Tải bản đầy đủ (.doc) (71 trang)

Những giải pháp nhằm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu thủy sản của Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (456.08 KB, 71 trang )

Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Khoa: KTNN & PTNT
LỜI MỞ ĐẦU
Ngày nay, khi mà quá trình toàn cầu hoá, đã bao trùm nên tất cả các hoạt động
sản xuất kinh doanh thì sự gia tăng hợp tác quốc tế nhằm phát huy có hiệu quả những
lợi thế so sánh của mình đã làm cho quan hệ kinh tế giữa các quốc gia ngày càng phát
triển mạnh mẽ. Việt Nam với tư cách là một thành viên chính thức thứ 150 của tổ
chức thương mại thế giới WTO kể từ ngay 7/11/2006 đã tạo điều kiện mở rộng giao
lưu hợp tác kinh tế quốc tế trong hoạt động xuất nhập khẩu với tư cách là cầu nối
giữa các quốc gia là cầu nối giữa Việt Nam với các quốc gia trên thế giới. Đối với
nước ta xuất khẩu là trung tâm của hoạt động ngoại thương và trở thành yếu tố “ bản
lề “ là “đòn bảy” chủ yếu thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Hoạt động
xuất khẩu tạo nguồn thu ngoại tệ lớn có ý nghĩa đạc biệt quan trọng trong việc tạo
tiền đề cho sự phát triển kinh tế theo hướng công nghiệp hoá hiện đại hoá.
Việt Nam đã và đang khẳng định quyết tâm hội nhập của mình với phương
châm Việt Nam sẵn sàng là bạn là đối tác tin cậy của tất cả các nước trên thế giới,
trên cơ sở bình đẳng, hợp tác hai bên cùng có lợi… Lấy nhu cầu thị trường quốc tế
làm mục tiêu cho sản xuất trong nước… “ trong đó ngành thủy sản được coi là ngành
xuất khẩu chủ đạo của Việt Nam, sau dầu thô và dệt may. Ngành thủy sản , trên cơ sở
phát huy tối đa lợi thế so sánh của đất nước trong quan hệ kinh tế quốc tế đã khẳng
định được vị thế của mình trên thị trường khu vực và quốc tế. Đặc biệt đã tạo được
chỗ đứng khá vững chắc trên một số thị trường lớn như Mỹ, Nhật, EU…
Mặc dù ngành thủy sản Việt Nam có được những bước tiến khá nhanh, đã có
một số thị trường lớn song một thực tế hàng thủy sản có sức cạnh tranh chưa cao so
với các đối thủ trên trường quốc tế. Điều này biểu hiện bởi chất lượng chưa cao, đơn
điệu về chủng loại, hạn chế về mẫu mã, chưa đáp ứng nhu cầu chuẩn mực, cạnh tranh
khắt khe trên thị trường thế giới đặc biệt là các thị trường truyền thống như Mỹ,
Nhật, EU… Do đó vấn đề cấp bách đặt ra hiện nay là làm thế nào để nâng cao sức
cạnh tranh của hàng thủy sản Việt Nam để đáp ứng được những yêu cầu chuẩn mực
cạnh tranh trên thị trường thế giới, nhằm giữ vững thị phần cao của Việt Nam trên thị
trường thế giới. Đây đang là mối quan tâm đặc biệt có ý nghĩa chiến lược lâu dài của
Hoàng Khánh Dư Lớp: KTNN&PTNT 45


1
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Khoa: KTNN & PTNT
chính phủ, của các nhà kinh tế, các doanh nghiệp xuất nhập khẩu giai trong đoạn hiện
nay.
Trước thực trạng đó, dưới góc độ là một sinh viên kinh tế, chuyên ngành kinh
tế nông nghiệp và phát triển nông thôn để đáp ứng kịp thời thị trường thế giới. Em
lựa chọn đề tài “ những giải pháp nhằm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu thủy sản của
Việt Nam” làm đề tài cho chuyên đề thực tập của mình nhằm thấy được những thuận
lợi, khó khăn và các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu thủy sản của Việt
Nam.
Kết cấu chuyên đề gồm 3 chương:
Chương I: Cơ sở lý luận về xuất khẩu thủy sản trong nền kinh tế quốc dân
Chương II: Thực trạng xuất khẩu thủy sản của Việt Nam
Chương III: Một số giải pháp thuúc đẩy xuất khẩu thủy sản của Việt Nam
Để hoàn thành chuyên dề này , em nhận được sự giúp đỡ rất nhiều những
đóng góp ý kiến của bạn bè, các thầy cô trường ĐH KTQD, đặc biệt là sự giúp đỡ
hướng dẫn tận tình của PGS.TS Vũ Đình Thắng người trực tiếp hướng dẫn em trong
suốt thời gian thu thập tài liệu và viết chuyên đề này.
Mặc dù đã cố gắng hết sức, song do kinh nghiệm thực tế và khả năng nghiên
cứu còn hạn chế nên đề án không tránh khỏi những thiếu xót. Em rất mong nhận
được sự góp ý của thầy cô giáo và các bạn để bài viết được tốt hơn.
Hoàng Khánh Dư Lớp: KTNN&PTNT 45
2
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Khoa: KTNN & PTNT
CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ XUẤT KHẨU
THỦY SẢN TRONG NỀN KINH TẾ QUỐC DÂN
1. Tầm quan trọng của xuất khẩu thủy sản trong nền kinh tế quốc dân
1.1 Bản chất hoạt động xuất khẩu
Xuất phát từ nhu cầu trao đổi hàng hoá và dịch vụ giữa các quốc gia với nhau

mà hoạt động xuất khẩu được ra đời và ngày càng phát triển cho đến nay. Vậy hoạt
động xuất khẩu là một bộ phận cấu thành quan trọng của hoạt động ngoại thương,
trong đó hàng hoá và dịch vụ được đem bán ra nước ngoài nhằm thu ngoại tệ.
Nếu xem xét dưới góc độ các hình thức kinh doanh quốc tế thì xuất khẩu là
hình thức cơ bản đầu tiên của doanh nghiệp khi bước vào kinh doanh quốc tế. Mỗi
công ty luôn hướng tới xuất khẩu những sản phẩm và dịch vụ của mình ra nước
ngoài. Xuất khẩu tồn tại ngay cả khi công ty đã tiến hành những hình thức cao hơn
trong kinh doanh quốc tế, các lý do công ty thực hiện xuất khẩu là :
Thứ nhất : Sử dụng lợi thế của mình.
Thứ hai : Giảm chi phí giảm giá thành sản phẩm
Khi thị trường chưa bị hạn chế bởi thuế quan, các quy định khắt khe về tiêu chuẩn
kỹ thuật, trên thị trường có ít đối thủ cạnh tranh hay năng lực của doanh nghiệp kinh doanh
quốc tế chưa có đủ khả năng thực hiện các hình thức cao hơn thì xuất khẩu được lựa chọn
So với đầu tư, rõ ràng xuất khẩu đòi hỏi lượng vốn đầu tư ít hơn, rủi ro thấp hơn,
thu được lợi nhuận trong thời gian ngắn. Chính vì thế hoạt động xuất khẩu không thể thiếu
trong một nến kinh tế thị trường phát triển trong điều kiện hội nhập quốc tế và khu vực
như ngày nay. Hoạt động xuất khẩu càng phải được chú trọng hơn nữa khi mà Việt Nam
trở thành thành viên thứ 150 của tổ chức thương mại thế giới WTO.
Hoàng Khánh Dư Lớp: KTNN&PTNT 45
3
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Khoa: KTNN & PTNT
1.2 Vai trò của xuất khẩu trong nền kinh tế quốc dân
Xuất khẩu được thừa nhận là hoạt động rất cơ bản của hoạt động kinh tế đối ngoại,
là phương tiện thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Việc mở rộng xuất khẩu để tăng thu ngoại
tệ chi tiêu dùng trong nước và cho nhu cầu nhập khẩu cũng như đặt cơ sở cho sự phát
triển hạ tầng là mục tiêu quan trọng nhất của chính sách thương mại.
Hoạt động kinh doanh xuất khẩu là hoạt động đã áp dụng từ lâu đời nhưng cho
tới nay thì nó luôn được khuyến khích phát triển và ngày càng đa dạng và phong phú,
mở ra nhiều thuận lợi và khó khăn mà doanh nghiệp phải đương đầu. Sở dĩ như vậy
là do có sự chuyển đổi căn bản về kinh tế thị trường trên toàn thế giới và ảnh hưởng

trực tiếp đến xuất khẩu theo hai chiều hướng tiêu cực và tích cực.
Có thể thấy một số vai trò chủ yếu của hoạt động xuất khẩu như sau :
Thứ nhất: Xuất khẩu phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo những bước
đi thích hợp là con đường tất yếu để khắc phục tình trạng chậm phát triển của nước
ta. Để công nghiệp hoá đất nước trong một thời gian ngắn đòi hỏi phải có một số vốn
lớn để nhập khẩu máy móc, thiết bị, kỹ thuật công nghệ tiên tiến. Nguồn vốn nhập
khẩu có thể được hình thành từ các nguồn như: Đầu tư nước ngoài, vay vốn, thu từ
hoạt động du lịch, thu ngoại tệ xuất khẩu sức lao động. Các hoạt động đó tuy quan
trọng nhưng rồi cũng phải trả. Như vậy, nguồn vốn quan trọng để nhập khẩu phục vụ
công nghiệp hoá, hiện đại hoá là xuất khẩu, xuất khẩu quyết định quy mô và tốc độ
tăng trưởngcủa nhập khẩu.
Thứ hai: Xuất khẩu đóng góp vào quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế sản xuất phát
triển
Cơ cấu sản xuất và tiêu dùng trên thế giới đã và đang thay đổi mạnh mẽ, đó là
thành quả của cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại. Sự chuyển dịch cơ cấu
kinh tế trong quá trình công nghiệp hoá phù hợp với xu hướng phát triển kinh tế thế
giới là tất yếu đối với nước ta.
Có hai cách nhìn nhận về tác động của xuất khẩu đối với sản xuất và chuyển
Hoàng Khánh Dư Lớp: KTNN&PTNT 45
4
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Khoa: KTNN & PTNT
dịch cơ cấu kinh tế .
Một là: chỉ là việc tiêu thụ những sản phẩm do sản xuất vượt trội nhu cầu tiêu
dùng. Theo cách này, nếu một nến kinh tế còn lạc hậu và chậm phát triển, sản xuất
chưa đáp ứng đủ nhu cầu tiêu dùng trong nước mà cứ chờ đợi sự dư thừa của sản
xuất thì xuất khẩu vẫn cứ nhỏ bé và tăng trưởng chậm chạp.
Hai là: coi thị trường thế giới là tương quan của sản xuất. Quan điểm này xuất
phát từ nhu cầu của thị trường thế giới để tổ chức sản xuất. Theo quan điểm này, xuất
khẩu phải có tác động tích cực đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát
triển, nó được thể hiện ở

-Xuất khẩu tạo điều kiện cho các ngành khác có cơ hội cùng phát triển
- Xuất khẩu tạo ra khả năng mở rộng thị trường tiêu thụ góp phần cho sản xuất
phát triển
- Xuất khẩu tạo điều kiện tiền đề kinh tế kỹ thuật nhằm cải tạo và nâng cao
năng lực sản xuất trong nước
- Xuất khẩu đòi hỏi các doanh nghiệp phải thường xuyên đổi mới và hoàn
thành công việc quản trị sản xuất kinh doanh để nâng cao khả năng cạnh tranh của
hàng hóa trên thị trường thế giới
Ba là xuất khẩu có tác động tích cực đến việc giải quyết công ăn việc làm và
cải thiện đời sống của nhân dân
Tác động của xuất khẩu đến đời sống thể hiện trên nhiều phương diện, trước
hết sản xuất hàng xuất khẩu là nơi thu hút hàng triệu lao động vào làm việc với mức
thu nhập khá. Thực tế đã cho thấy mức lương của cán bộ công nhân viên tại các
doanh nghiệp sản xuất hàng hóa xuất khẩu đã dần được nâng lên, đến nay là tương
đối cao. Bên cạnh đó xuất khẩu còn là nguồn vốn để nhập khẩu hàng tiêu dùng đáp
ứng nhu cầu của nhân dân.
Bốn là xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy các quan hệ kinh tế đối
ngoại. Xuất khẩu và các quan hệ kinh tế đối ngoại có tác động qua lại và phụ thuộc
Hoàng Khánh Dư Lớp: KTNN&PTNT 45
5
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Khoa: KTNN & PTNT
lẫn nhau. Xuất khẩu là bộ phận quan trọng của hệ thống kinh tế đối ngoại. Thực hiện
hoạt động xuất khẩu có liên quan đến nhiều lĩnh vực như hoạt động ngân hàng quốc
tế , vận tải quốc tế… Vì vậy, khi xuất khẩu phát triển các hoạt động này cũng phát
triển theo. Mặt khác các quan hệ kinh tế đối ngoại này lại tạo điều kiện mở rộng cho
xuất khẩu.
2. Những nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu thủy sản
2.1 Nhân tố thuận lợi
2.1.1 Điểu kiện tự nhiên
Việt Nam nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa, lượng mưa trung bình hàng năm

lớn khoảng 1500-2000mm. Độ ẩm dưới 80% nên rất thuận lợi cho nuôi trồng các loại
hải sản quý có giá trị kinh tế cao.
Bờ biển Việt Nam trải dài hơn 3260km trung bình cứ 20km có một cửa sông
thông ra biển. Các cửa sông này chịu ảnh hưởng của chế độ thuỷ triều khá phức tạp
nên tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển đa dạng hoá các sản phẩm thủy sản xuất
khẩu chủ lực mà thị trường thế giới có nhu cầu, mặt khác còn tạo điều kiện tiếp cận
dễ dàng với mọi thị trường trên thế giới và khu vực bằng đường biển nên các sản
phẩm thủy sản được bán ra nước ngoài dễ dàng hơn.
Nhìn chung có thể phát triển thủy sản trên toàn đất nước, ở mỗi vùng có tiềm
năng, đặc thù và sản vật đặc sắc riêng. Tuy nhiên, Việt Nam có một vùng sinh thái
thấp đặc biệt là đồng bằng sông Cửu Long và châu thổ sông Hồng, nơi có thể đưa
nước mặn vào rất sâu tạo ra một vùng nước lợ chuyên hoặc nuôi trồng thủy sản kết
hợp với trồng lúa thì sẽ tạo ra sản phẩm nuôi trồng có chất lượng cao, chi phí thấp mà
các nước khác không có được. Lợi thế này đặc biệt phát huy thế mạnh trong cạnh
tranh với hệ thống nuôi trồng công nghiệp khi mà giá cả thủy sản trên thị trường thế
giới ở mức thấp, nhất là mặt hàng tôm.
2.1.2 Yếu tố kinh tế xã hội
Việt Nam chưa phát triển nuôi thủy sản công nghiệp nên còn nhiểu tiềm năng
Hoàng Khánh Dư Lớp: KTNN&PTNT 45
6
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Khoa: KTNN & PTNT
đất đai, vùng ven biển để phát triển nuôi trồng thủy sản mà không ảnh hưởng đến môi
trường sinh thái. Việc đưa thành công kỹ thuật nuôi hải sản trên các vùng cát ven
biển đã mở ra một tiềm năng và triển vọng mới cho phát triển các vùng nuôi tôm và
hải sản khác theo phương thức nuôi công nghiệp nhất là đối với vùng Duyên Hải dọc
bờ biển miền trung, tạo được nguồn cung dồi dào cho hoạt động xuất khẩu thủy sản
sang các nước trong khu vực và trên thế giới
Ngày nay khi nước ta đã là thành viên chính thức thứ 150 của tổ chức thương
mại thế giới WTO. Các sản phẩm hàng hóa và dịch vụ của Việt Nam sẽ dễ dàng xuất
khẩu vào thị trường các nước là thành viên của WTO tạo điều kiện thuận lợi đẩy

mạnh hoạt động xuất khẩu thủy sản của Việt Nam vào thị trường thế giới và khu vực.
Đến nay đã có 61 doanh nghiệp nằm trong danh sách xuất khẩu đi EU, gần
100 đơn vị áp dụng tiêu chuẩn HACCP, đủ tiêu chuẩn xuất khẩu vào Mỹ, Nhật Bản.
Những cơ sở nâng cấp, mở rộng sản xuất, trên 40 cơ sở sản xuất mới có công nghệ
hiện đại sẽ xây dựng ở địa phương gần nguồn nguyên liệu. Hơn nữa hiện nay hải sản
tiếp tục giữ vai trò quan trọng trong khẩu phần ăn của người dân trên thế giới, đặc
biệt là người Nhật và Mỹ. Đây là điều kiện thuận lợi để các doanh nghiệp thủy sản
Việt Nam chế biến các loại sản phẩm đa dạng phong phú để xuất khẩu.
2.1.3 Các yếu tố khác
Do đường lối của Đảng và nhà nước tạo điều kiện cơ hội tốt nhất cho các
doanh nghiệp ở mọi thành phần kinh tế phát triển sản xuất kinh doanh đẩy mạnh
xuất khẩu thủy sản ra thị trường thế giới. Nhà nước đã cung cấp vốn tín dụng ưu đãi
và chính sách ưu đãi cho các chủ đầu tư tham gia vào chương trình phát triển xuất
khẩu thủy sản cụ thể: trong 5 năm đầu nuôi trồng thuỷ sản được miễn các loại thuế
đất, thuế thu nhập, giảm 50% cho 5 năm tiếp theo kể từ khi dự án đi vào sản xuất
kinh doanh. Đối với chương trình đánh bắt hải sản xa bờ, ngư dân được vay vốn với
lãi xuất ưu đãi 0,81%/ tháng, thời hạn hoàn vốn là 7 năm, vốn đối ứng của dân là
15%.
Hoàng Khánh Dư Lớp: KTNN&PTNT 45
7
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Khoa: KTNN & PTNT
Bên cạnh đó, nhà nước còn có sự hỗ trợ, nâng cấp cơ sở hạ tầng, đầu tư khoa
học kỹ thuật . Bộ thủy sản đã tập trung ban hành các tiêu chuẩn an toàn vệ sinh thực
phẩm tương đương với các nước nhập khẩu, nâng cao năng lực cơ quan kiểm soát an
toàn vệ sinh thực phẩm và tập trung trung tâm cơ sở sử chữa, nâng cấp nhà xưởng.
Với sự hỗ trợ tích cực của dự án cải thiện chất lượng và xuất khẩu thủy sản
(SEAQIP) doanh nghiệp Đan Mạc tài trợ. Bộ thủy sản đã tiến hành nhiều hoạt động
xúc tiến thương mại, tổ chức các kênh thông tin về thị trường.
2.2 Nhân tố khó khăn và thách thức
2.1.2 Điều kiện tự nhiên

Đất nước ta hàng năm chịu ảnh hưởng của thiên tai lũ lụt bão quét, khô hạn
gây nhiều khó khăn cho việc sản xuất nuôi rrồng thủy sản, khó khăn trong việc cung
cấp các sản phẩm thủy sản xuất khẩu một cách thường xuyên và liên tục. Hơn nữa
với điều kiện thiên tai như thế mà ngành thuỷ sản lại chịu ảnh hưởng rất sâu sắc bởi
các yếu tố tự nhiên nên cũng hạn chế vào quá trình đầu tư sản xuất., nuôi trồng của
các cá nhân và doanh nghiệp vì mức độ rủi ro là rất cao. Vậy để hạn chế thiệt hại về
phía nhà nước cần có sự chỉ đạo công tác dự báo thời tiết thật chính xác và kịp thời
cho người dân kịp ứng phó, còn về phía người sản xuất nuôi trồng thủy sản cần chủ
động phòng chống khi có thông tin về thiên tai của nhà nước nhằm giảm thiểu rủi ro,
thiệt hại cho mình.
2.2.2 Yếu tố kinh tế xã hội
Tính cạnh tranh trên thị trường thế giới rất cao, mặc dù nước ta có một số thị
trường xuất khẩu thủy sản lớn như Nhật Bản, Mỹ, EU … Nhưng các thị trường cũng
là nơi được chú ý của rất nhiều nước xuất khẩu thủy sản trên thế giới. Trong đó có
những nước cũng có lợi thế tương tự như nước ta đều coi thị trường đó là thị trường
chiến lược của mình và quyết tâm dành thị phần cao trên thị trường thế giới. Đây
cũng là khó khăn tác động đến khả năng thúc đẩy xuất khẩu thủy sản của Việt Nam.
Hoàng Khánh Dư Lớp: KTNN&PTNT 45
8
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Khoa: KTNN & PTNT
Cơ cấu sản phẩm thủy sản xuất khẩu chưa hợp lý, biểu hiện tôm vẫn chiếm tỷ
trọng cao trong sản lượng thủy sản xuất khẩu năm 2005 chiếm tỷ lệ 41.3% trong khi
đó một số loại thủy sản khác cũng có giá trị kinh tế cao chưa được phát triển . Người
sản xuất kinh doanh mới chỉ chú trọng vào tăng số lượng, sản lượng chưa quan tâm
đến chất lượng sản phẩm. Chưa có nhiều sản phẩm tiêu biểu đặc sản mang bản sắc
riêng của Việt Nam. Công nghệ đánh bắt nuôi trồng bảo quản và chế biến, mẫu mã
bao bì thủy sản chưa tốt.
Gía cả nguyên vật liệu thủy sản phục vụ cho sản xuất hàng xuất khẩu tăng
cộng với giá xăng dầu liên tục tăng trong những năm qua làm cho chi phí vận chuyển
tăng theo, nên chi phí sản xuất, chế biến và xuất khẩu thủy sản có xu hướng tăng

nhanh, làm giảm khả năng cạnh tranh của thủy sản Việt Nam.
Tỷ lệ thủy sản xuất khẩu đã qua chế biến chưa cao, hơn nữa hình thức xuất
khẩu trực tiếp vào các thị trường thế giới chưa cao, chủ yếu là xuất khẩu qua một số
thị trường trung gian như ( Hông Kông, Đài Loan, Singapor ) nên lợi nhuận thấp.
Tình trạng thiếu vốn ở tất cả các khâu của quá trình sản xuất, doanh nghiệp
phải tự lo vay vốn ngân hàng làm ảnh hưởng đến giá thành xuất khẩu. Trình độ học
vấn và tay nghề của công nhân ngành thủy sản chưa cao làm ảnh hưởng đến sự phát
triển xây dựng uy tín của doanh nghiệp, ảnh hưởng đến chất lượng tiêu chuẩn. Mặt
khác, trình độ quản lý ở một số cán bộ còn chưa khoa học. Điều này thể hiện rõ ở
nhiều mặt từ quy hoạch xây dựng dự án, kế hoạch đến phương thức thực hiện, biện
pháp quản lý, cần được điều chỉnh cho phù hợp.
2.2.3 Các yếu tố khác
Ngoài những yếu tố điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội tác động xấu đến hoạt
động xuất khẩu thủy sản của Việt Nam còn một số yếu tố khác cũng gây khó khăn
trong việc thúc đẩy quá trình xuất khẩu thủy sản của Việt Nam như: vấn đề vệ sinh
an toàn thực phẩm, dư lượng kháng sinh trong sản phẩm thủy sản phải đảm bảo đúng
tiêu chuẩn của các nước nhập khẩu, vấn đề về thuế quan, hạn ngạch, các hàng rào kỹ
Hoàng Khánh Dư Lớp: KTNN&PTNT 45
9
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Khoa: KTNN & PTNT
thuật của các nước đặt ra đối với hàng thủy sản xuất khẩu của Việt Nam rất khắt khe,
gây khó khăn cho hoạt động xuất khẩu thủy sản của Việt Nam.
3.Các chỉ tiêu đánh giá kết quả và hiệu quả xuất khẩu thủy sản
3.1 Kim ngạch xuất khẩu thủy sản
Kể từ năm 2000 đến nay,ngành thủy sản vẫn duy trì sự tăng trưởng với tốc dộ
đáng kể. Tổng kim ngạch xuất khẩu thủy sản năm 2004 đạt 2,4 tỷ USD tăng gần 1 tỷ
so với năm 2000 chiếm 9% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Năm 2005 tổng
kim ngạch xuất khẩu thủy sản của cả nước đạt 2,74 tỷ USD, tăng 0,34 tỷ so với năm
2004 và đạt 114% so với năm 2004. Tổng kim ngạch xuất khẩu thủy sản năm 2006
đạt 3.1tỷ USD đạt 113% so với năm 2005, tăng 13% . Như vậy kim ngạch xuất khẩu

thủy sản của Việt Nam không ngừng tăng trong những năm vừa qua , với tốc độ tăng
bình quân các năm trên 10%. điều này chứng tỏ hoạt động xuất khẩu thủy sản của
Việt Nam cũng đạt được những kết quả nhất định.
3.2 Sản lượng thủy sản xuất khẩu
Tổng sản lượng thủy sản xuất khẩu của Việt Nam năm 2000 đạt 2 triệu tấn,
đến năm 2005 tổng sản lượng đạt 3,34 triệu tấn. Như vậy sau 5 năm sản lượng đã
tăng 1.34 triệu tấn tương ứng tăng 71.5%, bình quân mỗi năm tăng 0.286 triệu tấn
tương ứng 10.8% so với năm 2005
Về cơ cấu sản lượng thủy sản trong các năm qua đang dần dần thu hẹp khoảng
cách giữa khai thác và nuôi trồng. Năm 2005 sản lượng khai thác là 1.995 triệu tấn,
nuôi trồng là 1,437 triệu tấn băng 72,21% so với sản lượng khai thác. Năm 2006 sản
lượng khai thác 2,13 triệu tấn, nuôi trồng là 1,67 triệu tấn bằng 78,5% so với khai
thác. Như vậy qua các năm từ năm 2000 đến nay tỷ trọng sản lượng nuôi trồng đang
có xu hướng tăng nhanh hơn tốc độ của khai thác. điều này là hoàn toàn phù hợp với
quá trình phát triển ngành thủy sản bởi lẽ tiềm năng khai tháclà có hạn và tiềm năng
nuôi trồng là vô hạn. Chúng ta phải giảm khai thác và tăng sản lượng nuôi trồng để
tránh cạn kiệt nguồn tài nguyên
Hoàng Khánh Dư Lớp: KTNN&PTNT 45
10
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Khoa: KTNN & PTNT
3.3 Cơ cấu thị trường xuất khẩu thủy sản
Trước đây thị trường xuất khẩu thủy sản của Việt Nam khá hạn hẹp, Đến nay
Việt Nam đã xuất khẩu thủy sản đến khoảng 80 nước và vùng lãnh thổ trên thế giới.
Trong một số thị trường xuất khẩu, thị trường Mỹ có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, thị
trường Nhật Bản trược kia chiếm tỷ trọng 50-60% kim ngạch xuất khẩu thủy sản của
Việt Nam, đến nay chỉ còn dưới 30%, Mỹ đã vượt lên thay thế Nhật Bản trở thành thị
trường Xuất khẩu số một của Việt Nam vào năm 2001 và chiếm 38% kim ngạch xuất
khẩu thủy sản của Việt Nam năm 2005. Trung Quốc trước đây chỉ chiếm khoảng 2%
kim ngạch xuất khẩu thủy sản của Việt Nam, đã vươn lên đứng thứ 3 sau Mỹ và Nhật
Bản và chiếm 18% vào năm 2005. Thị trường EU tăng rất mạnh mẽ nhưng tỷ trọng

chỉ chiếm từ 8-10 %. Cơ cấu thị trường xuất khẩu thủy sản của Việt Nam trong
những năm gần đây đã có sự biến đổi tích cực, đang có xu hướng đa dạng các thị
trường tiêu thụ và dần có sự cân bằng giữa các thị trường xuất khẩu tăng cường khai
thác các thủy sản tiềm năng như Trung Quốc, Mỹ, EU.
4. Những kinh nghiệm phát triển xuất khẩu thủy sản của Việt Nam
4.1. Tôm Việt Nam bị kiện bán phá tại thị trường Hoa Kỳ
4.1.1. Thông tin chung :
Việc một mặt hàng bị kiện bán phá giá là việc phổ biến trong hoạt động thương
mại giữa các nước hiện nay. Bà Đinh Thị Mỹ Loan cho biết trong vòng 10 năm từ
năm 1995 đến nay các doanh nghiệp thuộc thành viên của WTO đã đương đầu với
2840 vụ kiện bán phá giá trong đó 1804 trường hợp được kết luận bán phá giá, chiếm
63.25% trong đó năm 2002 và 2003 được coi là những năm có số vụ bán phá giá
được kết luận nhiều nhất trong vòng 5 năm qua. Nhưng doanh nghiệp làm ăn tại thị
trường Mỹ là dễ bị kiện nhất.
Còn đối với Việt Nam: Theo cục cạnh tranh,tính đến tháng 8/ 2006 , Việt Nam
đã đương đầu với 28 vụ kiện bán phá giá .Trong đó đã có 23 vụ trường hợp được kết
luận là có bán phá giá và đã bị áp thuế chống bán phá giá, có 3 vụ kiện tính từ 1994 –
1998 rơi vào các mặt hàng như gạo, mỳ chính, giầy dép hai vụ tỏi và bật lửa (trong
Hoàng Khánh Dư Lớp: KTNN&PTNT 45
11
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Khoa: KTNN & PTNT
năm 2000 – 2001) . Năm 2004 – 2005 kỷ lục về số vụ bán phá giá được các thị
trường EU, Achentina, Ai Cập, Thổ Nhĩ Kỳ, Pêru khởi kiện doanh nghiệp Việt
Nam.
Phải chăng xuất khẩu tôm của Việt Nam càng tăng mạnh, hoạt động thương mại
diễn ra càng nhiều thì các vụ kiện bán phá giá cũng vì thế mà nhiều hơn ?
Cục cạnh tranh cho biết các vụ kiện của Việt Nam chủ yếu các mặt hàng xuất
khẩu lớn như cá, tôm, giầy dép, dệt may… Và các trường hợp của Việt Nam đều
chung thời điểm các nước bị kiện như Trung Quốc , Thái Lan, Ấn Độ. Và tựu chung
hầu hết các vụ kiện bán phá giá Việt Nam đều thua (23/28 vụ) . Phải chăng có mặt

hàng nào mà Việt Nam bị kiện thì việc chúng ta bị thua là điều không tránh khỏi ?
4.1.2. Diễn biến vụ việc tôm Việt Nam bị Hoa Kỳ kiện chống bán phá giá.
Vào năm 2005 tôm Việt Nam khi xuất sang Hoa Kỳ chính thức bị bộ thương
mại Hoa Kỳ (DOC) cáo buộc bán phá giá và áp thuế chống bán phá giá theo quyết
định cuối cùng của Bộ Thương Mại là : Seaprodex Minh Hải (Bạc Liêu ) 4,3% ,
Minh Phú (Cà Mau ) 5.24 %, Kim Anh (Sóc Trăng ) 25,76 % ; Các doanh nghiệp là
bị đơn tự nguyện 4,57% và toàn bộ doanh nghiệp khác là 25,67% . Chi phí để xem
xét lại đối với các mức thuế với 1 công ty là 75000USD . Sau khi được lựa chọn các
công ty có 30 ngày để quyết định có đồng ý tham gia quá trình xem xét lại hoặc rút
lui .
Tin từ mạng seafood.com cho biết tại Ấn Độ có ít nhất 25 công ty xuất khẩu
tôm lớn được dự đoán sẽ nộp đơn tham gia quá trình xem xét lại thuế chống bán phá
giá năm nay, trong đó có công ty Seafood (bị áp thuế 4,9% và HLL(15,36).
Theo quy trình, Bộ Thương Mại Mỹ được lựa chọn 3 công ty bất kỳ trong tổng
những công ty nộp đơn và tiến hành xem xét lại mức giá xuất khẩu của họ trong vòng
1 năm so với đánh giá ban đầu . Kết thúc quá trình DOC sẽ xác định mức thuế mới
cho những công ty này, và tính toán mức thuế trung bình để áp dụng cho tất cả các
công ty khác .
Theo các luật sư đã quen với quá trình xem xét lại thuế chống bán phá giá, trong
hầu hết các trường hợp mức thuế chung đều được hạ bớt “ Việc các công ty nộp đơn
Hoàng Khánh Dư Lớp: KTNN&PTNT 45
12
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Khoa: KTNN & PTNT
xin xem xét lại mức thuế cũng có thể ngăn cho DOC ra lệnh cho hải quan Mỹ tiến
hành thu lại các khoản thuế phải nộp của các lô hàng nhập khẩu trong năm trước, vì
khoản tiền này có thể thay đổi.’’ Tuy nhiên DOC cũng có thể từ chối tiến hành xem
xét lại nếu khối lượng công việc quá lớn và DOC không có đủ nhân lực .Vụ kiện tôm
là một trong những vụ kiện chống bán phá giá lớn và phức tạp nhất từ trước đến nay,
và DOC luôn gặp phải những vấn đề về nhân lực để xử lý hết các đơn xin xem xét lại
mức thuế của các công ty .

Ngày 3/4/2006 Bộ Thương Mại Mỹ DOC ra thông báo bắt đầu triển khai quá
trình xem xét lại mức thuế đối với tôm nhập khẩu từ 6 nước gồm Thái Lan, Ấn Độ,
Trung Quốc, Braxin, Ecuador và Việt Nam. DOC cũng cho biết đã nhận được đơn
yêu cầu xem xét lại mức thuế áp lên tôm nước ấm , tôm đông lạnh nhập khẩu từ công
ty chế biến thủy sản các nước. Trong số này , số lượng các công ty Ấn Độ nộp đơn
xin xem xét lại mức thuế yêu cầu của bên nguyên đông nhất lên đến 348 công ty, tiếp
sau là Trung Quốc với 163 doanh nghiệp , Ecuador 72 doanh nghiệp , Thái Lan 145
doanh nghiệp và Braxin 54 doanh nghiệp .
Theo danh sách bên nguyên đưa ra , có tới 84 công ty của Việt Nam nằm trong
diện bị xem xét lại mức thuế . Song thực tế tổng số doanh nghiệp Việt Nam xuất
khẩu vào thị trường Mỹ chỉ trên dưới 50 doanh nghiệp . Phó tổng thư ký hiệp hội chế
biến và xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam(VASEP) Trương Đình Hòa cho biết danh sách
mà CFA đưa ra lấy từ Hải Quan Mỹ, có rất nhiều tên trùng, hoặc có cả tên các doanh
nghiệp , cá nhân không xuất khẩu tôm qua Mỹ .
Một động thái khác cũng liên quan và tác động mạnh mẽ đến diễn biến vụ kiện ,
đó là Bộ Thương Mại Thái Lan đã chính thức gửi đơn kiện nên tổ chức thưong mại
thế giới WTO lý do , Vụ việc này thực hiện chính sách thương mại bất bình đẳng đối
với tôm xuất khẩu của Thái Lan . Theo thông lệ WTO sẽ ra phán quyết cuối cùng sau
12-14 tháng . Tuy nhiên nếu Mỹ chấp nhận huỷ bỏ bond ( Ký quỹ - đặt cọc 100% giá
trị hàng hoá ) trong vòng 60 ngày kể từ ngày Thái Lan gửi đơn thì vụ kiện sẽ được
huỷ bỏ. Trước đó, hiệp hội thuỷ sản Hoa Kỳ NFI và hiệp hội xuất khẩu thuỷ sản Ấn
Độ cũng nộp đơn kiện tính bất hợp pháp của quy định này lên WTO .
Hoàng Khánh Dư Lớp: KTNN&PTNT 45
13
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Khoa: KTNN & PTNT
Nhận xét về vụ việc này, ông Trương Đình Hoà nói : đây là diễn biến tích cực
đối với vụ kiện, nhất là trong thời điểm giao dịch , nhập khẩu tôm hiện nay đang
chậm lại do các nhà nhập khẩu lo ngại rủi ro khi xem xét lại mức thuế .
Đối với một bạn hàng lớn như Hoa Kỳ thì vụ kiện trên ảnh hưởng không nhỏ
đến tình hình xuất khẩu tôm của Việt Nam. Ghi nhận từ các doanh nghiệp bị áp thuế :

với mức thuế xuất như vậy việc cạnh trạnh sẽ gặp rất nhiều khó khăn khi ưu thế duy
nhất của tôm Việt Nam lâu nay đó là giá đã không còn tác dụng . Như thế sẽ đẫn đến
việc thị trường Hoa Kỳ gần như bị khép lại đối với tôm Việt Nam nếu không có kết
quả tích cực từ tranh chấp thương mại .
4.1.3. Nguyên nhân Việt Nam bị cho là có bán phá giá
Theo căn cứ bên phía Hoa Kỳ tôm Việt Nam bán phá giá đó là : giá xuất khẩu
< giá trị thông thường . Vậy tại sao họ lại cho là như vậy , còn phía các doanh nghiệp
Việt Nam lại không cho là như vậy. Nguyên nhân chính là phía Hoa kỳ đặt các điều
kiện khác nhau để tính giá tôm Việt Nam có thể kể ra đó là : Việt Nam chưa tính tới
một số chi phí như :
- Môi trường
- Chi phí xã hội
- Giá lao động
Lấy nước thứ 3 không cơ bản để so sánh. Sự việc đó có hay không ? Xin trả lời
là có :
Thứ nhất : Theo ghi nhận của trang vneconomy.com.vn Tại tỉnh An Giang nơi
xuất khẩu tôm lớn nhất cả nước thì tình hình ô nhiễm nguồn nước là cô cùng nghiêm
trọng. Tại nhà máy công ty Nam Việt chuyên chế biến tôm xuất khẩu vào thị trường
Hoa Kỳ. Nhiều người dân sống quanh đấy cho biết, ống dẫn nước thải của nhà máy
chảy thẳng ra sông có màu đen đậm đặc không chịu được. Màu đen này hoà vào sông
Hậu và loang ra cả 1 vùng rộng lớn.
Được biết, mỗi ngày các nhà máy của Việt Nam thải vào môi trường hơn 3000
m
3
, nhưng chỉ xử lý 400m
3
. Lượng nước thải sẽ cao hơn khi nhà máy tăng công suất.
Tôm chết công nhân nhà máy vô tư ném xuống sông. Người dân ở đây sống trong
Hoàng Khánh Dư Lớp: KTNN&PTNT 45
14

Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Khoa: KTNN & PTNT
tình trạnh sử dụng nguồn nước ô nhiễm và không khí bị ô nhiễm nặng. Bà con cho
biết bệnh đường ruột và đường hô hấp đã trở thành kinh niên .
Mấy năm rồi bà con phường Bình Đức sống chung với chất thải của nhà máy ở
đây. Bà con cũng phản ánh nước bốc mùi thối quá không chịu được nhiều lần gửi
đơn . Nhưng nhà máy với chiêu “công nhân trong nhà máy là con em tại địa phương
nên lại thôi “ và chuyện lại đâu vào đấy” .
Hiện nay trên địa bàn tỉnh An Giang có hơn 13 nhà máy chế biến tôm, cá xuất
khẩu, hầu hết các nhà máy đều làm không tốt khâu xử lý chất thải. Ông Lâm Minh
Chiếu - trưởng ban điều hành sản xuất và tiêu thụ xuất khẩu thuỷ sản - chủ tịch
UBND tỉnh An Giang cho biết : Trong thời gian qua UBND tỉnh đã xử rất nhiều đoàn
làm việc với nhà máy, kiểm tra hệ thống xử lý nước thải. Qua kiểm tra tỉnh đã thống
nhất phải kiên quyết xử lý những nhà máy không thực hiên cam kết với các cơ quan
chức năng về vấn đề ô nhiễm môi trường, thậm chí tỉnh chấp nhận đóng cửa những
nhà máy cố tình vi phạm .
Hầu hết các nhà máy chế biến thuỷ sản An Giang đều năm trong khu dân cư.
Riêng khu tiểu thủ công nghiệp Mỹ Quí thành phố Long Xuyên có 4 nhà máy chế
biến thuỷ sản Nam Việt, Cửu Long, Tuấn Anh và An Xuyên xây dựng đã không đúng
mục đích ban đầu khi thành lập tiểu khu công nghiệp. Cả 4 nhà máy đều không xử lý
hết lượng nước thải của nhà máy, còn nước thải đã qua xử lý lại không đảm bảo yêu
cầu .
Không chỉ những nhà máy tại An Giang mà hầu hết các nhà máy xuất khẩu
tôm Việt Nam vào thị trường Mỹ đều xảy ra tình trạng này . Đây cũng là cớ mà
Hoa Kỳ bắt bí ta khi kiện bán phá giá . Vì những điều này bên phía Hoa Kỳ thực hiện
rất tốt .
Thứ hai : Từ vấn đề các nhà máy chế biến nằm trong khu dân cư kéo theo các
vấn đề xã hội. Điều này chúng ta ít để ý khi xuất sang thị trường Hoa Kỳ, nhưng phía
đối tác lại có. Ở Việt Nam tình trạng ô nhiễm nguồn nước kéo theo người dân sống
xung quanh nhà máy bị các bệnh về đường hô hấp, đường ruột, trong khi người dân
vô cùng bức xúc thì các nhà máy lại làm ngơ coi như không biết và cũng không phải

Hoàng Khánh Dư Lớp: KTNN&PTNT 45
15
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Khoa: KTNN & PTNT
chịu tổn thất gì. Trong các vụ kiện kéo dài vẫn với các chiêu bài cũ để làm yên
chuyện. Như vậy vấn đề vẫn không được giải quyết triệt để mà lại tìm cách trốn tránh
trách nhiệm. Do đó trong giá thành xuất khẩu không tính đến chi phí xã hội mà đáng
lẽ ra nhà máy phải có nghĩa vụ giải quyết .
Thứ ba : Việc bị so sánh với các nước thứ ba không cơ bản cũng là bất lợi đối
với các doanh nghiệp xuất khẩu tôm Việt Nam sang thị trường hoa Kỳ vì với các
nước trung Á như bangladet, Pakitan với nguồn lợi mặt nước là rất thấp, chi phí cao
thì việc so sánh là hết sức khập khiễng thậm chí nếu không muốn nói là vô lý. Điều
này cũng làm cho phía Hoa Kỳ cho rằng tôm Việt Nam có bán phá giá.
Thứ tư : Chính phủ Hoa Kỳ chưa bao giờ công nhận Việt Nam là nền kinh tế thị
trường. Biểu hiện là bên phía Hoa Kỳ chưa trao cho Việt Nam quy chế thương mại
bình thường vĩnh viễn PNPR. Đây là cái cớ để Bộ Thương Mại Mỹ DOC và các
doanh nghiệp chế biến tôm ở Mỹ cáo buộc nhà nước Việt Nam có trợ giá cho các
doanh nghiệp tôm xuất khẩu sang Hoa Kỳ. Đây cũng là vấn đề tranh cãi chính trong
các phiên sử tôm Việt Nam có bán phá giá hay không . Vấn đề này rất khó giải quyết
nếu chỉ dựa vào nỗ lực của doanh nghiệp Việt Nam .
Ngoài ra một nguyên nhân cũng khá quan trọng khiến cho mặt hàng tôm xuất
khẩu Việt Nam cùng với 5 nước khác gồm: (Ấn Độ , Thái Lan, Trung Quốc, Braxin,
Ecuador)bị khởi kiện là do: Các doanh nghiệp chế biến tôm ở Mỹ, nhiều năm nay
không cạnh tranh được với các nước xuất khẩu tôm chỉ chiếm thị phần rất nhỏ trong
thị trường Mỹ. Do lợi ích bị ảnh hưởng nên tìm cách gây sức ép lên chính quyền mà
cụ thể là Bộ Thương Mại Mỹ DOC khởi kiện các nước xuất khẩu tôm lớn vào thị
trường Mỹ làm đe dọa tới lợi ích của các doanh nghiệp Mỹ.
4.2. Dư lượng kháng sinh trong tôm xuất khẩu Việt Nam
Sau rào cản thương mại gần đây các doanh nghiệp xuất khẩu đang vấp phải khó
khăn mới khó giải quyết hơn nhiều đó là những rào cản kỹ thuật của các nước nhập
khẩu. Xu hướng chung là các nước sử dụng ngày càng nhiều công cụ này nhằm hạn

chế các mặt hàng mang tính nhậy cảm như tôm để bảo vệ các doanh nghiệp trong
Hoàng Khánh Dư Lớp: KTNN&PTNT 45
16
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Khoa: KTNN & PTNT
nước đồng thời cũng bảo vệ người tiêu dùng của nước họ. Vì thế nó đã và đang đe
doạ rất lớn đến các doanh nghiệp xuất khẩu của Việt Nam
4.2.1. Các doanh nghịêp tự giết mình
Nhật Bản là bạn hàng truyền thống và lớn nhất của tôm xuất khẩu Việt Nam
( giá trị xuất khẩu hàng năm khoảng 500 – 600 tr USD trong tổng số hơn 1 tỷ USD
của tôm xuất khẩu )
Thế nhưng đã qua rồi “tuần trăng mật”, tôm Việt Nam hiện đang “mắc cạn“ tại
các thị trường truyền thống bởi các doanh nghiệp tự …giết mình hết mực đến tôm
Kể từ lúc Nhật Bản áp dụng lệch kiểm tra 100% đối với mặt hàng mực của Việt
Nam từ cuối tháng 7/2006, chỉ trong 8 tháng Bộ Y Tế và Lao Động Nhật Bản lại liên
tiếp phát hiện thêm 10 trường hợp khác của 7 doanh nghiệp có lô hàng có dư lượng
kháng sinh và vi trùng đường ruột, những chất không được phép có trong thực phẩm
theo luật vệ sinh an toàn thực phẩm của Nhật.
Điều này đồng nghĩa buộc các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam phải thu hồi
hay tiêu huỷ tại chỗ các lô hàng này. Tổng số là 20 tấn mực đông lạnh . Các cơ quan
chức năng Việt Nam chưa kịp cảnh báo và chấn chỉnh thì cuối tuần qua, phía Nhật
Bản bất ngờ công bố tăng cường kiểm tra tôm nhập khẩu từ Việt Nam với mức độ
kiểm tra là 50 % thay vì trước đó chỉ là 5 % . Nguyên nhân do phía Nhật Bản phát
hiện 4 lô tôm có nguồn gốc từ Việt Nam nhập khẩu vào Nhật có dư lượng kháng sinh
cấm sử dụng .
Ông Trương Đình Hòa cho biết: Việc kiểm tra chất lượng các lô hàng thuỷ sản
nhập khẩu vào thị trường có 3 cấp độ ( 5 %, 50%, và 100% ). Sau đó, nếu tình hình
không được cải thiện, các cơ quan chức năng Nhật Bản ban hành lệnh cấm nhập khẩu
đối với mặt hàng vi phạm. Như vậy hiện nay mặt hàng mực đông lạnh của Việt Nam
đang ở tình trạng “báo động đỏ” và mặt hàng xuất khẩu tôm chủ lực đang ở cấp độ
2 . Làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến uy tín của toàn ngành .

Đây không phải là điều đầu tiên và thị trưòng Nhật không phải là duy nhất “dị
ứng “với các mặt hàng thủy sản Việt Nam.
Hoàng Khánh Dư Lớp: KTNN&PTNT 45
17
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Khoa: KTNN & PTNT
Một số nước EU và mới đây là thị trường Nga cũng phát hiện hàng xuất khẩu
cá tra, cá basa của một vài doanh nghiệp Việt Nam kém chất lượng . Theo phân tích
của một số doanh nghiệp thuỷ sản, việc hàng xuất khẩu nhiễm dư lượng kháng sinh
có hai khả năng ( Thứ nhất: doanh nghiệp chủ quản trong vấn đề kiểm tra nguồn
nguyên liệu đầu vào. Thứ hai: Ngư dân, đại lý thu mua,các cơ sở chế biến hải sản sử
dụng hoá chất không rõ nguồn gốc, thành phần để bảo quản ) Việc tăng cấp độ kiểm
tra chất lượng hàng nhập khẩu gây tâm lý e ngại về phía các doanh nghiệp nhập khẩu.
Bởi chi phí cho việc kiểm tra sẽ tăng theo cấp độ 5% , 50% , 100% , và chi phí
này các doanh nghiệp nhập khẩu phải trả, dẫn đến hiệu quả kinh doanh không còn.
Việc đánh mất niềm tin và uy tín không những doanh nghiệp tự “đóng cửa” với mình
mà còn giết chết một thị trường tiềm năng, chiến lược của cả ngành . Ông Lực phát
biểu: Trước “sức ép“ Nhật Bản liên tục phát hiện sản phảm mực tôm của Việt Nam
vi phạm luật vệ sinh an toàn thực phẩm, trong khi Bộ Thương Mại sót ruột “ với tốc
độ này , uy tín mặt hàng xuất khẩu của ta sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng “ . Ngành chủ
quản là Bộ Thuỷ Sản thì đủng đỉnh chỉ đạo : “các cơ sở tổ chức đợt kiểm tra tăng
cường biện pháp bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm , đặc biệt là việc sử dụng hoá
chất kháng sinh…Thông báo cho Bộ Thuỷ Sản kết quả triển khai. Trước sức ép hội
nhập, yêu cầu tiêu dùng các sản phẩm an toàn của thế giới ngày càng khắt khe.
Nhưng Bộ Thuỷ Sản vẫn sử dụng cách xử lý “vô thưởng vô phạt” chưa thể hiện vai
trò điều tiết của mình.
4.2.2. Nguyên nhân rút ra từ sự kiện trên
Thứ nhất: Từ phía các doanh nghiệp, không có tiêu chuẩn rõ ràng trong khâu
thu mua, chế biến và xuất cảng là lý do chính hay nói đúng hơn là các doanh nghiệp
chưa có sự đầu tư cho các sản phẩm nhậy cảm của mình. Không những thế do nước
ta bắt đầu mở cửa hội nhập, còn các doanh nghiệp cung mới “ chập chững “ tìm

hướng đi (tìm đầu ra ) do vậy bài học kinh nghiệm trên thị trường quốc tế là không
nhiều đồng thời lại không có sự hướng dẫn của các cơ quan chức năng nên có tình
trạng có doanh nghiệp chưa ý thức được hoạt động kinh doanh sai phạm của mình mà
điều đó có thể ảnh hưởng toàn bộ hoạt động xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam.Vì thế
Hoàng Khánh Dư Lớp: KTNN&PTNT 45
18
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Khoa: KTNN & PTNT
họ không chuẩn bị kỹ cũng như tìm hiểu những yêu cầu cần thiết cho hoạt động sản
xuất của mình.
Thứ hai : Từ phía ngư dân, chủ trang trại, đại lý thu mua, các cơ sở chế biến hải
sản
Đó là tình trạng sử dụng hoá chất không rõ nguồn gốc, thành phần để nuôi và
bảo quản. Nguyên nhân sâu xa hơn xuất phát từ phía doanh nghiệp đã lây sang những
người nông dân chỉ biết nuôi trồng khai thác theo hợp đồng với các doanh nghiệp chế
biến, đại lý thu mua. Họ mặc sức nuôi trồng đánh bắt bảo quản theo ý mình sao cho
chi phí thấp nhất mà không thấy tác hại lâu dài bởi hành động của mình. Cùng với đó
là sự hiện hữu của nhà nước trong các hoạt động này và cũng như phong trào nuôi
tôm hàng loạt ( nuôi theo phong trào sẽ dẫn đến tình trạng đổ xô vào nuôi không tinh
đến đầu ra cho sản phẩm và rồi đến khi thất bại hay gặp rủi ro những hộ nông dân lại
rủ nhau theo phong trào phá hàng loạt ) đã và đang làm cho vấn đề ngày càng nghiêm
trọng hơn .
Thư ba : Nhà nước và các cơ quan chủ quản có liên quan trực tiếp là Bộ Thuỷ
Sản chưa thực sự vào cuộc có thể coi là nhân tố không nhỏ cho những khó khăn trên.
Chỉ khi tôm xuất khẩu Việt Nam gặp phải vướng mắc thì các cơ quan chức năng mới
“giật mình” cảnh báo cho các doanh nghiệp có liên quan và cũng để cảnh báo cho
mình, chứ không có chuẩn bị từ trước về những rào cản kỹ thuật này. Đó là biểu hiện
của việc quản lý điều hành, phối hợp không hiệu quả các hoạt động nuôi trồng, khai
thác, chế biến xuất khẩu của nhà nước. Tạo tình trạng chạy theo sau để giải quyết khó
khăn trước mắt chứ không phải là dự báo ngăn chặn trước khi diếu đó xảy ra .
4.3. Con tôm ôm sổ đỏ

Đó là đặc trưng rõ nét nhất, phản ánh đầy đủ nuôi tôm theo phong trào đang
diễn ra hiện nay. Mặc dù giá trị xuất khẩu tôm của Việt Nam rất khả quan (1,4 – 1,5
tỷ USD vào năm 2006 ). Tuy nhiên những người trực tiếp tạo ra mặt hàng chủ lực để
xuất khẩu lại đang lao đao thậm chí nhiều hộ nông dân bị vỡ nợ. Điều này sẽ là khó
khăn trở ngại không nhỏ cho những đóng góp của tôm xuất khẩu trong những năm
tiếp theo. Bởi vì nếu hiện tượng này không được giải quyết ổn thoả và triệt để sẽ lại
Hoàng Khánh Dư Lớp: KTNN&PTNT 45
19
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Khoa: KTNN & PTNT
có một phong trào mới xẩy ra nhưng tiếc thay đó sẽ là phong trào hàng loạt những hộ
nông dân phá sản và chuyển sang nuôi trồng mặt hàng khác. Như vậy xuất khẩu tôm
có giá trị lớn nhưng ẩn đằng sau nó là nguồn cung không đảm bảo cho xuất khẩu .
4.3.1. Thất bại từ những dự án chạy theo phong trào
Rất nhiều sổ đỏ của nông dân Bạc Liêu đang nằm trong ngân hàng với những
món nợ lên tới 1100 tỷ đồng, trong đó nợ xấu khó đòi là trên 230 tỷ đồng là minh
chứng thuyết phục nhất cho tình trạng này.
Một liên tưởng khác khiến chúng ta thấy mức độ nghiêm trọng của vấn đề: nếu
tính tổng diện tích số sổ đỏ của người dân Bạc Liêu thế chấp để vay ngân hàng chúng
ta sẽ được diện tích bằng nửa sân bóng đá, còn nếu xếp dọc số sổ đỏ này kết quả thu
được là 10 cây số. Hậu quả thật nặng nề cho người dân.
Ở các xã Vĩnh Mỹ A, Vĩnh Hậu, Vĩnh Hậu A của huyện Hoà Bình (Bạc Liêu )
sự thất bại của phong trào nuôi tôm sú được thể hiện rõ nét qua những tấm bảng rao
bán đất được dựng lên giữa những đồng tôm . Người dân ở đây cho biết lí do họ phải
rao bán là vì nhiều năm liên nuôi tôm bị thất bại .
Ông Hải xã Vĩnh Mỹ A cho biết : Trước đây nhà ông có trong tay cả trăm công
ruộng, mỗi vụ thu về trên 100 tấn lúa. Từ khi chuyển sang nuôi tôm thì đất đai lân
lượt “đội nón“ ra đi, tiền chuyển nhượng đất được gần 700 tr cũng đã đi theo con tôm
sú hết rồi. Giờ đây chỉ còn vài công đất còn sót lại ông rao bán cung không có ai mua,
trong khi sổ đỏ đang nằm trong ngân hàng không biết bao giờ mới lấy ra được vì nợ
trong nợ ngoài đang đẻ lãi từng ngày .

Tương tự: Anh Dương Chí Linh ở xã Vĩnh Hậu trước đây cũng là một đại gia
trong giới nuôi tôm. Những chỉ sau năm mùa tôm thất thu anh buộc phải bán toàn bộ
đất đai, nhà cửa để lấy tiền trả nợ.
Xã Vĩnh Hậu A thật sự là “điểm nóng“ của ”mô hình” con tôm ôm sổ đỏ vì
phần lớn hộ nông dân đều thế chấp sổ đỏ để vay tiền. Anh Ba Hưng ”điển hình“ của
phong trào chuyển dịch sản xuất từ cây lúa sang con tôm, từng cầm trong tay bạc tỷ
lảm chủ cả chục chiếc xe cuốc, xe ủi…Nhưng sau ba vụ tôm thất bại anh bán tất cả
tài sản qúy giá của mình để đổ vào mấy ao tôm còn lại với hy vọng gỡ được ít vốn.
Hoàng Khánh Dư Lớp: KTNN&PTNT 45
20
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Khoa: KTNN & PTNT
Tuy nhiên vụ tôm vùa rồi anh tiếp tục thua lỗ, không chỉ trắng tay anh Hưng con
thiếu nợ ngân hàng và nợ bên ngoài với tổng số tiền lên đến gần 300 tr .
Mất bò mới lo làm chuồng : Khi nông dân vỡ nợ nhiều ngân hàng cũng “nóng
ruột” vì có đến 25% nợ vay thuộc diện khó đòi ( gấp 4 lần theo quy định của nhà
nước ). Tổng dư nợ nuôi trồng thuỷ sản ở 5 xã trong huyện Hoà Bình tại ngân hàng
công thương chi nhánh Bạc Liêu là 24,2 tỷ đồng nhưng kỳ thu nợ gần đây chỉ thu
được 1 hộ với số tiền 60 triệu đồng.
Ngoài ngân hàng công thương, hiện nay nơi “được” nông dân nợ nhiều nhất là
ngân hàng nông nghiệp & phát triển nông thôn. Ông Trần Văn Cường giám đốc ngân
hàng cho biết :
Hiện nay toàn huyện có đến 10247 hộ vay vốn, tổng dư nợ lên đến 225,5 tỷ
đồng, trong đó 4257 hộ thế chấp “sổ đỏ” vay 132,5 tỷ đồng để nuôi tôm. Đến nay
tổng số nợ quá hạn tại ngân hàng này liên quan đến con tôm là 88,2 tỷ đồng (3270
hộ). Theo quy định nếu nông dân không trả nợ thì ngân hàng sẽ nhờ đến cơ quan
pháp luật kê biên tài sản thế chấp để phát mãi thu nợ. Tuy nhiên, đất nuôi tôm hiện
nay bán chẳng ai mua làm sao ngân hàng thu được nợ .
Đó là tỉnh Bạc Liêu, còn rất nhiều tỉnh khác tình hình cũng không khả quan hơn
là mấy. Ở các tỉnh như Sóc Trăng, An Giang và các tỉnh miền trung, nuôi tôm giờ
đây không còn là giấc mơ vàng nữa mà nó đã trở thành “đánh bạc“ với số phận của

người nông dân. Đây là khó khăn chung của ngành xuất khẩu tôm Việt Nam, cần
được giải quyết ổn thoả ngay nếu như chúng ta muốn đạt giá trị cao trong xuất khẩu.
4.3.2. Nguyên nhân thất bại và hậu quả để lại
Có hai nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng nan giải này đó là từ phía ngân
hàng và người nông dân .
Thứ nhất : Về phía ngân hàng
Một câu hỏi được đặt ra sau những vụ việc này là ngân hàng đóng vai trò gì
trong hậu quả tiêu cực này. Việc này phải xem xét từ đặc điểm hoạt đông nghiệp vụ
của ngân hàng. Đó là hỗ trợ tư vấn lựa chọn dự án cho các hộ nông dân có nhu cầu
chính đáng . Mục đích là rất tốt tuy nhiên trong qúa trình thực hiện đã xảy ra sai lầm
trong thẩm định dự án và việc cấp vốn hàng loạt cho nhiều hộ dân nuôi tôm phong
trào là nguyên nhân chính. Thêm vào đó là tình trạng không bám sát điều chỉnh kịp
Hoàng Khánh Dư Lớp: KTNN&PTNT 45
21
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Khoa: KTNN & PTNT
thời các dự án . Sự việc nghiêm trọng tới mức 4 giám đốc ngân hàng ở tỉnh Bạc Liêu
được chỉ thị từ cấp trên nếu không xoá được số nợ xấu ( vượt qua 18,8%) trong thời
gian tới thì sẽ bị cắt chức. Trong đó có 1 giám đốc bị đình chỉ chức vụ để chuyển đi
đòi nợ xấu từ người nông dân.
Đây là bài học lớn cho các tỉnh khác vì việc cho nông dân vay ồ ạt chứa đựng
nhiều rủi ro, cũng như việc thẩm định dự án không kỹ càng ( lựa chọn những nông
dân không đủ khả năng) sẽ không chỉ làm vỡ nợ mà cũng còn tự giết mình .
Thứ hai : từ phía người nông dân
Sau khi vấn đề đi đến kết cục không thể cứu vãn thì kết luận mói được đưa ra:
Người nông dân chưa đủ khả năng để thẩm định dự án và tìm ra bệnh cho tôm khi rủi
ro ập đến. Chính vì thế khi tất cả ồ ạt vay vốn, chuyển đổi đất từ trồng lúa sang trồng
tôm thì rất dễ hiểu khi đầu ra không ổn định cộng với con tôm bị bệnh cũng đồng
nghĩa với hàng loạt họ nông dân rơi vào cảnh “sống dở chết dở”. Nói như vậy bởi vì
sau 3 -4 vụ tôm mất mùa liên tục hầu hết các hộ dân đều lâm vào cảnh nợ nần chồng
chất, ruộng đất đã bị bán gần hết để trả nợ, số đất còn lại cũng rất ít, mà muốn trở lại

trồng lúa cũng không thể vì tất cả đất đai đều bị nạo vét nuôi tôm rồi, hơn trồng lúa
hiệu quả thấp thì nông dân bao giờ mới có thể trả hết nợ. Đang từ những ông chủ
nuôi tôm giờ đây họ trở thành người làm thuê ngay trên chính mảnh đất của mình .
Hậu quả để lại ảnh hưởng tiêu cực đến nhiều người, nhiều ngành liên quan và
còn nguy hiểm hơn là người dân không có việc làm và bị đẩy đến đường cùng là điều
kiện lý tưởng để các tệ nạn xã hội nảy sinh. Hậu quả của nó có ảnh hưởng lâu dài và
cần nhiều năm với sự nỗ lực của các cơ quan liên quan và nỗ lực của người dân mới
có thể giải quyết được .
4.4. Mối quan hệ giữa người nuôi và nhà chế biến
Một hiên tượng khá phổ biến trong những năm gần đây đó là thường xảy ra
tranh chấp giữa người nuôi tôm và nhà máy chế biến bất kể là lúc giá tôm lên hay
xuống. Bởi vì quan hệ giữa người nuôi và nhà chế biến mang sẵn trong nó 2 mặt vừa
hợp tác vừa cạnh tranh . Đó là hai mắt xích trong “chuỗi giá trị “ của thuỷ sản Việt
Nam. Nếu chúng ta không sớm giải quyết tình trạng này thì việc tôm Việt Nam bị
mất lợi thế trong cạnh tranh với nước ngoài là khó tránh khỏi. Bởi vì khi không có
sự thông nhất trong giá xuất khẩu tôm cũng sẽ dẫn đến mất lòng tin với các bạn
hàng .
Hoàng Khánh Dư Lớp: KTNN&PTNT 45
22
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Khoa: KTNN & PTNT
Mặt khác hai bên cùng tham gia vào quá trình sản xuất ra sản phẩm để bán ra
thị trường (trong và ngoài nước) mối quan hệ này càng mang tính cộng sinh. Cả hai
bên đều cần sự tồn tại của nhau và hiển nhiên nó chỉ bền vững khi cả hai bên cùng có
lợi. Thêm vào đó là cả hai cùng chia nhau miếng bánh lợi nhuận mà không bên nào
muốn mình bị thiệt. Tuy nhiên không có một tỷ lệ phân chia lợi nhuận nào được coi
là hợp lý hơn cả trong tất cả các trường hợp. Tỷ lệ này hoàn toàn phụ thuộc vào lợi
thế của mỗi bên trong quá trình mặc cả. Lợi thế thuộc về ai tuỳ thuôc vào từng thời
điểm để xét xem bên nào có lợi thế hơn. Trong giai đoạn tôm sắp đạt tới kích thước
thương phẩm tốt nhất (loại 1) thì người nông dân có lợi thế khi doanh nghiệp cần
nguyên liệu để thực hiện đơn đặt hàng, trong khi người nuôi có thể giữ lại tiếp tục

nuôi hoặc bán cho doanh nghiệp khác. Do vậy người nuôi có thể đẩy giá lên cao.Tuy
nhiên điều khó khăn là phải biết đâu là điểm dừng lại trong cuộc mực cả. Đó là mức
giá mà tại đó doanh nghiệp chế biến vẫn có thể có lãi. Nếu vượt qua ngưỡng này việc
mua bán khó có thể diễn ra. Tương quan này không giữ nguyên trong quá trình mặc
cả. Càng kéo dài thời gian ưu thế của người nuôi càng mất đi, mà chuyển dần về phía
doanh nghiệp chế biến. Người nông dân phải bỏ thêm chi phí nhưng con tôm vượt
qua kích thước của loại 1 còn bị giảm giá.
Ngoài ra trên thực tế vào thời điểm của vụ thu hoạch trong các thông kê, lượng
cung tôm nguyên liệu cũng sẽ tăng, trong khi một số thị trường chính, lượng hàng xuất
khẩu lại giảm xuống do trùng vào dịp nghỉ hè. Sự tương quan cung cầu cũng làm giảm
ưu thế của người nông dân góp phần làm giảm giá. Cũng xin lưu ý rằng chỉ cần cung
tăng hay cầu giảm là có thể làm giảm giá mà không cần điều kiện cung vượt quá cầu.
Cung vượt qúa cầu là điều kiện làm cho giá thị trường thấp hơn giá thành sản xuất. Lúc
nào doanh nghiệp có nhiều lợi thế hơn trong mặc cả. Đây chính là thời điểm xảy ra tình
trạng mà người nuôi gọi là “doanh nghiệp éo giá nông dân “.
Ai thoả mãn hơn? Nếu đã không có 1 tỷ lệ chia lợi nhuận nào được coi là hợp lý
thì điều gì quyết định sự thoả mãn của mỗi bên. Thực ra mức độ thoả mãn khác nhau
của 2 phía quyết định từ mức độ bất đối xứng về thông tin .
Trên thực tế người ta thường có xu hướng nhìn sang những hoạt động mua bán
xung quanh mình để tìm kiếm sự hài lòng. Do vậy nếu hộ nông dân bán tôm mà
không có bất cứ thông tin nào để so sánh, người ta luôn có cảm giá mình bán hớ.
Hoàng Khánh Dư Lớp: KTNN&PTNT 45
23
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Khoa: KTNN & PTNT
Cuộc mặc cả trong trường hợp này thường kéo dài và không mang lại sự thoả mãn .
Điều này phần nào giải thích cho việc tại sao chúng ta thường ít thấy những lời than
phiền từ phía doanh nghiệp so với người nông dân. Nói chung doanh nghiệp có điều
kiện tiếp cận thông tin nhanh chóng và dễ dàng hơn nên cảm nhận về mặt bằng giá
tốt hơn .
Trong trường hợp tôm tại vùng ĐBSCL, một lý do nữa gia tăng sự không thoả

mãn của ngưòi dân là họ đã so sánh mặt bằng giá cũ. Do các hộ nuôi tôm thu được
siêu lợi nhuận với tỉ lệ lãi rất cao, một lượng lớn người đã tập trung vào nuôi dẫn đến
lượng cung tăng vọt. Hơn nữa thời điểm diễn ra cuộc tranh cãi là thời điểm vào vụ
thu hoạch, khối lượng cung tăng vọt so với các tháng trước. Thiếu vắng thông tin dự
báo, người nuôi có xu hướng so sánh với lợi nhuận thu được tại các thời điểm trước
đó của mình và của các hộ nuôi khác. Điều này cũng làn nặng thêm tâm lý “thua
thiệt” từ phía người nông dân .
Cũng như nhiều mặt hàng xuất khẩu thủy sản khác của Việt Nam, tôm xuất
khẩu cũng luôn lâm vào cảnh khi giao dịch với quốc tế luôn bị hớ. Lúc thì giá cao
nhưng không gom đủ nguyên liệu để bán, còn khi thu mua đủ nguyên liệu thì giá đã
rớt xuống rồi. Còn đối với người nông dân còn bi đát hơn, cứ mỗi khi được mùa
chúng ta lại nhận được thông tin “các hộ nông dân năm nay được mùa nhưng mất
giá“ hoặc “doanh nghiệp chèn ép giá nông dân“. Còn khi mất mùa sẽ là “ giá tôm lên
cao nhưng người dân không có để bán “ … Đó là một thực trạng đau buồn đã tồn tại
nhiều năm nay. Rốt cuộc nhà doanh nghiệp hay hộ nuôi tôm đều không được lợi như
mong muốn khi giao dịch với bạn hàng quốc tế điều đáng ra chúng ta xứng đáng
được hưởng .
Chương II
THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU THUỶ SẢN CỦA VIỆT NAM.
1. Khái quát về ngành thuỷ sản Việt Nam.
1.1. Quá trình hình thành và phát triển của ngành thuỷ sản Việt Nam.
Quá trình hình thành và phát triển của ngành thuỷ sản Việt Nam
Hoàng Khánh Dư Lớp: KTNN&PTNT 45
24
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Khoa: KTNN & PTNT
Thuỷ sản là một trong những ngành hoạt động kinh tế nằm trong tổng thể kinh
tế xã hội của con người. Thuỷ sản đóng góp vai trò quan trọng trong việc cung cấp
thực phẩm cho nhân loại, không thế nó còn là ngành kinh tế tạo ra công ăn việc làm
cho nhiều cộng đồng nhân dân, đặc biệt nông dân vùng ven biển. Thuỷ sản là ngành
đem lại nguồn thu nhập trực tiếp và gián tiếp cho một bộ phận nhân dân làm nghề

khai thác, nuôi trồng, chế biến và tiêu thụ cũng như ngành dịch vụ cho nghề cá như:
Cảng biển, đóng sửa tàu thuyền, sản xuất nước đá, cung ứng dầu nhớt…và sản xuất
hàng tiêu dùng cho ngư dân. Thuỷ sản có những đóng góp to lớn cho sự khởi động và
tăng trưởng kinh tế quốc dân của nhiều nước.
Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm, các tầng lớp nhân dân nhận thức rõ tầm
quan trọng của bước đi đầu tiên là công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông
thôn: Coi ngành thuỷ sản là ngành mũi nhọn, coi chuyển một bộ phận đất đai đang
canh tác nông nghiệp và làm muối kém hiệu quả hơn sang làm nuôi trồng thủy sản là
hướng đi chủ yếu của biến đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp và nông thôn( Nghị định
09/ NĐ – CP ngày15 /06/2000). Đảng và Nhà nước đã có nhiều chương trình, chính
sách lớn hỗ trợ cho công việc chuyển đổi và phát triển thuỷ sản năm 1998, chương
trình phát triển chế biến và xuất khẩu thuỷ sản năm 1998, hỗ trợ phát triển thuỷ sản:
Các dự án phát triển nuôi tôm công nghiệp; các dự án phát triển nuôi biển.
Ngành thủy sản đã có một thời kỳ khá dài chuyển sang cơ chế kinh tế
mới( khoảng 20 năm) của nền kinh tế hướng theo thị trường có sự quản lý của Nhà
nước. Thủy sản đã có sự cọ xát với kinh tế thị trường và đã tạo ra được một nguồn
nhân lực khá dồi dào trong tất cả các lĩnh vực từ khai thác, chế biến, nuôi trồng đến
thương mại. Trình độ nghiên cứu và áp dụng thực tế cũng tăng lên đáng kể.
Hàng thuỷ sản liên tục giữ thế gia tăng, thế thượng phong và ổn định trên thị
trường thế giới.
Định hướng phát triển.
Hoàng Khánh Dư Lớp: KTNN&PTNT 45
25

×