Tải bản đầy đủ (.ppt) (32 trang)

khai luoc ve triet hoc va lich su triet hoc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.45 MB, 32 trang )


PHẦN I
KHÁI LƯỢC VỀ TRIẾT HỌC


LỊCH SỬ TRIẾT HỌC


CHƯƠNG I
KHÁI LƯỢC VỀ TRIẾT HỌC
Nội dung chính
I. Triết học là gì
1. Triết học và đối tượng của triết học
a) Khái niệm triết học
b) Đối tượng của triết học
2. Vấn đề cơ bản của triết học
II. Chức năng thế giới quan của triết học
1. Triết học – hạt nhân lý luận của thế giới quan
2. Chủ nghĩa duy vật, chủ nghĩa duy tâm, thuyết không thể biết
III. Siêu hình và biện chứng
1. Sự đối lập giữa phương pháp siêu hình và phương pháp biện chứng
2. Các giai đoạn phát triển cơ bản của phép biện chứng
3. Chức năng phương pháp luận của triết học

NỘI DUNG CHI TIẾT
I. TRIẾT HỌC LÀ GÌ
1. Triết học và đối tượng của triết học
a) Khái niệm Triết học
Thuật ngữ triết học (philosophia) có nguồn
gốc từ tiếng Hy Lạp φιλοσοφια có nghĩa là
yêu mến sự thống thái (love of wisdom).


Ở Trung hoa, triết 哲 gồm 3 từ ghép lại:
手 : thủ = cái tay; 斤 : cân = cái riều ; 口 :
khẩu = cái miệng, có nghĩa là sự truy tìm, sự
hiểu biết sâu sắc bằng lý luận về bản chất
của đối tượng.

Triết học xuất hiện từ thế kỷ VII-VI
tr.CN ở một số nước có nền văn minh
sớm như Ấn Độ, Trung Hoa, Hy Lạp
Nhìn chung ở phương Đông hay
phương Tây, đều có thể hiểu: Triết học
là một hệ thống tri thức lý luận chung
nhất về thế giới (về vũ trụ, về con
người, về vị trí, vai trò con người
trong thế giới)


Sự ra đời của triết học do hai nguồn gốc:
- Nguồn gốc nhận thức: sự phát triển của tư
duy trừu tượng cho phép trừu tượng hóa, khái
quát những tri thức cụ thể, riêng lẻ thành hệ
thống tri thức lý luận chung nhất.
- Nguồn gốc xã hội: Triết học ra đời khi lực
lượng sản xuất đã đạt đến một trình độ nhất
định, khi lao động trí óc đã trở thành một lĩnh
vực độc lập tách khỏi lao động chân tay, khi
xã hội đã phân chia thành giai cấp bóc lột và
giai cấp bị bóc lột.

b) Đối tượng của triết học

Đối tượng của triết học thay đổi qua các
thời kỳ lịch sử phát triển của nó.
- Thời cổ đại, triết học chưa có đối tượng
riêng của nó. Ở Hy Lạp cổ đại, Triết học bao
gồm tất cả các khoa học: siêu hình học, toán
học, vật lý học, thiên văn học, chính trị học,
đạo đức học, lôgíc học, mỹ học, v.v Nhà triết
học đồng thời là nhà khoa học nói chung.

Ở Trung Hoa và Ấn Độ cổ đại, tư tưởng
triết học nằm trong các học thuyết chính trị,
đạo đức, tôn giáo
- Thời Trung cổ, triết học trở thành đầy tớ
của tôn giáo, chỉ có nhiệm vụ lý giải, chứng
minh những tín điều tôn giáo.
- Thế kỷ XVII-XVIII, triết học duy vật dựa
trên khoa học thực nghiệm phát triển mạnh
mẽ và đấu tranh quyết liệt chống lại tư tưởng
phong kiến và giáo điều tôn giáo.

Tuy nhiên trong thời kỳ này người ta vẫn
quan niệm “triết học là khoa học của các khoa
học”.
Quan niệm này tồn tại mãi cho đến thế kỷ
XVIII. Hêghen là nhà triết học cuối cùng coi
triết học là một hệ thống hoàn chỉnh của nhận
thức trong đó mỗi ngành khoa học chỉ là một
bộ phận hợp thành hệ thống.
Sự phát triển của các bộ môn khoa học độc
lập từng bước làm phá sản tham vọng của triết

học muốn đóng vai trò “khoa học của các khoa
học”.

Cuộc khủng hoảng trong quan niệm về
đối tượng của triết học làm nảy sinh một
số quan điểm sai trái.
Có quan điểm cho rằng triết học đã trở
thành “vua Lear”.
Có quan điểm phủ nhận vai trò thế giới
quan của triết học, quy triết học về chức
năng phân tích lôgíc, phân tích ngôn ngữ
(CN thực chứng lôgíc, triết học ngôn ngữ) hoặc
công cụ của hoạt động thực tiễn (chủ nghĩa
thực dụng).

Sự ra đời của Triết học Mác-Lênin chấm dứt quan niệm
truyền thống coi triết học là khoa học của các khoa học
đồng thời cũng chống lại quan niệm hạ thấp vai trò của triết
học xuống thành công cụ của tôn giáo, khoa học hay hoạt
động thực tiễn.
Theo quan điểm triết học Mác-Lênin, triết
học là một hình thái ý thức xã hội, trên cơ sở
giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa vật chất
và ý thức, nó vạch ra những quy luật chung
nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy để định
hướng cho sự nhận thức và hoạt động thực
tiễn của con người.

Triết học là một hình thái ý thức xã hội khác với
chính trị, khoa học, đạo đức, tôn giáo

+ Triết học là hệ thống lý luận; nhà triết học
không chỉ đưa ra những quan điểm, nguyên tắc
nhất định mà vấn đề quan trọng là dựa vào lập
luận lôgíc và vào thực tiễn xã hội để chứng minh
cho quan điểm, tư tưởng của mình, khác với tôn
giáo chỉ dựa vào niềm tin mù quáng.
+ Triết học cũng khác với các khoa học cụ thể:
Triết học nghiên cứu những nguyên lý, những quy
luật chung nhất, còn các khoa học cụ thể thì nghiên
cứu những quy luật cụ thể và đặc thù.

2. Vấn đề cơ bản của triết học
a) Vấn đề cơ bản của triết học là mối quan hệ
giữa tư duy với tồn tại (giữa tinh thần với tự
nhiên, giữa ý thức với vật chất).
Vấn đề này có hai mặt:
Mặt thứ nhất (còn gọi là mặt bản thể luận):
Tư duy có trước tồn tại hay tồn tại có trước tư
duy (ý thức có trước vật chất hay vật chất có
trước ý thức)
Mặt thứ hai (còn gọi là mặt nhận thức
luận): Tư duy có nhận thức được tồn tại? (con
người có nhận thức được thế giới không?)

b) Hai mặt của vấn đề cơ bản của triết học

c) Vì sao đây là vấn đề cơ bản của triết
học
- Đây là vấn đề triết học chung nhất
- Việc giải quyết vấn đề này quyết định

tất cả vấn đề khác của triết học
- Tùy theo cách giải quyết vấn đề này
mà triết học chia thành nhiều trào lưu
đối lập nhau: chủ nghĩa duy vật, chủ
nghĩa duy tâm; thuyết nhất nguyên,
thuyết nhị nguyên, thuyết đa nguyên;
thuyết khả tri, thuyết bất khả tri.

II. CHỨC NĂNG THẾ GIỚI QUAN CỦA
TRIẾT HỌC
1. Triết học – hạt nhân lý luận của thế
giới quan
Thế giới quan (worldview, world
outlook) là toàn bộ những quan điểm, quan
niệm chung nhất của con người về thế giới
về con người, về cuộc sống và vai trò của
con người trong thế giới.

Thế giới quan là sự thống nhất giữa tri
thức và niềm tin, lý trí và tình cảm.
Tri thức là yếu tố quan trọng hàng đầu
trong thế giới quan.
Tri thức chỉ trở thành thế giới quan khi
nó gắn liền với tình cảm và niềm tin.

Thế giới quan có nhiều loại: thần thoại,
tôn giáo, triết học.
Thần thoại (huyền thoại) là hình thức
thế giới quan của người nguyên thủy. Nó
quan niệm mỗi hiện tượng tự nhiên và xã

hội đều do một vị thần cai quản. Đó là
cách giải thích đơn giản về tự nhiên và xã
hội.

Tôn giáo là niềm tin mù quáng của
con người vào một lực lượng siêu tự
nhiên tối cao, quyết định số phận của
con người.
Tôn giáo còn là khát vọng của con
người được giải thoát khỏi những đau
khổ để vươn tới sự bất tử và hạnh phúc
vĩnh cửu ở kiếp sau.

Triết học là cấp độ cao nhất của thế
giới quan. Sự ra đời của triết học là sự
phản kháng chống lại niềm tin mù quáng
của tôn giáo.
Đặc điểm của thế giới quan triết học là
sự nhận thức, giải thích thế giới bằng tư
duy lý luận, bằng lập luận lôgíc. Nó đề
cao vai trò của lý trí so với tình cảm và
niềm tin.
Vì thế, triết học được coi là hạt nhân lý
luận của thế giới quan.

Thế giới quan vừa là kết quả của sự
nhận thức thế giới của con người, vừa đóng
vai trò lăng kính qua đó con người xem xét,
nhìn nhận thế giới, định hướng cho cuộc
sống, cho hoạt động nhận thức và hoạt

động thực tiễn của mình.
Nếu có một thế giới quan triết học đúng
đắn thì mới có một cách nhìn nhận đúng
đắn về thế giới và cuộc sống.

-

Tồn tại (tự nhiên,
vật chất) có tr ớc,
quyết định t duy
(tinh thần, ý thức)
-

T duy (tinh thần, ý
thức) có tr ớc,
quyết định tồn tại
(tự nhiên, vật chất)
c h ủ n g h ĩa d u y v ậ t
c h ủ n g h ĩa d u y t â m
2. Ch ngha duy vt, ch ngha duy tõm,
thuyt bt kh tri

C¸c h×nh thøc cña chñ nghÜa duy vËt

C¸c h×nh thøc cña chñ nghÜa duy t©m

NGUỒN GỐC SAI LẦM CỦA CN DUY
TÂM
- Tuyệt đối hóa một mặt của nhận thức:
mặt chủ quan, mặt tinh thần

- Tách tinh thần ra khỏi vật chất, thần
thánh hóa nó, biến nó thành một lực
lượng độc lập đứng trên vật chất, sáng
tạo ra vật chất.

T h u y Õ t n h Ê t n g u y ª n
T h u y Õ t n h Þ n g u y ª n
T h u y Õ t § A n g u y ª n
Trong thế giới
chỉ có một thực
thể duy nhất
- Thực thể vật
chất (thuyết nhất
nguyên duy vật)
- Thực thể tinh
thần (thuyết nhất
nguyên duy tâm)
Có hai thực thể
song song tồn
tại (vật chất và
tinh thần).Thí
dụ, quan điểm
của nhà triết
học Pháp René
Descartes
Có nhiều
thực thể,
nhiều dạng
tồn tại, độc
lập với nhau,

không phụ
thuộc lẫn
nhau.

×