BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ……………..
----------
TIỂU LUẬN
Vận dụng nguyên tắc thống nhất giữa lý luận
và thực tiễn của chủ nghịa Mác –Lenin trong
việc giảng dạy ngành điện cong nghiệp ở
Quảng Ngãi
Khóa luận triết học CH K13
LỜI NÓI ĐẦU
Để hòa nhập vào sự phát triển của khu vực cũng như quốc tế thì phải phát triển
về mọi mặt tri thức ,kinh tế- xã hội ,giáo dục,văn hóa ,…Chính vì thế trong Đại hội
Đảng lần thứ IX nhấn mạnh chiến lược phát triển kinh tế - xã hội cho 10 năm đầu
của thế kỷ XXI “ Chiến lược đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định
hướng xã hội chủ nghóa, xây dựng nền tảng để đến năm 2010 nước ta trở thành
nước công nghiệp”. Mục tiêu chung là nhằm đưa đất nước ra khỏi tình trạng kém
phát triển và trở thành nước công nghiệp . Từ nhu cầu thực tế đó cùng với xu thế
toàn cầu hóa, đòi hỏi muốn phát triển được thì một nhu cầu thiết yếu đó chính là
phát triển nền kinh tế tri thức, đòi hỏi ngành giáo dục phải có những chiến lược để
phát triển nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu hiện nay. Trước yêu cầu của công cuộc
phát triển đất nước, phải tiếp tục mở rộng quy mô giáo dục đào tạo, điều chỉnh hợp
lý cơ cấu đào tạo theo ngành nghề và theo trình độ, tăng nhanh nhịp độ và tỷ trọng
đào tạo nghề phù hợp với nhu cầu của thị trường lao động.
Trong giáo dục, sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là cần thiết và tất yếu.
Mọi hoạt động giáo dục không thể dừng lại ở lý thuyết suông mà phải được kiểm
nghiệm từ thực tiễn. Mặt khác, thực tiễn sẽ được lý luận hướng dẫn, điều chỉnh để
đạt được hiệu quả cao hơn.
Việc nghiên cứu mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn có ý nghóa rất lớn về
mặt phương pháp luận cho mỗi một giáo viên, nó không những tạo ra cho chúng ta
một phong cách làm việc khoa học, mà còn tránh cho ta những căn bệnh thường mắc
phải khi mà lý luận dạy học đã trở thành mờ nhạt , còn thực tiễn biến đổi từng ngày,
từng giờ và mãi mãi phát triển.
Nhằm trình bày quan điểm của người nghiên cứu về “sự thống nhất giữa lý
luận và thực tiễn” trong dạy học, người nghiên cứu chọn đề tài “Vận dụng nguyên
tắùc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn của chủ nghóa Mác – Lê nin trong việc
giảng dạy ngành Điện công nghiệp ở Quảng Ngãi ”, đồng thời qua đó, xin được
nêu một vài dẫn chứng từ thực tế để minh họa phần trình bày của người nghiên cứu.
Do kiến thức và thời gian có hạn nên khó tránh khỏi những thiếu sót và hạn
chế, rất mong được sự đóng góp ý kiến của thầy .
Người trình bày tiểu luận xin chân thành cảm ơn .
1
Khóa luận triết học CH K13
PHẦN CƠ SỞ LÝ LUẬN
THỰC TIỄN VÀ MỐI QUAN HỆ GIỮA LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
Chủ nghóa duy vật trước Mác nói gì về thực tiễn ?
Các nhà duy vật trước Mác đã có công lao lớn trong việc phát triển thế giới
quan duy vật và đấu tranh chống chủ nghóa duy tâm, tôn giáo và thuyết không thể
biết. Tuy nhiên, lý luận của họ còn nhiều khuyết điểm, mà trong đó khuyết điểm lớn
nhất là không thấy được hoạt động có tính chất lịch sử – xã hội đối với nhận thức, do
đó chủ nghóa duy vật của họ manh tính trực quan. Mác chỉ rõ : “Khuyết điểm chủ yếu,
từ trước cho đến nay của mọi chủ nghóa duy vật (kể cả chủ nghóa duy vật của
Feuerbach) là không thấy đượcvai trò của thực tiễn”.
Phơbách, nhà triết học duy vật lớn nhất trước Mác, tuy có đề cập tới thực tiễn,
song Ôâng không thấy được thực tiễn như là một hoạt đông vật chất cảm tính, có tính
năng động của con người. Do đó, ông coi thường hoạt động thực tiễn, xem thực tiễn
là cái gì đó có tính chất con buôn, bẩn thỉu , ông không hiểu được vai trò của thực
tiễn . ng không hiểu dược vai trò, ý nghóacủa thực tiển đối với việc nhận thức và cải
biến thế giới. Đối với Ông chỉ có hoạt động lý luận mới là quan trọng và mới là hoạt
động đích thực của con người .
Các nhà duy tâm coi thực tiễn là gì ?
Các nhà duy tâm tuy đã thấy được mặt năng động, sáng tạo trong hoạt động
của con người nhưng lại phát triển lên một cách trừu tượng, thái quá. Vì vậy, chủ
nghóa duy tâm cũng chỉ hiểu thực tiễn như là hoạt động tinh thần chứ không hiểu nó
như là một hoạt động hiện thực, hoạt độngvật chất cảm tính của con người . Khi đề
cập đến “ý niệm thực tiễn”, Heghen, nhà triết học duy tâm lớn nhất trước Mác đã có
tư tưởng hợp lý sâu sắc là : bằng thực tiễn, chủ thể tự “nhân đôi” mình, đối tượng
hoá bản thân mình trong quan hệ với thế giới bên ngoài. Song do quan điểm duy tâm
nên ông chỉ giới hạn thực tiễn ở ý niệm, ở hoạt động tư tưởng. Đối với Hêghen, thục
tiễn là một “ logic” .
2
Khóa luận triết học CH K13
Chủ nghóa Mác coi phạm trù thực tiễn không chỉ là phạm trù của lý luận nhận
thức Mácxit, mà còn là phạm trù xuyên suốt toàn bộ lý luận của mình !
Mác đã kế thừa những yếu tố hợp lý và khắc phục những thiếu sót trong quan
điểm của các nhà triết học trứơc đó về thực tiễn, Mác và ngghen đã đem lại một
quan niệm đúng đắn, khoa học về thực tiễn và vai trò của nó đối với nhận thức cũng
như sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người . Các ông không những tham gia
trực tiếp vào hoạt động thực tiễn cách mạng của giai cấp vô sản mà còn dựa trên
thực tiễn xã hội để khái quát, phát triển lý luận cách mạng. Nhờ đó, làm cho lý luận
gắn bó chặt chẽ với thực tiễn, trở thành vũ khí nhận thức thế giới và cải tạo thế giới.
Với việc đưa ra phạm trù thực tiễn và lý luận của mình, Mác và ngghen đã thực
hiện một bước chuyển biến cách mạng trong lý luận nói chung và lý luận nhận thức
nói riêng. Lênin nhận xét rằng : “Quan điểm về đời sống, về thực tiễn phải là quan
điểm thứ nhất và cơ bản của lý luận nhận thức” .
Vậy Thực tiễn là gì ?
Thực tiễn là toàn bộ những hoạt động vật chất có mục đích,mang tính lịch sử
- xã hội của con người, nhằm cải biến tự nhiên và xã hội .
Thực tiễn không phải bao gồm toàn bộ hoạt động của con người, mà chỉ là
những hoạt động vật chất (để phân biệt với hoạt động tinh thần, hoạt động lý luận),
hay nói theo thuật ngữ của Mác là hoạt động cảm tính của con người. Trong hoạt
động thực tiễn, con người phải sử dụng các phương tiện, công cụ vật chất , sức mạmh
vật chất của mình tác động vào tự nhiên, xã hội để cải tạo, biến đổi chúng phù hợp
vớ nhu cầu của mình. Bằng hoạt động thực tiễn, con người làm biến đổi bản thân sự
vật trong hiện thực, từ đó làm cơ sở để biến đổi hình ảnh của sự vật trong nhân thức.
Do đó, hoạt động thực tiễn la hoạt động có tính năng động, sánh tạo, là hoạt động đối
tượng hóa, là quá trình chuyển hóa cái tinh thần thành cái vật chất. Hoạt động thực
tiễn là quá trình tương tác giữa chủ thể và khách thể, trong đó chủ thể hướng vào
việc cải tạo khách thể; trên cơ sở đó nhận thức khách thể. Vì vậy, thực tiễn trở thành
khâu trung gian nối liền ý thức con người với thế giới bên ngoài .
Hoạt động thực tiễn là hoạt động bản chất của con người, là hoạt động đặc
trưng cho con người. Nếu động vật chỉ hoạt động theo bản năng, nhằm thích nghi một
cách thụ động với thế giới bên ngoài, thì con người nhờ vào thực tiễn – như là một
hoạt động có ý thức, có mục đích của mình mà cải tạo thế giới để thoả mãn nhu cầu
của mình, thích nghi một cách có chủ động, tích cực với thế giới và để làm chủ thế
giới. Con người không thể thỏa mãn với những gì mà tự nhiên cung cấp cho mình
dưới dạng có sẵn. Con người phải tiến hành lao động sản xuất để làm ra của cài vật
3
Khóa luận triết học CH K13
chất để nuôi sống mình . Để lao động và lao động có hiệu quả, con người phải biết
chế tạo ra công cụ và sử dụng công cụ lao động. Bằng hoạt động thực tiễn , trức hết
là lao động sản xuất, con người tạo nên những vật phẩm vốn không có sẵn trong
thiên nhiên. Không có hoạt động đó, con người và xã hội loài người không thể tồn tại
và phát triển được. Vì vậy, có thể nói rằng. thực tiễn là phương thức tồn tại cơ bản
của con người và xã hội, là phương thức đầu tiên và chủ yếu của mối quan hệ giữa
con người với thế giới .
Tuy các hình thức của hoạt động thực tiễn có thay đổi qua các giai đoạn lịch sử
khác nhau của xã hội, nhưng thực tiễn luôn luôn là hoạt động cơ bản và phổ biến
nhất của xã hội loài người. Thực tiễn là một hoạt động có tính chất cộng đồng, không
phải chỉ là hoạt động của một vài cá nhân riêng lẻ, mà là hoạt động của đông đảo
quần chúng nhân dân trong xã hội. Do đó, về nội dung cũng như phương thức thực
hiện, thực tiễn có tính chất lịch sử - xã hội . Thực tế cũng có quá trình vận động và
phát triển của nó, trìng độ phát triển của thực tiễn nói nên trình độ chinh phục giới tự
nhiên, trình độ làm chủ xã hội của con người .
Thực tiễn có cấu trúc phức tạp, bao gồm nhiều yếu tố và nhiều dạng hoạt
động. Bất kỳ quá trình hoạt động thực tiễn nào cũng gồm các yếu tố như nhu cầu, lợi
ích, mục đích phương tiện và kết quả. Các yếu tố đó liên hệ với nhau, quy định lẫn
nhau mà nếu thiếu chúng thì hoạt động thực tiễn không thể diễn ra được.
Hoạt động thực tiễn đa dạng, song có thể chia làm ba hình thức cơ bản :
Hình thức cơ bản đầu tiên của thực tiễn là hoạt động sản xuất vật chất.
Đây là dạng hoạt động thực tiễn nguyên thủy nhất và cơ bản nhất vì nó
quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người và quyết định
các dạng hoạt động thực tiễn khác; nó tạo thành cơ sở của tất cả các
hình thức khác của hoạt động đời sống con người, giúp con người thoát
khỏi giới hạn tồn tại của động vật.
Hình thức cơ bản thứ hai của thực tiễn là hoạt động chính trị – xã hội
nhằm cải tạo, biến đổi xã hội, phát triển các quan hệ xã hội, chế độ xã
hội.
Với sự ra đời và phát triển của khoa học, hình thức cơ bản thứ ba của
thực tiễn cũng xuất hiện – đó là hoạt động thực nghiệm khoa học . Dạng
hoạt động thực tiễn này ngày càng trở nên quan trọng do sự phát triển
mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật hiện đại.
Trên cơ sở những hình thức cơ bản, những hình thức khác, không cơ bản của
thực tiễn được hình thành, chúng là các hình thức thực tiễn phát sinh ngay trong các
hình thức cơ bản. Đó là mặt thực tiễn của các hoạt động trong một số lónh vực như
4
Khóa luận triết học CH K13
đạo đức, nghệ thuật, giáo dục, tôn giáo, ... Sở dó gọi là không cơ bản không phải là
những hình thức này kém quan trọng mà chỉ vì chúng được hình thành và phát triển từ
các hình thức cơ bản.
Bên cạnh những hình thức cơ bản của thực tiễn ta cần làm rỏ vai trò của thực
tiễn đối với nhận thức .Vai trò của nhận thức đối với thực tiễn được thể hiện trước
hết ở chỗ thực tiễn là cơ sở ,là động lực và là mục đích của nhận thức .Thực tiễn là
điểm xuất phát trực tiếp của nhận thức .Nó đề ra nhu cầu nhiệm vụ ,cách thức và
khuynh hướng hoạt động và phát triển của nhận thức .
Lý luận là gì ?
Theo Bác, lý luận là“sự tổng kết những kinh nghiệm của loài người, là sự tổng
hợp những tri thức về tự nhiên và xã hội tích lũy lại trong quá trình lịch sử”
Quan điểm duy vật biện chứng cho rằng, nhận thức là quá trình con người phản
ánh một cách biện chứng thế giới khách quan trên cơ sở thực tiễn lịch sứ – xã hội.
Quá trình nhận thức diễn ra không đơn giản, thụ động, máy móc, nhận thức không có
sẵn, bất di bất dịch, mà là quá trình phản ánh hiện thực khách quan vào bộ óc con
người một cách năng động sáng tạo , biện chứng. Đó là quá trình đi từ không biết đến
biết, từ biết ít đến biết nhiều, từ nông đến sâu, từ không đầy đủ và không chính xác
tớ đầy đủ hơn và chính xác hơn .
Quá trình nhận thức của con người và loài người nói chung trải qua hai giai
đoạn là nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính. Nhận thức cảm tính là giai đoạn đầu
của quá trình nhận thức, là sự phản ánh trực tiếp, cụ thể, sinh động hiện thực khách
quan vào các giác quan của con người. Nhận thức cảm tính bao gồm các h2nh thức
cảm giác, tri giác và biểu tượng. Nhận thức lý tính hay tư duy trừu tượng là giai đoạn
cao của nhận thức, nó là sự phản ánh trừu tượng, khái quát và gián tiếp hiện thực.
Nhận thức lý tính được hình thành dựa vào những tài liệu do nhận thức cảm tính đem
lại vàthể hiện dưới các hình thức là khái niệm, phán đoán và suy luận. Nếu nhận
thức cảm tính mới dừng lại ở cái bề ngoài, chưa phân biệt được cái chung và cái
riêng, bản chất và hiện tượng . . . thì nhận thức lý tính có thể giúp ta đi sâu vào những
mối liên hệ bản chất, phổ biến, tất nhiên, bên trong của sự vật, do đó nhận thức sự
vật sâu sắc hơn và đầy đủ hơn .
Sự phát triển của nhận thức loài người tất yếu dẫn đến sự xuất hiện của lý luận
. Lý luận là sản phẩm của sự phát triển cao của nhận thức, đồng thời thể hiện nhận
thức của con người đã ở một trình độ cao.
Xét về bản chất, lý luận là một hệ thống những tri thức được khái quát từ thực
tiễn, phản ánh những mối liên hệ bản chất, nhữnh tính quy luật của thế giới khách
5
Khóa luận triết học CH K13
quan. Lý luận được hình thành không phải ở bên ngoài thực tiễn, mà trong mối quan
hệ với thực tiễn. Giữa lý luận và thực tiễn có mối quan hệ biện chứng với nhau, tác
động qua lại với nhau, trong đó thực tiễn giữ vai trò quyết định. Lênin nhận xét rằng
“Thực tiễn cao hơn nhận thức vì nó có ưu điểmkhông những của tính phổ biến, mà cả
của tính hiện thực trực tiếp” .
Mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn là một trong những vấn đề cơ bản của
chủ nghóa Mác – Lênin nói chung và của lý luận nhận thức mácxit nói riêng. Quán
triệt mối quan hệ đó có ý nghóa quan trọng đối với nhận thức khoa học và hoạt
động thực tiễn cách mạng .
Thực tiễn là hoạt động vật chất, còn lý luận là sản phẩm củahoạt động tinh
thần; Thực tiễn có trước, còn lý luận có sau; Thực tiễn đóng vai trò quyết định đối
với lý luận, song lý luận cũng có sự tác động trở lại đối với thực tiễn , có thể nói giữa
lý luận và thực tiễn có sự liên hệ, tác động qua lại. Tạo điều kiện cho nhau cùng phát
triển .
Vai trò quyềt định của thực tiễn được biểu hiện trước hết ở chỗ thực tiễn là cơ
sở, mục đích và động lực chủ yếu và trực tiếp của nhận thức nói chung trong đó có
lý luận . ngghen nhận xét rằng :” Từ trước tới nay khoa học tự nhiên cũng như triết
học đã hoàn toàn coi thøng ảnh hưởng của hoạt động con người đối vớ tư duy của
họ. Hai môn ấy một mặt chỉ biết có tự nhiên, mặt khác chỉ biết có tư tưởng . Nhưng
chính việc người ta biến đổi tự nhiên, chứ không phải chỉ một mình giới tự nhiên, là
cơ sở chủ yếu nhất và trực tiếp nhất của tư duy con người, và trí tuệ con người đã
phát triển song song với việc người ta cải biến thiên nhiên” .
Con người quan hệ với thế giới bắt đầu không phải bằng lý luận mà bằng thực
tiễn . Chính trong quá trình hoạt động thực tiễn, cải tạo thế giới mà nhận thức, lý luận
ở con người mới được hình thành và phát triển . Bằng hoạt động thực tiễn con người
tác động vào thế giới, buột thế giới phải bộc lộ những thuộc tính, những quy luật để
cho con người nhận thức chúng, ban đầu chỉ là những tài liệu cảm tính, những kinh
nghiệm, sau đó bằng so sánh, phân tích, tổng hợp, khái quát hoá, trưu tượng hoá . . .
để phát triển thành lý tính, xây dựng thành lý luận, khoa học phản ánh bản chất, quy
luật vận động của sự vật, hiện tượng trong thế giới. Do đó có thể nói, thực tiễn cung
cấp những tài liệu cho nhận thức, cho lý luận. Không có thực tiễn thì không có nhận
thức, không có lý luận. Mọi tri thức dù trực tiếp hay gián tiếp đối vớ người này hay
đối vớ người kia, thệ hệ này hay thế hệ khác, dù ở giai đoạn cảm tính hay lý tính , ở
trình độ kinh nghiệm hay lý luận xét đến cùng thì cũng bắt nguồn từ thực tiễn .
6
Khóa luận triết học CH K13
Trong quá trình tồn tại, do nhu cầu mỗi ngày một tăng, mà thế giới tự nhiên lại
không đáp ứng đủ, nên con người phải cải tạo thế giới bằng hoạt động thực tiễn của
mình, và chính quá trình biến đổi thế giới, con người cũng biến đổi ngay chính bản
thân mình , phát triển năng lực bản chất, năng lực trí tuệ của mình. Nhờ đó, con người
ngày càng đi sâu vào nhận thức thế giới, khám phá các bí mật của thế giới, làm
phong phú và sâu sắc thêm tri thức của mình về thế giới. Thực tiễn còn đề ra nhu
cầu, nhiệm vụ và phương hướngphát triển của nhận thức và lý luận. Nhu cầu thực
tiễn đòi hỏi phải có tri thức mới, phải tổng kết kinh nghiệm, khái quát lý luận , thúc
đẩy sự phát triển của các nhành khoa học .
Như vậy, trong quá trình hoạt động thực tiễn , trí tuệ con người được phát triển,
được nâng cao dần thành lý luận, khoa học. Song bản thân lý luận, khoa học không
có mục đích tự thân. Lý luận, khoa học ra đời chính vì và chủ yếu vì chúng cần thiết
cho hoạt động thực tiễn của con người. Thực tiễn là mục đích của nhận thức, lý luận.
Nhận thức, lý luận sau khi ra đời phải quay lại phục vụ thực tiễn, hướng dẫn, chỉ đạo
thực tiễn. Lý luận, khoa học chỉ có ý nghóa thực sự khi chúng được vận dụng vào thực
tiễn, cải tạo thực tiễn, phục vụ mục tiêu phát triển chung của con người .
Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức, lý luận còn thể hiện ở chỗ thực tiễn là
tiêu chuẩn của chân lý. Mác viết :”Vấn đề tìm hiểu xem tư duy con người có thể đạt
tới chân lý khách quan không, hoàn toàn khôngphải là một vấn đề lý luận mà là một
vấn đề thực tiễn. Chính trong thực tiễn mà con người phải chứnh minh chân lý...”.
Chỉ có thực tiễn kiểm nghiệm mới xác nhận được tri thức là đúng, hay sai, là
chân lý hay sai lầm. Thực tiễn sẽ nghiêm khắc chứng minh chân lý và bác bỏ sai
lầm.
Tuy nhiên, cần phải hiểu tiêu chuẩn thực tiễn một cách biện chứng, tiêu chuẩn
này vừa có tính tuyệt đối, vừa có tính tương đối. Tiêu chuẩn thực tiễn có tính chất
tuyệt đối vì thực tiễn là tiêu chuẩn khách quan duy nhất để kiểm nghiệm chân lý,
thực tiễn ở mỗi giai đoạn lịch sửcó thể kiểm nghiệm được chân lý. Nhưng tiêu chuẩn
thực tiễn lại có cả tính tương đối vì thực tiễn không đứng nguyên một chỗ mà biến
đổi và phát triển; thực tiễn là quá trình và được thực hiện bởi con người nên khó
tránh khỏi có cả các yếu tố chủ quan. Tiêu chuẩn thực tiễn không cho phép biến
những tri thức con người trởû thành chân lý vónh viễn, tuyệt đối cuối cùng. Trongquá
trình phát triển của thực tiễn và nhận thức, những chân lý đạt được trước kia vẫn phải
thường xuyên kiểm nghiệm bởi thực tiễn tiếp theo. Vì vậy, những tri thức được thực
tiễn kiểm nghiệm, chứng minh ở một giai đoạn lịch sử nhất định phải tiếp tục được
thực tiễn bổ sung, điều chỉnh, sửa chữa và phát triển hoàn thiện hơn.
7
Khóa luận triết học CH K13
Sự phân tích trên đây về vai trò của thực tiễn đối với nhận thức, lý luận đòi hỏi
chúng ta phải quán triệt quan điểm thực tiễn . Quan điểm này yêu cầu việc nhận thức
phải xuất phát từ thực tiễn, dựa trên cơ sở thực tiễn, đi sâu đi sát thực tiễn, coi trọng
việc tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận phải liên hệ với thực tiễn. Nếu xa rời thực
tiễn sẽ dẫn đến các sai lầm của bệnh chủ quan, giáo điều, máy móc, bệnh quan liêu,
chủ nghóa xét lại.
Tuy nhiên coi trọng thực tiễn không có nghóa là coi nhẹ lý luận, hạ thấp vai trò
của lý luận; Lý luận mang tính trừu tượng và khái quát cao, nhờ đó, nó mang lại sự
hiểu biết sâu sắc bản chất, quy luật của sự vật. Lý luận có vai trò trong việc xác định
mục tiêu, khuynh hướng cho hoạt động thực tiễn, vì thế có thể nói lý luận đóng vai
trò là kim chỉ nam cho hoạt động thực tiễn .
Nhờ có tính chân lý sâu sắc hơn, chính xác hơn, hệ thống hơn, nghóa là có tính
bản chất sâu sắc hơn, nên lý luận góp phần điều chỉnh hoạt động thực tiễn và
làm cho hoạt động thực tiễn có hiệu quả hơn . Như vậy lý luận cách mạng có
vai trò to lớn cho hoạt động cách mạng, Lênin viết :”Không có lý luận cách
mạng thì cũng không thể có phong trào cách mạng”.
Phải coi trọng lý luận, nhưng không cường điệu vai trò lý luận , coi thường thực
tiễn, tách rời lý luận với thực tiễn. Điều đó có nghóa, phải quán triệt nguyên tắc
thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong nhận thức khoa học và cách mạng.
”Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là nguyên tắc căn bản của chủ nghóa
Mác – Lênin. Thực tiễn không có lý luận hướng dẫn là thực tiễn mù quáng . Lý luận
mà không liên hệ với thực tiễn là lý luận suông ”
( Người viết xin trích dẫn lời của Bác Hồ để thay cho lời kết )
8
Khóa luận triết học CH K13
9
Khóa luận triết học CH K13
Phần thực tiễn
NGUYÊN TẮÙC THỐNG NHẤT GIỮA LÝ LUẬN VÀ
THỰC TIỄN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊ NIN
Phạm trù thực tiễn:
Các nhà duy vật trước Mác đã có công lao lớn trong việc phát triển
thế giới quan duy vật và đấu tranh chống chủ nghóa duy tâm, tôn giáo và
thuyết không thể biết. Tuy nhiên, lý luận của họ còn nhiều khuyết điểm,
mà trong đó khuyết điểm lớn nhất là không thấy được hoạt động có tính
chất lịch sử – xã hội đối với nhận thức, do đó chủ nghóa duy vật của họ
manh tính trực quan. Mác chỉ rõ : “Khuyết điểm chủ yếu, từ trước cho đến
nay của mọi chủ nghóa duy vật (kể cả chủ nghóa duy vật của Feuerbach) là
không thấy dược vai trò của thực tiễn”.
Feuerbach, nhà triết học duy vật lớn nhất trước Mác, tuy có đề cập tới
thực tiễn, song ông không thấy được thực tiễn như là một hoạt độâng vật
chất cảm tính, có tính năng động của con người. Do đó, ông coi thường hoạt
động thực tiễn, xem thực tiễn là cái gì đó có tính chất con buôn, bẩn thỉu ,
ông không hiểu được vai trò của thực tiễn . Ông không hiểu được vai trò, ý
nghóa của thực tiễn đối với việc nhận thức và cải tạo thế giới. Đối với ông
chỉ có hoạt động lý luận mới là quan trọng và mới là hoạt động đích thực
của con người .
Các nhà duy tâm tuy đã thấy được mặt năng động, sáng tạo trong
hoạt động của con người nhưng lại phát triển lên một cách trừu tượng, thái
quá. Vì vậy, chủ nghóa duy tâm cũng chỉ hiểu thực tiễn như là hoạt động
tinh thần chứ không hiểu nó như là một hoạt động hiện thực, hoạt động vật
chất cảm tính của con người. Khi đề cập đến “ý niệm thực tiễn”, Heghen,
nhà triết học duy tâm lớn nhất trước Mác đã có tư tưởng hợp lý sâu sắc la:
bằng thực tiễn, chủ thể tự “nhân đôi” mình, đối tượng hoá bản thân mình
trong quan hệ với thế giới bên ngoài. Song do quan điểm duy tâm nên ông
chỉ giới hạn thực tiễn ở ý niệm, ở hoạt động tư tưởng. Đối với Heghen, thực
tiễn là một “logic”.
Quan niệm của Mac và Angel về thực tiễn và vai trò của nó đối với nhận
thức cũng như đối với sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người
10
Khóa luận triết học CH K13
Kế thừa những yếu tố hợp lý và khắc phục những thiếu sót trong
quan điểm của các nhà triết học trứơc mình về thực tiễn, Mác và Ăngghen
đã đem lại một quan niệm đúng đắn, khoa học về thực tiễn và vai trò của
nó đối với nhận thức cũng như sự tồn tại và phát triển của của xã hội loài
người. Các ông không những tham gia trực tiếp vào hoạt động thực tiễn
cách mạng của giai cấp vô sản mà còn dựa trên thực tiễn xã hội để khái
quát, phát triển lý luận cách mạng. Nhờ đó, làm cho lý luận gắn bó chặt
chẽ với thực tiễn, trở thành vũ khí nhận thức thế giới và cải tạo thế giới.
Với việc đưa ra phạm trù thực tiễn và lý luận của mình, Mác và Ăngghen
đã thực hiện một bước chuyển biến cách mạng trong lý luận nói chung và
lý luận nhận thức nói riêng. Vàdựa trên cơ sở đó Lênin nhận xét rằng :
“Quan điểm về đời sống, về thực tiễn phải là quan điểm thứ nhất và cơ bản
của lý luận nhận thức” .
Phạm trù thực tiễn không chỉ là phạm trù của lý luận nhận thức
Mácxít, mà còn là phạm trù xuyên suốt của triết học Mácxít, của toàn bộ lý
luận chủ nghóa Mác nói chung.
Vậy, Thực tiễn là gì?
* Thực tiễn là những hoạt động vật chất “cảm tính”, có mục đích, có tính
lịch sử – xã hội của con người, nhằm cải tạo tự nhiên và xã hội.
Thực tiễn không phải bao gồm toàn bộ hoạt động của con người, mà
chỉ là những hoạt động vật chất (để phân biệt với hoạt động tinh thần, hoạt
động lý luận), hay nói theo thuật ngữ của Mác là hoạt động cảm tính của
con người. Trong hoạt động thực tiễn, con người phải sử dụng các phương
tiện, công cụ vật chất, sức mạnh vật chất của mình tác động vào tự nhiên,
xã hội để cải tạo, làm biến đổi chúng phù hợp với nhu cầu của mình. Bằng
hoạt động thực tiễn, con người làm biến đổi bản thân sự vật trong hiện thực,
từ đó làm cơ sở để biến đổi hình ảnh của sự vật trong nhận thức.
Hoạt động thực tiễn là hoạt động bản chất của con người, là hoạt
động đặc trưng cho con người. Nếu động vật chỉ hoạt động theo bản năng,
nhằm thích nghi một cách thụ động với thế giới bên ngoài, thì con người nhờ
vào thực tiễn – như là hoạt động có ý thức, có mục đích của mình mà cải
tạo thế giới để thoả mãn nhu cầu của mình, thích nghi một cách chủ động,
tích cực với thế giới và để làm chủ thế giới. Bằng hoạt động thực tiễn, trước
hết là lao động sản xuất, con người tạo ra những vật phẩm vốn không có
sẵn trong tự nhiên. Không có hoạt độäng đó, con người và xã hội loài người
không thể tồn tại và phát triển được. Vì vậy, có thể nói rằng, thực tiễn laø
11
Khóa luận triết học CH K13
phương thức tồn tại cơ bản của con người và xã hội, là phương thức đầu tiên
và chủ yếu của mối quan hệ giữa con người và thế giới.
Thực tiễn có kết cấu phức tạp, bao gồm nhiều yếu tố và nhiều dạng
hoạt động. Bất kỳ quá trình hoạt động thực tiễn nào cũng gồm những yếu tố
như nhu cầu, lợi ích, mục đích, phương tiện và kết quả. Các yếu tố đó có
liên hệ với nhau, quy định lẫn nhau mà nếu thiếu chúng thì hoạt động thực
tiễn không thể diễn ra được.
Thực tiễn gồm những dạng cơ bản và những dạng không cơ bản. Trên
cơ sở những dạng cơ bản, những dạng không cơ bản của thực tiễn được hình
thành. Đó là mặt thực tiễn của các hoạt động trong một số lónh vực như đạo
đức, nghệ thuật, giáo dục, tôn giáo….
Lý luận là gì?
* Lý luận là một hệ thống những tri thức được khái quát từ thực tiễn
được tích luỹ trong quá trình lịch sử của con người.
Theo quan điểm duy vật biện chứng, nhận thức là quá trình con người
phản ánh một cách biện chứng thế giới khách quan trên cơ sở thực tiễn lịch
sử – xã hội. Quá trình nhận thức diễn ra không đơn giản, thụ động, máy
móc. Nhận thức không có sẵn, bất di bất dịch, mà là quá trình phản ánh hiện
thực khách quan vào bộ óc con người một cách năng động, sáng tạo, biện
chứng. Đó là quá trình đi từ không biết đến biết, từ biết ít đến biết nhiều, từ
nông đến sâu, từ không đầy đủ và không chính xác trở thành đầy đủ và
chính xác hơn.
Sự phát triển của nhận thức loài người tất yếu dẫn đến sự xuất hiện
của lý luận. Lý luận là sản phẩm cao của nhận thức, là những tri thức về
bản chất, quy luật của thế giới khách quan. Lý luận là một trình độ cao hơn
về chất so với kinh nghiệm. Tri thức lý luận là tri thức khái quát từ kinh
nghiệm, nó tồn tại trong hệ thống các khái niệm, các phạm trù, quy luật của
lý luận nói chung. Lý luận được hình thành từ kinh nghiệm, trên cơ sở tổng
kết kinh nghiệm nhưng lý luận không hình thành một cách tự phát. Từ kinh
nghiệm nhưng không phải mọi lý luận đều trực tiếp xuất phát từ kinh
nghiệm. Do tính độc lập tương đối của nó, lý luận có thể đi trước những dữ
kiện kinh nghiệm.
Lý luận mang tính trừu tượng và khái quát cao. Nó đem lại sự hiểu
biết sâu sắc về bản chất, tính tất nhiên, tính quy luật của các sự vật, hiện
tượng khách quan. Nhận thức lý luận là nhận thức hướng vào nắm bắt bản
12
Khóa luận triết học CH K13
chất, quy luật của sự vật. Lý luận được hình thành không phải ở bên ngoài
thực tiễn mà trong mối liên hệ với thực tiễn.
* Sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn:
Mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn là một trong những vấn đề cơ
bản của chủ nghóa Mác-Lê nin nói chung và của lý luận nhận thức mácxít
nói riêng
Con người quan hệ với thế giới bắt đầu không phải bằng lý luận mà
bằng thực tiễn. Chính từ trong quá trình hoạt động thực tiễn, cải tạo thế giới,
trí tuệ con người được phát triển, được nâng cao dần cho đến lúc có lý luận,
khoa học. Lý luận, khoa học ra đời chính vì chúng cần thiết cho hoạt động
thực tiễn của con người. Thực tiễn là mục đích của nhận thức, lý luận. Nhận
thức, lý luận sau khi ra đời phải quay về phục vụ thực tiễn, hướng dẫn, chỉ
đạo thực tiễn, phải biến thành hành động thực tiễn của quần chúng. Giữa lý
luận và thực tiễn có quan hệ biện chứng với nhau, tác động qua lại nhau,
tạo điều kiện cho nhau cùng phát triển.
Trong mối quan hệ với lý luận, thực tiễn đóng vai trò quyết định vì
thực tiễn hoạt động vật chất, còn lý luận là sản phẩm của hoạt động tinh
thần. Với vai trò quyết định, thực tiễn là cơ sở, động lực và mục đích của
nhận thức (lý luận). Thực tiễn là tiêu chuẩn của nhận thức chân lý (của lý
luận). Thông qua hoạt động thực tiễn, con người tác động vào thế giới, buộc
thế giới phải bộc lộ những thuộc tính, những quy luật và tính quy luật để
con người nhận thức chúng. Trong hoạt động thực tiễn, con người tiến hành
biến đổi thế giới và đồng thời cũng biến đổi bản thân mình, phát triển năng
lực bản chất, năng lực trí tuệ của mình. Nhận thức không phải chỉ để nhận
thức mà có mục đích cuối cùng là giúp con người biến đổi thế giới. Tri thức
thu nhận được trong quá trình nhận thức phải quay về phục vụ thực tiễn,
hướng dẫn chỉ đạo và được tổ chức thực hiện trong thực tiễn. Như vậy,
thông qua hoạt động thực tiễn, lý luận mới được kiểm nghiệm, được vật
chất hoá, hiện thực hoá, mới có sức mạnh cải tạo hiện thực.
Thực tiễn có vai trò quyết định đối với lý luận. Song, lý luận cũng có
sự tác động trở lại đối với thực tiễn. Lý luận có vai trò trong việc xác định
mục tiêu, phương hướng cho hoạt động thực tiễn. Lý luận là kim chỉ nam
cho hoạt động thực tiễn, điều chỉnh hoạt động thực tiễn, làm cho hoạt động
thực tiễn có hiệu quả hơn.
Nói đến sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, chúng ta thấy rất rõ
sự cần thiết phải quán triệt quan điểm thực tiễn, nghiên cứu lý luận phaûi
13
Khóa luận triết học CH K13
gắn liền với thực tiễn, “học đi đôi với hành”. Nếu xa rời thực tiễn sẽ dẫn
đến các sai lầm của bệnh chủ quan duy ý chí, giáo điều, máy móc, bệnh
quan liêu, chủ nghóa xét lại. Tuy nhiên việc coi trọng thực tiễn không có
nghóa là coi nhẹ lý luận, hạ thấp vai trò của lý luận. Nếu hạ thấp vai trò của
lý luận sẽ rơi vào chủ nghóa thực dụng, chủ nghóa kinh nghieäm.
14
Khóa luận triết học CH K13
VẬN DỤNG NGUYÊN TẮÙC THỐNG NHẤT GIỮA LÝ
LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊ
NIN TRONG VIỆC GIẢNG DẠY NGÀNH D CỦA MỘT
SỐ TRƯỜNG TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH.
Hoạt động dạy học là sự truyền đạt của người thầy và sự lónh hội của
trò, trong đó chủ yếu là hoạt động giữa người với người - muôn hình muôn
vẻ. Vì vậy, quá trình dạy học vừa là lónh vực khoa học, vừa là lónh vực sáng
tạo, lónh vực nghệ thuật. Người cán bộ giảng dạy cần thiết phải hiểu và nắm
chắc những vấn đề lý luận chung, đồng thời phải “va chạm” thực tiễn thì
mới tổ chức thực hiện tốt các hoạt động của mình.
Hiện nay, các trường dạy nghề đang cố gắng xây dựng chương trình
đào tạo mới nhằm đáp ứng nhu cầu của cuộc sống nói chung và các nhà
tuyển dụng nói riêng. Để mang lại hiệu quả cao trong quá trình dạy học,
người cán bộ giảng dạy phải nắm vững mục tiêu, chương trình, giáo trình
các thông tin về chuyên môn của ngành mình đang dạy và kết hợp với tham
quan xí nghiệp, nhà máy cũng như tiếp xúc với một số nhà tuyển dụng từ đó
soạn ra giáo án riêng cho mỗi một trình độ cụ thể của các hệ mà trường
mình đang đào tạo dưới sự chỉ đạo chung. Từ việc nắm bắt nội dung chương
trình, giáo viên phải đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực.
Người giáo viên phải biết thay đổi cách nhìn để có sự đánh giá học sinh –
sinh viên một cách đúng đắn qua từng tiết dạy. Quan trọng nhất là phát huy
được tư duy sáng tạo, năng lực tự đào tạo của người học, năng lực thực
hành, làm chủ và vận dụng kiến thức đã học vào hoạt động thực tiễn sau khi
ra trường, biết tự tìm việc làm, tạo việc làm và vươn lên trong cuộc sống.
Ở một số trường dạy nghề trong Thành phố Hồ Chí Minh, nhiều
trừơng rất quan tâm đến công tác chuyên môn, có sự chỉ đạo sâu sát, tạo
nhiều điều kiện thuận lợi, giúp giáo viên có thể thực hiện công tác giảng
dạy của mình một cách thoải mái. Nhiều vị lãnh đạo được tham quan và
được tập huấn về mô hình đào tạo của một số nước tiên tiến, rồi khi họ trở
về tuỳ tình hình thực tế tại đơn vị mình để có kế hoạch thực hiện cụ thể.
Gần đây, chúng ta đã cùng nhau xây dựng chương trình khung cho
ngành. Chương trình khung được biên soạn chung cho đối tượng học sinh sinh viên trên toàn quốc. Các lớp tập huấn hay các giáo trình dành cho cán
bộ quản lý và giáo viên cũng theo một nội dung chung. Song, thực tế dạy
15
Khóa luận triết học CH K13
học ở các trường ở các địa phương thì lại khác nhau. Không thể áp dụng lý
thuyết của lớp tập huấn bồi dưỡng chuyên môn đại trà để thực hiện chung
cho tất cả các trường dạy nghề trên cả nước. Những nơi ở vùng sâu vùng xa
không thể có đầy đủ phương tiện dạy học như ở thành phố. Ở nội thành
cũng không thể có những trang thiết bị hiện đại như các công ty ,xí nghiệp
mình tham quan hay tham gia tập huấn. Một số giáo viên giỏi đã biết dựa
vào cơ sở vật chất của trường, thực tế địa phương, thực tế học sinh tại
trường để hướng dẫn, tạo điều kiện cho học sinh - sinh viên của mình dễ
tiếp thu một số kiến thức mới để phục vụ tốt công tác giảng dạy của mình
phù hợp với trình độ học sinh mà không đi lệch hướng theo chỉ đạo chung
của ngành cũng như nhu cầu của nhà tuyển dụng .
Nhiều giáo viên đã cùng học sinh sinh viên của mình tự làm đồ dùng
dạy học và sử dụng rất có hiệu quả. Học sinh - sinh viên được thực hành
nhiều hơn trước, rèn luyện kỹ năng thực hành để từ đó họ có thể kiểm
chứng và đưa ra những kết luận những gì đã học và ít nhiều họ cũng đã có
những kinh nghiệm nhất định nào đó mặc dù họ vẫn còn đang ở trong
trường. Ví dụ, trong ngành giày da khi gò mũi giày học sinh - sinh viên có
thể gò bằng nhiều cách khác nhau hoặc có thể họ tự nghó ra để có thể qua
đó họ biết thực hành bài tập nhanh và đồng thời biết vận dụng cái đã học
thành cái mới cho chính mình.
Nội dung của các giáo trình mới có tính linh hoạt (ví dụ như đào tạo
theo Modul), tạo điều kiện cho giáo viên có thể linh động, thay thế nội dung
bài học này bằng một nội dung khác, phù hợp với thực tế địa phương nhưng
vẫn không “đi lạc” chủ đề của chương trình. Ví dụ, ở môn thiết kế giày, khi
dạy đến chủ đề này, giáo viên có thể cho học sinh tự tìm hiểu cuộc sống
xung quanh mình từ thực tế và vốn hiểu biết của các em, không phải chỉ
giới hạn theo cataloque hay nội dung có sẵn trong giáo trình. Để đạt được
hiệu quả cao đối với những bài dạy theo hướng mở như vậy, giáo viên phải
nắm bắt thực tế địa phương và mở rộng tầm nhìn, từ đó dẫn dắt học sinh tìm
hiểu và nhận ra những điều cần phải biết qua tiết học. Nếu như giáo viên
chủ quan, không chuẩn bị kỹ và chỉ gói gọn nội dung trong giáo trình thì đôi
khi dẫn đến những sai lầm đáng tiếc. Ví dụ, nếu giáo viên không tìm hiểu
kỹ các phong tục tập quán, các thói quen hay những điều mà ở một nơi nào
đó hay một tôn giáo nào đó họ cho rằng không được, khi hướng dẫn học
sinh sẽ có những tình huống xảy ra không hay vì giáo viên phủ nhận ý kiến
của học sinh mà không có sửa sai đúng tình huống khi em này cho rằng ở
nơi em ở không có những đôi giày như thế, bởi giáo viên chưa từng biết
phong tục tập quan hay tôn giáo của học sinh sinh viên mình đang theo là
gì.
16
Khóa luận triết học CH K13
Một trường hợp khác, trong giờ thực hành khi giáo viên yêu cầu học
sinh may theo đúng quy trình và các bước thực hiện như giáo viên trình bày
giống như những gì mà trước đây cô giáo đã học. Trong khi đó có học sinh ở
nhà em có xí nghiệp giày da hiện đại và đã được hướng dẫn và chuyển giao
công nghệ mới. Mục đích đi học của em là nhằm nắm được những kiến thức
cơ bản và tìm những cách mới để vận dụng vào dây chuyền của xí nghiệp
nhà mình nhằm khai thác một cách triệt để trang thiết bị mà gia đình mình
đã có. Cô giáo bảo em này là có thể đúng nhưng trong thực tế không có
thiết bị đó mà nếu có đi chăng nữa thì các bước vận hành theo công nghệ,
quy trình vẫn theo đúng những gì mà cô đã hướng dẫn. Rõ ràng nhu vậy là
người giáo viên không có vốn kiến thức thực tế. Những trường hợp vừa nêu,
nếu người quản lý không thường xuyên theo dõi, không cho giáo viên tham
quan xí nghiệp hoặc truy cập những thông tin mới về chuyên ngành mình
đang dạy sẽ không phát hiện được những thiếu sót. Để từ đó để có hướng
bồi dưỡng chuyên môn cho họ và mua sắm trang thiết bị mới tạo điều kiện
tốt cho giáo viên giảng dạy cũng như đào tạo ra một đội ngũ công nhân kỹ
thuật giày da đáp ứng nhu cầu thực tiễn…
Việc đổi mới chương trình đòi hỏi giáo viên phải năng động, sáng tạo
và tích cực đổi mới phương pháp dạy học. Thế nhưng, nếu người quản lý
trong ngành giáo dục chuyên nghiệp cũng như các nhà quản lý trong ngành
công nghiệp da giày không nhạy bén, không vận dụng linh hoạt lý luận vào
trong thực tiễn, không thích nghi được với những cái mới thì cho dù giáo
viên có sáng tạo đến đâu cũng không thể nào phát huy hết khả năng của
mình.
Chủ trương đổi mới phương pháp dạy học được thực hiện tích cực tại
nhiều trường học. Phong trào soạn gíao án điện tử, tổ chức lớp học theo
hướng hiện đại đang là “điểm sáng” mà bất cứ người quản lý hay giáo viên
nào cũng muốn thực hiện để học sinh được tiếp cận với những phương tiện
hiện đại, tiết học đạt hiệu quả cao. Điều này rất đáng trân trọng. Tuy nhiên,
để có những giáo án điện tử, những tiết học theo hướng hiện đại, ngoài cơ
sở vật chất, thiết bị dạy học cần có sự hiểu biết của giáo viên về lónh vực
tin học, có trình độ, khả năng thiết kế bài dạy trên máy. Vấn đề đặt ra ở
đây là người quản lý đã không tạo điều kiện cho giáo viên được tiếp cận
một cách chắc chắn về lý thuyết, không được thử nghiệm trước khi được
yêu cầu thực hiện. Không thấy được trang thiết bị của cơ sở mình đào tạo.
Vì vậy giáo viên gặp nhiều lúng túng, phải “chạy vạy” khắp nơi để có được
một gíao án điện tử như chỉ tiêu của bộ môn, của khoa hay của trường đã
đưa ra.
17
Khóa luận triết học CH K13
Có trường lập kế hoạch hoạt động rất hay, dẫn chứng nhiều văn bản
chỉ đạo cụ thể, nhưng tất cả chỉ nằm trên giấy tờ, không được đưa ra thực
hiện vì không đủ lực lượng để tổ chức thực hiện những hoạt động quá xa
vời, thiếu tính thực tiễn, không phù hợp với năng lực và điều kiện hiện có
của đơn vị. Ngược lại, có những hoạt động được nhà trường tổ chức rời rạc,
thiếu tập trung, không mang lại hiệu quả cao do thiếu cơ sở lý luận, mục
đích hoạt động không được xác định rõ ràng.
Tại một số nơi, các tiết thực hành hầu như bị quên lãng hay chỉ hướng
dẫn qua loa. Học sinh chỉ được tiếp xúc với sách vở, không hề được trực
tiếp rèn luyện kỹ năng thực hành của mình. Việc vận dụng lý thuyết đã học
vào thực tiễn không được chú trọng ở những nơi có cơ sở vật chất khó khăn,
thậm chí có những trường có đầy đủ thiết bị dạy học nhưng lại xếp vào một
góc phòng thiết bị vì không có kinh phí để mua sắm vật tư . Nhiều khi các
nhà quản lý đôi lúc còn xuề xoà trong việc chỉ đạo, chỉ chạy theo đầu tư
ngành mũi nhọn mà quên hẳn các ngành khác. Có một số trường nghề hiện
nay họ muốn nâng cấp lên trung cấp, cao đẳng thậm chí lên đại học. Họ
thường tuyển vào toàn những thạc sỹ trẻ chưa có kinh nghiệm hoặc rất yếu
về thực hành. Nhiều giáo viên không có kinh nghiệm trong việc hướng dẫn
học sinh thực hành. Có giáo viên chưa từng một lần cầm đến dụng cụ thực
hành thí nghiệm thì làm sao học sinh được thực hành. Nhiều giáo viên còn
ngại khó, chưa tích cực trong việc tổ chức tham quan xí nghiệp, tạo điều
kiện cho học sinh tiếp xúc, gần gũi với thực tế. Chưa tạo điều kiện để học
sinh có dịp quan sát trực tiếp thực tế để đối chiếu, so sánh với những điều
đã được học qua thầy cô, sách vở.
LỜI KẾT
Mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn là một trong những vấn đề
cơ bản của chủ nghóa Mác-Lê nin nói chung và của lý luận nhận thức
Mácxít nói riêng.Vai trò của thực tiễn được biểu hiện trước hết ở chỗ
thực tiễn là cơ sở, mục đích và động lực chủ yếu, trực tiếp của nhận
thức nói chung, trong đó có lý luận. Lý luận, khoa học chỉ có ý nghóa
thực sự khi chúng được vận dụng vào thực tiễn, cải tạo thực tiễn phục
vụ mục tiêu phát triển nói chung.
Kế thừa những yếu tố hợp lý và khắc phục những thiếu sót trong quan
điểm của các nhà triết học trước mình về thực tiễn, Mác và Ăngghen đã
đem lại một quan niệm đúng đắn, khoa học về thực tiễn và vai trò của nó
đối với nhận thức cũng như đối với sự tồn tại và phát triển của xã hội loài
18
Khóa luận triết học CH K13
người. Đó chính là con người đã biết đi từ thực tiễn, qua họat động thực tiễn
con người ngày nay đã đúc kết kinh nghiệm thực tiễn, nghiên cứu và khái
quát lên thành lý luận. Để ngay lúc đó hoặc thế hệ đi sau có thể vận dụng
vào thực tiễn. Vì chỉ có qua thựïc tiễn để kiểm tra chân lý và vận dụng vào
thực tiễn nhằm tạo ra nhiều của cải vật chất cho xã hội, phục vụ cho con
người.
19
Khóa luận triết học CH K13
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình triết học Mác-Lênin, Nhà xuất bản chính trị quốc gia, Hà
Nội - 2002
2. Triết học 1,2,3 Nhà xuất bản chính trị quốc gia, Hà Nội - 2001
3. Tài liệu tham khảo dùng cho cán bộ giảng dạy lý luận Mác – Lênin
20
Thank you for evaluating AnyBizSoft PDF
Merger! To remove this page, please
register your program!
Go to Purchase Now>>
AnyBizSoft
PDF Merger
Merge multiple PDF files into one
Select page range of PDF to merge
Select specific page(s) to merge
Extract page(s) from different PDF
files and merge into one