Tìm hiểu quy định của pháp LPS về các vấn đề sau đây:
1. Đối tượng áp dụng LPS năm 2004. (Yêu cầu nói rõ có áp dụng LPS đối
với Hộ kinh doanh cá thể, Công ty Nhà nước hoạt động trong lĩnh vực quốc
phòng, an ninh quốc gia, Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài khi các chủ
thể này lâm vào tình trạng phá sản)
2. Chủ thể có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản. (Yêu cầu chỉ ra và
đánh giá những quy định khác biệt về vấn đề này trong LPS 2004 so với LPS
1993)
3. Các giấy tờ mà Chủ nợ, đại diện người lao động, doanh nghiệp mắc nợ
phải nộp kèm theo Đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản và ý nghĩa của từng loại giấy
tờ đó.
4. Nguyên tắc và trình tự thanh toán các khoản nợ của các chủ nợ (phân tích
rõ cả việc thanh toán nợ mới phát sinh, nợ có bảo đảm…)
5. Hãy áp dụng quy định của LPS để thực hiện thanh toán các khoản nợ sau:
(a) Chi phí phá sản 50 triệu đồng.
(b) Ngân hàng Công thương Thanh Xuân 5 tỷ đồng với tài sản thế chấp là trụ sở
công ty (bán đấu giá được 6 tỷ đồng).
(c) Công ty Hoàng Hà 500 triệu, tài sản cầm cố là xe ôtô Mazda được định giá
trong biên bản cầm cố là 500 triệu (bán đấu giá được 400 triệu).
(d) Công ty Hòa Bình 300 triệu tiền phạt vi phạm hợp đồng.
(e) Bưu điện Hà Nội 80 triệu.
(g) Công ty cung cấp nước sạch 20 triệu.
(h) Người lao động trích 10% lương tháng cho công ty vay để hưởng lãi suất,
tổng cộng 500 triệu đồng cả vốn, lãi tính đến thời điểm Tòa án quyết định mở
thủ tục phá sản.
(i) Ông Đào, một cổ đông của công ty đã vay của ông An 500 triệu để mua bổ
sung cổ phần của mình nhằm tăng vốn điều lệ của công ty.
(k) Nợ thuế là 500 triệu.
(l) Tiền phạt do vi phạm các quy định về bảo vệ mọi trường là 200 triệu.
1
(m) Nợ lương người lao động 300 triệu.
(o) Các khoản nợ không có bảo đảm khác là 1 tỷ đồng.
(Được biết: Tổ quản lý, thanh lý tài sản đã tiến hành thu hồi toàn bộ tài
sản của công ty và tổ chức bán đấu giá, tổng cộng thu được 7,45 tỷ đồng (bao
gồm cả giá trị tài sản thế chấp, cầm cố).
BÀI LÀM
1. Đối tượng áp dụng LPS năm 2004.
Điều 2 LPS quy định: Đối tượng áp dụng
1. Luật này áp dụng đối với DN, HTX, liên hiệp hợp tác xã (hợp tác xã, liên hiệp
hợp tác xã gọi chung là hợp tác xã) được thành lập và hoạt động theo quy định
của pháp luật.
2. Chính phủ quy định cụ thể danh mục và việc áp dụng Luật này đối với doanh
nghiệp đặc biệt trực tiếp phục vụ quốc phòng, an ninh; DN, HTX hoạt động
trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng, bảo hiểm và hoạt động trong các lĩnh vực
khác thường xuyên, trực tiếp cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ứng thiết yếu.
Cùng với sự hướng dẫn tại Nghị quyết số 03/2005/NQ-HĐTP ngày
28/4/2005 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành
một số quy định của LPS thì LPS được áp dụng đối với DN, HTX, liên hiệp hợp
tác xã (hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã gọi chung là hợp tác xã) được thành lập
và hoạt động theo quy định của pháp luật Việt Nam; cụ thể là: Công ty nhà nước;
Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên; Công ty trách nhiệm hữu hạn hai
thành viên trở lên; Công ty cổ phần; Công ty hợp danh; Doanh nghiệp tư nhân;
Doanh nghiệp của các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị- xã hội; Hợp tác xã;
Liên hiệp hợp tác xã; Doanh nghiệp liên doanh; Doanh nghiệp 100% vốn đầu tư
nước ngoài; Các loại hình DN, HTX khác theo quy định của pháp luật Việt Nam.
2
Đối với các doanh nghiệp đặc biệt trực tiếp phục vụ quốc phòng an ninh;
DN, HTX thường xuyên, trực tiếp cung ứng sản phẩm dịch vụ công ích thiết yếu
phải được thành lập và đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật, đáp ứng
các tiêu chí và thuộc danh mục quy định tại các Điều 3, 4, 5 Chương II về Xác
định danh mục doanh nghiệp đặc biệt và việc áp dụng LPS đối với doanh nghiệp
đặc biệt của Nghị định số 67/2006/NĐ-CP ngày 11/7/2006 của Chính phủ về
Hướng dẫn việc áp dụng LPS đối với doanh nghiệp đặc biệt và tổ chức, hoạt
động của Tổ quản lý, thanh lý tài sản thì mới là đối tượng áp dụng của LPS
2004.
Đối với các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực bảo hiểm, chứng
khoán và tài chính khác nếu được thành lập và đăng ký kinh doanh theo quy định
của pháp luật và thuộc danh mục tại Điều 2 Nghị định số 114/2008/NĐ-CP ngày
3/11/2008 của Chính phủ về Hướng dẫn chi tiết thi hành một số điều của LPS
đối với doanh nghiệp hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực bảo hiểm, chứng
khoán và tài chính khác thì cũng là đối tượng áp dụng của LPS.
Đối với các tổ chức tín dụng cũng là đối tượng áp dụng của LPS 2004.
Theo khoản 3 Điều 2 Nghị định số 05/2010/NĐ-CP ngày 18/01/2010 của Chính
phủ về Quy định việc áp dụng LPS đối với các tổ chức tín dụng có chỉ rõ:
“Trường hợp nghị định này không có quy định thì những nội dung liên quan đến
thủ tục phá sản tổ chức tín dụng sẽ được áp dụng theo LPS và các văn bản
hướng dẫn thi hành LPS”.
Đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (bao gồm doanh
nghiệp do nhà đầu tư nước ngoài thành lập để thực hiện hoạt động đầu tư tại Việt
Nam; doanh nghiệp Việt Nam do nhà đầu tư nước ngoài mua cổ phần, sáp nhập,
mua lại - khoản 6 Điều 4 Luật đầu tư 2005) cũng là đối tượng áp dụng của LPS
theo điểm k, l mục 1.1 Nghị quyết 03/2005/NQ-HĐTP ngày 28/4/2005 của Hội
3
đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định
của LPS.
Đối với Hộ kinh doanh cá thể là tên gọi để chỉ những cá nhân kinh doanh
hoặc hộ gia đình kinh doanh không dưới danh nghĩa một doanh nghiệp. Điều 49
Nghị định số 43/2010/NĐ-CP ngày 15/4/2010 về Đăng ký doanh nghiệp quy
định: “Hộ kinh doanh
1. Hộ kinh doanh do một cá nhân là công dân Việt Nam hoặc một nhóm
người hoặc một hộ gia đình làm chủ, chỉ được đăng ký kinh doanh tại một địa
điểm, sử dụng không quá mười lao động, không có con dấu và chịu trách nhiệm
bằng toàn bộ tài sản của mình đối với hoạt động kinh doanh.
2. Hộ gia đình sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp, làm muối và những người
bán hàng rong, quà vặt, buôn chuyến, kinh doanh lưu động, làm dịch vụ có thu
nhập thấp không phải đăng ký, trừ trường hợp kinh doanh các ngành, nghề có
điều kiện. Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quy định mức
thu nhập thấp áp dụng trên phạm vi địa phương.
3. Hộ kinh doanh có sử dụng thường xuyên hơn mười lao động phải
chuyển đổi sang hoạt động theo hình thức doanh nghiệp.”
Theo quy định LPS, phá sản là khái niệm dùng để chỉ DN, HTX lâm vào
tình trạng phá sản với dấu hiệu đặc trưng nhất là không có khả năng thanh toán
nợ khi đến hạn; tại điều 2 LPS 2004 về đối tượng áp dụng của luật này không nói
đến hộ kinh doanh. Hộ kinh doanh kinh doanh với tư cách cá nhân chứ không
phải tư cách doanh nghiệp. Như vậy, LPS không được áp dụng cho các hộ kinh
doanh dù họ có đăng ký kinh doanh.
2. Chủ thể có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản
Kế thừa nội dung quy định của Luật PSDN 1993, LPS 2004 vẫn tiếp tục
dành cho các chủ nợ không có bảo đảm, chủ nợ có bảo đảm một phần và người
lao động được quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản còn chủ doanh nghiệp
4
hoặc đại người đại diện hợp pháp của DN, HTX lâm vào tình trạng phá sản có
nghĩa vụ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản. Ngoài ra, LPS 2004 còn bổ sung
quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản của chủ sở hữu doanh nghiệp nhà
nước, các cổ đông công ty cổ phần và thành viên hợp danh của công ty hợp
danh.
* Quyền yêu cầu nộp đơn mở thủ tục phá sản của các chủ nợ.
Luật PS DN năm 1993 và Luật PS 2004 chỉ dành quyền nộp đơn yêu cầu
mở thủ tục phá sản cho các chủ nợ cho các chủ nợ không có bảo đảm (khoản nợ
không được bảo đảm bằng tài sản của DN, HTX hoặc của người thứ ba) và chủ
nợ có bảo đảm một phần (khoản nợ được đảm bảo bằng tài sản của DN, HTX
hoặc người thứ ba mà giá trị tài sản bảo đảm ít hơn khoản nợ đó) mà không cho
phép chủ nợ có bảo đảm (khoản nợ được bảo đảm bằng tài sản của DN, HTX
hoặc của người thứ ba) nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản (đọc Điều 7 Luật
PSDN 1993; Điều 6 và Điều 13 Luật PS 2004). Quy định này là tạo điều kiện
cho các chủ nợ không có sự bảo đảm và chủ nợ có bảo đảm một phần có cơ hội
lựa chọn một thủ tục thích hợp nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình
khi doanh nghiệp, HTX lâm vào tình trạng phá sản. Còn đối với các chủ nợ có
bảo đảm thì luôn được ưu tiên thanh toán bằng tài sản bảo đảm của doanh
nghiệp, HTX hoặc người thứ ba nên việc quy định quyền nộp đơn yêu cầu mở
thủ tục phá sản là không cần thiết.
Đồng thời LPS 2004 cũng loại bỏ quy định về nghĩa vụ của các chủ nợ khi
nộp đơn yêu cầu mở TTPS phải cung cấp các giấy tờ, tài liệu chứng minh doanh
nghiệp mất khả năng thanh toán nợ đến hạn. Họ chỉ cần chứng minh chủ nợ đã
đòi nợ nhưng không được doanh nghiệp mắc nợ thanh toán nợ đến hạn bằng việc
gửi giấy đòi nợ sau 60 ngày kể từ ngày cuối cùng đăng báo về quyết định của TA
mởi thủ tục phá sản đến TA cùng tài liệu chứng minh về các khoản nợ đó. Tuy
5
nhiên, nếu chủ nợ không thực hiện quyền đòi nợ thì được coi là từ bỏ quyền đòi
nợ.(Điều 51)
Tuy vậy để tránh tình trạng nộp đơn do không khách quan gây ảnh hưởng
đến danh dự, uy tín, hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, HTX hoặc có sự
gian dối trong việc yêu cầu mở thủ tục phá sản thì người nộp đơn yêu cầu tùy
mức độ sẽ bị xử lí kỉ luật, xử phạt hành chính hoặc bị truy cứu TNHS nếu gây
thiệt hại phải bồi thường theo quy định của pháp luật. Quy định này nhằm mục
đích đề cao trách nhiệm khi người nộp đơn được mở rộng khả năng và điều kiện
nộp đơn yêu cầu theo Luật PS 2004 (Điều 19)
* Quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản của người lao động.
Theo Luật PS DN 1993 thì người lao động cũng có quyền đệ đơn yêu cầu
TA giải quyết tuyên bố phá sản với tư cách là chủ nợ không có bảo đảm. Điều 8
Luật PS DN 1993 cho phép đại diện người lao động nơi chưa có tổ chức Công
đoàn hoặc đại diện công đoàn có quyền đệ đơn yêu cầu TA giải quyết nếu doanh
nghiệp mắc nợ không thể trả được lương cho người lao động trong 3 tháng liên
tiếp. Khác với các chủ nợ khác người lao động không phải nộp tiền tạm ứng lệ
phí.
Theo quy định tại Điều 13 của Luật PS 2004 thì cho phép người lao động
được quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản trong trường hợp doanh nghiệp,
HTX không trả được lương, các khoản nợ khác cho người lao động và nhận thấy
DN, HTX lâm vào tình trạng phá sản mà không cần điều kiện “không trả được
lương cho người lao động trong vòng 3 tháng liên tiếp” như quy định tại Luật
PS DN 1993. Những quy định trên, nhằm tạo điều kiện, thúc đẩy việc làm đơn
yêu cầu giải quyết phá sản, góp phần chấm dứt tình trạng có doanh nghiệp thực
chất đã không thể hoạt động trên thực tế nhưng vẫn tồn tại về mặt pháp lý.
Tuy nhiên để tránh sự tùy tiện trong việc nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá
sản, người lao động phải cử đại diện hoặc thông qua đại diện công đoàn nộp đơn
6
yêu cầu mở thủ tục phá sản với DN, HTX đó. Việc cử đại diện cho người lao
động phải phải được quá nửa số người lao động trong DN, HTX tán thành bằng
bỏ phiếu kín hoặc lấy chữ kí, trường hợp DN, HTX có quy mô lớn, có nhiều đơn
vị trực thuộc thì đại diện cho người lao động được cử hợp pháp phải được quá
nửa số người được cử đại diện từ các đơn vị trực thuộc tán thành (Điều 14 Luật
PS 2004). Nội dung pháp lý này chưa được quy định cụ thể trong Luật PS DN
1993 gây khó khăn trong thực tiễn áp dụng.
* Nghĩa vụ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản của DN, HTX lâm vào tình
trạng phá sản.
Theo quy định tại Điều 9 Luật PS DN 1993 thì trong trường hợp đã thực
hiện các biện pháp khắc phục khó khăn về tài chính để thanh toán các khoản nợ
đến hạn, kể cả hoãn nợ mà DN vẫn không thoát khỏi tình trạng mất khả năng
thanh toán các khoản nợ đến hạn thì chủ DN hoặc đại diện hợp pháp của DN
phải nộp đơn yêu cầu đến TA nơi đặt trụ sở chính để yêu cầu giải quyết việc
tuyên bố phá sản DN. Theo Luật PS 2004 thì khi nhận thấy DN, HTX lâm vào
tình trạng PS thì chủ DN hoặc đại diện hợp pháp của chủ DN, HTX có nghĩa vụ
nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản đối với DN, HTX đó.
* Quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản của chủ sở hữu DN Nhà nước,
các cổ đông công ty cổ phần, thành viên hợp danh.
Luật đã quy định rõ, đầy đủ và hợp lý hơn, mở rộng quyền nộp đơn yêu
cầu mở thủ tục PS. Ngoài những chủ thể có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục
PS như quy định của LPSDN 1993 thì LPS 2004 bổ sung một số đối tượng khác
cũng có quyền này: chủ sở hữu doanh nghiệp nhà nước (để đảm bảo quyền lợi
của chủ sở hữu), cổ đông công ty cổ phần và thành viên hợp danh trong công ty
hợp danh (để phù hợp với quy định về quyền của các cổ đông và quyền của
thành viên hợp danh theo quy định của Luật Doanh nghiệp). Quy định này là
điểm mới của Luật PS 2004 so với Luật PS DN 1993. Điều này xuất phát từ thực
7
tiễn áp dụng Luật PS DN 1993 cho thấy không ít những DN đã lâm vào tình
trạng phá sản nhưng các chủ nợ và đại diện công đoàn hay đại diện người lao
động (nơi chưa có tổ chức công đoàn) không nộp đơn yêu cầu và bản thân DN
mắc nợ không đưa đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản, nên TA không có cơ sở tiến
hành thủ tục phá sản đối với những DN đó. Hệ quả là nhiều DN mất khả năng
thanh toán nợ, tình trạng tài chính kiệt quệ, đã ngừng hoạt động kinh doanh hoặc
hoạt động cầm chừng, thoi thóp nhưng không có con đường kết thúc DN về mặt
pháp lí.
- Đại diện chủ sở hữu DN Nhà nước có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục
phá sản đối với DN Nhà nước khi thấy DN đó lâm vào tình trạng phá sản mà DN
không thực hiện nghĩa vụ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản (Điều 16).
- Cổ đông của công ty cổ phần có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá
sản khi nhận thấy công ty cổ phần lâm vào tình trạng phá sản theo Điều lệ công
ty hoặc Nghị quyết của Đại hội cổ đông (Điều 17).
- Thành viên hợp danh khi nhận thấy công ty hợp danh lâm vào tình trạng
phá sản có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản đối với công ty hợp danh
đó (Điều 18).
Thực tiễn cho thấy bên cạnh tâm lí e ngại nộp đơn hoặc có trường hợp vì
không biết DN đã lâm vào tình trạng phá sản hay DN che dấu để khắc phục tình
trạng này Điều 20 LPS 2004 quy định: “trong khi thực hiện chức năng, nhiệm
vụ, nếu nhận thấy DN, HTX lâm vào tình trạng phá sản thì Tòa án, Viện kiểm
sát, cơ quan thanh tra, cơ quan quản lí vốn, tổ chức kiểm toán hoặc cơ quan
quyết định thành lập doanh nghiệp mà không phải là chủ sở hữu nhà nước của
doanh nghiệp có nhiệm vụ thông báo bằng văn bản cho những người có quyền
nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản biết để họ xem xét việc nộp đơn yêu cầu mở
thủ tục phá sản”.
3. Giấy tờ kèm theo đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản và ý nghĩa của chúng
8
Điều 19 LPS 2004 về nghĩa vụ, trách nhiệm của người nộp đơn yêu cầu
mở thủ tục phá sản: “Người nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản quy định tại
điều 13, 14, 15, 16, 17 và 18 của luật này có nghĩa vụ cung cấp đầy đủ, kịp thời
các tài liệu do pháp luật quy định và theo yêu cầu của Tòa án trong quá trình
tiến hành thủ tục phá sản.”
Luật PSDN 1993 quy định: Đối với chủ nợ kèm theo đơn yêu cầu phải có
bản sao giấy đòi nợ, các giấy tờ, tài liệu chứng minh doanh nghiệp mất khả năng
thanh toán khoản nợ đến hạn.
Đối với đại diện công đoàn hoặc đại diện người lao động có quyền nộp
đơn khi doanh nghiệp không trả được lương cho người lao động ba tháng liên
tiếp. Đối với đối tượng này thì không cần phải nộp giấy tờ, tài liệu.
Đến LPS 2004, Điều 13 quy định về Quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục
phá sản của chủ nợ. Trong điều luật này, các nhà làm luật không còn quy định về
những giấy tờ kèm theo khi chủ nợ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản. Nhưng
đã bổ sung vào trong đơn yêu cầu điểm mới đó là “Quá trình đòi nợ”. Như vậy
nghĩa là ngay trong đơn yêu cầu của mình thì chủ nợ đã phải có quá trình đòi nợ
(Gồm văn bản đòi nợ và tài liệu chứng minh về các khoản nợ đó; văn bản khất
nợ của DN, HTX…), còn các tài liệu giấy tờ chứng minh doanh nghiệp mất khả
năng thanh toán nợ đến hạn là nghĩa vụ mà doanh nghiệp phải chứng minh khi
doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản. Điều 14 LPS 2004 quy định về Quyền
nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản của người lao động cũng đã bổ sung thêm
vào trong đơn yêu cầu điểm mới đó là “Số tháng nợ tiền lương, tổng số tiền
lương và các khoản nợ khác mà DN, HTX không trả được cho người lao động”.
Đây sẽ là cơ sở để chứng minh người lao động đang bị nợ bao nhiêu, từ thời gian
nào Như vậy trong LPS 2004 đã quy định những giấy tờ cần thiết mà chủ nợ
và người lao động (những người có quyền nộp đơn) cần phải có ngay trong đơn
9
yêu cầu mở thủ tục phá sản. Do đó, trong điều luật không quy định loại giấy tờ
kèm theo đơn.
Theo Điều 15 LPS 2004 thì đối với DN, HTX lâm vào tình trạng phá sản
thì kèm theo đơn cần có những loại giấy tờ sau:
- Báo cáo tình hình hoạt động kinh doanh của DN, HTX, trong đó giải trình
nguyên nhân và hoàn cảnh liên quan đến tình trạng mất khả năng thanh toán; nếu
doanh nghiệp là công ty cổ phần mà pháp luật yêu cầu phải được kiểm toán thì
báo cáo tài chính phải được tổ chức kiểm toán độc lập xác nhận;
Báo cáo này giúp cho cơ quan giải quyết PSDN có căn cứ để tiến hành thủ
tục phá sản. Tránh tình trạng vì lý do nào đó mà DN, HTX tuyên bố phá sản để
trốn tránh nghĩa vụ của tổ chức mình. Vấn đề phá sản chỉ được đặt ra khi các
doanh nghiệp không còn đủ khả năng thanh toán nợ đến hạn khi chủ nợ có yêu
cầu. Đồng thời báo cáo về tình hình hoạt động kinh doanh, hoành cảnh nguyên
nhân dẫn đến phá sản giúp cơ quan có thẩm quyền có thể nhìn rõ được quá trình
hoạt động, kinh doanh của doanh nghiệp. Từ đó nhìn ra được nguyên nhân
chính, nguyên nhân khách quan dẫn đến tình trạng này.
- Báo cáo về các biện pháp mà DN, HTX đã thực hiện, nhưng vẫn không
khắc phục được tình trạng mất khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn.
Cơ quan nhà nước có thẩm quyền dựa vào báo cáo này để biết được những
biện pháp cụ thể mà doanh nghiệp đã áp dụng. Từ đó, áp dụng biện pháp cần
thiết phục hồi khả năng thanh toán và hoạt động kinh doanh (Điều 8 Nghị định
67/2006/NĐ-CP Hướng dẫn việc áp dụng LPS đối với doanh nghiệp đặc biệt và
tổ chức, hoạt động của Tổ quản lý, thanh lý tài sản) nếu thấy đó là doanh nghiệp
đặc biệt. Phải đảm bảo rằng nhưng biện pháp áp dụng này sẽ không trùng với
những biện pháp mà doanh nghiệp đã áp dụng.
- Bảng kê chi tiết tài sản của DN, HTX và địa điểm nơi có tài sản nhìn thấy
được.
10
Bảng kê chi tiết giúp cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền tiến hành việc
kiểm tra, đấu giá, tính tổng giá trị tài sản mà công ty còn lại sau khi phá sản đc
dễ dàng hơn.
- Danh sách các chủ nợ của DN, HTX trong đó ghi rõ tên, địa chỉ của các chủ
nợ, ngân hàng mà họ có tài khoản; các khoản nợ đến hạn có bảo đảm và không
có bảo đảm; các khoản nợ chưa đến hạn có bảo đảm và không có bảo đảm.
Danh sách này có vai trò khi Tổ quan lí, thanh lí tài sản tiến hành “lập
danh sách chủ nợ” (Điều 26 Nghị định 67/2006/NĐ-CP Hướng dẫn việc áp dụng
LPS đối với doanh nghiệp đặc biệt và tổ chức, hoạt động của Tổ quản lý, thanh
lý tài sản). Kiểm tra tính chính xác của mỗi chủ nợ xem đó là chủ nợ có đảm bảo
hay không có đảm bảo, bởi chủ nợ có đảm bảo thì luôn được pháp luật ưu tiên
khi tài sản còn lại của công ty không đủ khả năng trả hết nợ. Khi đó, chủ nợ có
đảm bảo luôn được ưu tiên thanh toán trước. Còn các chủ nợ không có đảm bảo
nếu tài sản của DN, HTX không đủ để thanh toán sẽ chỉ được chia theo tỉ lệ
tương ứng.
- Danh sách những người mắc nợ của doanh nghiệp, hợp tác xã trong đó ghi
rõ tên, địa chỉ của họ; ngân hàng mà họ có tài khoản; các khoản nợ đến hạn có
bảo đảm và không có bảo đảm; các khoản nợ chưa đến hạn có bảo đảm và không
có bảo đảm.
Danh sách này có ý nghĩa quan trọng trong việc giải quyết thanh lý tài sản
của doanh nghiệp. Nếu xác định được danh sách những người mắc nợ doanh
nghiệp, hợp tác xã sẽ chứng minh được nguyên nhân khách quan dẫn đến tình
trạng phá sản: chưa thu hồi được nợ đã cho vay. Hiện trạng số nợ đã cho vay và
đã thu hồi được. Việc xác nhận này giúp cơ quan có thẩm quyền có cơ sở chắc
chắn trong việc tiến hành thủ tục phá sản. Bởi việc giải quyết phá sản cho doanh
nghiệp là biện pháp cuối cùng sau những cố gắng để khôi phục và giúp doanh
nghiệp tồn tại.
11
- Danh sách ghi rõ họ tên, địa chỉ của các thành viên, nếu doanh nghiệp
mắc nợ là một công ty có các thành viên liên đới chịu trách nhiệm về những
khoản nợ của doanh nghiệp;
Danh sách này khiến cho những thành viên liên đới phải chịu trách nhiệm
về tài sản, không có khả năng trốn tránh trách nhiệm của mình như đã cam kết
khi thành lập doanh nghiệp. Đảm bảo được quyền lợi của những chủ nợ của
doanh nghiệp.
- Những tài liệu khác mà Tòa án yêu cầu DN, HTX phải cung cấp theo quy
định của pháp luật.
Những loại giấy tờ này được áp dụng cho người nộp đơn là DN, HTX lâm
vào tình trạng phá sản, người nộp đơn là chủ sở hữu doanh nghiệp nhà nước,
người nộp đơn là thành viên công ty hợp danh.Tuy nhiên đối với người nộp đơn
là các cổ đông công ty cổ phần thì không yêu cầu các loại giấy tờ được quy định
tại điểm d, đ, e tại điều 15 Luật Phá sản 2004.
4. Nguyên tắc và trình tự thanh toán nợ
Theo quy định tại điều 35, 36, 37 Luật PS 2004 trình tự thanh toán các
khoản nợ như sau:
- Trước khi có quyết định của thẩm phán tiến hành thanh lý tài sản của DN,
HTX :
+ Ưu tiên thanh toán các khoản nợ có bảo đảm bằng thế chấp, cầm cố
được. Đối với các chủ nợ có bảo đảm nếu giá trị của tài sản bảo đảm lớn hơn
khoản nợ, sau khi nhận được tài sản chủ nợ này phải hoàn lại phần chênh lệch,
phần đó sẽ được nhập vào giá trị tài sản của DN, HTX sắp phá sản để phân chia
quy định tại Điều 35 LPS 2004. Đối với các chủ nợ được bảo đảm một phần,
phần còn thiếu sẽ được tiếp tục thanh toán khi thanh lý tài sản doanh nghiệp và
được xử lý như chủ nợ có bảo đảm nhưng quyền ưu tiên đã bị hủy bỏ theo quy
12
định tại khoản 2 Điều 33 LPS 2004. Phần còn thiếu sẽ được trả cùng với các
khoản nợ không có bảo đảm.
+ Hoàn trả lại tài sản cho Nhà nước quy định tại Điều 36: ”Doanh nghiệp
đã được Nhà nước áp dụng biện pháp đặc biệt về tài sản để phục hổi hoạt động
kinh doanh, nhưng vẫn không phục hồi được mà phải áp dụng thủ tục thanh lý
thì phải hoàn trả lại giá trị tài sản đã được áp dụng biện pháp đặc biệt cho Nhà
nước trước khi thực hiện việc phân chia tài sản theo quy định tại Điều 37 của
Luật này”.
Nghị quyết số 03/2005/NQ-HĐTP ngày 28/4/2005 của Hội đồng Thẩm
phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định của LPS đã
giải thích rõ về vấn đề này như sau: Doanh nghiệp đã được Nhà nước áp dụng
biện pháp đặc biệt về tài sản (đầu tư vốn, máy móc, trang thiết bị, điều hoà nợ )
nhằm phục hồi hoạt động kinh doanh, nhưng vẫn không phục hồi được, mà phải
áp dụng thủ tục thanh lý, thì trước khi thực hiện phân chia tài sản theo quy định
tại Điều 37 của LPS, Toà án phải quyết định hoàn trả giá trị tài sản đã được áp
dụng biện pháp đặc biệt cho Nhà nước như sau:
+ Nếu áp dụng biện pháp đặc biệt về tài sản là tiền, thì Toà án phải quyết
định hoàn trả đúng số tiền được Nhà nước đầu tư mà không tính lãi.
+ Nếu khi áp dụng biện pháp đặc biệt về tài sản là động sản, bất động sản
mà không phải là tiền (quyền sử dụng đất, nhà xưởng, máy móc, thiết bị, ), thì
Toà án phải quyết định hoàn trả cho Nhà nước giá trị tài sản đó theo giá tại thời
điểm áp dụng biện pháp đặc biệt, trừ trường hợp Nhà nước có quy định khác
hoặc giữa Nhà nước và doanh nghiệp, hợp tác xã có thoả thuận khác về việc
hoàn trả này.
- Sau khi thực hiện trả các khoản nợ trên, khi thẩm phán ra quyết định mở
thủ tục thanh lý tài sản. Thứ tự thanh toán theo Điều 37 luật phá sản 2004 :
+ Phí phá sản
13
+ Các khoản nợ lương, trợ cấp thôi việc, bảo hiểm xã hội theo quy định
của pháp luật hoặc theo các thỏa ước lao động tập thể và hợp đồng lao động đã
ký kết (quy định chi tiết tại nghị định số 94/2005/NĐ-CP ngày 15-7-2005 về giải
quyết quyền lợi của người lao động ở doanh nghiệp và hợp tác xã bị phá sản).
Khi đó, người lao động tham gia với tư cách một chủ nợ theo quy định tại khoản
2 Điều 62 Luật PS 2004: “Đại diện cho người lao động, đại diện công đoàn
được người lao động ủy quyền. Trong trường hợp này đại diện cho người lao
động, đại diện công đoàn có quyền, nghĩa vụ như chủ nợ”.
+ Cuối cùng là các chủ nợ không có bảo đảm, bảo đảm một phần chưa
được thanh toán đầy đủ , mỗi người sẽ được thanh toán đầy đủ phần nợ của mình
nếu tài sản của DN, HTX bị phá sản còn lại đủ để thanh toán, mỗi chủ nợ chỉ
nhận được một phần khoản nợ theo tỷ lệ tương ứng nếu tài sản của DN, HTX
không đủ để thanh toán hết các khoản nợ này.
Những trường hợp xử lý như chủ nợ không có bảo đảm
- Nợ mới phát sinh trong trường hợp thanh toán, bồi thường thiệt hại khi
hợp đồng bị đình chỉ thực hiện trong quá trình tiến hành thủ tục PS đối với DN,
HTX bị lâm vào tình trạng PS thì bên kia của hợp đồng có quyền đòi lại và chủ
nợ được xử lý như với chủ nợ không có bảo đảm (Điều 45 và 47 LPS 2004).
- Trường hợp đình chỉ thi hành án dân sự hoặc giải quyết vụ án tại khoản 1
Điều 57 LPS 2004 thì người được thi hành án có thể trở thành chủ nợ không có
bảo đảm hoặc có bảo đảm nếu có bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực
pháp luật kê biên tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã để bảo đảm thi hành án
nếu nộp đơn yêu cầu được thanh toán đến Tòa án và trường hợp giải quyết vụ án
bị đình chỉ trong thủ tục PS theo Điều 58 LPS 2004 thì người được DN, HTX
thực hiện nghĩa vụ về tài sản có quyền yêu cầu được thanh toán với tư cách là
một chủ nợ không có bảo đảm.
14
- CV của BTC số 7050/BTC-TCT ngày08/06/2006 - Quyết toán thuế đối
với DN, HTX phá sản có đoạn: ”Đối với các doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào
tình trạng phá sản còn nợ tiền thuế thì cơ quan trực tiếp quản lý thu thuế được
xác định là người đại diện cho Nhà nước tham gia vào thủ tục phá sản với vai
trò là chủ nợ đối với các khoản nợ tiền thuế, tiền phạt mà doanh nghiệp, hợp tác
xã còn thiếu của Ngân sách Nhà nước”. Theo đó, việc nợ thuế sẽ được giải
quyết như chủ nợ không có bảo đảm.
Ngoài ra cũng cần lưu ý, nghĩa vụ trả nợ của doanh nghiệp và hợp tác xã
khi thanh lý tài sản chỉ bao gồm các khoản nợ xác lập trước khi Tòa án thụ lý
đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản quy định tại Điều 33. Như vậy, các khoản nợ
phát sinh sau khi tòa thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản sẽ không được thanh
toán khi thanh lý tài sản.
Qua đó, có thể rút ra những nguyên tắc thanh toán nợ như sau:
- Nguyên tắc ưu tiên thanh toán đối với chủ nợ có đảm bảo xuất phát từ
bản chất của các biện pháp bảo đảm như cầm cố, thế chấp. Việc pháp luật quy
định dùng các tài sản cầm cố, thế chấp để thanh toán nợ trước khi thanh lý tài sản
nhằm đảm bảo đúng tác dụng, ý nghĩa của các biện pháp này trong quan hệ dân
sự.
- Nguyên tắc đảm bảo thu hồi vốn cho nhà nước (trong việc ưu tiên thanh
toán chi phí phá sản, hoàn trả tài sản cho Nhà nước).
- Nguyên tắc đảm bảo quyền lợi cho người lao động thể hiện ở sự ưu tiên
thanh toán khi thanh lý tài sản trước các chủ nợ. Việc thanh toán cho người lao
động trước giúp quyền và lợi ích của người lao động được đảm bảo hơn so với
các chủ nợ khác. Thể hiện bản chất nhà nước ta là nhà nước của nhân dân lao
động. Và nếu tài sản của doanh nghiệp hợp tác xã sau khi trừ chi phí phá sản
không đủ trả cho người lao động thì người lao động sẽ được chia theo tỷ lệ tương
15
ứng (khoản 2 Điều 5 Nghị định số 94/2005/NĐ-CP) mà không cần chia cho các
chủ nợ khác.
- Nguyên tắc thanh toán công bằng và hợp lí với các chủ nợ:
+ Với đối tượng thanh toán: Các chủ nợ của khoản nợ đã đến hạn và các chủ
nợ có khoản nợ chưa đến hạn đều được thanh toán phần nợ và phần lãi phát sinh
tính đến thời điểm tòa án mở thủ tục phá sản.
+ Lượng tài sản được thanh toán: Điều này chỉ phát sinh khi tài sản của DN,
HTX không đủ để thanh toán toàn bộ các khoản nợ thì các chủ nợ được thanh
toán phần nợ của mình theo tỉ lệ tương ứng.
- Nguyên tắc bảo toàn tài sản của doanh nghiệp , hợp tác xã phá sản thể
hiện ở việc áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời, biện pháp hạn chế hoạt
động của doanh nghiệp, đình chỉ thực hiện hợp đồng đang có hiệu lực xuất
phát từ sự đảm bảo của Nhà nước đối với các chủ nợ.
5. Thứ tự thanh toán nợ
Tình huống đề bài đưa ra, tài sản của công ty cổ phần tạm gọi là công ty X
đã được tổ quản lý thanh lý tài sản tiến hành thu hồi toàn bộ và tổ chức bán đấu
giá, tổng cộng thu được 7,45 tỉ đồng (bao gồm cả giá trị tài sản thế chấp, cầm
cố). Việc thanh toán nợ của công ty X sẽ được tiến hành theo trình tự như sau:
- Nguyên tắc ưu tiên thanh toán đối với nợ có đảm bảo quy định những
khoản nợ có đảm bảo của chủ nợ đối với công ty X sẽ được ưu tiên thanh toán
trước khi Tóa àn thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản, nghĩa là được thanh toán
trước những khoản nợ khác không có đảm bảo. Như vậy trong danh sách chủ nợ
của công ty X, có 2 trường hợp là thanh toán có đảm bảo. Hai khoản nợ có đảm
bảo này sẽ được thanh toán trước. Áp dụng Điểu 35 LPS 2004 về Xử lý các
khoản nợ được bảo đảm bằng tài sản thế chấp hoặc cầm cố: “Trường hợp Thẩm
phán ra quyết định mở thủ tục thanh lý đối với DN, HTX thì các khoản nợ được
bảo đảm bằng tài sản thế chấp hoặc cầm cố được xác lập trước khi Toà án thụ
16
lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản được ưu tiên thanh toán bằng tài sản đó; nếu
giá trị tài sản thế chấp hoặc cầm cố không đủ thanh toán số nợ thì phần nợ còn
lại sẽ được thanh toán trong quá trình thanh lý tài sản của DN, HTX; nếu giá trị
của tài sản thế chấp hoặc cầm cố lớn hơn số nợ thì phần chênh lệch được nhập
vào giá trị tài sản còn lại của DN, HTX”. Cụ thể là công ty X sẽ trả cho Ngân
hàng Công thương Thanh Xuân 5 tỷ đồng (b) từ tiền bán đấu giá trụ sở của công
ty (là tài sản thế chấp). Số tiền thừa 1 tỷ đồng sẽ được nhập vào số tài sản còn lại
để thanh lý sau khi phá sản. Còn khoản nợ 500 triệu với công ty Hoàng Hà (c) do
tài sản cầm cố là xe ô tô chỉ bán đấu giá được 400 triệu đồng nên số tiền 100
triệu đồng còn thiếu sau khi thanh toán sẽ được trả nốt trong quá trình thanh lý
tài sản của doanh nghiệp. Số tiền này của công ty Hoàng Hà sẽ được giải quyết
như một chủ nợ có bảo đảm nhưng mất quyền ưu tiên thanh toán theo quy định
tại khoản 2 Điều 33 LPS 2004: “Các yêu cầu đòi DN, HTX thực hiện nghĩa vụ
về tài sản có bảo đảm được xác lập trước khi Tòa án thụ lý đơn yêu cầu mở thủ
tục phá sản, nhưng quyền ưu tiên thanh toán đã bị hủy bỏ.”
Sau khi thanh toán nợ có bảo đảm thì số tiền còn lại của công ty là 2,05 tỉ.
- Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 37 LPS 2004 về Thứ tự phân chia tài sản
thì công ty X trước hết phải thanh toán Chi phí phá sản 50 triệu đồng => số tiền
mà công ty còn lại là 2 tỉ đồng. Theo điểm b khoản 1 Điều 37 thì doanh nghiệp
phải thanh toán: “Các khoản nợ lương, trợ cấp thôi việc, bảo hiểm xã hội
theo quy định của pháp luật và các quyền lợi khác theo thoả ước lao động tập
thể và hợp đồng lao động đã ký kết”. Như vậy, công ty X phải thanh toán
khoản Nợ lương người lao động là 300 triệu đồng => số tiền mà công ty X còn
lại là 1,7 tỉ đồng.
- Tiếp theo là “Các khoản nợ không có bảo đảm phải trả cho các chủ nợ
trong danh sách chủ nợ theo nguyên tắc nếu giá trị tài sản đủ để thanh toán
các khoản nợ thì mỗi chủ nợ đều được thanh toán đủ số nợ của mình; nếu
17
giá trị tài sản không đủ để thanh toán các khoản nợ thì mỗi chủ nợ chỉ được
thanh toán một phần khoản nợ của mình theo tỷ lệ tương ứng” ( điểm c khoản 1
Điều 37 LPS 2004).
Như vậy, những khoản nợ mà công ty X còn phải thanh toán bao gồm:
+ Công ty Hòa Bình 300 triệu tiền phạt vi phạm hợp đồng (tạm gọi là chủ nợ A)
+ Bưu điện Hà Nội 80 triệu ( chủ nợ B)
+ Công ty cung cấp nước sạch 20 triệu (chủ nợ C)
+ Người lao động trích 10% lương tháng cho công ty vay để hưởng lãi suất, tổng
cộng 500 triệu đồng cả vốn, lãi tính đến thời điểm Tòa án quyết định mở thủ tục
phá sản (chủ nợ D)
+ Ông Đào, một cổ đông của công ty đã vay của ông An 500 triệu để mua bổ
sung cổ phần của mình nhằm tăng cường vốn điều lệ của công ty (chủ nợ E)
+ Nợ thuế 500 triệu (chủ nợ F)
+ Tiền phạt do vi phạm các quy định về bảo vệ môi trường là 200 triệu (Chủ nợ
G)
+ Nợ công ty Hoàng Hà 100 triệu (chênh lệch giá trị tài sản cầm cố và số tiền
vay) (chủ nợ H)
+ Các khoản nợ không có bảo đảm khác là 1 tỉ đồng (Chủ nợ I)
Như vậy tổng số tiền mà công ty X còn nợ là 3,2 tỉ đồng. Trong khi số tiền
còn lại là 1,7 tỉ đồng không đủ để thanh toán hết số nợ này. Do đó, “mỗi chủ nợ
sẽ chỉ được thanh toán một phần theo tỉ lệ tương ứng”. Cụ thể:
Công ty X nợ A 300 triệu trên tổng số 3,2 tỉ đồng ứng với 9,36%
Công ty X nợ B 80 triệu trên tổng số 3,2 tỉ đồng ứng với 2,5%
Công ty X nợ C 20 triệu trên tổng số 3,2 tỉ đồng ứng với 0,62%
Công ty X nợ D 500 triệu trên tổng số 3,2 tỉ đồng ứng với 15,63%
Công ty X nợ E 500 triệu trên tổng số 3,2 tỉ đồng ứng với 15,63%
Công ty X nợ F 500 triệu trên tổng số 3,2 tỉ đồng ứng với 15,63%
18
Công ty X nợ G 200 triệu trên tổng số 3,2 tỉ đồng ứng với 6,25%
Công ty X nợ H 100 triệu trên tổng số 3,2 tỉ đồng ứng với 3,13%
Công ty X nợ I 1tỉ trên tổng số 3,2 tỉ đồng ứng với 31,25%
Ứng với tỉ lệ này thì mỗi chủ nợ của công ty X sẽ được nhẫn số tiền tương
ứng trên thực tế là:
A nhận được 9,36% của 1,7 tỉ đồng ứng với 159,12 triệu
B nhận được 2,5% của 1,7 tỉ đồng ứng với 42,5 triệu
C nhận được 0,62% của 1,7 tỉ đồng ứng với 10,54 triệu
D nhận được 15,63% của 1,7 tỉ đồng ứng với 265,71 triệu
E nhận được 15,63% của 1,7 tỉ đồng ứng với 265,71 triệu
F nhận được 15,63% của 1,7 tỉ đồng ứng với 265,71 triệu
G nhận được 6,25% của 1,7 tỉ đồng ứng với 106,25 triệu
H nhận được 3,13% của 1,7 tỉ đồng ứng với 53,21 triệu
I nhận được 31,25% của 1,7 tỉ đồng ứng với 531,25 triệu
Như vậy các chủ nợ A, B, C, D, E, F, G, H, I sẽ được thanh toán đồng thời
với số tiền cụ thể như đã chia ở trên.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
19
1. Giáo trình Luật thương mại. Tập 1, 2. Trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb.
CAND, HN, 2009.
2. Luật Doanh nghiệp 2005.
3. Luật Phá sản 1993, 2004.
4. Luật Đầu tư 2005.
5. Nghị định số 102/2010/NĐ - CP ngày 01/10/2010 Hướng dẫn chi tiết thi
hành một số điều của Luật Doanh nghiệp.
6. Nghị định số 43/2010/NĐ-CP ngày 15/4/2010 về Đăng ký doanh nghiệp
7. Nghị quyết số 03/2005/NQ-HĐTP ngày 28/4/2005 của Hội đồng Thẩm
phán Tòa án nhân dân tối cao Hướng dẫn thi hành một số quy định của
LPS.
8. Nghị định số 67/2006/NĐ-CP ngày 11/7/2006 của Chính phủ về Hướng
dẫn việc áp dụng LPS đối với doanh nghiệp đặc biệt và tổ chức, hoạt động
của Tổ quản lý, thanh lý tài sản.
9. Nghị định số 114/2008/NĐ-CP ngày 3/11/2008 của Chính phủ về Hướng
dẫn chi tiết thi hành một số điều của LPS đối với doanh nghiệp hoạt động
kinh doanh trong lĩnh vực bảo hiểm, chứng khoán và tài chính khác.
10. Nghị định số 05/2010/NĐ-CP ngày 18/01/2010 của Chính phủ về Quy
định việc áp dụng LPS đối với các tổ chức tín dụng.
11. Nghị định số 67/2006/NĐ-CP ngày 11/07/2006 của Chính phủ Giải quyết
quyền lợi của người lao động ở DN và HTX bị PS.
12. Giáo trình Luật kinh tế. Tập 1: Luật Doanh nghiệp. Khoa Luật – Đại học
quốc gia Hà Nội, Nxb.ĐHQG, HN, 2006.
13. Web: /> />20