhiều nữ trang bằng vàng, H và Q lấy đi
toàn bộ tài sản trị giá 10 triệu đồng. Gần sáng cơn say hết, chị B tỉnh giấc
mới biết mình bị mất tài sản và đi báo công an…”, như vậy trong khi H và
Q đang thực hiện hành vi trộm cắp tài sản, chị B và hai người bạn khơng
hề biết và nhìn thấy hành vi của H và Q, phải đến sáng hôm sau chị B tỉnh
giấc mới biết mình bị mất tài sản và đi báo cơng an. Như vậy, hành vi của
H và Q không thể là cơng nhiên mà có hành vi lén lút, hành vi của H và Q
chỉ có thể bị coi là công nhiên khi chị B hoặc hai người bạn của chị B tỉnh
giấc nhận thấy chị B bị chiếm đoạt tài sản nhưng do q say nên khơng có


khả năng chống cự và H và Q vẫn công khai, trắng trợn lấy số nữ trang
trên người chị B. Tính chất cơng khai, trắng trợn tuy khơng phải là hành vi
khách quan, nhưng nó lại là một đặc điểm cơ bản, đặc trưng đối với tội
công nhiên chiếm đoạt tài sản. Công nhiên chiếm đoạt tài sản trước hết là
công nhiên với chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản, sau đó là cơng
nhiên đối với mọi người xung quanh. Tuy nhiên, đối với người xung quanh,
người phạm tội có thể có những thủ đoạn gian dối, lén lút để tiếp cận tài
sản, nhưng khi chiếm đoạt, người phạm tội vẫn công khai, trắng trợn.
=> Từ những phân tích trên, ta thấy H và Q khơng có đủ các dấu hiệu cấu
thành tội công nhiên chiếm đoạt tài sản theo quy định tại Điều 172 BLHS
2015. Như vậy, ý kiến H và Q phạm tội công nhiên chiếm đoạt tài sản là
sai.
3. Ý kiến H và Q phạm tội trộm cắp tài sản: ý kiến này đúng, vì đủ
yếu tố cấu thành tội trộm cắp tài sản.
Tội trộm cắp tài sản được quy định tại Điều 173 BLHS. Điều 173 không mô tả những
dấu hiệu của tội trộm cắp tài sản mà chỉ nêu tội danh. Qua thực tiễn xét xử có thể

hiểu: Tội trộm cắp tài sản là hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của người
khác.
Đặc điểm nổi bật của tội trộm cắp tài sản là người phạm tội lén lút (bí mật) lấy tài
sản mà chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản khơng biết mình bị lấy tài sản, chỉ
sau khi mất họ mới biết mình bị mất tài sản.
* Khách thể của tội phạm:
Khách thể của tội trộm cắp tài sản không xâm phạm đến quan hệ nhân thân mà chỉ
xâm phạm đến quan hệ sở hữu. Trong tình huống trên, H và Q không hề xâm
hại đến quan hệ nhân thân của chị B và hai người bạn mà chỉ có hành vi
xâm phạm đến tài sản của chị B, cụ thể là lấy đi toàn bộ số nữ trang bằng
vàng của chị B.
* Mặt khách quan:
Do đặc điểm của tội trộm cắp tài sản, nên người phạm tội chỉ có một hành vi khách
quan duy nhất là “chiếm đoạt”, nhưng chiếm đoạt bằng hình thức lén lút, với thủ
đoạn lợi dụng sơ hở, mất cảnh giác của người quản lý tài sản, không trông giữ cẩn
thận hoặc lợi dụng vào hồn cành khách quan khác như chen lấn, xơ đẩy, nhằm tiếp
cận tài sản để thực hiện hành vi chiếm đoạt mà người quản lý tài sản không biết.
Để xác định hành vi trộm cắp tài sản và phân biệt tội trộm cắp với một số tội phạm
khác gần kề, chúng ta có thể có một số dạng trộm cắp tài sản có tính chất đặc
thù như sau:

Người phạm tội dùng những thủ đoạn gian dối tiếp cận tài sản để đến khi có
điều kiện sẽ lén lút chiếm đoạt tài sản của chủ sở hữu hoặc người quản lý tài
sản;

Người phạm tội lợi dụng chỗ đông người, chen lấn xô đẩy để chiếm đoạt tài
sản của người khác;

Người phạm tội lợi dụng người quản lý tài sản không có mặt ở nơi để tài sản
hoặc người tài sản không trực tiếp quản lý nên đã chiếm đoạt. Đặc trưng hành

vi chiếm đoạt của tội trộm cắp tài sản là dấu hiệu lén lút. Lén lút là dấu hiệu có
nội dung trái ngược với dấu hiệu cơng khai ở các tội xâm phạm sở hữu khác,
dấu hiệu này vừa chỉ đặc điểm khách quan của hành vi chiếm đoạt vừa chỉ ý


thức chủ quan của người thực hiện hành đó. Hành vi chiếm đoạt có đặc điểm
khách quan là lén lút và ý thức chủ quan của người thực hiện cũng là lén lút.
Hành vi chiếm đoạt được coi là lén lút nếu được thực hiện bằng hình thức mà
hình thức đó đó có khả năng khơng cho phép chủ tài sản biết có hành vi chiếm
đoạt khi có hành vi này xảy ra. Ý thức chủ quan của người phạm tội là lén lút
nếu khi thực hiện hành vi chiếm đoạt người phạm tội có ý thức che giấu hành
vi đang thực hiện của mình. Việc che giấu này chỉ đòi hỏi với chủ tài sản, đối
với những người khác, ý thức chủ quan của người trộm cắp tài sản vẫn là
công khai. Nhưng trong thực tế, ý thức chủ quan của người phạm tội trong
phần lớn vẫn là lén lút, che giấu đối với người khác.
Trong tình huống trên, H và Q đã lợi dụng lúc chị B và hai người bạn say
rượu nằm mê mệt bên đường nên đã chiếm đoạt tài sản của chị B. Ta thấy
trong tình huống có ghi rõ: “… H và Q phát hiện chị B cùng với hai người
bạn đang say nằm mê mệt bên lề đường. Thấy chị B đeo nhiều nữ trang
bằng vàng, H và Q lấy đi toàn bộ tài sản trị giá 10 triệu đồng. Gần sáng
cơn say hết, chị B tỉnh giấc mới biết mình bị mất tài sản và đi báo công
an…” . Để xác định hành vi phạm tội của H và Q trong tình huống này ta
cần xác định “tại thời điểm mất tài sản, chủ tài sản có biết hay khơng” là
vấn đề cần thiết phải làm rõ, bởi nó liên quan đến bản chất của hành vi
chiếm đoạt. Trong tình huống này, chị B là chủ tài sản, do bị say rượu nằm
mê mệt bên đường nên trong khi bị H và Q chiếm đoạt tài sản khơng hề
biết mình bị chiếm đoạt tài sản. Phải đến sáng hôm sau tỉnh giấc chị B
mới biết mình bị mất tài sản. Như vậy, dấu hiệu “thời điểm mất tài sản” là
mốc thời gian, xác định việc tài sản đã bị chiếm đoạt và khơng nằm trong
vịng kiểm sốt của chủ tài sản nữa. Tại thời điểm này, chủ tài sản (chị B)

không biết việc mình bị mất tài sản và đây chính là hệ quả của hành vi
“lén lút”. Bởi chỉ có “lén lút” mới làm chủ tài sản khơng biết mình bị mất
tài sản. Mặt khác trị giá tài sản bị các đối tượng chiếm đoạt là 10 triệu
đồng, thỏa mãn dấu hiệu được nêu trong Điều 173 BLHS (từ hai triệu đồng
trở lên ). Hành vi của H và Q được thực hiện do lỗi cố ý. Mục đích cuối
cùng của H và Q là mong muốn chiếm đoạt tài sản của trị B, cụ thể là số
nữ trang bằng vàng trên người của chị B.
Với sự liên hệ qua lại giữa các dấu hiệu này, giúp chúng ta dễ dàng tìm ra điểm đặc
trưng của tội “Trộm cắp tài sản”, từ đó ta có cơ sở để quyết định H và Q phạm tội
trộm cắp tài sản.
BƯỚC 3. ĐỐI CHIẾU HÀNH VI PHẠM TỘI NẰM Ở KHOẢN NÀO ĐIỀU
NÀO.
Căn cứ vào những phân tích trên, căn cứ vào khách thể và mặt khách quan của tội
phạm ta thấy, H và Q có đủ những dấu hiệu để cấu thành tội trộm cắp tài sản được
quy định tại khoản 1 Điều 173 BLHS 2015.

Bài tập số 5:
Nguyễn Phi Hùng sinh ngày 14/09/1993 có hộ khẩu thường trí tại xã Nghĩa Lạc,
huyện Nghĩa Đàn, tỉnh Nghệ An và Trần Mạnh Dũng sinh ngày 28/08/1991 có hộ
khẩu thường trú tại xã Nghĩa Lâm, huyện Nghĩa Đàn, tỉnh Nghệ An. Hùng và Dũng


là đơi bạn thân, sống cùng phịng trọ tại ngõ 3, đường Nguyễn Kiệm, thành phố
Vinh, tỉnh Nghệ An. Dũng và Hùng là hai thanh niên lười lao động, nghiện chơi game
và hay rượu chè. Trong đó Dũng là người từng có một tiền án về tội cố ý gây thương
tích.
Ngày 15/5/2017 trong lúc hết tiền, Dũng rủ Hùng đi cướp tài sản, sau khi bàn bạc
hai người đã làm ngay. Dũng dùng xe máy chở Hùng đi vòng thành phố để tìm mồi,
cả hai nhắm được anh Trần Văn Linh đang đi xe máy SH mang biển kiểm soát
37 – H7 8513 chạy cùng chiều với họ, sau một hồi bám theo chờ thời cơ thấy anh

Linh đi vào quãng đường vắng, Dũng lập tức tăng tốc áp sát từ phía sau cịn Hùng
với tay giật chiếc cặp xách anh Linh đang treo trên xe, do di chuyển tốc độ cao và
bất ngờ nên cả hai xe đều ngã, khi Hùng đứng dậy thì anh Linh lao đến, lập tức
Hùng bèn giơ tay đấm vào mặt và đá mạnh vào khuỷa chân làm Linh té dúi xuống
đất. Sau đó, Hùng và Dũng leo lên xe bỏ chạy, nhưng ngay lập tức hai đối tượng bị
một số người dân đi đường quay bắt và gọi công an đến giải quyết. Tài sản trong
cặp xách gồm có: 1 điện thoại Sam sung galaxy J7, 1 laptop hiệu Leveno và giấy tờ
tùy thân của Linh, tổng giá trị tài sản bị chiếm đoạt được xác định là 35 triệu đồng.
Trong quá trình điều tra cơ quan cảnh sát điều tra phát hiện chiếc điện thoại Sam
sung galaxy J7 mà Hùng và Dũng chiếm đoạt là tang vật của một vụ án khác, đó là
vụ án do Trần Văn Linh thực hiện trước đó 5 ngày tại cửa hàng điện thoại di động
Ánh Ngân, theo đó nội dung sự việc như sau:
Ngày 10/05/2017, Linh (5/4/1994) có đến của hàng di động trên để mua điện thoại
do điện thoại của mình hơi cũ. Đến nơi Linh gặp chị Trần Mai Hoa là nhân
viên của hàng và hỏi giá điện thoại Sam sung galaxy J7 (có giá 6.999.000 đồng)
nhưng do giá q cao khơng đủ tiền, Linh đã đề nghị chị Hoa đổi chiếc điện thoại
này với chiếc điện thoại Iphone 7 của mình . Tuy nhiên chị Hoa cho biết theo quy
định không đổi được.
Sau đó Linh mang điện thoại ra quầy kỹ thuật gặp anh Từ Bá Công là nhân viên
kỹ thuật và tiếp tục đề nghị nhưng không được anh Công đồng ý. Lúc sau chị Hoa
đến hỏi Linh để lấy lại chiếc điện thoại mà Linh đã hỏi, để cất vào tủ trưng bày
nhưng Linh đã giấu chiếc điện thoại vào túi quần và trả lời: “Em Không cầm” và
chỉ tay về phía quầy kỹ thuật với ý là đã đưa máy cho anh Cơng. Khi chị Hoa đi ra
phía quầy kỹ thuật quay lại thì thấy Thắng chạy nhanh ra phía ngồi cửa hàng nên
chị Hoa đã hơ hốn và cùng bảo vệ đuổi theo nhưng không kịp nên đã trình báo với
cơ quan cơng an.
Hãy định tội danh trong tình huống này?
Lời giải
Văn bản quy phạm pháp luật mà nhóm sử dụng là Bộ luật hình sự năm
2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) sau đây gọi là Bộ luật hình sự năm

2015 (Viết tắt: BLHS 2015)
Trên cơ sở nội dung vụ án hình sự nêu trên, có thể thấy đây thực chất là hỗn hợp
hai vụ án có liên quan với nhau về một số tình tiết, có thể tách ra thành hai vụ án để
xét xử độc lập tại phiên tòa mà bị cáo trong vụ án thứ nhất là Nguyễn Phi Hùng và
Trần Mạnh Dũng, bị cáo trong vụ án thứ hai là Trần Văn Linh.
1. Vụ án thứ nhất: Theo quan điểm của nhóm 7 thì Nguyễn Phi
Hùng và Trần Mạnh Dũng đã phạm tội cướp giật tài sản được quy
định tại điểm d, đ khoản 1 Điều 171 BLHS 2015.
Điều 171. Tội cướp giật tài sản
1. Người nào cướp giật tài sản của người khác, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.


2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10
năm:
a) Có tổ chức;
b) Có tính chất chun nghiệp;
c) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng;
d) Dùng thủ đoạn nguy hiểm;
đ) Hành hung để tẩu thốt;
e) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn
thương cơ thể từ 11% đến 30%;
g) Phạm tội đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già
yếu hoặc người khơng có khả năng tự vệ;
h) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;
i) Tái phạm nguy hiểm.
a, Các yếu tố cấu thành tội cướp giật tài sản
– Khách thể: xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản được pháp luật hình sự bảo vệ.
Cụ thể: Nguyễn Phi Hùng và Trần Mạnh Dũng đã chiếm đoạt chiếc cặp xách của
Trần Văn Linh.
– Mặt khách quan: Hùng và Mạnh đã có hành vi chiếm đoạt tài sản của Linh. Cụ

thể, sau khi Hùng và Dũng đi vịng thành phố để tìm mồi, cả hai nhắm được anh
Trần Văn Linh đang đi xe máy SH mang biển kiểm soát 37 – H7 8513 chạy cùng
chiều với họ, sau một hồi bám theo chờ thời cơ thấy anh Linh đi vào quãng đường
vắng, Dũng lập tức tăng tốc áp sát từ phía sau cịn Hùng với tay giật chiếc cặp xách
anh Linh đang treo trên xe.
– Mặt chủ quan: Nguyễn Phi Hùng và Trần Mạnh Dũng đã thực hiện hành vi phạm
tội với lỗi cố ý trực tiếp với mục đích là chiếm đoạt tài sản.
– Chủ thể: Nguyễn Phi Hùng và Trần Mạnh Dũng đều có năng lực trách nhiệm hình
sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự.
b, Quan điểm định tội danh và quyết định hình phạt
– Về định tội danh:
Trong vụ án này, Hùng và Dũng đã có hành vi giật chiếc cắp xách của anh Linh đang
treo trên xe, hành vi được thực hiện một cách bất ngờ, công khai và nhanh chóng
khiến cho người bị hại là anh Linh khơng kịp ứng phó. Tuy nhiên, do di chuyển tốc
độ cao và bất ngờ nên cả hai xe đều ngã, khi Hùng đứng dậy thì anh Linh lao đến,
lập tức Hùng bèn giơ tay đấm vào mặt và đá mạnh vào khuỷa chân làm Linh té dúi
xuống đất, lúc này Hùng và Dũng vẫn đang cầm túi sách của Linh vội leo lên xe bỏ
chạy, nhưng ngay lập tức hai đối tượng bị một số người dân đi đường quay bắt và
gọi công an đến giải quyết. Trên cơ sở xem xét một cách toàn diện các yếu tố cấu
thành tội cướp giật tài sản, xét thấy hành vi của Hùng và Dũng đủ yếu tố cấu thành
tội này. Vậy nên, việc xác định Hùng và Dũng phạm tội cướp giật tài sản theo quy
định của BLHS 2015 là hoàn tồn có cơ sở và đúng với quy định của pháp luật.
– Về quyết định hình phạt
Hành vi của Hùng và Dũng là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền sở hữu
tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ và gây ảnh hưởng xấu đến trật tự xã


hội. Hùng và Dũng phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp, nhận thức được hành vi của mình
là nguy hiểm cho xã hội nhưng vì tính ham chơi, lười lao động nên họ thực hiện
hành vi phạm tội. Trên cơ sở xem xét tình tiết vụ án, xét thấy Hùng và Dũng đã đùng

thủ đoạn nguy hiểm để thực hiện hành vi cướp giật tài sản (Hùng và Dũng đã dùng
xe máy chạy với tốc độ cao để áp sát và cướp giật túi sách của Linh treo trên xe)
cùng với đó là tình tiết hành hung để tẩu thoát (do di chuyển tốc độ cao và bất ngờ
nên cả hai xe đều ngã, khi Hùng đứng dậy thì anh Linh lao đến, lập tức Hùng bèn
giơ tay đấm vào mặt và đá mạnh vào khuỷa chân làm Linh té dúi xuống đất rồi Hùng
và Dũng leo lên xe bỏ chạy). Với tính chất, mức độ của hành vi phạm tội và nhân
thân của bị cáo. Xét thấy, cần áp dụng mức hình phạt nghiêm khắc để cách ly bị cáo
ra khỏi xã hội một thời gian, nhằm để cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành công dân tốt
và răng đe, giáo dục, phịng ngừa chung trong tồn xã hội. Việc phạt Nguyễn Phi
Hùng và Trần Mạnh Dũng 5 năm về tội cướp giật tài sản quy định tại điểm d, đ
khoản 2, điều 171 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) là hồn
tồn có căn cứ và đúng với quy định của pháp luật.
2. Vụ án thứ hai: Theo quan điểm của nhóm 7 thì Trần Văn Linh đã
phạm trộm cắp tài sản được quy định tại khoản 1 Điều 173 BLHS
2015.
Điều 173. Tội trộm cắp tài sản
1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới
50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp
sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến
03 năm:
a, Các yếu tố cấu thành tội trộm cắp tài sản
– Khách thể: xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản được pháp luật hình sự bảo vệ.
Cụ thể: Trần Văn Linh đã chiếm đoạt chiếc điện thoại Sam sung galaxy J7 (có giá
6.999.000 đồng) của cửa hàng điện thoại di động Ánh Ngân.
– Mặt khách quan: Linh đã có hành vi chiếm đoạt tài sản của cửa hàng điện thoại
di động Ánh Ngân. Cụ thể, trong vụ việc này, lợi dụng sự sơ hở quản lý tài sản của
chị Hoa, Trần Văn Linh đã lén lút nhét chiếc điện thoại đó vào túi, khi chị Hoa đến
hỏi Linh để lấy lại chiếc điện thoại mà Linh đã hỏi, để cất vào tủ trưng bày thì Linh
trả lời: “Em Khơng cầm” và chỉ tay về phía quầy kỹ thuật với ý là đã đưa máy cho
anh Công sau đó thốt khỏi sự quản lý tài sản của chị Hoa.

– Mặt chủ quan: Trần Văn Linh đã thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp
với mục đích là chiếm đoạt tài sản.
– Chủ thể: Trần Văn Linh có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách
nhiệm hình sự.
b, Quan điểm định tội danh và quyết định hình phạt
– Về định tội danh:
Trong vụ án này, lợi dụng sự sơ hở quản lý tài sản của chị Hoa, Trần Văn Linh đã
lén lút nhét chiếc điện thoại đó vào túi quần nên cấu thành tội trộm cắp tài sản và tội
phạm hoàn thành từ lúc Linh cho điện thoại vào túi quần, thoát khỏi sự quản lý tài
sản của chị Hoa. Căn cứ nội dung của vụ việc, có cơ sở để khẳng định với hành vi
của Trần Văn Linh đã phạm tội trộm cắp tài sản theo Điều 173 BLHS 2015. Theo


quy định của pháp luật, trộm cắp tài sản được hiểu là hành vi lén lút, bí mật chuyển
dịch một cách trái pháp luật tài sản của người khác thành của mình.
– Về quyết định hình phạt
Hành vi của Trần Văn Linh nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến tài sản của
người khác được pháp luật bảo vệ và gây ảnh hưởng xấu đến trật tự, trị an chung.
Linh có đủ khả năng nhận thức được hành vi cũng như hậu quả do hành vi của
mình gây ra nhưng do mục đích tư lợi và xem thường pháp luật, Linh vẫn thực hiện
hành vi phạm tội nêu trên. Do đó, bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định
của pháp luật. Trên cơ sở xem xét giá trị tài sản mà Linh đã chiếm đoạt được là
chiếc điện thoại Sam sung galaxy J7 có giá 6.999.000 đồng, Linh phạm tội lần đầu
và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Xét thấy việc phạt Trần Văn Linh 06 tháng tù
về tội trộm cắp tài sản quy định tại khoản 1, Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015
(sửa đổi, bổ sung năm 2017) là hồn tồn có căn cứ và đúng với quy định của pháp
luật.
Tình huống khơng trực tiếp thực hiện hành vi trộm cắp tài
sản nhưng vẫn là đồng phạm
A, B và C bàn nhau trộm cắp tài sản của nhà ông H. Theo sự phân cơng của nhóm, C mang

theo một thanh sắt để cạy phá cửa. Chúng hẹn nhau 10 giờ đêm tập kết ở địa điểm X. Đến giờ
hẹn, C đem thanh sắt đến địa điểm X như đã thỏa thuận nhưng chờ mãi không thấy A và B
đến nên bỏ về nhà ngủ. A và B đến chỗ hẹn quá muộn nên không gặp được C, nhưng
vẫn quyết định đi lấy tài sản theo kế hoạch và đã lấy được tài sản giá trị 80 triệu đồng. Do
không đi lấy tài sản nên C chỉ được A và B chia cho 5 triệu đồng, C chê ít khơng lấy và cũng
khơng nói gì về vụ trộm với bất cứ ai. Sau một tháng vụ việc bị phát hiện.
CÂU HỎI
1. A, B và C có phải là đồng phạm trong vụ trộm cắp tài sản nói trên khơng? Tại sao? (2
điểm)
2. Hành vi của C có được coi là tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội không? Tại sao? (1
điểm)
3. Sau khi lấy được tài sản của nhà ông H, A và B đã mang số tài sản đó bán cho K và K đã
mua lại số tài sản này. Vậy, K có phải chịu TNHS về hành vi của mình không? Tại sao? (2
điểm)
4. Giả sử A, B và C mới trịn 15 tuổi thì A, B và C có phải chịu TNHS về hành vi của mình
khơng? Tại sao? (2 điểm)
BÀI LÀM
1. A, B và C có phải là đồng phạm trong vụ trộm cắp tài sản nói
trên khơng? Tại sao?
Trả lời : A,B và C là đồng phạm trong vụ trộm cắp tài sản trên.
Giải thích :


Theo điều 20, BLHS : “Đồng phạm là trường hợp có hai người trở lên cùng thực
hiện một tội phạm.”
Về mặt khách quan, đồng phạm địi hỏi có 2 dấu hiệu:
– Có từ 2 người trở lên:
Yếu tố chủ thể tham gia thực hiện tội phạm là cơ sở quyết định tính chất của đồng
phạm. Chủ thể trong trường hợp này buộc có từ 2 người trở lên và những người
này có đủ điều kiện của chủ thể tội phạm đó là: có năng lực TNHS và đạt độ tuổi

chịu TNHS. Trong tình huống trên: “ A, B và C bàn nhau trộm cắp tài sản của nhà
ông H » tức là ở đây đã có 3 người đó là A, B và C và họ đã có hành vi « bàn nhau »
lên kế hoạch trộm cắp tài sản nhà ơng H thì họ đã nhận thức được tính chất nguy
hiểm cho xã hội của hành vi trộm cắp tài sản nhà ông H là thiệt hại về tàn sản của
ơng H. Đề bài khơng đề cập gì thêm, tức là A,B, C có khả năng điều khiển được
hành vi của mình. Vì vậy, A,B,C đều có năng lực trách nhiệm hình sự.
– Cùng thực hiện tội phạm một cách cố ý: nghĩa là người đồng phạm phải tham gia
vào tội phạm với một trong 4 hành vi sau: Hành vi thực hiện tội phạm,
hành vi tổ chức thực hiện tội phạm, hành vi xúi giục người khác thực hiện tội phạm
và hành vi giúp sức người khác thực hiện tội phạm. Lúc đầu cả A, B, C đã bàn bạc,
thỏa thuận và thống nhất với nhau cùng thực hiện hoạt động: trộm cắp tài sản của
nhà ông H. Thêm vào đó thì C đã cịn được phân cơng mang theo một thanh sắt để
cạy phá cửa, mặc dù C không trực tiếp thực hiện hành vi trộm cắp tài sản cùng với A
và B nhưng việc C đã đồng ý và có hành vi mang thanh sắt như thỏa thuận đến
điểm hẹn X thể hiện mục đích muốn góp phần thực hiện tội phạm.Việc chuẩn bị
cơng cụ phương tiện, lựa chọn phương thức phạm tội ( tìm kiếm, chuẩn bị phạm tội,
phân công nhau..) của A, B và C có sự thơng mưu trước dẫn đến sự phối hợp của
những người này này có tính tốn kỹ hơn, sự chuẩn bị chu đáo hơn đưa lại hậu quả
lớn hơn, cho xã hội cao hơn.
Về mặt chủ quan, đồng phạm đòi hỏi nhưng người cùng thực hiện tội phạm đều
có lỗi cố ý. Trong một số trường hợp thì đồng phạm cịn địi hỏi dấu hiệu cùng mục
đích nên mục đích là dấu hiệu bắt buộc trong CTTP.
– Lỗi:
Về lý trí: nhận thức được hành vi của mình và người khác là gây nguy hiểm cho xã
hội và thấy trước được hậu quả nguy hiểm đó.
Về ý chí: những người đồng phạm cùng mong muốn có hoạt động chung và cùng
mong muốn hoặc có ý thức để mặc cho hậu quả phát sinh.
Ở đây, A, B và C đều nhận thức được hành vi của họ gây nguy hiểm cho xã hội và
thấy trước được những hậu quả, tuy vậy 3 người trên đều mong muốn hậu quả xảy
ra và họ mong muốn lấy cắp được tài sản như đã định. C nhận thức được rằng

hành động chuẩn bị mang 1 thanh sắt để tạo điều kiện cho việc thực hiện tội phạm
trộm cắp tài sản của ông H và mong muốn hậu quả xảy ra. Việc dừng lại ở giai đoạn
chuẩn bị phạm tội này do những nguyên nhân ngoài ý muốn của C: A, B đến điểm
hẹn quá muộn, C không thấy A, B nên đã bỏ về nhà ngủ nhưng bản thân C luôn
mong muốn sự chuẩn bị này sẽ được dùng vào việc thực hiện tội phạm. Ta cũng có
thể thấy rõ được động cơ và mục đích của A, B và C một cách rõ ràng nên có thể
khẳng định rằng: A, B và C là đồng phạm trong vụ trộm cắp tài sản nói trên.
2. Hành vi của C có được coi là tự ý nửa chừng chấm dứt việc
phạm tội không? Tại sao? (1 điểm)


Trả lời: Hành vi của C không được coi là tự ý nửa chừng chấm dứt hành vi phạm tội.
Giải thích:
Điều 19 BLHS quy định “ Tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội là tự mình khơng
thực hiện tội phạm đến cùng, tuy khơng có gì ngăn cản.
Người tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự về
tội định phạm; nếu hành vi thực tế thực hiện có đủ yếu tố cấu thành của một tội
khác, thì người đó phải chịu trách nhiệm hình sự về tội này.”
Theo quy định này thì hafnh vi được coi là tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội
phải thỏa mãn những dấu hiệu sau:
– Đầu tiên là về mặt thời điểm phạm tội, tự ý nửa chừng chấm dứt hành vi phạm tội
chỉ xảy ra khi tội phạm đang ở giai đoạn chuẩn bị hoặc ở giai đoạn phạm tội chưa
đạt chưa hoàn thành.
Trong tình huống này ta thấy C đã đem thanh sắt đến địa điểm X để chuẩn bị cậy
cửa nhà ông H, nhưng vì A và B trễ hẹn nên C đã bỏ về nhà ngủ, do vậy C không
thực hiện hết các hành vi để trộm cắp như kế hoạch mà cả ba đã định ra, nên giai
đoạn phạm tội của C là chuẩn bị phạm tội. Bởi lẽ, C mới chỉ sửa soạn, chuẩn bị
phương tiện phạm tội là thanh sắt dùng để cạy cửa và mang tới địa điểm X, thời
điểm C “bỏ về” là thời điểm trước lúc C bắt đầu thực hiện hành vi khách quan được
phản ánh trong cấu thành tội phạm. Như vậy, hành vi của C thoả mãn dấu hiệu thứ

nhất.
– Về tâm lý, việc chấm dứt không thực hiện tiếp tội phạm phải là tự nguyện và dứt
khoát. Tự nguyện là do bên trong thúc đẩy, do ý thức chủ quan của người đó, khơng
phải do những ngun nhân khách quan chi phối. Khi dừng lại, người phạm tội vẫn
tin rằng, hiện tại khơng có gì ngăn cản và vẫn có thể thực hiện được tội phạm. Sự
dứt khoát là phải chấm dứt hành vi một cách triệt để, khơng cịn ý định tiếp tục thực
hiện nữa. Xét về yếu tố tự nguyện thì tự nguyện phải xuất phát từ ý thức chủ quan
của bản thân C. Nhưng ở đây C dừng hành vi phạm tội của mình là do đợi khơng
thấy A và B nên bỏ về. Việc “chờ mãi không thấy A và B đến nên bỏ về” tức là nếu A
và B đến đúng giờ thì giữa thỏa thuận giữa chúng vẫn được thực hiện, chúng vẫn
tiếp tục thực hiện tội phạm, đồng nghĩa với việc C vẫn mong muốn cho hành vi
phạm tội được diễn ra. Hơn nữa, C biết là hành vi của A và B có gây nguy hiểm cho
xã hội nhưng C đã không ngăn cản hay tố giác hành vi đó và để mặc hậu quả xảy
ra. Vì vậy, hành vi của C khơng phải là tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội.
3. Sau khi lấy được tài sản của nhà ông H, A và B đã mang số tài
sản đó bán cho K và K đã mua lại số tài sản này. Vậy, K có phải
chịu TNHS về hành vi của mình khơng? Tại sao? (2 điểm)
Trả lời :
Trường hợp 1: Ông K mua lại số tài sản của A, B mà không biết số tài sản mua
được là từ hành vi trộm cắp mà có thì khơng phải chịu TNHS do:
Thứ nhất, xét về nguyên tắc lỗi trong mặt chủ quan của tội phạm trong bộ luật hình
sự. Lỗi là thái độ tâm lí của con người đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội của
mình và đối với hậu quả do hành vi đó gây ra được biểu hiện dưới hình thức cố ý
hoặc vơ ý. Mà lỗi là dấu hiệu không thể thiếu trong bất cứ CTTP nào. Điều 27 BLHS


quy định “Hình phạt khơng chỉ nhằm trừng trị người phạm tội mà cịn giáo dục họ trở
thành người có ích cho xã hội, có ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của
cuộc sống xã hội chủ nghĩa, ngăn ngừa họ phạm tội mới…”. Như vậy, một người
khơng có lỗi thì khơng cần thiết phải giáo dục để nhận ra lỗi lầm vì sự thực là họ

khơng có lỗi để nhận ra. Một người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội mà
khơng có lỗi thì sẽ khơng phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi phạm tội của
mình.
Thứ hai, nếu ta liên hệ mở rộng thì K rơi vào tình huống được quy định trong điều
189 BLDS “…Người chiếm hữu tài sản khơng có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình
là người chiếm hữu mà không biết và không thể biết việc chiếm hữu tài sản đó là
khơng có căn cứ pháp luật.”. Nhưng bên cạnh đó cũng có thể có thêm một trường
hợp xảy ra đó là tài sản mà A và B bán cho ơng K là động sản phải đăng kí quyền sở
hữu. Vậy thì dù có thỏa thuận, hứa hẹn trước hay khơng thì ơng K cũng buộc phải
biết được tài sản này là do A và B đi ăn trộm mà có được. Tuy nhiên, trong đề bài chỉ
nêu chung chung là tài sản chứ không nêu rõ là loại nào nên nhóm em coi rằng tài
sản ơng K mua của A và B là động sản không phải đăng ký sở hữu theo BLDS.
Trường hợp 2: Ông K mua lại số tài sản của A, B mà biết số tài sản mua được là từ
hành vi trộm cắp mà có thì phải chịu TNHS do:
Hành vi của K thỏa mãn các dấu hiệu của cấu thành tội phạm của tội chứa chấp
hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có. Điều 250-BLHS quy định :
“1.Người nào không hứa hẹn trước mà chứa chấp, tiêu thụ tài sản biết rõ là do
người khác phạm tội mà có, thì bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu
đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba
năm.”
Đó là các dấu hiệu về khách thể của tội phạm, mặt khách quan của tội phạm, mặt
chủ quan của tội phạm, chủ thể của tội phạm. Cụ thể:
– Khách thể của tội phạm: Hành vi tiêu thụ tài sản của K trực tiếp xâm phạm an tồn
cơng cộng, ngồi ra hành vi này còn cản trở hoạt động đúng đắn của các cơ
quan nhà nước có thẩm quyền trong việc điều tra, xử lí người phạm tội, gián tiếp
người khác phàm tội nhiều lần.
– Mặt chủ quan của tội phạm: Lỗi của người phạm tội là lỗi cố ý. Ở đây, K biết rõ tài
sản có được do thực hiện hành vi phạm pháp nhưng vẫn tiêu thụ .
– Chủ thể của tội phạm: Do đề bài không đề cập đến tuổi và năng lực trách nhiệm
của K nên nhóm xin mặc định cho K là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự và

đủ độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự theo luật định. Vì nếu là người chưa đủ năng lực
trách ngiệm hình sự và dưới 16 tuổi thì rất khó có thể thực hiện được hành vi này.
– Mặt khách quan của tội phạm: Hành vi khách quan của tội phạm là hành vi tiêu thụ
tài sản do người khác phạm tội mà có. Tài sản do người khác phạm tội mà có được
hiểu là tài sản đang được một người chiếm hữu không hợp pháp và tài sản đó là đối
tượng của tơi phạm mà họ đã thực hiện trước đó. Hành vi tiêu thụ tài sản được hiểu
là những hành vi có tính chất làm “ dịch chuyển” tài sản từ người có tài sản do phạm
tội sang người khác như hành vi mua tài sản đó, tạo điều kiện để bán trao đổi tài
sản .
Trong quy định về tội, điều luột khôn xác định chứa chấp, tiêu thụ tài sản có giá trị
bao nhiêu mà quy định “ ….. chứ chấp, tiêu thụ tài sản mà biết do người khác phạm
tội mà có….” . Qua quy định này có thể hiểu chứa chấp, tiêu thụ tài sản do người
khác phạm tội mà có ( trừ đối tượng hàng cấm) luôn cấu thành tội phạm mà không
phụ thuộc vao mức đội. Cụ thể trong tình huống này K có hành vi mua lại tài sản của
A và B do hành vi trộm cắp mà có.


Như vậy , từ sự phân tích trên ta có thể thấy hành vi mua lại tài sản của A và B trộm
cắp được từ nhà ông H của K đã đủ các dấu hiệu cấu thành tội chứa chấp hoặc tiêu
thụ tài sản do người khác phạm tội mà có quy định tại Điều 250- BLHS.
4. Giả sử A, B và C mới trịn 15 tuổi thì A, B và C có phải chịu TNHS
về hành vi của mình không? Tại sao? (2 điểm)
Trả lời: Nếu theo đề bài cho là A,B và C mới trịn 15 tuổi thì A,B và C sẽ không phải
chịu TNHS về hành vi của mình.
Chứng minh:
TNHS là trách nhiệm của người phạm tội phải chịu những hậu quả pháp lí bất lợi về
hành vi phạm tội của mình.
Theo đề bài cho thì A và B đã lấy được tài sản trị giá 80 triệu đồng.Trường hợp này
đã phạm tội trộm cắp tài sản theo điểm e khoản 2 Điều 138 BLHS:
“2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ hai năm đến

bảy năm:
e) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu
đồng.”
Vì A và B đã “ lấy được tài sản có giá trị 80 triệu đồng” nên sẽ phạm tội thuộc điểm e
khoản 2 Điều 138 BLHS. Mức phạt tù cao nhất đối với khoản này là “đến bảy năm
tù” nên trường hợp này thuộc trường hợp phạm tội nghiêm trọng.
Theo Khoản 3 Điều 8 BLHS quy định: “tội phạm ít nghiêm trọng là tội phạm gây nguy
hại không lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến
ba năm tù; tội phạm nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại lớn cho xã hội mà mức
cao nhất là của khung hình phạt đối với tội ấy là đến bảy năm tù; tội phạm rất
nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại rất lớn cho xã hội mà mức cao nhất của
khung hình phạt đối với tội ấy là đến mười lăm năm tù; tội phạm đặc biệt nghiêm
trọng là tội phạm gây nguy hại đặc biệt lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung
hình phạt đối với tội ấy là trên mười lăm năm tù, tù chung thân hoặc tử hình.”
Điều luật căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi mà tội
phạm được phân thành tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng, tội phạm
rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
Theo điều 12 BLHS quy định tuổi chịu TNHS :

1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm.
2 .Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự
về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.


Đề bài cho độ tuổi của A, B và C “mới tròn 15 tuổi” nên sẽ thuộc khoản 2 Điều 12
BLHS thì sẽ phải chịu TNHS về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý và tội đặc biệt
nghiêm trọng. Như đã phân tích ở trên thì A, B và C chỉ phạm tội nghiêm trọng ( “Tội
phạm nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại lớn cho xã hội mà mức cao nhất của
khung hình phạt đối với tội ấy là đến bảy năm tù”- theo khoản 3 Điều 8 BLHS). Đới
chiếu với Khoản 2 Điều 12 BLHS : “2.Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16

tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội
phạm đặc biệt nghiêm trọng.” thì A, B và C sẽ khơm phạm tội vì tội phạm mà họ thực
hiện là tội nghiêm trọng, nên nếu theo giả thiết cả đề bài cho là tuổi của A, B và C thì
họ khơng phải chịu TNHS về hành vi của mình. Trong trường hợp này có thể bị xử
lý hành chính và bố mẹ hoặc người giám hộ của A, B và C sẽ chịu trách nhiệm phải
trả lại tài sản cho ông H, nếu khơng trả được lại tài sản thì phải trả số tiền tương
ứng và những yêu cầu khác nếu ông H yêu cầu.
Tình huống lừa đảo chiếm đoạt tài sản thông qua việc không trả
lại vé số trúng thưởng.
Đề bài: Chiều ngày 17 tháng 9 năm 2003, Đ cùng C đang ngồi uống nước thì có một
em bé mời mua vé số. C lấy 15.000 đồng mua 3 tờ vé số. Trong khi C trả tiền thì Đ
nhận lấy 3 tờ vé số từ người bán đút và cất vào túi quần của mình và nói: “Để tơi
cầm cho may mắn, nếu trúng thưởng thì tối nay lại nhậu nhé”. C chỉ cười và khơng
có phản ứng gì. Sáng hơm sau khi dò vé số biết trúng thưởng, Đ đã đi nhận thưởng
150 triệu đồng rồi gọi điện cho C nói: “3 tờ vé số hơm qua trượt hết rồi” rồi đi mua
một chiếc xe máy. Sau đó Đ mời C đến nhà liên hoan khao xe mới. C nghi ngờ, đi
hỏi và biết được 3 vé số mà mình mua trúng thưởng trị giá 150 triệu đồng. C yêu
cầu Đ trả lại số tiền trúng thưởng nhưng Đ kiên quyết từ chối và nói dối là vé khơng
trúng thưởng nên đã xé bỏ. C đề nghị cơ quan công an điều tra và vụ việc được xác
định đúng như đã nêu trên.
Câu hỏi
1.
Hành
vi
của
Đ cấu
thành tội
gì?
Tại
sao?

(4
điểm)
2. Tội phạm mà Đ thực hiện có cấu thành vật chất hay hình thức? Tại sao? (2 điểm)
3. Hãy xác định khung hình phạt đối với hành vi phạm tội mà Đ đã thực hiện. (1
điểm)
I. CƠ SỞ PHÁP LÝ.
– Chủ thể của tội phạm: chủ thể thường, đủ điều kiện về tuổi và có năng lực trách
nhiệm hình sự đầy đủ.
– Khách thể của tội phạm: quan hệ sở hữu đối với tài sản.
– Đối tượng tác động của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản: tài sản trị giá 150 triệu.
– Điều 139 bộ luật hình sự.
II. GIẢI QÚT TÌNH H́NG
1. Hành vi của Đ cấu thành tội gì? Tại sao?
Hành vi của Đ cấu thành tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo điều 139 Bộ luật hình
sự; có thể khẳng định như vậy vì những lý do sau:
Xét điều 139 Bộ luật hình sự về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, tội này được quy
định như sau:
1. Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị từ
hai triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới hai triệu đồng nhưng gây
hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã
bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà cịn vi phạm, thì bị


phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến
bảy
năm:
a)
Có tổ
chức;

b)

tính
chất
chun
nghiệp;
c) Tái
phạm nguy
hiểm;
d) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức;
đ)
Dùng
thủ
đoạn
xảo
quyệt;
e) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu
đồng;
g) Gây hậu quả nghiêm trọng.
* Về chủ thể của tội phạm: trong trường hợp này ta coi như Đ đã đủ điều kiện về tuổi
và có năng lực trách nhiệm hình sự.
* Khách thể của tội phạm: Quan hệ sở hữu đối với tài sản, trong tình huống này thì
khách thể tội phạm do Đ thực hiện là quan hệ sở hữu của C với tài sản là tấm vé số
trúng thưởng trị giá 150 triệu.
* Mặt khách quan của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản:
Về dấu hiệu pháp lý tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản được định nghĩa là Hành vi chiếm
đoạt tài sản của người khác bằng thủ đoạn gian dối.
+ Hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản: gồm hai hành vi khác nhau đó là hành vi lừa
dối và hành vi chiếm đoạt .
Hành vi lừa dối là hành vi cố ý đưa ra thông tin không đúng sự thật nhằm để người

khác tin đó là sự thật.
Cụ thể trong trường hợp này, Đ đã có hành vi lừa dối C, khi biết tấm vé số trúng
thưởng lẽ ra Đ phải trả lại cho chủ của tấm vé là C nhưng Đ đã đi nhận thưởng và
nói dối với C là tấm vé không trúng thưởng. Hành vi gian dối thứ hai là khi C sau khi
được Đ mời ăn liên hoan mua xe máy mới đã nghi ngờ và đi dị thì biết tấm vé của
mình trúng thưởng, Đ lại tiếp tục gian dối bằng cách nói dối là vé khơng trúng
thưởng nên đã xé bỏ. Đ đã cố tình đưa ra những thơng tin khơng đúng sự thật để
đánh lừa C,
Hình thức của hành vi lừa dối: Hành vi lừa dối ở trong trường hợp này thể hiện qua
lời nói, Đ đã gọi điện cho C và nói “ 3 tờ vé số hôm qua trượt hết rồi” và tiếp tục nói
dối là đã xé bỏ vé số vì khơng trúng thưởng.
Hành vi chiếm đoạt : Trong trường hợp này, tài sản bị chiếm hữu đang ở trong sự
chiếm hữu của người phạm tội, ở đây là Đ, Đ đã giữ lại tài sản là phần thưởng trị giá
150 triệu lẽ ra phải giao cho C. Vì đã tin vào thơng tin mà Đ cung cấp là tấm vé số
không trúng thưởng nên C đã không nhận giải, ngay từ đầu tình huống, Đ đã yêu
cầu giữ hộ tấm vé cho may mắn và C đã tin tưởng giao cho Đ. Trường hợp này, tội
phạm hoàn thành ngay khi Đ gọi điện cho C và nói tấm vé khơng trúng
thưởng( trước đó đã tự ý đi nhận thưởng mà khơng nói với C).
>> Hành vi lừa dối là điều kiện để hành vi chiếm đoạt có thể xảy ra, cịn hành vi
chiếm đoạt là mục đích và là kết quả của hành vi lừa dối.
+ Hậu quả: Hậu quả do hành vi của Đ gây ra là những thiệt hại cho quan hệ sở hữu
thể hiện dưới dạng thiệt hại về vật chất, ở đây là C đã bị mất số tiến là 150 triệu mà
lẽ ra C phải được hưởng do bỏ tiền ra mua vé số.
+ Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả: Quan hệ nhân quả là dạng của
mối liên hệ giữa các hiện tượng, trong đó hiện tượng được gọi là nguyên nhân với


những điều kiện nhất định đã làm phát sinh hiện tượng khác gọi là kết quả. Hành vi
chiếm đoạt tài sản trị giá 150 triệu là kết quả của hành vi lừa dối, hành vi chiếm đoạt
xảy ra ngay khi hành vi lừa dối được hoàn thành.

* Mặt chủ quan của tội phạm: Đ đã đưa ra thông tin giả là tấm vé khơng trúng
thưởng với mục đích là để C tin đó là sự thật và từ bỏ quyền sở hữu của mình với
tấm vé số.( tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản chỉ xảy ra khi tấm vé số đã trúng thưởng,
cịn khi tấm vé số khơng trúng thưởng thì giá trị của tấm vé số khơng đủ để cấu
thành tội, luật quy định phải từ 500000đ trở lên, trong khi 3 tờ vé có giá là15000đ). Đ
đã đưa ra thơng tin giả để C tin đó là sự thật.
+ Động cơ và mục đích phạm tội: Trường hợp này, động cơ và mục đích phạm tội
của Đ có tính chất tư lợi, lấy tiền để phục vụ nhu cầu cá nhân của mình.
+ Lỗi của người phạm tội là lỗi cố ý trực tiếp,người phạm tội biết mình có hành vi lừa
dối và mong muốn hành vi lừa dối có kết quả để có thể chiếm đoạt được tài sản, ở
đây Đ đã có hành vi lừa dối và mong muốn hành vi lừa dối có kết quả (C hồn tồn
tin là tấm vé mình mua khơng trúng thưởng) để có thể chiếm đoạt được tài sản, Đ
đã có chủ tâm chiếm đoạt tài sản của C và hành động để biến mục đích của mình
được thực hiện.
– Về ý chí: Người phạm tội mong muốn hậu quả phát sinh, hậu quả của hành vi
phạm tội mà người phạm tội đã thấy trước hoàn toàn phù hợp với mục đích, ở đây
là mong muốn chiếm được 150 triệu của Đ, và hậu quả xảy ra đúng với mục đích
của Đ.
– Về lý trí: Ở đây Đ nhận thức rõ hành vi phạm tội của mình và thấy trước được hậu
quả của hành vi phạm tội của mình.
=> Từ những căn cứ pháp lý và các dấu hiệu của tội phạm nêu trên, ta kết luận
hành vi của Đ cấu thành tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo điều 139, bộ luật hình
sự
2. Tội phạm mà Đ thực hiện có cấu thành vật chất hay hình thức?
Tại sao?
Để có thể xác định tội mà Đ thực hiện mà ở đây là tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản có
cấu thành vật chất hay hình thức thì ta căn cứ vào những đặc điểm của cấu thành
tội vật chất và hình thức để phân biệt:
* CTTP vật chất là CTTP có các dấu hiệu của mặt khách quan là hành vi, hậu quả và
mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả. Đối với dấu hiệu hậu quả (và cùng

với nó là dấu hiệu mối quan hệ nhân quả) ở loại CTTP này lại được quy định theo
hai mức độ khác nhau:
+ Hậu quả là dấu hiệu bắt buộc để xác định tội phạm hoàn thành. Ở loại CTTP này,
nhà làm luật không trực tiếp đưa dấu hiệu hậu quả vào trong CTTP mà hậu quả
được quy định gián tiếp thông qua cách quy định về hành vi phạm tội.
+ Hậu quả là dấu hiệu bắt buộc để định tội. Ở dạng CTTP này, nhà làm luật trực tiếp
đưa hậu quả vào các quy định của CTTP với ý nghĩa là điều kiện xác định những
trường hợp thoả mãn CTTP của loại tội đó, loại trừ những trường hợp hành vi
không cấu thành tội phạm.
=> Cấu thành tội phạm vật chất là CTTP có các dấu hiệu của mặt khách quan gồm
hành vi, hậu quả, mối quan hệ nhân quả.
* Cấu thành tội phạm hình thức là CTTP có một dấu hiệu của mặt khách quan là
hành vi nguy hiểm cho xã hội. CTTP hình thức là CTTP chỉ có một dấu hiệu của mặt
khách quan được mô tả trong CTTP là dấu hiệu hành vi nguy hiểm cho xã hội. Trong
CTTP hình thức khơng có dấu hiệu hậu quả cũng như quan hệ nhân quả giữa hành
vi nguy hiểm và hậu quả nguy hiểm cho xã hội. Do đặc điểm của CTTP hình thức


×