Tải bản đầy đủ (.pdf) (108 trang)

Định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội tham ô tài sản trong luật hình sự việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.08 MB, 108 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN THỊ THANH HUYỀN

®Þnh téi danh vµ quyÕt ®Þnh h×nh ph¹t
®èi víi téi tham « tµi s¶n
Trong luËt h×nh sù viÖt nam

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI – 2015


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN THỊ THANH HUYỀN

®Þnh téi danh vµ quyÕt ®Þnh h×nh ph¹t
®èi víi téi tham « tµi s¶n
Trong luËt h×nh sù viÖt nam
Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 60 38 01 04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN VĂN TUÂN

HÀ NỘI – 2015



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

NGƯỜI CAM ĐOAN

Nguyễn Thị Thanh Huyền


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ ĐỊNH TỘI DANH VÀ
QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT ĐỐI VỚI TỘI THAM Ô TÀI SẢN ..... 6
1.1.

NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ ĐỊNH TỘI DANH ĐỐI VỚI TỘI
THAM Ô TÀI SẢN .............................................................................. 6


1.1.1. Khái niệm, đặc điểm, phân loại và ý nghĩa của định tội danh đối
với tội tham ô tài sản ............................................................................ 6
1.1.2. Những căn cứ pháp lý và căn cứ khoa học của việc định tội danh
đối với tội tham ô tài sản .................................................................... 16
1.2.

KHÁI NIỆM, NGUYÊN TẮC, CĂN CỨ CỦA QUYẾT ĐỊNH
HÌNH PHẠT ĐỐI VỚI TỘI THAM Ô TÀI SẢN ............................. 22

1.2.1. Khái niệm quyết định hình phạt đối với tội tham ô tài sản ................ 22
1.2.2. Nguyên tắc quyết định hình phạt đối với tội tham ô tài sản .............. 23
1.2.3. Căn cứ quyết định hình phạt đối với tội tham ô tài sản ..................... 26
1.3.

NHỮNG YẾU TỐ ĐẢM BẢO CHO VIỆC ĐỊNH TỘI DANH VÀ
QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT ĐỐI VỚI TỘI THAM Ô TÀI SẢN ....... 33

1.3.1. Hệ thống pháp luật hình sự................................................................. 33
1.3.2. Đạo đức nghề nghiệp của chủ thể định tội danh, quyết định hình phạt .... 34
1.3.3. Năng lực chuyên môn của chủ thể định tội danh, quyết định hình phạt ... 36
Chương 2: THỰC TIỄN ĐỊNH TỘI DANH VÀ QUYẾT ĐỊNH
HÌNH PHẠT ĐỐI VỚI TỘI THAM Ô TÀI SẢN ......................... 38
2.1.

NHỮNG KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC VỀ ĐỊNH TỘI DANH VÀ
QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT ĐỐI VỚI TỘI THAM Ô TÀI SẢN ... 38


2.2.


NHỮNG HẠN CHẾ, VƯỚNG MẮC TRONG QUÁ TRÌNH ÁP
DỤNG QUI ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ KHI ĐỊNH TỘI
DANH VÀ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT ĐỐI VỚI TỘI THAM
Ô TÀI SẢN......................................................................................... 53

2.2.1.

Vướng mắc trong việc xác định chủ thể của tội tham ô tài sản ............. 54

2.2.2. Vướng mắc trong việc xác định tài sản là đối tượng tác động của
tội tham ô tài sản ................................................................................ 61
2.2.3. Vướng mắc trong việc xác định tình tiết "gây hậu quả nghiêm
trọng, gây hậu quả nghiêm trọng khác, gây hậu quả rất nghiêm
trọng khác, gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng khác" ....................... 65
2.2.4. Vướng mắc trong áp dụng tình tiết tăng nặng "xâm phạm tài sản
của nhà nước" ..................................................................................... 67
2.3.

NGUYÊN NHÂN CỦA NHỮNG HẠN CHẾ, VƯỚNG MẮC
TRONG THỰC TIỄN ĐỊNH TỘI DANH VÀ QUYẾT ĐỊNH
HÌNH PHẠT ĐỐI VỚI TỘI THAM Ô TÀI SẢN ............................. 70

Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG
ĐỊNH TỘI DANH VÀ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT ĐỐI
VỚI TỘI THAM Ô TÀI SẢN ......................................................... 73
3.1.

HOÀN THIỆN MỘT SỐ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH
SỰ LIÊN QUAN ĐẾN TỘI PHẠM THAM Ô TÀI SẢN ................. 73


3.2.

KIẾN NGHỊ BAN HÀNH VĂN BẢN HƯỚNG DẪN ..................... 82

3.3.

NÂNG CAO TRÌNH ĐỘ CHUYÊN MÔN NGHIỆP VỤ, ĐẠO
ĐỨC NGHỀ NGHIỆP CỦA CHỦ THỂ ĐỊNH TỘI DANH,
QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT ............................................................. 89

3.4.

TĂNG CƯỜNG HỢP TÁC QUỐC TẾ TRONG ĐẤU TRANH,
XỬ LÝ TỘI PHẠM THAM Ô TÀI SẢN .......................................... 93

KẾT LUẬN .................................................................................................... 95
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 98


DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu
bảng

Tên bảng

Trang

Bảng 2.1: Tương quan giữa tổng số vụ án tham nhũng đã phát hiện
khởi tố và tổng số vụ án tham ô tài sản đã phát hiện khởi tố


42

trên toàn quốc giai đoạn từ năm 2010 đến năm 2014
Bảng 2.2: Tương quan giữa tổng số bị can tham nhũng đã phát hiện
khởi tố và tổng số bị can tham ô tài sản đã phát hiện khởi tố

43

trên toàn quốc giai đoạn từ năm 2010 đến năm 2014
Bảng 2.3: Số liệu thống kê các vụ án tham ô tài sản đã xét xử sơ thẩm
trên địa bàn toàn quốc của Tòa án các cấp từ năm 2010 đến

44

năm 2014
Bảng 2.4:

Số liệu thống kê các vụ án tham ô tài sản Cơ quan điều tra
các cấp đình chỉ, tạm đình chỉ trên địa bàn toàn quốc từ

45

năm 2010 đến năm 2014
Bảng 2.5: Số liệu các vụ án tham ô tài sản Viện kiểm sát nhân dân và
Tòa án nhân dân các cấp trả điều tra bổ sung trên địa bàn

46

toàn quốc từ năm 2010 đến năm 2014

Bảng 2.6: Số liệu về hình phạt áp dụng của Tòa án nhân dân các cấp
đối với tội phạm tham ô tài sản từ năm 2010 đến năm 2014

51


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngày nay, trong nhóm tội phạm tham nhũng, tội phạm tham ô tài sản
đã và đang là một vấn đề được quan tâm không chỉ bởi một quốc gia, một khu
vực mà của cả thế giới. Loại tội phạm này không chỉ đe dọa đến sự ổn định
chính trị, kìm hãm sự phát triển kinh tế mà nó còn làm trầm trọng thêm những
vấn đề tiêu cực xã hội, hủy hoại những giá trị tốt đẹp của dân tộc và xâm hại
nghiêm trọng đến quyền con người. Vì vậy, tất cả các quốc gia trên thế giới
đều phải đấu tranh phòng chống tội phạm tham nhũng nói chung và tội phạm
tham ô tài sản nói riêng, trong đó có Việt Nam. Ở Việt Nam, trong những
năm gần đây, tội phạm tham ô tài sản cũng đang là một vấn nạn lớn của xã
hội. Theo đánh giá của Tổ chức Minh bạch quốc tế, Việt Nam thuộc nhóm
những nước tham nhũng nghiêm trọng, trong đó các tội phạm tham ô tài sản
chiếm tỉ lệ cao với nhiều thủ đoạn tinh vi. Tội phạm tham ô tài sản ở Việt
Nam vừa nghiêm trọng, vừa tinh vi, phức tạp, xảy ra phổ biến trên nhiều lĩnh
vực, nhiều cấp, nhiều ngành với nhiều cấp độ khác nhau. Đặc biệt, trong
những năm gần đây đã xảy ra nhiều vụ án tham ô phức tạp mang tính chất đặc
biệt nghiêm trọng, gây ra những thiệt hại to lớn như: Vụ án Dương Chí Dũng
- nguyên Cục trưởng Cục Hàng hải tham nhũng số tiền gần 400 tỷ đồng, vụ án
Huỳnh Thị Huyền Như - nguyên cán bộ Viettinbank chi nhánh Thành phố Hồ
Chí Minh và đồng bọn tham nhũng gây thiệt hại hơn 4.000 tỷ đồng,… Số tài
sản các bị cáo đã chiếm đoạt là rất lớn như: vụ Lê Hoài Phương - cán bộ Ngân
hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam, chi nhánh Cầu Giấy (Hà Nội) tham ô 24
tỷ đồng; vụ Huỳnh Ngọc Sĩ - Giám đốc Ban quản lý dự án đại lộ Đông - Tây,

Thành phố Hồ Chí Minh tham nhũng 260 nghìn USD;… Trước thực trạng
như vậy, Việt Nam cần phải đấu tranh phòng chống một cách có hiệu quả loại
tội phạm này. Một trong những biện pháp đấu tranh có hiệu quả tội phạm

1


tham ô tài sản chính là việc áp dụng pháp luật hình sự. Nhưng để có thể áp
dụng luật hình sự hiệu quả thì các quy định trong luật hình sự phải được hoàn
thiện, phải đầy đủ, chuẩn xác, phù hợp với lý luận khoa học và thực tiễn đời
sống, làm cơ sở cho hoạt động thực tiễn của các chủ thể áp dụng pháp luật.
Thực tiễn gần đây cho thấy những quy định của luật hình sự về tội
phạm tham ô tài sản còn những hạn chế nhất định. Do đó, tác giả lựa chọn đề
tài "Định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội tham ô tài sản trong
luật hình sự Việt Nam" làm luận văn thạc sĩ của mình với mong muốn chỉ ra
những bất cập của Bộ luật hình sự hiện hành, từ đó đề xuất những ý kiến cụ
thể góp phần hoàn thiện Bộ luật hình sự quy định về tội phạm này.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong những năm gần đây, những đề tài nghiên cứu dưới góc độ luật
hình sự có liên quan đến đề tài của tác giả gồm những công trình sau:
* Luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ
- Hoàn thiện pháp luật về phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam hiện
nay, Luận án tiến sĩ Luật học, của Trần Đăng Vinh (2012),
- Các tội phạm về tham nhũng trong Luật hình sự Việt Nam, Luận văn
thạc sĩ Luật học, của Nguyễn Văn Hải (2001).
- Tội tham ô tài sản trong luật hình sự Việt Nam - một số vấn đề lý
luận và thực tiễn, Luận văn thạc sĩ Luật học, của Tạ Thu Thủy (2009).
* Các bài viết, tạp chí, đề tài khoa học:
- Các tội phạm về tham nhũng trong luật hình sự Việt Nam, của Trần
Công Phàn, Tạp chí Kiểm sát, số 06/2006.

- Việc xác định tội tham ô tài sản trong cơ chế thị trường, của Đinh
Khắc Tiến, Tạp chí Kiểm sát, số 6/2006.
- Bàn về chủ thể của tội tham ô tài sản trong Bộ luật hình sự năm
1999, của Trương Thị Hằng, Tạp chí Kiểm sát, số /2006.
- Các tội phạm về tham nhũng có tính chất chiếm đoạt tài sản và đấu

2


tranh phòng chống các tội này ở Việt Nam trong xu thế hội nhập quốc tế, Đề
tài nghiên cứu khoa học cấp trường, Trường Đại học Luật Hà Nội, năm 2008.
- Tham nhũng ở Việt Nam: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, của
Thái Thị Thu Hương, Tạp chí Cộng sản, số 4/2013.
Các công trình trên chủ yếu quan tâm nghiên cứu tới tội phạm tham
nhũng nói chung. Số lượng công trình nghiên cứu tội phạm tham ô tài sản
dưới góc độ toàn diện còn hạn chế. Cho tới nay, chưa có công trình nào ở cấp
độ thạc sĩ nghiên cứu về vấn đề định tội danh và quyết định hình phạt đối với
tội phạm tham ô tài sản.
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn là trên cơ sở nghiên cứu các quy
định của pháp luật hình sự về định tội danh đối với tội phạm tham ô tài sản để
hoàn thiện hơn nữa quy định của Bộ luật hình sự về các tội này khi quy định
về vấn đề định tội danh, quyết định hình phạt và thông qua đó góp phần nâng
cao hiệu quả các hoạt động này trong thực tiễn.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nêu trên, trong quá trình nghiên cứu đề tài cần
thực hiện những nhiệm vụ chủ yếu sau:
- Nghiên cứu các quy định cụ thể của Bộ luật hình sự về dấu hiệu định
tội và các căn cứ quyết định hình phạt đối với tội tham ô tài sản được quy

định tại Mục A, chương XXI Bộ luật hình sự.
- Đánh giá thực tiễn định tội danh và quyết định hình phạt đối với các
tội phạm tham ô tài sản.
- Đề xuất một số giải pháp góp phần hoàn thiện pháp luật hình sự quy
định về dấu hiệu định tội và vấn đề quyết định hình phạt đối với các tội phạm
tham ô tài sản, cũng như nâng cao hiệu quả định tội danh và quyết định hình
phạt đối với tội tham ô tài sản trong thực tiễn.

3


3.3. Phạm vi nghiên cứu
Đây là đề tài được nghiên cứu dưới góc độ luật hình sự và tác giả sẽ
nghiên cứu trong phạm vi Bộ luật hình sự năm 1999 cũng như qua các số liệu
giải quyết vụ án hình sự từ năm 2010 đến năm 2014 để phân tích, tìm ra
những vấn đề lý luận và thực tiễn, những hạn chế, tồn tại liên quan đến định
tội danh và quyết định hình phạt đối với tội phạm tham ô tài sản để kiến nghị
những giải pháp nâng cao chất lượng việc định tội danh và quyết định hình
phạt đối với tội phạm này.
4. Phương pháp luận và các phương pháp nghiên cứu
- Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và những chủ trương, đường lối của
Đảng, Nhà nước về đấu tranh phòng chống tội phạm, về chính sách hình sự.
- Luận văn được tác giả sử dụng các phương pháp cụ thể như: phương
pháp lịch sử, phương pháp so sánh, phương pháp phân tích, đánh giá, tổng
hợp và phương pháp thống kê tình hình thực tiễn, áp dụng định tội danh,
quyết định hình phạt đối với tội phạm tham ô tài sản của cơ quan có thẩm
quyền giải quyết vụ án hình sự. Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, luận văn cũng
đánh giá tình hình và từ đó đưa ra một số kiến nghị, giải pháp nhằm nâng cao
hiệu quả trong việc áp dụng quy định về định tội danh và quyết định hình phạt

đối với tội phạm tham ô tài sản.
5. Ý nghĩa và những đóng góp của luận văn
Luận văn là công trình đầu tiên ở cấp độ luận văn thạc sĩ nghiên cứu
về vấn đề định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội phạm tham ô tài
sản. Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần hoàn thiện lý luận về các quy
định liên quan đến định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội tham ô tài
sản. Luận văn đi sâu vào nghiên cứu các vấn đề chung về định tội danh và
quyết định hình phạt đối với tội tham ô tài sản, phân tích cụ thể các căn cứ

4


pháp lý của định tội danh và quyết định hình phạt đối với tôi tham ô tài sản
dựa trên kết quả công tác giải quyết vụ án hình sự của cơ quan tiến hành tố
tụng trong những năm gần đây để đánh giá tồn tại, hạn chế của việc định tội
danh và quyết định hình phạt đối với tội tham ô tài sản, từ đó tìm ra nguyên
nhân của những tồn tại, hạn chế này để có giải pháp khắc phục, nâng cao hiệu
quả áp dụng trong thực tiễn.
Luận văn còn có ý nghĩa làm tài liệu tham khảo lý luận, có thể sử
dụng làm tài liệu nghiên cứu học tập và trong thực tiễn giải quyết vụ án
tham ô tài sản.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm ba chương:
Chương 1: Những vấn đề chung về định tội danh và quyết định hình
phạt đối với tội tham ô tài sản.
Chương 2: Thực tiễn định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội
tham ô tài sản.
Chương 3: Một số giải pháp nâng cao hiệu quả định tội danh và quyết
định hình phạt đối với tội tham ô tài sản.


5


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ ĐỊNH TỘI DANH
VÀ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT ĐỐI VỚI TỘI THAM Ô TÀI SẢN
1.1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ ĐỊNH TỘI DANH ĐỐI VỚI TỘI
THAM Ô TÀI SẢN
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm, phân loại và ý nghĩa của định tội danh
đối với tội tham ô tài sản
1.1.1.1. Khái niệm định tội danh đối với tội tham ô tài sản
Trong quá trình giải quyết một vụ án hình sự, để có thể xác định
được tội phạm cũng như truy cứu trách nhiệm hình sự đúng pháp luật
người phạm tội, các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng
phải thực hiện hoạt động định tội danh. Định tội danh đúng chính là tiền đề
cho việc phân hóa trách nhiệm hình sự cũng như cá thể hóa hình phạt có
căn cứ và đúng pháp luật.
Trong Bộ luật hình sự Việt Nam hiện hành không quy định cụ thể về
định tội danh mà định tội danh được xem là một khái niệm của khoa học hình
sự Việt Nam. Hiện nay, có nhiều quan điểm khác nhau về khái niệm định tội
danh đã được đưa ra, cụ thể:
Theo quan điểm của GS.TSKH Lê Cảm thì:
Định tội danh là một quá trình nhận thức lý luận có tính
logic, đồng thời là một trong những dạng của hoạt động thực tiễn
áp dụng pháp luật hình sự, cũng như pháp luật tố tụng hình sự và,
được tiến hành bằng cách - trên cơ sở các chứng cứ các tài liệu thu
thập được và các tình tiết thực tế của vụ án hình sự để đối chiếu,
so sánh và kiểm tra nhằm xác định sự phù hợp giữa các dấu hiệu
của hành vi nguy hiểm cho xã hội được thực hiện với các dấu hiệu


6


của cấu thành tội phạm cụ thể tương ứng do luật hình sự quy định,
hay nói cách khác là nhằm đưa ra sự đánh giá chính xác tội phạm
về mặt pháp lý hình sự, làm tiền đề cho việc cá thể hóa và phân
hóa trách nhiệm hình sự một cách công minh, có căn cứ và đúng
pháp luật [7, tr. 33].
Còn theo quan điểm của TS. Dương Tuyết Miên:
Định tội danh là hoạt động của cơ quan tiến hành tố tụng
(Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án) và một số cơ quan khác
có thẩm quyền theo quy định của pháp luật để xác định một người
có phạm tội hay không, nếu phạm tội thì đó là tội gì, theo điều luật
nào của Bộ luật hình sự hay nói cách khác đây là quá trình xác định
tên tội cho hành vi nguy hiểm đã được thực hiện [20, tr. 7].
ThS. Đoàn Tất Minh cũng đưa ra quan điểm của mình về khái niệm
định tội danh như sau:
Định tội danh là thuật ngữ dùng để chỉ hoạt động của cơ
quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng có thẩm quyền trong
tố tụng hình sự nhằm đối chiếu sự phù hợp giữa các dấu hiệu thực tế
của cấu thành tội phạm với các dấu hiệu pháp lý của cấu thành tội
phạm được mô tả (quy định) trong Luật hình sự để giải quyết án hình
sự bằng việc ra kết luận bằng văn bản áp dụng pháp luật [22, tr. 10].
Các tác giả trên đã đưa ra những định nghĩa khác nhau về khái niệm
định tội danh. Tuy nhiên, nhìn chung các quan điểm trên đều thể hiện: định tội
danh là quá trình áp dụng pháp luật hình sự và tố tụng hình sự, được tiến hành
bởi các cơ quan tư pháp hình sự và một số cơ quan khác có thẩm quyền và việc
định tội danh phải được thực hiện trên cơ sở các quy định của luật hình sự.
Trên cơ sở nghiên cứu các quan điểm trên, tác giả đưa ra khái niệm

như sau: Định tội danh là một dạng của hoạt động thực tiễn áp dụng pháp

7


luật hình sự và pháp luật tố tụng hình sự, do các cơ quan tiến hành tố tụng
cũng như một số cơ quan khác có thẩm quyền theo quy định của pháp luật
thực hiện trên cơ sở các chứng cứ, tài liệu thu thập được và các tình tiết thực
tế của vụ án hình sự để nhằm đối chiếu sự phù hợp giữa hành vi nguy hiểm
cho xã hội đã được thực hiện với các dấu hiệu của cấu thành tội phạm cụ thể
đã được quy định cụ thể trong Bộ luật hình sự, từ đó xác định người đã thực
hiện hành vi đó có phải là tội phạm hay không, và nếu có thì theo điều luật
nào của Bộ luật hình sự.
Đối với tội tham ô tài sản là một loại tội phạm cụ thể được quy định
tại Điều 278 - Mục A "Các tội phạm về tham nhũng" - Chương XXI "Các tội
phạm về chức vụ" Bộ luật hình sự năm 1999. Cụ thể, Khoản 1 Điều 278 Bộ
luật hình sự 1999 quy định:
Người nào lợi dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản
mà mình có trách nhiệm quản lý có giá trị từ hai triệu đồng đến dưới
năm mươi triệu đồng hoặc dưới hai triệu đồng nhưng thuộc một
trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm:
a) Gây hậu quả nghiêm trọng;
b) Đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm;
c) Đã bị kết án về một trong các tội quy định tại Mục A
chương này, nhưng chưa được xóa án tích mà còn vi phạm [28].
Như vậy, tham ô tài sản là hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn chiếm
đoạt tài sản mà mình có trách nhiệm quản lí có giá trị từ hai triệu đồng trở lên
hoặc dưới hai triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử lý kỷ
luật về hành vi này mà còn vi phạm hoặc đã bị kết án về một trong các tội
được quy định tại Mục A Chương Các tội phạm về chức vụ Bộ luật hình sự

năm 1999, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm. Chủ thể của tội phạm này
là những người có chức vụ, quyền hạn, vì những lợi ích khác nhau đã lợi dụng

8


chức vụ, quyền hạn mà mình có để chiếm đoạt tài sản, qua đó xâm phạm hoạt
động đúng đắn của cơ quan, tổ chức cũng như gây thiệt hại cho lợi ích của
Nhà nước, của xã hội hoặc quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
Từ cơ sở lý luận cũng như các quy định của Bộ luật hình sự có thể
thấy định tội danh đối với tội tham ô tài sản là hoạt động thực tiễn áp dụng
quy phạm pháp luật hình sự được quy định tại Điều 278 Bộ luật hình sự. Đây
là hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng có
thẩm quyền trong tố tụng hình sự nhằm đối chiếu sự phù hợp giữa các dấu
hiệu thực tế của hành vi nguy hiểm cho xã hội đã được thực hiện với các dấu
hiệu pháp lý của cấu thành tội phạm được mô tả tại Điều 278 Bộ luật hình sự,
tức là trên cơ sở các chứng cứ tài liệu thu thập được và các tình tiết thực tế
của vụ án hình sự cụ thể, các chủ thể có thẩm quyền xem xét, kiểm tra xem
các dấu hiệu của hành vi nguy hiểm cho xã hội đó có thỏa mãn các dấu hiệu
tương ứng của cấu thành tội phạm tội tham ô tài sản đã được quy định trong
luật hình sự hay không, để trên cơ sở đó xác định vấn đề trách nhiệm hình sự
đối với người phạm tội.
Vậy tác giả đưa ra khái niệm như sau: Định tội danh đối với tội tham ô
tài sản là hoạt động thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự và pháp luật tố tụng
hình sự, do các cơ quan tiến hành tố tụng cũng như một số cơ quan khác có
thẩm quyền theo quy định của pháp luật thực hiện trên cơ sở các chứng cứ,
tài liệu thu thập được và các tình tiết thực tế của vụ án hình sự để nhằm đối
chiếu sự phù hợp giữa hành vi nguy hiểm cho xã hội đã được thực hiện với
các dấu hiệu của cấu thành tội phạm cụ thể đã được quy định trong Điều 278
Bộ luật hình sự, từ đó xác định người đã thực hiện hành vi đó có phạm tội

tham ô tài sản hay không.
1.1.1.2. Đặc điểm định tội danh đối với tội tham ô tài sản
Từ nội dung của khái niệm và định nghĩa về định tội danh đối với tội

9


tham ô tài sản trên đây có thể thấy định tội danh đối với loại tội phạm này có
những đặc điểm sau:
Thứ nhất, định tội danh đối với tội tham ô tài sản là một quá trình
nhận thức lý luận có tính logic được thể hiện dưới hai khía cạnh: xác định
xem các dấu hiệu của hành vi nguy hiểm cho xã hội được thực hiện có phù
hợp với các dấu hiệu của cấu thành tội phạm cụ thể do Điều 278 Bộ luật hình
sự quy định hay không. Trên cơ sở đó, đưa ra sự đánh giá nhất định về mặt
pháp lý hình sự đối với một hành vi nguy hiểm cho xã hội cụ thể xảy ra trong
thực tế khách quan. Về nguyên tắc, chỉ khi đối chiếu và nhận thấy sự phù hợp
giữa các dấu hiệu của hành vi đã được thực hiện trong thực tiễn với các dấu
hiệu pháp lý của cấu thành tội phạm với nhau thì mới có thể kết luận tội phạm
do người nào đó thực hiện có phải là tội tham ô tài sản được quy định tại Điều
278 Bộ luật hình sự hay không và từ đó có cơ sở để buộc người đó chịu trách
nhiệm về hành vi phạm tội tham ô tài sản mà họ đã thực hiện. Tuy nhiên,
trong thực tiễn định tội danh, cần phải nhận thức được rằng thực tiễn cuộc
sống xảy ra rất sinh động và phong phú mà pháp luật không thể phản ánh hết
từng trường hợp cụ thể được mà các quy phạm pháp luật mang tính phổ quát.
Do vậy, trong quá trình thực tiễn áp dụng các quy phạm pháp luật để định tội
danh rất cần sự nhận thức đúng đắn, tư duy khoa học cũng như việc nắm vững
tinh thần pháp luật của các cơ quan điều tra, truy tố và xét xử.
Thứ hai, định tội danh là một trong những dạng của hoạt động thực
tiễn áp dụng pháp luật hình sự và tố tụng hình sự được tiến hành bởi các cơ
quan tư pháp hình sự - các cơ quan điều tra, truy tố, xét xử và một số cơ quan

khác có thẩm quyền theo quy định của pháp luật.
Đóng vai trò chính trong hoạt động định tội danh là các cơ quan tư
pháp hình sự, bao gồm Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án. Các cơ
quan này trong quá trình thực hiện hoạt động điều tra, truy tố và xét xử đã áp

10


dụng các quy định của pháp luật hình sự vào thực tế đời sống, tức là lựa
chọn đúng quy phạm pháp luật hình sự để áp dụng đối với hành vi nguy
hiểm cho xã hội cụ thể nào đó đã được thực hiện trong thực tế. Và từ đó, đưa
ra kết luận là hành được xem xét ấy có đủ các dấu hiệu của tội tham ô tài sản
được quy định trong pháp luật hình sự thực định hay không [7, tr. 34]. Như
vậy, chủ thể của hoạt động định tội danh đối với tội tham ô tài sản chính là
các cơ quan tư pháp hình sự gồm Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án và
một số cơ quan khác có thẩm quyền. Các chủ thể này dựa trên các quy định
pháp luật hình sự tiến hành việc định tội danh đối với tội phạm tham ô tài
sản theo đúng trình tự, thủ tục được quy định trong luật tố tụng hình sự, trên
cơ sở đó định tội danh đúng để làm căn cứ cho việc quyết định hình phạt đối
với người phạm tội.
Thứ ba, định tội danh đối với tội tham ô tài sản được thực hiện trên cơ
sở áp dụng pháp luật hình sự và pháp luật tố tụng hình sự; đồng thời căn cứ vào
các chứng cứ, tài liệu thu thập được và các tình tiết thực tế của vụ án hình sự.
Khi tiến hành định tội danh, dù ở bất kì giai đoạn tố tụng nào, các cơ
quan có thẩm quyền phải tuân thủ đầy đủ, chính xác các quy định của cả luật
hình sự (luật về nội dung) và luật tố tụng hình sự (luật về hình thức). Bởi lẽ
định tội danh là hoạt động đối chiếu sự phù hợp giữa các tình tiết thuộc về
hành vi nguy hiểm cho xã hội được thực hiện trên thực tế với các dấu hiệu
pháp lý của cấu thành tội phạm được quy định trong Bộ luật hình sự và hoạt
động đó được tiến hành trên cơ sở trình tự, thủ tục được quy định trong Bộ

luật Tố tụng hình sự. Không chỉ vậy, đối với từng vụ án cụ thể khác nhau, các
chủ thể định tội danh còn phải căn cứ vào từng đặc điểm, tình tiết của từng vụ
án đó để có thể tiến hành định tội danh đúng.
Thứ tư, định tội danh đối với tội tham ô tài sản với tính chất là một
dạng của hoạt động thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự được tiến hành về cơ
bản theo bốn bước:

11


- Xem xét và thiết lập đúng các tình tiết thực tế của vụ án trong sự phù
hợp với hiện thực khách quan;
- Nhận thức một cách thống nhất và chính xác nội dung các quy phạm
pháp luật hình sự đang có hiệu lực thi hành đặc biệt là quy phạm pháp luật
hình sự về tội tham ô tài sản quy định tại Điều 278 Bộ luật hình sự;
- So sánh, đối chiếu và kiểm tra các tình tiết cụ thể của hành vi nguy
hiểm cho xã hội đã được thực hiện với các dấu hiệu của cấu thành tội phạm
của tội tham ô tài sản quy định tại Điều 278 Bộ luật hình sự.
- Sau khi đã so sánh, đối chiếu và kiểm tra đầy đủ, chính xác, ra một
văn bản áp dụng pháp luật mà trong đó đưa ra kết luận có căn cứ và đảm bảo
sức thuyết phục về sự phù hợp của hành vi thực tế đã được thực hiện với cấu
thành tội phạm tham ô tài sản được quy định tại Điều 278 Bộ luật hình sự
Việt Nam năm 1999.
1.1.1.3. Phân loại định tội danh đối với tội tham ô tài sản
Căn cứ vào các chủ thể tương ứng thực hiện việc định tội danh, khoa
học luật hình sự phân chia định tội danh làm hai dạng: định tội danh chính
thức và định tội danh không chính thức [7, tr. 35]. Trên cơ sở đó, đối với tội
tham ô tài sản có thể phân chia thành hai dạng định tội danh tương ứng là
định tội danh chính thức và định tội danh không chính thức.
* Định tội danh chính thức là sự đánh giá về mặt nhà nước tính chất

pháp lý hình sự của một hành vi phạm tội cụ thể do các chủ thể được nhà
nước ủy quyền thực hiện [7, tr. 35]. Định tội danh chính thức đối với tội tham
ô tài sản có những đặc điểm sau:
- Các chủ thể định tội danh chính thức đối với tội tham ô tài sản
phải là những người có thẩm quyền trực tiếp tiến hành tố tụng đối với vụ
án hình sự cụ thể, đó là, điều tra viên, kiểm sát viên, thẩm phán, hội thẩm
nhân dân và hội thẩm quân nhân [7, tr. 35]. Từng chủ thể trên sẽ tiến hành

12


định tội danh đối với tội tham ô tài sản trong các giai đoạn tố tụng khác
nhau và tùy theo thẩm quyền, nhiệm vụ, trách nhiệm được quy định trong
Bộ luật tố tụng hình sự.
- Các hậu quả của việc định tội danh do các chủ thể đã nêu trên tiến
hành bao gồm các hậu quả pháp lý tố tụng hình sự như khởi tố vụ án hình
sự, bắt đầu quá trình điều tra, khởi tố bị can, truy tố, xét xử,... Vì sau khi
nhận được tin báo, tố giác tội phạm, cơ quan điều tra phải kiểm tra, xác
minh và quyết định việc khởi tố vụ án tham ô tài sản nếu có dấu hiệu của tội
phạm và, từ đó là cơ sở để tiến hành điều tra, giải quyết vụ án làm căn cứ để
quyết định truy tố, xét xử người phạm tội về tội tham ô tài sản. Ngoài ra, hậu
quả hoạt động định tội danh chính thức đối với tội tham ô tài sản còn là các
hậu quả pháp lý hình sự như miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt hoặc
ra bản án kết tội...
- Nếu người phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự trong giai đoạn
trước khi Tòa án ra quyết định đưa vụ án ra xét xử, thì căn cứ vào Bộ luật tố
tụng hình sự năm 2003, chỉ có tội danh cuối cùng trong bản án của Tòa án đã
có hiệu lực pháp luật mới được coi là tội danh chính thức mà người phạm tội
đã thực hiện [7, tr. 36]. Trong các giai đoạn khác nhau của tố tụng hình sự,
các chủ thể có thẩm quyền trong từng giai đoạn tiến hành hoạt động định tội

danh và đây đều được coi là hoạt động định tội danh chính thức. Tuy nhiên,
điều đó không có nghĩa là đối tượng phải gánh chịu hậu quả của hoạt động
định tội danh đó là người phạm tội tham ô tài sản. Điều 9 Bộ luật tố tụng hình
sự năm 2003 quy định: "không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi
chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật" [29]. Khoản 1
Điều 31 Hiến pháp năm 2013 quy định "Người bị buộc tội được coi là không
có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự luật định và có bản án kết
tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật" [34]. Như vậy, chỉ có trên cơ sở quá

13


trình xét xử công khai tại tòa, Tòa án ra bản án kết tội một người phạm tội
tham ô tài sản và bản án đó có hiệu lực pháp luật thì người đã thực hiện đã
thực hiện hành vi phạm tội trong thực tế mới bị coi là tội phạm tham ô tài sản.
* Định tội danh không chính thức đối với tội tham ô tài sản là sự
đánh giá không phải về mặt nhà nước tính chất pháp lý hình sự của một
hành vi phạm tội tham ô tài sản cụ thể mà là sự đánh giá về hành vi phạm
tội do các nhà nghiên cứu khoa học pháp lý, tác giả bài báo, tạp chí, công
trình khoa học, sinh viên, học viên hay bất kì một người nào đó qua tâm
nghiên cứu. Định tội danh không chính thức đối với tội tham ô tài sản có
những đặc điểm sau đây:
- Các chủ thể tiến hành định tội danh không chính thức đối với tội
tham ô tài sản không nhất thiết phải là những người nhất định nào, họ không
phải là những chủ thể có thẩm quyền trong các cơ quan tiến hành tố tụng mà
có thể là bất kì ai, nhưng thông thường là các luật gia trong lĩnh vực tư pháp
hình sự, cá tác giả của các công trình nghiên cứu khoa học, giáo trình, những
người đang quan tâm nghiên cứu luật hình sự.
- Hậu quả của hoạt động định tội danh không chính thức đối với tội
tham ô tài sản không làm phát sinh quyền hoặc nghĩa vụ trong các quan hệ

pháp luật hình sự hay pháp luật tố tụng hình sự của các chủ thể tham gia các
quan hệ đó mà chỉ là các quan điểm khoa học hay ý kiến riêng của các cá
nhân đó [7, tr. 36]. Tuy nhiên, hoạt động này vẫn có những ý nghĩa thực tiễn
nhất định khi nó là tài liệu tham khảo cho các chủ thể có thẩm quyền khi tiến
hành hoạt động định tội danh chính thức, hạn chế thấp nhất các trường hợp
định tội danh sai.
1.1.1.4. Ý nghĩa của định tội danh đối với tội tham ô tài sản
Trong quá trình giải quyết vụ án tham ô tài sản, việc định tội danh đối
với tội phạm này có ý nghĩa rất quan trọng, cụ thể:

14


Thứ nhất, định tội danh đối với tội tham ô tài sản đúng là tiền đề cho
việc quyết định hình phạt chính xác, là cơ sở để áp dụng đúng các quy định tố
tụng hình sự, đảm bảo việc truy cứu trách nhiệm hình sự đúng người, đúng
tội, đúng pháp luật, không bỏ lọt tội phạm hay làm oan người vô tội, từ đó
bảo vệ được quyền hợp pháp và tự do của công dân. Chỉ khi xác định đúng
người đó đã phạm tội tham ô tài sản, các chủ thể có thẩm quyền mới có thể áp
dụng chính xác các quy phạm pháp luật tố tụng hình sự về tạm giam, thời hạn
tạm giam, khởi tố vụ án hình sự, thẩm quyền điều tra, thẩm quyền xét xử,…
và bằng cách đó, góp phần hữu hiệu cho việc bảo vệ quyền và tự do của công
dân trong lĩnh vực tư pháp hình sự [7, tr. 30].
Thứ hai, định tội danh đối với tội tham ô tài sản đúng thể hiện hoạt
động có hiệu quả, ý thức tuân thủ pháp luật, trình độ chuyên môn của các cơ
quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng, góp phần nâng cao uy tín,
chất lượng hoạt động của các cơ quan này.
Thứ ba, định tội danh đối với tội tham ô tài sản đúng sẽ giúp cho việc
điều tra, xử lý tội phạm tham ô tài sản có căn cứ, từ đó góp phần quan trọng
vào công cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm tham ô tài sản nói riêng và tội

phạm tham nhũng nói chung. Việc định tội danh đối với tội tham ô tài sản sai
sẽ dẫn đến việc quyết định hình phạt không phù hợp, không tương xứng với
tội phạm đã được thực hiện, làm giảm hiệu quả của hình phạt; truy cứu trách
nhiệm hình sự không đúng người đúng tội, thậm chí xâm phạm đến quyền và
tự do của công dân. Định tội danh đối với tội tham ô tài sản sai sẽ không đảm
bảo được tính có căn cứ của bản án, làm mất lòng tin của nhân dân vào tính
đúng đắn và nghiêm minh của bản án từ đó làm giảm uy tín, hiệu lực của các
cơ quan bảo vệ pháp luật và Tòa án, cũng như giảm hiệu quả của cuộc đấu
tranh phòng và chống tội phạm tham ô tài sản.

15


1.1.2. Những căn cứ pháp lý và căn cứ khoa học của việc định tội
danh đối với tội tham ô tài sản
1.1.2.1. Những căn cứ pháp lý của việc định tội danh đối với tội
tham ô tài sản
Căn cứ pháp lý của việc định tội danh, theo quan điểm của GS.TSKH
Lê Cảm, có thể được hiểu trên hai bình diện rộng và hẹp:
Trên bình diện rộng, thì những căn cứ pháp lý của việc định
tội danh là hệ thống các quy phạm pháp luật hình sự với tính chất là
cơ sở pháp lý duy nhất (trực tiếp), cũng như hệ thống các quy phạm
pháp luật tố tụng hình sự với tính chất là cơ sở pháp lý bổ trợ (gián
tiếp) cho toàn bộ quá trình xác định các dấu hiệu của hành vi nguy
hiểm cho xã hội được thực hiện là tội phạm.
Trên bình diện hẹp, thì những căn cứ pháp lý của việc định
tội danh là chỉ có hệ thống các quy phạm pháp luật hình sự với tính
chất là cơ sở pháp lý duy nhất (trực tiếp) cho toàn bộ quá trình xác
định các dấu hiệu của hành vi nguy hiểm cho xã hội được thực hiện
là tội phạm [7, tr. 38].

Như vậy, theo quan điểm này, xét theo nghĩa hẹp thì chỉ có Bộ luật
hình sự là cơ sở pháp lý trực tiếp của việc định tội danh, còn theo nghĩa rộng
thì còn gồm cả Bộ luật tố tụng hình sự với tư cách là cơ sở pháp lý gián tiếp
của việc định tội danh.
TS. Dương Tuyết Miên đưa ra quan điểm của mình về vấn đề này như sau:
Hoạt động định tội danh suy cho cùng là việc so sánh, đối
chiếu các tình tiết của hành vi nguy hiểm cho xã hội được thực hiện
trong thực tế có phù hợp với các dấu hiệu tương ứng của cấu thành
tội phạm cơ bản của một tội phạm cụ thể nào đó được quy định
trong Phần các tội phạm của Bộ luật hình sự. Để có thể tiến hành

16


được việc định tội danh, nhà làm luật đã xây dựng những mẫu đặc
thù riêng cho từng tội cụ thể mà dựa vào đó những người có thẩm
quyền tiến hành việc định tội danh phải xác định có hay không có
sự phù hợp giữa các tình tiết của hành vi nguy hiểm cho xã hội cụ
thể được thực hiện trên thực tế với một trong những mẫu đặc thù
được quy định trong Bộ luật hình sự, từ đó tìm ra tên tội cho hành
vi nguy hiểm đã thực hiện [20, tr. 13].
Như vậy, quan điểm này cho rằng cơ sở pháp lý của việc định tội danh
chính là các quy định trong Bộ luật hình sự.
Trên cơ sở nghiên cứu hai quan điểm về cơ sở pháp lý của việc định
tội danh nói chung, chúng ta có thể đưa ra khái niệm về cơ sở pháp lý của
việc định tội danh đối với tội tham ô tài sản như sau: Căn cứ pháp lý của việc
định tội danh đối với tội tham ô tài sản là quy phạm pháp luật hình sự được
quy định tại Điều 278 Bộ luật hình sự với tính chất là cơ sở pháp lý duy nhất
(trực tiếp) cho toàn bộ quá trình xác định các dấu hiệu của hành vi nguy hiểm
cho xã hội được thực hiện là tội phạm tham ô tài sản.

1.1.2.2. Căn cứ khoa học của việc định tội danh đối với tội tham ô
tài sản
Định tội danh là xác định sự phù hợp giữa các dấu hiệu của một hành
vi nguy hiểm cho xã hội nhất định nào đó đã được thực hiện với các dấu hiệu
của cấu thành tội phạm tương ứng được quy định tại một quy phạm pháp luật
cụ thể trong Phần vác tội phạm Bộ luật hình sự. Nếu hành vi đó thỏa mãn các
dấu hiệu của cấu thành tội phạm nào trong Bộ luật hình sự thì hành vi đó
được định tội danh theo cấu thành tội phạm đó. Như vậy, việc định tội danh
phải căn cứ vào cấu thành tội phạm được quy định trong Bộ luật hình sự, hay
có thể nói, cơ sở khoa học của việc định tội danh là cấu thành tội phạm.
Theo GS.TSKH Lê Cảm thì cấu thành tội phạm là tổng hợp các dấu

17


hiệu pháp lý (khách quan và chủ quan) do luật hình sự quy định thể hiện một
hành vi nguy hiểm cho xã hội cụ thể là tội phạm [8, tr. 339]. Cấu thành tội
phạm gồm bốn yếu tố chính là các bộ phận hợp thành của cấu trúc trong cấu
thành ấy, bao gồm một nhóm các dấu hiệu tương ứng với các phương diện
của hành vi nguy hiểm cho xã hội bị luật hình sự cấm, đó là: khách thể, mặt
khách quan, chủ thể và mặt chủ quan của tội phạm.
Khách thể của tội phạm là quan hệ xã hội được luật hình sự
bảo vệ tránh khỏi sự xâm hại có tính chất tội phạm, nhưng bị tội
phạm xâm hại đến và gây nên (hoặc có thể gây nên) thiệt hại đáng
kể nhất định.
Mặt khách quan của tội phạm là mặt bên ngoài của sự xâm
hại nguy hiểm đáng kể cho xã hội đến khách thể được bảo vệ bằng
pháp luật hình sự, tức là sự thể hiện cách xử sự có tính chất tội
phạm trong thực tế khách quan.
Chủ thể của tội phạm là người đã có lỗi (cố ý hoặc vô ý)

trong việc thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị luật hình sự
cấm, có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm
hình sự theo luật định.
Mặc chủ quan của tội phạm là mặt bên trong của sự xâm hại
nguy hiểm đáng kể cho xã hội đến khách thể được bảo vệ bằng pháp
luật hình sự, tức là thái độ tâm lý của chủ thể được thể hiện dưới hình
thức cố ý hoặc vô ý đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội do mình
thực hiện và đối với hậu quả của hành vi đó (lỗi) [8, tr. 343-344].
Từ các yếu tố cấu thành của tội phạm nói chung trên, chúng ta có thể
thấy cơ sở khoa học của việc định tội danh đối với tội tham ô tài sản là cấu
thành tội phạm tội tham ô tài sản - tổng hợp các dấu hiệu pháp lý (khách quan
và chủ quan) do luật hình sự quy định thể hiện một hành vi nguy hiểm cho xã
hội cụ thể là tội phạm tham ô tài sản. Cụ thể:

18


* Chủ thể của tội tham ô tài sản: Tội tham ô tài sản là do người có chức
vụ, quyền hạn thực hiện và người phạm tội đã sử dụng chức vụ, quyền hạn đó
của mình để thực hiện hành vi phạm tội. Như vậy, tội tham ô tài sản có chủ thể
đặc biệt, hay nói cách khác, ngoài các yếu tố cần và đủ giống như các tội phạm
khác như: độ tuổi, năng lực trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 12, Điều 13
Bộ luật hình sự; chủ thể của tội tham ô tài sản còn cần phải là người có chức vụ
quyền hạn và có trách nhiệm đối với tài sản mà họ chiếm đoạt. Nhưng điều này
không có nghĩa là người không có chức vụ, quyền hạn không thể là chủ thể của
tội tham ô tài sản bởi người không có chức vụ quyền hạn vẫn có thể là đồng
phạm trong các vụ án tham ô tài sản. Trong trường hợp đồng phạm, chỉ có
người đồng phạm với vai trò là người thực hành đòi hỏi phải là người có chức
vụ, quyền hạn; những người đồng phạm khác trong vai trò người tổ chức,
người xúi giục, người giúp sức thì họ không nhất thiết phải có yếu tố này. Chủ

thể của tội tham ô tài sản là người có chức vụ, quyền hạn quản lý tài sản, do họ
đảm nhiệm những chức vụ hoặc chức trách nhất định mà họ được giao tài sản
để thực hiện nhiệm vụ, công vụ và có thẩm quyền trong việc chiếm hữu, sử
dụng, định đoạt đồng thời có trách nhiệm quản lý tài sản đó. Trách nhiệm quản
lý tài sản có thể là trách nhiệm quản lý gián tiếp (Thủ trưởng cơ quan, Giám
đốc doanh nghiệp, tổ chức), quản lý trên sổ sách chứng từ (kế toán) hoặc trách
nhiệm quản lý trực tiếp (thủ kho, thủ quỹ) [13, tr. 31].
* Khách thể của tội tham ô tài sản: Tội tham ô tài sản được quy định
tại Chương Tội xâm phạm về chức vụ, do đó khách thể tội tham ô tài sản là
hoạt động đúng đắn của cơ quan, của tổ chức. Cụ thể ở đây, hoạt động đúng
đắn của cơ quan tổ chức bị xâm hại thông qua hành vi chiếm đoạt bất hợp
pháp tài sản được giao quản lý bằng việc lợi dụng chức vụ, quyền hạn của
người được giao quản lý tài sản đó. Do đó, nói cụ thể hơn, khách thể của tội
tham ô tài sản gồm: Hoạt động đúng đắn của cơ quan, của tổ chức trong quá

19


×