TRƯỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI
BÁO CÁO TỔNG HỢP
TÌM HIỂU QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG
HÌNH SỰ 2015 VỀ VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CON
NGƯỜI TRONG GIAI ĐOẠN KHỞI TỐ VÀ ĐIỀU
TRA
Hà Nội, tháng 4 năm 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan bản đề tài là cơng trình nghiên cứu khoa học độc lập
của nhóm tác giả chúng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong đề tài là trung thực
và có nguồn gốc rõ ràng.
CHỦ NHIỆM ĐỀ TÀI
(ký, ghi rõ họ tên)
MỤC LỤC
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT...................................................................................1
MỞ ĐẦU...................................................................................................................1
CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VỀ BẢO ĐẢM
QUYỀN CON NGƯỜI TRONG GIAI ĐOẠN KHỞI TỐ VÀ ĐIỀU TRA........6
1.1. Khái niệm bảo đảm quyền con người trong giai đoạn khởi tố và điều
tra...........................................................................................................................6
1.1.1. Một số khái niệm liên quan.......................................................................................6
1.1.2. Bảo đảm quyền con người trong giai đoạn khởi tố và điều tra................................8
1.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến bảo đảm quyền con người trong giai đoạn
khởi tố, điều tra.....................................................................................................9
1.2.1. Các yếu tố khách quan ảnh hưởng đến bảo đảm quyền con người trong giai đoạn
khởi tố, điều tra...................................................................................................................9
1.2.2. Các yếu tố chủ quan ảnh hưởng đến bảo đảm quyền con người trong giai đoạn
khởi tố, điều tra.................................................................................................................12
1.3. Kinh nghiệm của một số quốc gia trên TG về bảo đảm quyền con
người trong giai đoạn khởi tố, điều tra.............................................................15
1.3.1. Kinh nghiệm bảo đảm quyền con người trong giai đoạn khởi tố, điều tra của Mỹ 15
1.3.2. Kinh nghiệm về bảo đảm quyền con người trong giai đoạn khởi tố, điều tra của
Trung Quốc.......................................................................................................................16
1.3.3. Kinh nghiệm về bảo đảm quyền con người trong giai đoạn khởi tố, điều tra của
Cộng Hòa Liên Bang Đức................................................................................................18
CHƯƠNG II: PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VỀ BẢM ĐẢM
QUYỀN CON NGƯỜI TRONG GIAI ĐOẠN KHỞI TỐ VÀ ĐIỀU TRA......20
2.1. Khái quát quá trình hình thành và phát triển pháp luật về đảm bảo
quyền con người trong giai đoạn khởi tố và điều tra......................................20
2.1.1. Giai đoạn trước khi BLTTHS năm 1988 ra đời......................................................20
2.1.2. Giai đoạn từ BLTTHS năm 1988 đến trước khi có BLTTHS năm 2003.................22
2.1.3. Giai đoạn từ khi có BLTTHS năm 2003 đến trước khi có BLTTHS 2015..............25
2.1.4. Giai đoạn từ khi có BLTTHS 2015 đến nay............................................................27
2.2. Những quy định của Bộ luật tố tụng hình sự 2015 liên quan đến bảo
đảm quyền con người trong giai đoạn khởi tố, điều tra..................................28
2.2.1. Quy định về nguyên tắc tố tụng làm cơ sở bảo đảm quyền con người trong giai
đoạn khởi tố, điều tra........................................................................................................28
2.2.2. Quy định của BLTTHS 2015 về bảo đảm quyền con người trong giai đoạn khởi tố
..........................................................................................................................................30
2.2.3. Quy định của BLTTHS 2015 về bảo đảm quyền con người trong giai đoạn điều
tra......................................................................................................................................35
2.3. Thực trạng thực hiện quy định về bảo đảm quyền con người trong
giai đoạn khởi tố và điều tra..............................................................................41
2.3.1. Kết quả đạt được.....................................................................................................41
2.3.2. Những hạn chế, vướng mắc....................................................................................44
CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI
TRONG GIAI ĐOẠN KHỞI TỐ VÀ ĐIỀU TRA..............................................46
3.1. Những yêu cầu về bảo đảm quyền con người trong giai đoạn khởi tố,
điều tra vụ án hình sự.........................................................................................46
3.1.1. Bảo đảm quyền con người trong giai đoạn khởi tố và điều tra đáp ứng yêu cầu xây
dựng Nhà nước pháp quyền..............................................................................................46
3.1.2. Bảo đảm quyền con người trong giai đoạn khởi tố và điều tra phải phù hợp các
tiêu chí quốc tế về quyền con người..................................................................................47
3.1.3. Bảo đảm quyền con người trong giai đoạn khởi tố và điều tra phải xuất phát từ
yêu cầu đổi mới, cải cách hoạt động của các cơ quan tư pháp, hoàn thiện hệ thống pháp
luật Việt Nam đáp ứng nhu cầu thực tiễn của xã hội........................................................48
3.1.4. Bảo đảm quyền con người trong giai đoạn khởi tố, điều tra trên cơ sở phát huy vai
trò giám sát tư pháp của các cơ quan...............................................................................49
3.2. Một số giải pháp tăng cường bảo đảm quyền con người trong giai
đoạn khởi tố và điều tra.....................................................................................49
3.2.1. Giải pháp về pháp luật............................................................................................49
3.2.2. Giải pháp khác........................................................................................................53
KẾT LUẬN.............................................................................................................56
TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................................................58
NHẬN XÉT CỦA CÁN BỘ HƯỚNG DẪN KHOA HỌC..................................59
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
TTHS:
BLTTHS:
THTT:
CQTHTT:
CQĐT:
CQCA:
ĐTV:
KSV:
CBĐT:
VKS:
VKSND:
VKSNDTC:
TA:
TAND:
TANDTC:
NTHTT:
NTGTT:
VAHS:
TNHS:
Tố tụng hình sự
Bộ luật Tố tụng hình sự
Tiến hành tố tụng
Cơ quan tiến hành tố tụng
Cơ quan điều tra
Cơ quan Công an
Điều tra viên
Kiểm sát viên
Cán bộ điều tra
Viện kiểm sát
Viện kiểm sát nhân dân
Viện kiểm sát nhân dân tối cao
Tòa án
Tòa án nhân dân
Tòa án nhân dân tối cao
Người tiến hành tố tụng
Người tham gia tố tụng
Vụ án hình sự
Trách nhiệm hình sự
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Nhận thức về quyền con người là thành quả phát triển lâu dài của lịch sử
xã hội loài người, là giá trị tinh thần quý giá nhất của nền văn minh nhân loại.
Khái niệm “quyền con người” ( Human Rights) xuất hiện đầu tiên ở phương Tây
thế kỉ XVII – XVIII.Trong một số tác phẩm của các nhà tư tưởng như J.J
Rousseau, T. Hobbes, J. Locke.v.v… đã đề cập đến vấn đề này. Sau này khái
niệm này đã được cụ thể hóa trong một số văn bản có tính chất pháp lý của một
số quốc gia như: Tuyên ngôn độc lập Mỹ 1776, Tuyên ngôn nhân quyền và dân
quyền ở Pháp năm 1789,…
Quyền con người nói chung, quyền của bị can, bị cáo nói riêng không
những được pháp luật quốc tế thừa nhận mà cịn được cụ thể thơng qua hệ thống
pháp luật của mỗi quốc gia. Quyền con người là vốn quý nhất, là một giá trị
thiêng liêng, nó hiện hữu trong nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó có
tố tụng hình sự. Khơng phổ biến, khơng rộng lớn, khơng diễn ra hàng ngày, hàng
giờ như các lĩnh vực hành chính, kinh tế, mơi trường,… nhưng có thể nói quyền
con người trong tố tụng hình sự lại là quyền dễ bị xâm hại nhất và hậu quả để lại
cũng nghiêm trọng nhát khi nó động chạm đến quyền được sống, quyền tự do và
sinh mệnh chính trị của một cá nhân bằng sức mạnh cưỡng chế của nhà nước.
Ở Việt Nam, vấn đề quyền con người trong tố tụng hình sự luôn được
quan tâm. Từ khi Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là Cộng hòa Xã
hội Chủ nghĩa Việt Nam) ra đời, quyền con người, quyền và lợi ích của cơng dân
đã được bảo đảm cả về mặt pháp lý và trên thực tế. Các quyền đó đã được ghi
nhận, bảo đảm nhất quán, xuyên suốt trong các bản Hiến pháp năm 1946, 1952,
1980, 1992, 2013. Hiến pháp năm 2013 đã dành một chương (Chương II) đã quy
định về “Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của cơng dân”; các quyền
về dân sự, chính trị, kinh tế, xã hội và văn hóa đã được quy định đầy đủ, tương
thích với các cơng ước quốc tế về quyền con người của Liên hợp quốc mà Việt
Nam tham gia.
1
Cụ thể hoá Hiến pháp 2013, Việt Nam đã ban hành Bộ luật Tố tụng hình
sự 2015 – bước phát triển quan trọng trong chính sách hình sự. Theo đó, quyền
con người trong các giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử được sửa đổi,
bổ sung: quy định mở rộng nhiệm vụ, quyền hạn cho các cơ quan tiến hành tố
tụng cũng như quy định về trình tự, thủ tục tố tụng chặt chẽ hơn; bổ sung cho
người bị bắt, bị tạm giữ, bị can, bị cáo một số quyền;…Các quy định của pháp
luật tố tụng trong thời gian qua đã phần nào phát huy được hiệu quả điều chỉnh
trên thực tế. Tuy nhiên, vẫn còn một số hạn chế nhất định, chưa phù hợp về mặt
lý luận cũng như thực tiễn: một số quyền chưa được bảo đảm; các vi phạm pháp
luật khi tiến hành các hoạt động điều tra,…Những hạn chế, vướng mắc đó đặt ra
yêu cầu nghiên cứu các quy định về bảo đảm quyền con người nói chung, bảo
đảm quyền con người trong giai đoạn khởi tố và điều tra nói riêng.
Theo đó, chúng em lựa chọn tìm hiểu đề tài “Tìm hiểu quy định của Bộ
luật Tố tụng hình sự 2015 về việc bảo đảm quyền con người trong giai đoạn
khởi tố và điều tra”. Việc nghiên cứu đề tài là quan trọng và cần thiết, góp phần
nâng cao hiệu quả bảo đảm quyền con người và phù hợp với xu thế hội nhập
quốc tế.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
- Tình hình nghiên cứu trong nước: Ở Việt Nam hiện nay đã có một số
cơng trình nghiên cứu và đã đạt được những thành công nhất định nhưng bảo
đảm quyền con người trong tố tụng hình sự vẫn là một vấn đề được dư luận
quan tâm. Một số cơng trình đã nghiên cứu:
1. Bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự trong điều kiện xây
dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Kỷ yếu Hội thảo quốc tế
Quyền con người trong tố tụng hình sự, VKSNDTC - Ủy ban nhân quyền
Australia, Hà Nội, tháng 3/2010.
2. Bảo đảm quyền của người bị buộc tội trong các văn bản pháp lý quốc tế
về quyền con người, Học viện tư pháp và Viện FES LB Đức, Hội thảo khao học
“Bảo vệ quyền con người trong Tố tụng hình sự”, Hội An, tháng 12/2014.
2
3. TS. Lê Hữu Thể (Chủ nhiệm), Cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn thiện hệ
thống pháp luật về tố tụng hình sự bảo đảm quyền con người, quyền công dân
phù hợp với Hiến pháp, Đề tài khoa học cấp bộ, Viện nghiên cứu lập pháp, Hà
Nội, 2017.
- Tình hình nghiên cứu thế giới: Pháp luật quốc tế có những chuẩn mực
tối thiểu đảm bảo các quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân trong tố tụng hình
sự được áp dụng trong phạm vi tồn cầu khơng kể hệ thống chính trị, trình độ
phát triển kinh tế, xã hội. Hệ thống các chuẩn mực tối thiểu về quyền con người
trong tố tụng hình sự được quy định trong nhiều văn kiện, có thể tìm thấy trong
các các văn kiện quốc tế về quyền con người trong tố tụng hình sự như: Tun
ngơn nhân quyền thế giới năm 1948 (UHDR), Cơng ước quốc tế về các quyền
dân sự, chính trị năm 1966 (ICCPR)… Các quy định trên tạo thành hệ thống các
chuẩn mực tối thiểu về quy tắc ứng xử của cơ quan và nhân viên thực thi pháp
luật cũng như đảm bảo cho bị can, bị cáo có các quyền pháp lý nhất định để bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp, giảm thiểu các nguy cơ xâm hại bất hợp pháp.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục tiêu: Tìm hiểu những vấn đề lý luận về bảo đảm quyền con người, đồng
thời nghiên cứu thực trạng quy định pháp luật về các biện pháp này và thực tiễn
áp dụng các biện pháp này để làm rõ những vấn đề còn bất cập, hạn chế ảnh
hưởng đến quyền con người, từ đó đưa ra những giải pháp nhằm tăng cường bảo
vệ quyền con người trong gia đoạn khởi tố và điều tra.
- Nhiệm vụ nghiên cứu: Để đạt được mục đích nghiên cứu thì nhiệm vụ nghiên
cứu đặt ra là:
+ Tìm hiểu cơ sở lý luận của việc bảo đảm quyền con người nói chung và trong
giai đoạn khởi tố và điều tra nói riêng;
+ Làm rõ quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 về việc bảo đảm quyền con
người trong giai đoạn khởi tố và điều tra; và chỉ ra những vấn đề còn hạn chế
của các quy định liên quan đến việc bảo vệ quyền con người.
+ Xây dựng các giải pháp nhằm tăng cường bảo vệ quyền con người trong giai
đoạn khởi tố và điều tra.
3
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng: Các quy định của BLTTHS 2015 về bảo đảm quyền con người
trong giai đoạn khởi tố và điều tra.
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Nghiên cứu các văn bản pháp luật, tài liệu liên quan đến quyền con người,
kinh nghiệm bảo đảm quyền con người trong hoạt động tố tụng ở một số quốc
gia trên thế giới, đặc biệt là thông qua BLTTHS 2015 về việc bảo đảm quyền
con người trong giai đoạn khởi tố và điều tra.
+ Không gian: Phạm vi cả nước
+ Thời gian: Từ khi BLTTHS 2015 có hiệu lực cho đến nay
5. Phương pháp nghiên cứu
- Đề tài được thực hiện dựa trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa duy vật lịch
sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng mác-xít, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà
nước và pháp luật, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng Nhà nước
pháp quyền.
- Các phương pháp nghiên cứu được sử dụng để thực hiện đề tài là: phương
pháp phân tích; phương pháp nghiên cứu lý thuyết, phương pháp tổng kết thực
tiễn, phương pháp số liệu thống kê,…
6. Giả thuyết nghiên cứu
- Quyền con người trong giai đoạn khởi tố và điều tra đã đáp ứng việc
bảo đảm quyền con người.
7. Kết cấu đề tài
CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VỀ ĐẢM BẢO QUYỀN
CON NGƯỜI TRONG GIAI ĐOẠN KHỞI TỐ VÀ ĐIỀU TRA
1.1. Khái niệm bảo đảm quyền con người trong giai đoạn khởi tố và điều tra.
1.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến bảo đảm quyền con người trong giai đoạn khởi
tố, điều tra.
1.3. Kinh nghiệm của một số quốc gia trên TG về bảo đảm quyền con người
trong giai đoạn khởi tố, điều tra.
4
CHƯƠNG II: PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VỀ BẢM ĐẢM
QUYỀN CON NGƯỜI TRONG GIAI ĐOẠN KHỞI TỐ VÀ ĐIỀU TRA
2.1. Khái quát quá trình hình thành và phát triển pháp luật về đảm bảo quyền
con người trong giai đoạn khởi tố và điều tra.
2.2. Những quy định của Bộ luật tố tụng hình sự 2015 liên quan đến bảo đảm
quyền con người trong giai đoạn khởi tố, điều tra.
2.3. Thực trạng thực hiện quy định về bảo đảm quyền con người trong giai đoạn
khởi tố và điều tra.
CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI
TRONG GIAI ĐOẠN KHỞI TỐ VÀ ĐIỀU TRA
3.1. Những yêu cầu về bảo đảm quyền con người trong giai đoạn khởi tố, điều
tra vụ án hình sự.
3.2. Một số giải pháp tăng cường bảo đảm quyền con người trong giai đoạn khởi
tố và điều tra.
5
CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VỀ BẢO ĐẢM
QUYỀN CON NGƯỜI TRONG GIAI ĐOẠN KHỞI TỐ VÀ ĐIỀU TRA
1.1. Khái niệm bảo đảm quyền con người trong giai đoạn khởi tố và điều tra
1.1.1. Một số khái niệm liên quan
1.1.1.1. Quyền con người
Quyền con người theo tiếng Pháp là “droits de l'homme”; tiếng Anh là
“human rights ” hay “The rights of man”; theo nghĩa Hán-Việt gọi là “Nhân
quyền” cũng chính là quyền con người và theo Đại từ điển tiếng Việt thì “Nhân
quyền” hay “Quyền con người” là đồng nghĩa nhau.
Quyền con người là một giá trị nhân loại, đồng thời có tính lịch sử được
hình thành trong cuộc đấu tranh giai cấp và được bổ sung mới qua các thời đại
khác nhau. Quyền con người được có một cách tự nhiên gắn bó mật thiết với con
người- một động vật cao cấp có lý trí, có tình cảm làm cho con người khác với
các loài động vật khác mà nhà nước thành lập với một trong những mục đích,
nhiệm vụ quan trọng bậc nhất là bảo vệ những quyền đó. Bởi lẽ đó mà quyền
con người ln là một trong những mục tiêu của Hiến pháp mỗi quốc gia. Ở Việt
Nam, quyền con người đã được đề cập từ Bộ luật Hồng Đức (Quốc Triều Hình
Luật).
Hiện nay, có nhiều định nghĩa về quyền con người. Quyền con người
không chỉ được nhìn nhận trên quan điểm các quyền tự nhiên (natural rights) mà
nó cịn được nhìn nhận trên quan điểm các quyền pháp lý (legal rights). Tuy
nhiên, định nghĩa của Văn phòng Cao uỷ Liên hợp quốc thường được trích dẫn
bởi các nhà nghiên cứu, theo đó: “quyền con người được hiểu là những đảm bảo
pháp lý toàn cầu có tác dụng bảo vệ các cá nhân và các nhóm chống lại những
hành động hoặc sự bỏ mặc mà làm tổn hại đến nhân phẩm, những sự được phép
và sự tự do cơ bản của con người”.
1.1.1.2. Bảo đảm quyền con người
Theo Từ điển Tiếng Việt, bảo đảm là “làm cho chắc chắn thực hiện được,
giữ gìn được, hoặc có đầy đủ những gì cần thiết”. Ở góc độ ngơn ngữ, bảo đảm
có nghĩa là cơng cụ, điều kiện hay những hoạt động cần thiết có tính bổ sung,
6
giữa gìn cho một hiện tượng hay một việc làm gì đấy để đạt được kết quả mong
đợi. Như vậy, bảo đảm cao hơn bảo vệ.
Quyền con người không chỉ được pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia
ghi nhận mà điều quan trọng là nhà nước phải bảo đảm cho quyền con người
được thực hiện trên thực tế. Khi quyền con người khơng được thực hiện thì việc
ghi nhận quyền con người trong pháp luật mãi mãi chỉ là hình thức.
Bảo đảm quyền con người được hiểu là một hệ thống tiền đề, điều kiện,
công cụ xã hội kinh tế, chính trị, đạo đức, tổ chức, pháp lý nhằm tạo cho cá nhân
những điều kiện bình đẳng với nhau trong việc thực hiện các quyền tự do của
mình. Chủ thể bảo đảm chính ở đây là nhà nước thơng qua thực hiện nghĩa vụ
của mình để cho quyền con người được thực hiện trên thực tế. Bảo đảm quyền
con người có nhiều loại như: bảo đảm pháp lý, bảo đảm kinh tế, bảo đảm chính
trị, bảo đảm xã hội. Trong đó, bảo đảm pháp lý đóng vai trị quan trọng.
1.1.1.3.Khởi tố và điều tra vụ án hình sự
TTHS là quá trình giải quyết vụ án hình sự theo quy định của pháp luật
bao gồm các giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự.
Mỗi giai đoạn thực hiện một nhiệm vụ nhất định nhưng cùng hướng đến mục
đích chung là giải quyết mọi vấn đề của VAHS. Tuy độc lập, nhưng mỗi giai
đoạn vẫn nằm trong mối quan hệ khăng khít với nhau và tạo thành một trình tự
thống nhất; giai đoạn trước là tiền đề cho việc thực hiện nhiệm vụ của giai đoạn
sau, giai đoạn sau kiểm tra giai đoạn trước.
Khởi tố vụ án hình sự
Khởi tố vụ án hình sự là giai đoạn TTHS đầu tiên mà trong đó cơ quan tư
pháp hình sự có thẩm quyền căn cứ vào các quy định của pháp luật TTHS tiến
hành việc xác định có hay khơng các dấu hiệu của tội phạm trong hành vi nguy
hiểm cho xã hội đã được thực hiện, đồng thời ban hành quyết định về việc khởi
tố hoặc không khởi tố VAHS liên quan đến hành vi đó. Do vậy ở giai đoạn tố
tụng vụ án hình sự, các CQTHTT chưa thể kết luận chính xác ngay được về tội
phạm và người thực hiện hành vi phạm tội, mà chỉ tạo các tiền đề pháp luật về
nội dung và pháp luật về hình thức của việc điều tra VAHS.
7
Nói tóm lại, giai đoạn khởi tố VAHS là giai đoạn TTHS đầu tiên, được bắt
đầu từ khi các CQTHTT có thẩm quyền nhận được tố giác, tin báo về tội phạm
và kiến nghị khởi tố của cá nhân, cơ quan, tổ chức và kết thúc khi cơ quan có
thẩm quyền ra một trong hai quyết định: Quyết định khởi tố VAHS hoặc Quyết
định không khởi tố VAHS, nhằm làm cơ sở cho các hoạn động tố tụng tiếp theo
của quá trình giải quyết VAHS.
Điều tra
Điều tra VAHS là giai đoạn TTHS thứ hai mà trong đó cơ quan Điều tra
căn cứ vào các quy định của pháp luật TTHS và dưới sự kiểm sát của VKS tiến
hành các biện pháp cần thiết nhằm thu thập và củng cố các chứng cứ, nghiên
cứu các tình tiết của VAHS, phát hiện nhanh chóng và đầy đủ tội phạm, cũng
như người có lỗi trong việc thực hiện tội phạm tội để truy cứu TNHS, đồng thời
bảo đảm cho việc bồi thường thiệt hại về vật chất do tội phạm gây nên và trên cơ
sở đó quyết định: Đình chỉ điều tra VAHS hoặc là; Chuyển toàn bộ các tài liệu
của vụ án đó cho VKS kèm theo kết luận điều tra và đề nghị truy tố bị can.
Như vậy, giai đoạn điều tra trong VAHS được hiểu là giai đoạn TTHS mà
trong đó các CQĐT và các cơ quan khác được giao một số hoạt động điều tra
được sử dụng các biện pháp do Luật định để thu thập chứng cứ chứng minh tội
phạm, người phạm tội và những vấn đề có liên quan đến việc xác định sự thật
của vụ án.
1.1.2. Bảo đảm quyền con người trong giai đoạn khởi tố và điều tra
Quyền con người trong TTHS là tổng hợp các quyền thuộc nhóm quyền
dân sự, chính trị nhằm mục đích khẳng định việc bảo vệ tính mạng, sức khỏe,
tơn trọng danh dự nhân phẩm của con người trong mọi hồn cảnh cũng như bảo
đảm việc xét xử cơng bằng bởi một TA độc lập khách quan đối với nhiều người
yếu thế (người bị tạm giữ, tạm giam, bị can, bị cáo, người bị kết án và những
người tham gia tố tụng khác) khỏi sự tùy tiện và sự lạm quyền của các cơ quan
và nhân viên nhà nước trong các hoạt động TTHS.
Trong lĩnh vực TTHS luôn tồn tại xung đột giữa lợi ích chung của nhà
nước, của xã hội và quyền, lợi ích hợp pháp của các chủ thể tham gia vào hoạt
8
động TTHS. Theo đó, TTHS của bất kỳ quốc gia nào đều coi vấn đề bảo đảm
quyền con người là vấn đề cơ bản. Bảo đảm quyền con người trong TTHS nói
chung, trong giai đoạn khởi tố và điều tra nói riêng là một dạng bảo đảm pháp
lý. Trong đó:
Chủ thể bảo đảm quyền con người nói chung là Nhà nước. Trong TTHS,
chủ thể bảo đảm trong giai đoạn khởi tố và điều tra là các cơ quan có thẩm
quyền tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng theo quy định
của pháp luật TTHS. Các chủ thể này thông qua các hoạt động, hành vi tố tụng
của mình làm cho quyền con người được hiện thực hoá.
Chủ thể được bảo đảm là những người yếu thế gồm người bị tạm giữ, tạm
giam, bị can, bị cáo, người bị kết án và những người tham gia tố tụng khác mà
không bao gồm người phạm tội đã bị kết án và phải chấp hành hình phạt do TA
tuyên.
Phạm vi về thời gian của bảo đảm diễn ra trong giai đoạn khởi tố và điều
tra.
Đối tượng được bảo đảm là quyền con người của các chủ thể được bảo
đảm. Có thể kể đến một số quyền: quyền bình đẳng trước pháp luật; quyền bất
khả xâm phạm về thân thể, danh dự, nhân phẩm; quyền bào chữa, quyền được
suy đoán vơ tội,…
Từ những phân tích ở trên, có thể đưa ra khái niệm bảo đảm quyền con
người trong giai đoạn khởi tố và điều tra là: Bảo đảm quyền con người trong
giai đoạn khởi tố và điều tra các vụ án hình sự là sự ghi nhận về mặt pháp lý
các quyền con người trong giai đoạn khởi tố, điều tra các VAHS, xác định các
cách thức, biện pháp pháp lý và giám sát thực thi nhằm bảo vệ các quyền con
người.
1.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến bảo đảm quyền con người trong giai đoạn
khởi tố, điều tra.
1.2.1. Các yếu tố khách quan ảnh hưởng đến bảo đảm quyền con người trong
giai đoạn khởi tố, điều tra.
1.2.1.1.Pháp luật
9
Pháp luật là phương tiện chính thức hóa các giá trị xã hội của quyền con
người; các quyền đó được pháp luật hóa và mang tính bắt buộc, được xã hội
thừa nhận, bảo đảm. Nếu khơng có sự thừa nhận của xã hội thơng qua pháp luật
thì quyền tự nhiên vốn có của con người chưa trở thành quyền thực sự. Ngược
lại, quyền con người khi đã được quy định trong pháp luật thì nó sẽ trở thành
quyền pháp định, là ý chí chung của tồn xã hội, được xã hội thừa nhận phục
tùng, được quyền lực Nhà nước tôn trọng bảo vệ. Khi quyền con người được
quy định trong Hiến pháp và pháp luật thì nó sẽ trở thành “tối thượng” có giá trị
bắt buộc đối với tồn xã hội, ngay cả với cơ quan cao nhất của Nhà nước.
Pháp luật là công cụ sắc bén của Nhà nước trong việc thực hiện bảo đảm
quyền con người. Tính sắc bén của pháp luật trong việc thực hiện bảo đảm
quyền con người được thể hiện ở các quy định về quyền con người trong pháp
luật được đảm bảo bằng bộ máy, cách thức tác động quyền lực của Nhà nước,
khi cần thiết thì Nhà nước sử dụng các biện pháp cưỡng chế trên cơ sở tiến hành
các biện pháp giáo dục, thuyết phục bảo đảm cho nội dung quyền con người,
quyền công dân được thực hiện và bảo đảm. Bên cạnh đó, nhờ hệ thống cơ quan
bảo đảm pháp luật mà mọi hành vi vi phạm quyền con người, quyền cơng dân
đều có khả năng bị phát hiện nhanh chóng và xử lý kịp thời.
Pháp luật là tiền đề, nền tảng tạo cơ sở pháp lý để công dân đấu tranh bảo
đảm các quyền và lợi ích hợp pháp của họ. Ở đây pháp luật được xem xét không
chỉ với tư cách là công cụ, phương tiện của Nhà nước mà cịn là cơng cụ, vũ khí
của mọi người trong xã hội để thực hiện, bảo đảm quyền con người. Bởi vì pháp
luật là đại lượng mang giá trị phổ biến, là chuẩn mực của sự cơng bằng, do đó có
thể đo được hành vi của mọi người, kể cả các cơ quan tổ chức, công chức Nhà
nước. Trong TTHS, hệ thống pháp luật TTHS với đầy đủ các quy định ghi nhận
các quyền con người trong TTHS, quy định trách nhiệm của cơ quan có thẩm
quyền tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong việc bảo đảm quyền con
người sẽ tạo hành lang pháp lý thuận lợi để thực thi quyền con người. Bên cạnh
đó, pháp luật về các cơ chế giám sát, pháp luật về xử lý hành vi vi phạm quyền
10
con người sẽ góp phần hỗ trợ cho việc bảo đảm quyền con người trong TTHS
nói chung và trong giai đoạn khởi tố và điều tra nói riêng.
1.2.1.2. Mơ hình tố tụng
TTHS là sự thể hiện cách ứng xử của Nhà nước đối với người bị tình nghi
là phạm tội, quyết định tồn bộ quy trình tố tụng hướng tới sự tạo điều kiện
thuận lợi cho cơ quan tố tụng, người tiến hành tố tụng hay là sự bảo vệ quyền lợi
của công dân.
Trên thế giới đang tồn tại hai hệ tố tụng cơ bản: Tố tụng thẩm vấn và tố
tụng tranh tụng. Tố tụng thẩm vấn là loại tố tụng huy động tối đa sự tham gia
của các cơ quan tố tụng chuyên nghiệp của Nhà nước vào quá trình xác định ra
sự thật của vụ án, phán quyết của Toà dựa trên hồ sơ vụ án kết hợp với việc tiếp
tục thẩm vấn tại phiên toà . Tố tụng tranh tụng là loại hình tố tụng mà trong đó
các bên tham gia vào q trình xác định sự thật vụ án có lợi ích đối lập nhau, địa
vị tố tụng ngang bằng nhau và phán quyết của TA dựa trên cơ sở tranh tụng giữa
các bên tại phiên tồ.
So sánh giữa hai mơ hình, các nhà nghiên cứu đều khẳng định tính ưu việt
của mơ hình tố tụng tranh tụng trong việc bảo đảm quyền con người. Song nếu
xét theo yêu cầu đấu tranh với tội phạm thì mơ hình tố tụng thẩm vấn và mơ
hình tố tụng hỗn hợp được đánh giá cao. Do vậy, việc lựa chọn mơ hình TTHS
cũng ảnh hướng đến việc bảo đảm quyền con người của các chủ thể bởi mỗi mơ
hình TTHS có những ưu điểm và hạn chế nhất định.
1.2.1.3. Cơ chế xử lý hành vi vi phạm
Hành vi vi phạm quyền con người cần phải bị xử lý một cách kịp thời,
nghiêm minh để tạo tính răn đe cho mọi người trong xã hội và giúp người bị
xâm phạm tin tưởng vào sự công bằng, nghiêm minh của pháp luật. Theo đó,
việc hình thành cơ chế xử lý hành vi vi phạm quyền con người có vai trị quan
trọng trong bảo đảm quyền con người nói chung, quyền con người trong giai
đoạn khởi tố và điều tra nói riêng.
Cơ chế xử lý vi phạm quyền con người ở các quốc gia là khác nhau do
trình độ phát triển, văn hóa. Theo đó, các quốc gia có thể tồn tại mơ hình: (i) cơ
11
quan nhân quyền quốc gia; (ii) các thiết chế độc lập trong bộ máy nhà nước có
chức năng xử lý. Hiện nay, ở Việt Nam chưa xây dựng mơ hình cơ quan nhân
quyền quốc gia do việc thiết lập cơ quan nhân quyền quốc gia phải đáp ứng
được một số tiêu chuẩn quốc tế về cơ chế nhân quyền quốc gia, tương thích với
xu hướng quốc tế và khu vực.
Mức độ xử lý có thể là xử lý hành chính, xử lý hình sự, bồi thường. Xử lý
hình sự được áp dụng với những hành vi vi phạm quyền con người nghiêm
trọng. Đối với các hành vi vi phạm ở mức độ nhẹ hơn có thể xem xét xử lý hành
chính, bồi thường. Tuy nhiên, việc xử lý phải tương xứng với tính chất và mức
độ nguy hiểm của hành vi. Có như vậy, việc bảo đảm quyền con người mới phát
huy hiệu quả tối đa.
1.2.2. Các yếu tố chủ quan ảnh hưởng đến bảo đảm quyền con người trong
giai đoạn khởi tố, điều tra.
1.2.2.1. Xét ở góc độ của cơ quan, người tiến hành tố tụng:
CQTHTT là cơ quan nhà nước, thực hiện quyền lực nhà nước trong việc
trong việc giải quyết VAHS để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể
trong xã hội. Các quyết định của cơ quan này có giá trị bắt buộc các chủ thể
khác phải chấp hành.
Trong TTHS, CQTHTT gồm có CQĐT, VKS và TA (Khoản 1 Điều 34
BLTTHS 2015). Khi tiến hành khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, các cơ quan này
có quyền, đồng thời có nghĩa vụ áp dụng mọi biện pháp hợp pháp để xác định sự
thật của vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ, làm rõ những chứng
cứ xác định có tội và chứng cứ xác định vơ tội, những tình tiết tăng nặng và
những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm của bị can, bị cáo. Trách nhiệm chứng
minh trong VAHS thuộc về các CQTHTT. Ngồi ra, trong q trình tiến hành
TTHS, CQĐT, VKS và TA cịn có nhiệm vụ tìm ra những nguyên nhân và điều
kiện phạm tội, yêu cầu các cơ quan, tổ chức hữu quan áp dụng các biện pháp
khắc phục nhằm phát hiện chính xác, nhanh chóng và xử lý cơng minh, kịp thời
mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm, không làm oan người vơ tội, bảo
vệ lợi ích của Nhà nước, xã hội, các quyền và lợi ích hợp pháp của cơng dân.
12
NTHTT là những người thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn trong việc giải
quyết vụ việc hình sự, thi hành án hình sự hoặc kiểm sát việc tuân theo pháp luật
trong TTHS . Những NTHTT được thay mặt các CQTHTT thực hiện việc giải
quyết các vụ việc hình sự và kiểm sát việc tuận theo pháp luật trong thủ tục tố
tụng. Những NTHTT được chủ động thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình
độc lập với các chủ thể khác và chỉ tuân theo pháp luật.
Căn cứ theo khoản Điều 34 BLTTHS 2015, NTHTT gồm có:
a) Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Cán bộ điều
tra;
b) Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát, Kiểm sát viên, Kiểm tra viên;
c) Chánh án, Phó Chánh án Tịa án, Thẩm phán, Hội thẩm, Thư ký Tòa án,
Thẩm tra viên
Hiệu quả của CQTHTT, NTHTT phụ thuộc vào các yếu tố như số lượng,
chất lượng và đạo đức nghề nghiệp. Sự thiếu hụt nhân sự sẽ dẫn đến người tiến
hành tố tụng ở mỗi cơ quan phải đảm nhận công việc quá nhiều, khả năng xảy
ra sai sót tăng. Chất lượng chun mơn nghiệp vụ non kém có thể dẫn đến
những sai sót trong q trình xử lý VAHS, xâm phạm đến quyền con người. Bên
cạnh đó ý thức bảo vệ quyền con người của các chủ thể tiến hành tố tụng cũng
có vai trị quan trọng. Giữ gìn đạo đức tư cách trong sáng, vượt qua các cám dỗ
để hồn thành cơng việc giúp xử lý nghiêm minh đồng thời bảo đảm quyền con
người.
1.2.2.2. Xét ở góc độ của người tham gia tố tụng
- Đối với người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can trong vụ án.
Nội dung bảo vệ quyền con người trong giai đoạn khởi tố, điều tra VAHS
là việc CQTHTT, NTHTT và các chủ thể tố tụng khác thực hiện, tuân thủ các
quy định, trình tự, thủ tục tố tụng do BLTTHS 2015 quy định để bảo vệ các
quyền con người: được bảo đảm về tính mạng, sức khỏe, tơn trọng danh dự nhân
phẩm, quyền sở hữu… đã được “tố tụng hóa” thành các quyền tố tụng của người
bị buộc tội (người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, bị can) và các chủ thể tham gia tố
13
tụng khác (người bị hại, người làm chứng, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan…) theo quy định của BLTTHS 2015.
Người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can trong VAHS bị tạm thời hạn chế
quyền tự do, quyền bất khả xâm phạm thân thể nhưng các quyền tố tụng khác,
trong đó có các quyền con người khơng bị hạn chế, tước đoạt. Pháp luật quy
định cho họ các quyền: được biết lý do mình bị bắt, bị tạm giữ, bị khởi tố; được
thơng báo, giải thích về quyền và nghĩa vụ; đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu
cầu;…Song do hạn chế về nhận thức pháp luật nên việc các chủ thể này không
thể biết và thực hiện tốt nhất quyền của mình.
- Đối với người bị hại
Theo pháp luật của Nhà nước ta quy định việc khởi tố VAHS là quyền và
trách nhiệm của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Việc duy trì trật tự và bảo
vệ công lý là không phụ thuộc vào ý muốn của riêng ai. Tuy nhiên, trong một số
trường hợp nhất định, xuất phát từ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị hại,
pháp luật quy định cho phép người bị hại lựa chọn quyền yêu cầu khởi tố hoặc
không khởi tố vụ án.
Việc khởi tố theo yêu cầu của người bị hại vẫn phải tuân theo những quy
định của BLTTHS 2015 về khởi tố VAHS. Đặc biệt, việc khởi tố VAHS theo yêu
cầu của người bị hại, được quyết định trên cơ sở kết hợp 2 yếu tố: Có dấu hiệu
của tội phạm; Có yêu cầu khởi tố về hình sự. Nếu khơng có dấu hiệu tội phạm
thì dù người bị hại có u cầu khởi tố cũng khơng được khởi tố. Ngược lại, nếu
người bị hại không yêu cầu khởi tố thì dẫu đã xác định có dấu hiệu tội phạm
cũng không được khởi tố.
- Đối với người tham gia tố tụng khác
NTGTT có vai trị nhất định trong việc bảo đảm quyền con người, đặc
biệt là người bào chữa, người đại diện của người chưa thành niên, người phiên
dịch.
Sự tham gia của người bào chữa trong TTHS thúc đẩy việc thực hiện các
quy trình tố tụng được đầy đủ và khách quan hơn. Trình độ chun mơn, khả
năng tranh tụng của người bào chữa ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của bị
14
can. Đối với người đại diện của người chưa thành niên, sự tham gia của họ có
tác động trực tiếp đến quyền lợi của người chưa thành niên. Đối với người phiên
dịch nếu không dịch đúng, đầy đủ ý kiến cũng làm giảm việc bảo đảm quyền
con người.
1.3. Kinh nghiệm của một số quốc gia trên TG về bảo đảm quyền con người
trong giai đoạn khởi tố, điều tra
1.3.1. Kinh nghiệm bảo đảm quyền con người trong giai đoạn khởi tố, điều
tra của Mỹ
Hoa Kỳ có 50 tiểu bang và chính quyền liên bang; do đó có đến 51 mơ
hình TTHS riêng biệt và độc lập. Trong đó, mơ hình TTHS của liên bang Hoa
Kỳ là mơ hình tố tụng tranh tụng. Khơng có BLTTHS riêng, nhưng pháp luật
của liên bang Hoa Kỳ điều chỉnh về TTHS bằng nhiều văn bản: Quy tắc TTHS
Liên bang, Quy tắc tố tụng phúc thẩm liên bang, Quy tắc của tòa án tối cao, Quy
tắc về bằng chứng của liên bang, hàng loạt các đạo luật của liên bang và các
quyết định hợp hiến của Tòa tối cao, Quy tắc nội bộ của cơ quan điều tra (Quy
tắc Miranda).
CQĐT của liên bang Hoa Kỳ gồm: Cục điều tra liên bang (FBI); cơ quan
bài trừ ma túy; Cục quản lý rượu, thuốc lá, vũ khí và chất nổ; Cục Thi hành án;
Cục thực thi luật nhập cư và hải quan; Sở thuế vụ; Các văn phòng của Tổng
thanh tra với trên 37.000 điều tra viên hình sự. Cơng tố viên khơng có vai trị
giám sát đối với FBI nhưng lại có thẩm quyền điều tra rất lớn, là người lập cáo
trạng hình sự (chứ khơng phải điều tra viên). Các cơ quan này và cả cơ quan
cơng tố khơng có quyền bắt giữ nghi can trong giai đoạn điều tra. Việc bắt giữ
này chỉ được thực hiện khi có lệnh phê chuẩn của TA.
- Quyền của người bị tình nghi, bị can, bị cáo
Người bị tình nghi phạm tội khơng có quyền được thơng báo về việc điều
tra hoặc tham gia điều tra; không bị bắt hoặc bị giam giữ; có quyền từ chối đến
văn phòng ĐTV và từ chối chấp nhận cho ĐTV vào nhà hoặc vào văn phịng nếu
khơng có lệnh của tịa; từ chối trả lời các câu hỏi của ĐTV và có thể được triệu
tập ra trình diện trước đại bồi thẩm đoàn. Khi bị bắt giữ, bị can phải được thông
15
báo ngay lập tức, không chậm trễ về lý do bị bắt giữ và tội trạng bị cáo buộc. Họ
được ĐTV dẫn giải "không chậm trễ" tới một vị Thẩm phán để được xét xử
trong một thời gian hợp lý hoặc được thả tự do. Việc "không chậm trễ" được
hiểu là trong vòng chưa đến 6 tiếng kể từ khi bị bắt, bị can được chuyển sang TA
giam giữ. Những người bị bắt giữ hay giam giữ đều có quyền yêu cầu TA thụ lý
đơn yêu cầu xem xét tính hợp pháp của việc giam giữ và yêu cầu được thả tự do
nếu việc giam giữ trái pháp luật. Nạn nhân của việc bắt giữ, giam giữ trái pháp
luật có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại.
Pháp luật TTHS Hoa Kỳ quy định: Một cá nhân chỉ bị bắt giữ khi (1) Có
lệnh bắt giữ do Thẩm phán ban hành khi xét thấy có đủ chứng cứ chính đáng để
kết luận người đó phạm tội; và (2) Cảnh sát có cơ sở chính đáng để cho rằng
người đó đang phạm tội hoặc đã phạm tội. Trong quá trình bị tạm giữ, bất kỳ
phát ngôn nào của bị can được đưa ra như là kết quả của sự tra tấn sẽ không
được sử dụng làm bằng chứng trong bất kỳ quy trình tố tụng nào. Nếu thẩm vấn
bị can đang bị giam giữ, cảnh sát phải thông báo cho bị can biết họ có 03 quyền
quan trọng: quyền được giữ im lặng; quyền được tiếp cận luật sư (trường hợp bị
can khơng đủ khả năng mời luật sư, người đó sẽ được chỉ định luật sư miễn phí)
và bất kỳ điều gì bị can nói ra đều có thể được sử dụng làm bằng chứng chống
lại bị can tại phiên tòa.
Người bị tình nghi, bị can, bị cáo cũng có quyền khiếu kiện đối với các
điều tra viên, công tố viên để đòi bồi thường thiệt hại nếu việc điều tra khơng đủ
chứng cứ. ĐTV hoặc cơng tố viên có thể bị kỷ luật hành chính nếu có cơ sở cho
rằng họ đã không làm đúng chức trách, nhiệm vụ của mình.
1.3.2. Kinh nghiệm về bảo đảm quyền con người trong giai đoạn khởi tố, điều
tra của Trung Quốc
Mơ hình TTHS Trung Quốc về cơ bản là mơ hình tố tụng thẩm vấn. Tuy
nhiên, so với TTHS Việt Nam, TTHS Trung Quốc mang nhiều yếu tố tranh tụng
hơn.
Luật TTHS Trung Quốc quy định có 14 loại người tham gia tố tụng bao
gồm: người bị tình nghi phạm tội (nghi can), người bị tạm giữ, bị can, bị cáo,
16
người bị hại, tư tố viên, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người đại diện theo
pháp luật, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người bào chữa,
người làm chứng, người giám định, người phiên dịch. Các quyền và nghĩa vụ
của người tham gia tố tụng được quy định ở nhiều điều luật khác nhau, theo đó
người bị tình nghi, bị can, bị cáo có quyền: bào chữa hoặc nhờ người khác bào
chữa, được yêu cầu hủy bỏ các biện pháp ngăn chặn, được thông báo kết luận
giám định, quyền yêu cầu giám định bổ sung. Ngồi ra bị cáo cịn có quyền:
được hỏi người làm chứng và người giám định; tranh luận tại phiên tòa; được
đọc biên bản phiên tòa và yêu cầu bổ sung hay sửa chữa biên bản này nếu thấy
có sai sót; kháng cáo bản án, quyết định của tịa án; nói lời sau cùng. Người bị
tình nghi, bị can, bị cáo có nghĩa vụ có mặt theo giấy triệu tập của cơ quan tiến
hành tố tụng.
Bên cạnh việc quy định các quyền của NTGTT thì luật TTHS Trung
Quốc cũng quy định rất rõ trách nhiệm của TAND, VKSND và CQĐT phải bảo
đảm cho NTGTT hưởng các quyền tố tụng theo quy định của pháp .
Quyển bào chữa của người bị tình nghi, bị can, bị cáo và cơ chế bảo
đảm quyển bào chữa của những người này
Theo quy định của pháp luật TTHS Trung Quốc thì người bị tình nghi, bị
cáo có thể tự bào chữa hoặc chọn một hoặc hai người khác làm người bào chữa.
Tuy nhiên, để bảo đảm chất lượng bào chữa cũng như hạn chế có quá nhiều
người tham gia bào chữa cho một bị cáo, luật TTHS Trung Quốc quy định: một
bị cáo không được mời quá hai người làm người bào chừa. Trong các vụ án có
nhiều người phạm tội, một người bào chữa không được bào chữa cho hai bị cáo
trở lên trong cùng một vụ án. Để thực hiện nhiệm vụ bào chữa, người bào chữa
phải thu thập tài liệu, đồ vật chứng minh sự vô tội, giảm nhẹ TNHS hoặc miễn
truy cứu TNHS cho nghi can, bị cáo và phải bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp
của nghi can, bị cáo.
Trong giai đoạn điều tra, CQĐT phải bảo đảm hoạt động bào chữa của
luật sư theo pháp luật. Sau khi tiến hành thẩm vấn lần thứ nhất hoặc từ ngày áp
dụng các biện pháp cưỡng chế theo luật đối với người bị tình nghi phạm tội,
17
CQĐT phải thơng báo cho người bị tình nghi phạm tội biết họ có quyền mời luật
sư để tư vấn pháp luật cho họ. Đối với vụ án có liên quan đến bí mật quốc gia,
nếu người bị tình nghi phạm tội hoặc người thân thích của họ đề nghị cho mời
luật sư, CQĐT cấp huyện trở lên, trong vòng 3 ngày sau khi nhận được đề nghị
phải ra quyết định phê chuẩn hay không phê chuẩn và thông báo cho người bị
tình nghi phạm tội và người thân thích của họ biết. Đối với vụ án không liên
quan đến bí mật quốc gia, Luật sư gặp gỡ người bị tình nghi phạm tội thì khơng
cần thơng qua phê chuẩn; CQĐT khơng được ra quyết định khơng phê chuẩn vì
lý do cần phải giữ bí mật trong q trình điều tra. CQĐT phải bố trí cuộc gặp gỡ
trong vịng 48 giờ sau khi Luật sư đưa ra đề nghị gặp gỡ người bị tình nghi
phạm tội; đối với vụ án đồng phạm lớn và phức tạp như có tổ chức, các vụ án do
các tổ chức xã hội đen thực hiện; tổ chức khủng bố hoặc phạm tội buôn lậu,
phạm tội ma túy, phạm tội tham ô hối lộ v.v... thì trong vịng 05 ngày sau khi
Luật sư đưa ra đề nghị gặp gỡ người bị tình nghi phạm tội, CQĐT phải cho phép
gặp . Tuy nhiên, trong giai đoạn điều tra, vai trò của Luật sư là rất hạn chế trong
việc tư vẩn, kiến nghị hay khiếu nại thay mặt người bị tình nghi. Luật sư chỉ
được khuyên 1 một cách chung chung về vụ án, về quyền của người bị tình nghi
và luật sư cũng khơng thể trợ giúp pháp lý cho người bị tình nghi trong việc
chuẩn bị bào chữa. Trong giai đoạn này, CQĐT có thể có mặt trong bất cứ cuộc
tiếp xúc nào giữa người bị tình nghi với Luật sư.
1.3.3. Kinh nghiệm về bảo đảm quyền con người trong giai đoạn khởi tố, điều
tra của Cộng Hòa Liên Bang Đức.
Cộng hòa Liên bang Đức là nước theo truyền thống pháp luật châu Âu lục
địa. Mơ hình tố tụng là mơ hình tố tụng thẩm vấn. BLTTHS hiện hành của Đức
được xây dựng từ năm 1987 và đã qua nhiều lần sửa đổi, bổ sung. Lần sửa đổi,
bổ sung gần đây nhất là vào tháng 10/2008. Có thể nêu một số điểm đáng chú ý
trong TTHS của Đức như sau:
- Cơ quan cơng tố có chức năng điều tra và truy tố người phạm tội ra
trước Tịa án. Cơ quan cơng tố chỉ huy hoạt động điều tra tội phạm. Khi tham
gia TTHS, Cơ quan cơng tố có thẩm quyền quyết định khởi tố hay không khởi tố
18
vụ án. Cơ quan cơng tố có quyền u cầu các cơ quan nhà nước cung cấp thông
tin về tội phạm, có thể tự mình hoặc thơng qua cơ quan cảnh sát và nhân viên
trong lực lượng cảnh sát tiến hành điều tra. Cơ quan cảnh sát và nhân viên trong
lực lượng cảnh sát có nghĩa vụ phải tuân thủ những yêu cầu hoặc mệnh lệnh của
Cơ quan Công tố (Điều 160 và 161 BLTTHS).
Trong trường hợp cấp bách, để ngăn chặn viêc che giấu dấu vết phạm tội,
cơ quan và nhân viên cảnh sát có nghĩa vụ thực hiện ngay các biện pháp điều tra
tội phạm. Sau đó phải chuyển ngay hồ sơ cho Cơ quan Công tố (Điều 163
BLTTHS).
- BLTTHS Đức cho phép áp dụng biện pháp điều tra bằng cách nghe lén
điện thoại và ghi âm điện thoại nếu có căn cứ nghi ngờ một người đã thực hiện
hoặc có liên quan đến một số loại tội phạm nhất định như tội phản bội tổ quốc,
giết người, cướp tài sản, cưỡng đoạt tài sản, rửa tiền hoặc che giấu tài san do
phạm tội mà có...(Điều 100a BLTTHS).
Việc nghe lén điện hoại chỉ được thực hiện khi được Thẩm phán cho
phép. Trong trường hợp khẩn cấp, Cơ quan cơng tố có thể ra lệnh, lệnh đó sẽ
khơng cịn hiệu lực nếu trong thời hạn 3 ngày Thẩm phán không phê chuẩn. Việc
nghe lén và ghi âm điện thoại được thực hiện 1 lần không quá 3 tháng và có thể
được gia hạn 1 lần khơng q 3 tháng (Điều 100b BLTTHS).
- Một trong những biện pháp điều tra đặc biệt mới được pháp luật tố tụng
Đức quy định là sử dụng điều tra trinh sát. Trinh sát hoạt động bí mật là nhân
viên cảnh sát tiến hành điều tra đã được thay đổi căn cước.
Việc cơ quan cảnh sát sử dụng điều tra trinh sát chỉ được thực hiện khi có
sự đồng ý của Cơ quan Cơng tố. Trong trường hợp cấp bách không thể xin ý
kiến ngay thì có thể tự ý sử dụng biện pháp này nhưng ngay sau khi sử dụng
điều tra trinh sát phải báo cáo xin ý kiến của Cơ quan công tố. Trong thời hạn 3
ngày kể từ khi áp dụng biện pháp này, Cơ quan cơng tố phải có văn bản trả lời
đồng ý hay không đồng ý áp dụng biện pháp này. Nếu khơng đồng ý thì biện
pháp này phải bị chấm dứt (khoản 1 Điều 110b).
19
- Về sự tham gia của Luật sư bào chữa: Bị can, bị cáo có thể mời tối đa là
3 luật sư tham gia bào chữa cho mình ở bất cứ giai đoạn nào của quá trình tố
tụng (Điều 137 BLTTHS).
Ở Đức quan niệm đấu tranh chống tội phạm là nhiệm vụ quan trọng đặc
biệt nên Công tố viên, Thẩm phán được miễn trừ trách nhiệm pháp lý cả trong
trường hợp trong khi thi hành công vụ để xảy ra việc truy tố, xét xử làm oan
người vô tội không phải do lỗi cố ý của họ.
CHƯƠNG II: PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VỀ BẢM ĐẢM
QUYỀN CON NGƯỜI TRONG GIAI ĐOẠN KHỞI TỐ VÀ ĐIỀU TRA
2.1. Khái quát quá trình hình thành và phát triển pháp luật về đảm bảo
quyền con người trong giai đoạn khởi tố và điều tra.
2.1.1. Giai đoạn trước khi BLTTHS năm 1988 ra đời
Từ sau Cách mạng tháng Tám thành công, dưới sự lãnh đạo sáng suốt của
Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nhà nước cơng nơng non trẻ đã tích cực tiến
hành hoạt động lập pháp nói chung và hoạt động lập pháp TTHS nói riêng. Ngay
từ những ngày đầu xây dựng đất nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm xây dựng
các cơ quan chuyên trách như cơ quan Công tố và TA có nhiệm vụ trấn áp bọn
phản cách mạng, trừng trị tội phạm hình sự, bảo vệ các quyền tự do, dân chủ của
nhân dân.
Trong giai đoạn từ năm 1945 - 1959, hoạt động điều tra không chỉ nằm
trong một CQĐT mà còn ở nhiều bộ phận khác: KSV, Kiểm lâm, Hoả xa,
Thương chính và tất cả các viên chức mà pháp luật giao phó nhiệm vụ cho tư
pháp công an đối với những việc phạm pháp riêng cho từng ngành (Điều 3 sắc
lệnh số 131). Toàn bộ hoạt động điều tra trong giai đoạn này đều thuộc quyền
kiểm sốt, điều hành của Cơng tố Viện, mà trực tiếp là Biện lý, Phó Biện lý và
trên hết là Chưởng lý ở Toà thượng thẩm. Quy định này của pháp luật cho thấy
20