Tải bản đầy đủ (.pdf) (80 trang)

hoạt động xây dựng đảng của chủ tịch hồ chí minh thời kỳ 1939-1945

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (674.21 KB, 80 trang )

LUẬN VĂN:
Hoạt động xây dựng Đảng của Chủ
tịch Hồ Chí Minh thời kỳ 1939-1945


Mở Đầu
1. Lý do chọn đề tài
Chủ tịch Hồ Chí Minh là người sáng lập, giáo dục và rèn luyện Đảng ta. Người
đã cùng Trung ương tổ chức lãnh đạo thắng lợi cuộc Cách mạng Tháng Tám 1945 đưa
nhân dân ta thốt khỏi ách nơ lệ của đế quốc phong kiến, đưa nước ta trở thành một nước
độc lập, đưa Đảng ta từ một Đảng hoạt động bí mật trở thành Đảng cầm quyền trong cả
nước. Một trong những yếu tố đưa Cách mạng Tháng Tám đến thành công là nhờ có sự
lãnh đạo sáng suốt của Đảng. Bởi vậy khi nghiên cứu về Cách mạng Tháng Tám chúng ta
không thể khơng nghiên cứu vai trị của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với việc xây dựng
Đảng Cộng sản Đơng Dương (nay là Đảng Cộng sản Việt Nam). Nghiên cứu những hoạt
động của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong việc xây dựng Đảng Cộng sản Đông Dương chẳng
những giúp chúng ta hiểu sâu sắc về vai trò của Người đối với toàn bộ sự nghiệp Cách
mạng Tháng Tám. Đồng thời giúp chúng ta cũng hiểu sâu sắc, toàn diện hơn nữa về vai
trò của Đảng và nhân dân ta trong Cách mạng Tháng Tám.
Từ khi Cách mạng Tháng Tám 1945 thành cơng đến nay đã 60 năm, đã có nhiều
cơng trình nghiên cứu phản ánh về cuộc cách mạng này một cách khách quan khoa học.
Song cho đến nay vẫn có một số cơng trình nghiên cứu lịch sử cách mạng Việt Nam,
phần lớn là cơng trình của người nước ngồi đã q nhấn mạnh vai trị đánh thắng chủ
nghĩa phát xít của qn đồng minh. Khơng phản ánh, đánh giá đúng sự thật lịch sử về vai
trò quyết định thắng lợi của cách mạng là do có sự lãnh đạo sáng suốt, đúng đắn của
Đảng Cộng sản Đông Dương, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh; là do sức mạnh vĩ đại
của khối đại đoàn kết toàn dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Kết quả nghiên cứu vấn đề vai trị của Hồ Chí Minh trong hoạt động xây dựng
Đảng (1939-1941) còn là sự thực lịch sử góp phần đánh giá một cách khách quan khoa
học hơn về nguyên nhân, điều kiện thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám và bác bỏ những
nhận định đánh giá sai trái sự thật lịch sử, nhằm hạ thấp hoặc phủ nhận vai trò lãnh đạo


của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Kết quả nghiên cứu vấn đề một phần nào cũng giúp cho chúng ta cơ sở lý giải vì
sao một Đảng mới 15 tuổi, chỉ có trên 5000 đảng viên mà lãnh đạo cuộc cách mạng
Tháng Tám 1945 thắng lợi?


Vai trị của Chủ tịch Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng trong thời kỳ vận động
Cách mạng Tháng Tám (1939-1945) rất quan trọng như vậy, nhưng cho đến nay cũng
chưa có một cơng trình nghiên cứu chun sâu về vấn đề này.
Những nội dung và tư liệu lịch sử nghiên cứu được qua đề tài này sẽ góp phần
vào việc nghiên cứu, biên soạn,giảng dạy, học tập về Cách mạng Tháng Tám nói chung
và về nghiên cứu, giảng dạy, học tập về Chủ tịch Chí Minh nói riêng.
Luận văn còn là tài liệu dùng để giáo dục, bồi dưỡng truyền thống yêu nước cách
mạng và niềm tin khoa học vào sự lãnh đạo của Đảng đối với sự nghiệp cách mạng của
Đảng và nhân dân ta hiện nay cho thế hệ trẻ và cán bộ đảng viên.
Trong công cuộc đổi mới, cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta hiện nay đạt được nhiều thành tựu to lớn, nhưng cũng có
khơng ít những khó khăn, thử thách rất phức tạp, địi hỏi phải có sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam mới thắng lợi được. Văn kiện Hội nghị lần thứ 6 (lần 2) của Ban
Chấp hành Trung ương khóa VII (tháng 2/1999) đã nhấn mạnh: "Sự lãnh đạo đúng đắn
và sáng suốt của Đảng là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam".
Nhiệm vụ xây dựng, chỉnh đốn Đảng là nhiệm vụ cấp thiết của toàn Đảng, toàn dân.
Những tư tưởng chỉ đạo, những bài học kinh nghiệm trong hoạt động xây dựng
Đảng của Chủ tịch Hồ Chí Minh thời kỳ 1939-1945 vẫn còn nguyên giá trị thiết thực
phục vụ cho hoạt động xây dựng Đảng ta trong giai đoạn cách mạng mới hiện nay.
Với những lý do trên đây, chúng tôi đã chọn đề tài "Hoạt động xây dựng Đảng
của Chủ tịch Hồ Chí Minh thời kỳ 1939-1945" làm đề tài cho luận văn thạc sĩ khoa học
Lịch sử của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Hoạt động xây dựng Đảng của Đảng ta nói chung và của Chủ tịch Hồ Chí Minh

nói riêng trong thời kỳ vận động cách mạng Tháng Tám 1945, đã được nhiều người quan
tâm nghiên cứu. Hiện nay đã có nhiều tác giả và các cơng trình nghiên cứu đề cập đến
vấn đề này. Có thể kể đến một số cơng trình tiêu biểu sau đây:
- Cuốn "Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam" của Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng
Trung ương (1983) đã đề cập đến một số hoạt động của Nguyễn ái Quốc (Hồ Chí Minh)
và Trung ương Đảng về hoạt động xây dựng Đảng (1930-1945).


- Cuốn "Cách mạng Tháng Tám 1945" Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Trung
ương (1971) và cuốn "Lịch sử Cách mạng Tháng Tám 1945" Viện Nghiên cứu Lịch sử
Đảng (1995) đề cập đến một số hoạt động của Chủ tịch Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng
1939 - 1945.
- Cuốn "Chủ tịch Hồ Chí Minh tiểu sử và sự nghiệp" Ban Nghiên cứu Lịch sử
Đảng Trung ương (1980) trong đó dành một số trang từ 89 - 117 nói về Chủ tịch Hồ Chí
Minh cùng Trung ương Đảng trực tiếp lãnh đạo cuộc vận động giải phóng dân tộc và
Cách mạng Tháng Tám, cũng chỉ đề cập đến một số hoạt động của Chủ tịch Hồ Chí Minh
về xây dựng Đảng 1939 - 1945.
- Cuốn "Hồ Chí Minh biên niên tiểu sử" Viện Nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh (1993), các tác giả cũng đã dành một số trang nêu lên được một số
sự kiện quan trọng về hoạt động của Chủ tịch Hồ Chí Minh với việc xây dựng Đảng thời
kỳ vận động Cách mạng Tháng Tám. Tuy vẫn còn chưa chi tiết, đầy đủ và hệ thống, song
cuốn sách này đã là cơ sở quan trọng giúp chúng tơi tìm hiểu thêm và bổ sung để hồn
thành luận văn.
- Cuốn "Tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng" của Trần Đình
Huỳnh (1999) giúp chúng tơi những tư liệu, những nhận định, đặc biệt là cung cấp cho
chúng tôi các vấn đề về lý luận, đường lối, phương pháp xây dựng Đảng của Chủ tịch Hồ
Chí Minh (1920-1969). Tuy nhiên cuốn sách này lại không cung cấp cho chúng tôi một
cách cụ thể hệ thống, đầy đủ về quan điểm, đường lối, phương pháp xây dựng và những
hoạt động thực tiễn xây dựng Đảng của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong giai đoạn 1939 1945...
- Những giáo trình, bài giảng về Đảng Cộng sản Việt Nam và tư tưởng Hồ Chí Minh

của Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh cũng không đề cập chuyên sâu về xây dựng
Đảng của Chủ tịch Hồ Chí Minh giai đoạn 1939 - 1945.
Như vậy, cho đến nay chưa có một cơng trình nghiên cứu chuyên sâu nào về hoạt
động của Chủ tịch Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng thời kỳ 1939 - 1945.
3. Đối tượng, phạm vi và nhiệm vụ nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu:
Chủ tịch Hồ Chí Minh trong việc xây dựng Đảng thời kỳ vận động Cách mạng
Tháng Tám.


* Phạm vi nghiên cứu:
Tìm hiểu những hoạt động xây dựng Đảng của Chủ tịch Hồ Chí Minh từ 1939-1945.
* Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Trên cơ sở những tư liệu lịch sử tin cậy, chọn lọc, luận văn khôi phục lại một
cách trung thực, tương đối đầy đủ, toàn diện và hệ thống về những hoạt động của Hồ Chí
Minh trong lĩnh vực xây dựng Đảng thời kỳ 1939-1945. Từ đó góp phần vào việc đánh
giá một cách khách quan, khoa học vai trị của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với việc xây
dựng Đảng Cộng sản Việt Nam thời kỳ vận động Cách mạng Tháng Tám, nhân tố quyết
định thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám.
- Luận văn còn rút ra những tư tưởng, đường lối, phương pháp xây dựng Đảng
của Người trong thời kỳ vận động Cách mạng Tháng Tám nhằm đóng góp vào việc xây
dựng Đảng ta vững mạnh trong công cuộc cách mạng của Đảng và nhân dân ta trong giai
đoạn hiện nay.
4. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu
* Nguồn tư liệu nghiên cứu:
Để hồn thành luận văn này, chúng tơi sử dụng kết hợp nhiều nguồn tư liệu khác
nhau:
+ Các tác phẩm của các tác giả kinh điển chủ nghĩa Mác - Lênin, các văn kiện
của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng Đảng Cộng sản. Nguồn tư liệu này cung cấp
cho chúng tôi những phương pháp luận nghiên cứu, những quan điểm, đường lối, nguyên

tắc xây dựng Đảng vô sản kiểu mới trong thời đại mới nói chung và trong các cuộc cách
mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa như Việt Nam nói riêng.
+ Những bài viết, bài nói chuyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng;
các văn kiện Đảng (1930 - 1945). Đây là nguồn tư liệu gốc để chúng tôi xây dựng luận
văn.
+ Những tài liệu, cơng trình nghiên cứu của các nhà khoa học, các cơ quan
nghiên cứu: Viện Lịch sử Đảng (Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Trung ương), Học viện
Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Khoa học Xã hội nhân văn, Viện Sử học và các
Trường đại học trong nước (Đại học Sư phạm Hà Nội, Đại học Khoa học xã hội và nhân
văn...). Những tài liệu và các cơng trình này là cơ sở để chúng tơi so sánh đối chiếu
những kết quả nghiên cứu của mình.


+ Một số tài liệu, cơng trình nghiên cứu của người nước ngồi có đề cập đến Hồ
Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam thời kỳ 1939-1945. Đối với nguồn tài liệu này
chúng tơi tiếp thu có chọn lọc, đồng thời cũng phê phán những ý kiến xuyên tạc, khơng
đúng sự thật về vai trị của Hồ Chí Minh, của Đảng và nhân dân ta trong Cách mạng
Tháng Tám.
+ Các cuốn Hồi ký của lãnh đạo Đảng, Nhà nước; Hồi ký của các cán bộ, đảng
viên, nhân chứng lịch sử; những tranh ảnh, tư liệu lịch sử thời kỳ 1939 - 1945. Nguồn tư
liệu này được chúng tôi chọn lọc sử dụng nhằm bổ sung cho những thiếu sót của tư liệu
thành văn.
* Phương pháp nghiên cứu:
Để thực hiện nghiên cứu đề tài và trình bày luận văn chúng tôi sử dụng kết hợp
nhiều phương pháp nghiên cứu khác nhau: kết hợp giữa phương pháp lịch sử với phương
pháp lơgíc, trong đó phương pháp lịch sử là chủ yếu; kết hợp với phương pháp so sánh,
phân tích, khái quát, tổng hợp... Trong q trình nghiên cứu chúng tơi cịn sử dụng kết
hợp phương pháp nghiên cứu lịch sử dân tộc với phương pháp nghiên cứu lịch sử Đảng.
Đặc biệt, chúng tôi rất coi trọng và làm tốt công tác sử liệu như: sưu tầm, tập hợp,
chỉnh lý và sử dụng chọn lọc các sử liệu đảm bảo tính chân thực lịch sử.

Chúng tôi cũng chú ý sử dụng phương pháp điền dã sưu tầm tư liệu ở căn cứ địa
Việt Bắc và phỏng vấn các nhân chứng lịch sử, thu thập các hồi ký cách mạng.
5. Đóng góp của luận văn
- Luận văn lần đầu tiên khôi phục lại một cách tương đối có hệ thống, tồn diện,
trung thực về cuộc đời và sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh, về việc xây dựng Đảng
trong thời kỳ vận động Cách mạng Tháng Tám.
- Luận văn góp phần đánh giá một cách khách quan, khoa học về vai trò của Chủ
tịch Hồ Chí Minh trong việc xây dựng Đảng, nhân tố quyết định đến thắng lợi của Cách
mạng Tháng Tám. Trên cơ sở đó góp phần phê phán những ý kiến, quan điểm xuyên tạc,
sai sự thật lịch sử nhằm phủ nhận vai trị của Chủ tịch Hồ Chí Minh, của Đảng và của
nhân dân ta đối với thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám.
- Luận văn bước đầu rút ra một số tư tưởng, đường lối, nguyên tắc, phương pháp,
kinh nghiệm xây dựng Đảng của Chủ tịch Hồ Chí Minh thời kỳ vận động Cách mạng
Tháng Tám (1939 - 1945) nhằm đóng góp cho lĩnh vực xây dựng Đảng ta trong thời kỳ
cách mạng mới hiện nay.


- Những nội dung, tư liệu lịch sử của luận văn cịn góp phần vào việc nghiên cứu
biên soạn, giảng dạy và học tập lịch sử dân tộc và lịch sử Đảng thời kỳ 1939 - 1945; đồng
thời luận văn còn là tài liệu giáo dục truyền thống yêu nước cách mạng và niềm tin khoa
học vào sự lãnh đạo của Đảng trong sự nghiệp cách mạng hiện nay cho thế hệ trẻ và nhân
dân ta.
6. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, thư mục tham khảo, phụ lục, mục lục, luận văn có
2 chương:
Chương 1: Hồn cảnh lịch sử và chủ trương xây dựng Đảng của Chủ tịch Hồ
Chí Minh và Trung ương Đảng (1939 - 1945).
Chương 2: Hoạt động xây dựng Đảng của Chủ tịch Hồ Chí Minh thời kỳ 1939
-1945.
Chương 1

Hồn cảnh lịch sử và chủ trương xây dựng Đảng
của Chủ tịch Hồ Chí Minh và trung ương Đảng 1939 - 1945
1.1. Sự chuyển biến mới của tình hình và u cầu của cơng tác xây dựng
Đảng trong giai đoạn cách mạng mới
1.1.1. Tình hình thế giới
Ngày 1.9.1939, Đức tấn cơng Ba Lan, chiến tranh thế giới thứ II bùng nổ, nhanh chóng
trở thành một cuộc chiến tranh đế quốc lớn nhất trong lịch sử. Lồi người đang có nguy cơ
đứng trước hố diệt vong do chủ nghĩa phát xít gây ra.
Đến cuối 1940, với sự hiếu chiến và sức mạnh quân sự, chỉ trong thời gian ngắn
quân Đức đã đánh chiếm và gần như làm chủ hồn tồn châu Âu (trừ Liên Xơ) và sửa
soạn cho kế hoạch xâm lược Liên Xô. ở Viễn Đông, quân Nhật mở rộng chiến tranh xâm
lược Trung Quốc, Mơng Cổ, Thái Bình Dương, Đơng Dương...
Thấy được mối hiểm họa của chủ nghĩa phát xít và chiến tranh phát xít, ngay từ khi
chiến tranh thế giới thứ II chưa bùng nổ, Quốc tế Cộng sản đã có sự chỉ đạo kịp thời cho
các Đảng cộng sản và nhân dân các nước thành lập Mặt trận thống nhất dân tộc để đánh bại
chủ nghĩa phát xít, bảo vệ nền hịa bình, dân chủ, văn minh, tiến bộ của thế giới (Đại hội
VII Quốc tế cộng sản 1935).


Dưới sự lãnh đạo của Quốc tế cộng sản, những năm 1935-1939 phong trào đấu
tranh chống phát xít, chống chiến tranh bảo vệ hịa bình địi quyền dân sinh, dân chủ của
giai cấp vô sản và nhân dân các dân tộc trên thế giới diễn ra mạnh mẽ (Pháp, Tây Ban
Nha, các nước bị áp bức..). Điển hình là phong trào kháng Nhật của nhân dân Trung
Quốc; phong trào chống phát xít hóa ở Pháp, các cuộc kháng chiến chống quân Đức, ý ở
Châu Âu...
Ngay từ khi cuộc chiến tranh thế giới thứ II nổ ra, Đảng Cộng sản Đông Dương đã
nhận định: "Thế giới đế quốc chiến tranh lần này tiến hành theo một khuôn khổ to tát".
"Thế giới sẽ là cái lò sát sinh lớn! nhân loại sẽ phải chịu một số kiếp vô cùng thê thảm".
Nhưng chiến tranh sẽ làm cho chủ nghĩa đế quốc suy yếu, cách mạng sẽ nổ ra, thắng lợi ở
nhiều nước. "ở các nước đế quốc tư bản nhất là ở các nước đang đánh nhau, hết thảy dân

chúng bị áp bức sẽ thừa cơ nổi dậy bẻ cái xiềng nô lệ kéo dài đã hàng chục thế kỷ. ở các
nước thuộc địa hết thảy dân tộc bị áp bức sẽ vùng dậy tranh đấu liều sống liều chết với đế
quốc xâm lược để cởi vất cái ách tơi địi" [21. 512, 515].
Đúng như vậy, cuộc chiến tranh đế quốc phát xít nổ ra làm cho đời sống của giai
cấp công nhân và mọi tầng lớp nhân dân các nước trên thế giới cơ cực. Phong trào đấu
tranh phản chiến, phong trào cơng nhân ở chính quốc các nước tư bản phát triển mạnh mẽ
đòi chấm dứt chiến tranh. ở Anh, Pháp, Nhật... ngay ở Đức dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Đức phong trào đấu tranh chống phát xít chống chiến tranh cũng diễn ra mạnh
mẽ. Nhiều cuộc xung đột giữa thợ thuyền với qn đội Hít le nổ ra.
Ngồi các nước trên đây, phong trào phản đối chiến tranh cũng diễn ra ở ý, Mỹ...
ở các nước thuộc địa, phong trào đấu tranh cách mạng của các dân tộc bị áp bức địi
giải phóng cũng phát triển mạnh mẽ. ở ấn Độ ln có những cuộc đình cơng, biểu tình có
hai, ba chục vạn thợ tham gia. Nhiều cuộc biểu tình của mọi tầng lớp nhân dân ấn Độ
tham gia đòi ấn Độ độc lập. Tại Trung Quốc, phong trào đấu tranh chống phát xít Nhật
diễn ra sơi nổi và mạnh mẽ. Cuối 1940, quân Nhật xâm lược Đông Dương, phong trào
cách mạng chống đế quốc Pháp, phát xít Nhật của nhân dân ba nước Đông Dương cũng
diễn ra nhiều cuộc mít tinh, phát truyền đơn, dán áp phích khởi nghĩa chống đế quốc phát
xít Pháp - Nhật.
Dưới ách thống trị tàn bạo, dã man của đế quốc phát xít Pháp - Nhật, nhân dân Việt
Nam liên tiếp nổi dậy đấu tranh. Nhiều cuộc biểu tình, bãi cơng của cơng, nơng, binh lính
nổ ra. Các cuộc khởi nghĩa vũ trang của nhân dân Bắc Sơn (9/1940), Nam Kỳ (11/1940) và


anh em binh lính ở Đơ Lương (1/1941) đã bùng nổ báo hiệu cách mạng Việt Nam chuyển
qua thời kỳ mới, thời kỳ đấu tranh võ trang khởi nghĩa giành chính quyền, giành độc lập của
các dân tộc Việt Nam, Đông Dương bắt đầu [23. 108-109].
Rõ ràng chiến tranh thế giới II do bọn đế quốc phát xít hiếu chiến gây ra đang xô
đẩy nhân loại vào cuộc chém giết lẫn nhau. Dù trực tiếp hay gián tiếp thì hầu hết các
nước trên thế giới đã bị lôi cuốn vào cuộc chiến tranh.
1.1.2. Tình hình Đơng Dương

Tháng 6.1940, nước Pháp bị Đức chiếm đóng. Mặt trận nhân dân Pháp bị thất bại. ở
Pháp đã thành lập chính phủ thân phát xít. Nhân cơ hội đó bọn phát xít ở Pháp và ở thuộc
địa ngóc đầu dậy chống phá.
Tháng 9.1940, quân Nhật tràn vào Đông Dương qua đường Lạng Sơn. Bịn Pháp ở
Đông Dương chống cự yếu ớt rồi hèn nhát đầu hàng dâng Đông Dương cho Nhật,
nhượng cho Nhật vô số những quyền lợi kinh tế, chính trị ở Đơng Dương. Từ đó hai tên
đế quốc phát xít Pháp - Nhật đã cấu kết chặt chẽ với nhau, bóc lột dân ta đến tận xương
tủy.
Với Pháp:
Về chính trị: Chúng phát xít hóa bộ máy chính quyền thuộc địa, xóa bỏ tất cả các
quyền tự do dân chủ mà nhân dân ta đã giành được qua cao trào đấu tranh dân chủ 1936 1939. “ở Đông Dương những cải cách vụn vặt nhân dân Đơng Dương chiếm được dưới
thời kỳ chính phủ mặt trận bình dân bị Catơru phá phách hết. Luật lao động bị bỏ rơi. Các
ái hữu thợ thuyền bị giải tán. Những báo chí tiến bộ bị đóng cửa, chế độ kiểm duyệt thì
được thi hành rất ngặt. Những người bản xứ nhập Pháp tịch trong hồi bình dân bị đuổi ra
khỏi “Làng Tây”. Những người cộng sản, những chiến sĩ tranh đấu cho hịa bình, tự do,
dân chủ bị bắt bớ. Những trại giam tập trung theo kiểu phát xít thành lập khắp nơi.
Khơng những các phần tử cách mạng hay “tình nghi can” bị giam trong đó, mà cả những
người bị coi là “thành tích bất hảo” cũng bị nhốt vào đó. Tất cả họ là những người tù
khơng có thời hạn. Họ bị bắt buộc làm đường, xẻ núi, dưới ngọn roi, báng súng của bọn
lính canh” [22.41]. Chúng tăng cường hơn nữa chính sách khủng bố, đàn áp, bắt bớ giam
cầm nhiều phần tử tiên tiến, những đảng viên, những chiến sĩ cách mạng, nhất là thanh
niên. Chúng tiếp tục tiến hành khủng bố trắng. Chúng giải tán tất cả các đoàn thể quần
chúng (công nhân, nông dân, phụ nữ, phụ lão, ái hữu...). Chúng cịn thực hiện chính sách


“chia để trị”, chia rẽ dân tộc để làm chỗ dựa cho chính sách bóc lột. Đây là hình thức cai
trị rất cổ truyền. “Khủng bố, lừa gạt chưa đủ, đế quốc Pháp cịn dùng chính sách chia rẽ.
Chia rẽ dân Việt Nam với dân Việt Nam, chia rẽ dân Việt Nam với các dân tộc Miên Lào và các dân tộc thiểu số khác (chúng lợi dụng người dân tộc này bắt người dân tộc
kia)” [21.517-518]. Chúng sử dụng đắc lực thế lực phong kiến bù nhìn làm chỗ dựa cho
chính sách bóc lột. “Chúng định nhả một ít quyền cho tụi vua chúa bù nhìn, mượn tay

bọn này sát hại dân chúng” [21.518]. Mặt khác đế quốc Pháp cũng không quên động viên
dư luận tiến hành mọt cuộc đại tiến cơng nói láo, ra lệnh cho mấy tờ báo bợ đỡ và lũ gia
nơ tẩu cẩu nói xấu cộng sản, cơng kích Liên Xơ, kêu gọi nhân dân hiến mình nạp cho đế
quốc chiến tranh" [21.518].
Bên cạnh việc đàn áp, khủng bố, bắt bớ các chiến sĩ cách mạng và nhân dân yêu
nước của ta, thực dân Pháp cũng đưa ra nhiều thủ đoạn lừa bịp, hòng làm cho nhân dân ta
lầm tưởng chúng là “bạn” chứ không phải là “thù”. Chúng cho một số người Việt Nam có
bằng cấp cao được làm chức chủ sự, sĩ quan, thanh tra, cảnh sát... trước đó chỉ người
Pháp hay người vào làng Tây mới được làm. Chúng mở thêm một số trường cao đẳng
(Cao đẳng Khoa học, Cao đẳng Kiến trúc, Cao đẳng Nông lâm, Cao đẳng Thể dục...), lập
ra “Đông Dương học xá” cho một số thanh niên lưu trú với mục đích lơi kéo trí thức,
thanh niên. Đồng thời cũng giống như chính phủ đầu hàng Đức ở bên Pháp, chúng còn
đưa ra các khẩu hiệu bịp bợm như “Cách mạng quốc gia”, “Pháp Việt phục hưng”, “Cần
lao - Gia đình - Tổ quốc”, “Đồn kết và cường tráng để phục vụ” nhằm tuyên truyền, lôi
kéo đông đảo thanh niên, học sinh trung thành với Pháp.
Dưới những khẩu hiệu “lập lờ” đó, tuy chúng có để cho thanh niên ta tổ chức kỷ
niệm các anh hùng dân tộc (Hai Bà Trưng, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung...), hát
những bài ca khích lệ tinh thần yêu nước chống xâm lược (Chi Lăng, Bạch Đằng Giang,
Tiếng gọi thanh niên...) nhưng đồng thời chúng cũng hướng thanh niên ta tôn sùng các
anh hùng dân tộc Pháp như Gian Đa, thậm chí cả tên phát xít phản động đầu hàng như Pê
Tanh. Chúng khuấy lên một phong trào thanh niên giả tạo với những cuộc đại hội điền
kinh, biểu diễn thể thao - thể dục tồn Đơng Dương... Nhưng tất cả những trị bịp bợm đó
của chúng đều chẳng đưa lại kết quả bao nhiêu vì bộ mặt xấu xa, tàn ác của chúng đã quá
lộ liễu, làn sóng cách mạng đã dâng lên từ những năm đầu chiến tranh thế giới và đang
sắp nhấn chìm chúng.


Chúng từng bước quỳ gối, nhân nhượng cho Nhật nhiều quyền lợi kinh tế, chính trị
ở Đơng Dương (ký với Nhật Hiệp ước phịng thủ chung Đơng Dương (23.7.1941) thừa
nhận cho Nhật có quyền đóng qn trên tồn cõi Đơng Dương. Ngày 29.7.1941, ký tiếp

Hiệp ước với Nhật thừa nhận cho Nhật có quyền sử dụng tất cả các sân bay và cửa biển
Đơng Dương vào mục đích qn sự. Đến khi Nhật phát động chiến tranh Thái Bình
Dương (7.12.1941), Pháp phải ký thêm với Nhật một Hiệp ước cam kết hợp tác về mọi
mặt, như tạo mọi sự dễ dàng cho việc hành binhh, cung cấp lương thực, bố trí doanh trại,
giữ gìn trật tự xã hội ở Đơng Dương để đảm bảo hậu phương an toàn cho quân đội Nhật.
Kể từ đây, trong thực tế, Pháp và Nhật đã cấu kết chặt chẽ với nhau trong việc áp bức,
bóc lột nhân dân Đơng Dương, chống lại phong trào cách mạng phục vụ cho chiến tranh
đế quốc. [21.518].
Về kinh tế: Để có đủ số thóc gạo cung cấp cho Nhật, thực dân Pháp bắt nhân dân ta
phải bán thóc theo diện tích đất cày cấy. Tàn ác và dã man hơn nữa, chúng còn bắt nhân
dân ta phải nhổ lúa, phá hoa màu để trồng đay, thầu dầu... lấy nguyên liệu cần thiết cho
chiến tranh. Tuy bị Nhật ức hiếp, tước đoạt mọi bề, thực dân Pháp đã có nhiều thủ đoạn
gian xảo để vẫn thu được lợi nhuận cao nhất. Trước hết, chúng thi hành chính sách “Kinh
tế chỉ huy” mà thực chất là một thủ đoạn lợi dụng kinh tế thời chiến để nắm độc quyền
toàn bộ nền kinh tế Đông Dương và tăng cường tệ đầu cơ tích trữ để vơ vét bóc lột nhân
dân ta được nhiều hơn.
Thủ đoạn thứ hai là tăng thuế, đặc biệt là các thứ thuế gián thu, riêng với khoản thuế
rượu, muối và thuốc phiện từ 1939 - 1945 đã tăng lên gấp 3 lần. “Ngoài thuế má nặng nề,
tăng cường vơ vét tài nguyên và các hình thức cướp đoạt khác khiến dân chúng hết
đường sống, lịng dân sơi sục căm hờn” [46.170-171].
Một thủ đoạn tàn ác nữa là chúng "thu mua" thực phẩm, chủ yếu là lúa gạo theo lối
cưỡng bức, cướp đoạt với giá rẻ mạt, một phần để cung đốn cho Nhật, một phần để tích
trưc chuẩn bị chiến tranh. Chính thủ đoạn tàn ác này đã gây ra nạn khan hiếm lương thực,
thực phẩm nghiêm trọng trên thị trường và là nguyên nhân trực tiếp làm cho hơn 2 triệu
đồng bào ta ở miền Bắc chết đói vào cuối năm 1944 và đầu 1945.
Với Nhật:
Về chính trị: Âm mưu của Nhật “Đem qn sang Đơng Dương, Nhật muốn nhân cơ
hội Pháp bại trận, nhận trước lấy một bộ phận thuộc địa của Pháp, chiếm lấy những
nguồn nguyên liệu béo bở ở Đông Dương để cung cấp cho chiến tranh, lấy Đông Dương



làm nơi căn cứ quân sự đánh Hoa Nam và triệt đường tiếp tế quân nhu, khí giới cho Tàu
ở Diến Điện, hòng mau ra khỏi vũng bùn lầy Trung Quốc, dùng Đông Dương làm cái cầu
tiến bước xuống miền Nam Dương, á Châu” [22.49]. Để che đậy cho những hành vi
cướp bóc tàn bạo và âm mưu xâm lược, để có chỗ dựa khi nhảy lên độc chiếm Đơng
Dương, phát xít Nhật đã đưa ra nhiều thủ đoạn chính trị thâm độc. Cụ thể, chúng bí mật
cho người tập hợp những phần tử trí thức, nhân sĩ yêu phần nào bất mãn với Pháp (Trần
Trọng Kim, Nguyễn Xuân Chữ...) hoặc những tên gián điệp cũ của Pháp (Nguyễn Thế
Nghiệp...) và giúp chúng thành lập ra những đảng phải chính trị thân Nhật (Đại Việt Dân
chính, Đại Việt Quốc xã, Việt Nam ái quốc, Phục Quốc, Đại Việt quốc gia liên minh...).
Chúng cịn lợi dụng cả các đạo giáo có xu hướng chống Pháp ở Nam Kỳ (Cao Đài, Hòa
Hảo). Chúng thống nhất các phe phái trên thành một đoàn thể thân Nhật có tên chung
trong cái gọi là “Việt Nam phục quốc đồng minh hội”, và ráo riết sửa soạn nặn ra một
chính phủ bù nhịn làm tay sai cho chúng.
Đồng thời, chúng còn tung ra luận điệu là bịp như “Khu thịnh vượng chung Đại
Đông á”, cho xuất bản nhiều sách học tiếng Nhật, mở lớp dạy tiếng Nhật, tổ chức trao đổi
trí thức, học sinh và sinh viên giữa Đông Dương và Nhật... để tuyên truyền cho văn hóa
và sức mạnh “vơ địch của Nhật”, gạt dần ảnh hưởng của Pháp độc chiếm Đông Dương.
Về kinh tế: Các Công ty tư bản Nhật đưa vốn vào Đông Dương ngày một nhiều và
hoạt động trong nhiều ngành công nghiệp và thương mại (Công ty Thương mại và Công
nghiệp Đông Dương, Công ty Đại Nam...). Về công nghiệp, Nhật bỏ vốn chủ yếu vào
khai mỏ (quặng sắt, măng gan, phốt pho...). Về thương mại, từ 1942, là khách hàng độc
nhất của Đơng Dương, Nhật bán ít mà chủ yếu là mua. Trị giá hàng nhập từ Đông Dương
sang Nhật lớn gấp nhiều lần hàng Nhật xuất sang Đông Dương. Năm 1944, Nhật xuất sang
Đông Dương 25.000 tấn hàng và nhập của Đông Dương 1.400.000 tấn quặng thực phẩm.
Đúng như Hồ Chí Minh viết: “Mùa thu 1940, phát xít Nhật đến xâm lăng Đông
Dương để mở thêm căn cứ đánh đồng minh, thì bọn thực dân Pháp quỳ gối đầu hàng, mở
cửa nước ta rước Nhật. Từ đó nhân dân ta chịu hai tầng xiềng xích: Pháp và Nhật”
[46.556].
Dưới hai tầng áp bức bóc lột nặng nề của Pháp - Nhật, các tầng lớp nhân dân ta nói

chung, nhất là nơng dân, bị đầy đến tình trạng cực khổ, điêu đứng.


Với nông dân, cuộc sống của người nông dân lúc đó thật sự khốn quẫn. Họ bị tước
đoạt đến hạt gạo cuối cùng mà họ phải nắm nắng, mười sương mới kiếm được, hay mảnh
vải mà họ phải thức khuya dậy sớm để dệt thành. Họ phải sống cầm hơi qua ngày với hớp
cháo cám nhạt và trần mình chịu rét lúc đêm đông. Theo thống kê “Số chi thu của những
gia đình dân cày bị hao hụt. Giá hàng kỹ nghệ tăng, tiền sắm sửa nông cụ, mua phân bón
nhất nhất cái gì cũng đắt mà nơng sản bán không chạy và sưu thuế ngày một tăng cao”
[22.53].
Trong tổng số gần 2 triệu đồng bào ta bị chết đói cuối 1944, đầu 1945 thì đa số là
người nơng dân, thiết nghĩ đó cũng là điều dễ hiểu.
Với cơng nhân và kể cả thợ thủ công đời sống của họ cũng điêu đứng nhiều bề. Giá
cả đắt đỏ làm cho cuộc sống của họ càng trở nên khó khăn. Các tệ nạn cúp phạt, giảm
lương, tăng giờ làm, đánh đập..., thậm chí dãn thợ, sa thải... thường xuyên đe dọa, uy hiếp
họ. “Tình cảnh thợ thuyền hết sức khổ sở. Đồng lương thực của thầy thợ bị giảm. Giờ
làm của thợ thuyền công chức tăng gia. Từ khi Pháp thu, sức sinh sản ở Đông Dương bị
rút hẹp lại. Nhiều thợ bị giảm, nhiều thợ khác chỉ làm ba, bốn ngày trong một tuần. Tiền
nhà, tiền cơm, đắt đỏ đến nỗi có nhiều anh em thợ khơng dám trọ ở tỉnh, phải quốc bộ
hàng 10 cây số từ nhà quê ra tỉnh làm. Nhiều gia đình thợ bị tan nát. Chồng làm không đủ
nuôi vợ, vợ phải về quê làm mướn hoặc bán lá rau, cái bánh lần hồi cho qua ngày”
[22.53].
Với tiểu tư sản, đời sống của họ cũng hết sức bấp bênh. Đối với bộ phận công chức
các sở cơng tuy thực dân Pháp có tăng lương cho họ vì giá sinh hoạt tăng nhanh, hay phát
thẻ cung cấp một số mặt hàng cần thiết (vải, đường, gạo...) nhưng sự “ưu đãi” ít ỏi đó
cũng khơng thể bù đắp nổi những thiếu hụt trong đời sống của họ vì giá sinh hoạt ngày
càng cao vọt. Cịn đối với các tầng lớp tri thức làm nghề tự do, các tiểu thương, tiểu chủ...
thì tình cảnh càng vơ cùng gieo neo, điêu đứng. Các nạn thất nghiệp, buôn bán thua lỗ,
sập hiệu... sẵn sàng chờ đón họ. Ngồi ra hiện trạng “Thiếu vật liệu và thị trường tiêu thụ,
nhiều nhà tiểu công nghệ bị phá sản hoặc chỉ sống một cách ngoắc ngoải. Nhiều tiểu

thương bị chết chẹt giữa nạn đầu cơ của bọn đại thương bn cắt và chính sách kiểm sốt
giá sinh hoạt thiên tư của chính phủ thuộc địa” [22.53].


Ngay cả giai cấp tư sản và giai cấp địa chủ, chỉ trừ một số có quyền lại gắn chặt với
Pháp - Nhật thì càng chớp thời cơ để làm ăn lớn, đầu cơ tích trữ, phát tài to, cịn lại nói
chung đều ít nhiều bị sa sút hay phá sản.
Nói tóm lại, dưới ách áp bức của Pháp - Nhật đời sống nhân dân ta vô cùng bần
cùng về kinh tế, ngột ngạt về chính trị. Trừ bọn đại địa chỉ, tư sản mại bản, quan lại
cường hào tham nhũng và bọn đầu cơ tích trữ, cịn mọi tầng lớp nhân dân đều rên xiết
dưới hai tầng áp bức bóc lột của bè lũ Nhật - Pháp.
Chính sách hèn đớn, phản động của đế quốc Pháp và những hành vi bạo ngược của
Nhật đã khêu gợi tinh thần phản đế của đồng bào ta. Khắp Đông Dương nhân dân muốn
đứng lên cởi bỏ xiềng xích nơ lệ, đánh đuổi ách thống trị của giặc Nhật, Pháp. Mâu thuẫn
nổi lên hàng đầu trong xã hội Việt Nam lúc này là mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt
Nam với đế quốc phát xít Pháp và Nhật. Cả nước Việt Nam lúc này có thể ví như là một
đống cỏ khơ, chỉ cần một tàn lửa nhỏ rơi vào là sẽ bùng lên thiêu cháy bè lũ cướp nước
và tay sai.
Yêu cầu cấp thiết của cách mạng Việt Nam lúc này là phải đánh đuổi đế quốc, phát
xít Pháp - Nhật và bè lũ tay sai giành độc lập - tự do và chính quyền về tay nhân dân, xây
dựng chế độ dân chủ mới.
Nhưng muốn cho cách mạng đi đến thắng lợi thì lúc này hơn bao giờ hết địi hỏi
Đảng ta phải vững vàng về mọi mặt trước cơn khủng bố gắt gao của kẻ thù để lãnh đạo
nhân dân ta đứng lên đấu tranh giành chính quyền.
Do sớm dự báo được chiến tranh thế giới thứ hai sẽ nổ ra, nên Đảng ta hồn tồn
khơng bị bất ngờ về cuộc chiến tranh này. Trong thời kỳ 1936 - 1939 Đảng ta đã có một
số chủ trương hoạt động thích hợp khi chiến tranh bùng nổ (Thơng báo khẩn cấp
10.3.1938, Nghị quyết Ban chấp hành Trung ương ngày 29.3.1938 và Tuyên ngôn Đảng
Cộng sản Đông Dương với thời cuộc ngày 29.3.1938 đã nói rõ chiến tranh sẽ nổ ra, cần
tập trung mũi nhọn chống phát xít gây chiến).

Một tháng sau khi chiến tranh thế giới thứ hai nổ ra, ngày 29.9.1939, Trung ương
Đảng gửi thông báo cho các cấp bộ Đảng vạch rõ cách mạng Đông Dương sẽ tiến đến
mục tiêu giải phóng dân tộc, chỉ thị cho tồn Đảng kịp thời rút vào bí mật và chuyển
hướng hoạt động.
Tuy nhiên tình hình Đảng ta lúc này cũng gặp nhiều khó khăn tổn thất lớn. Số lượng
đảng viên ở Trung, Nam, Bắc kỳ cịn q ít ỏi. Đảng bộ 3 xứ bị thiệt hại rất nhiều do


chính sách khủng bố của thực dân Pháp từ tháng 9.1939. Mặc dù vậy nhiều Đảng viên
mới cũng được kết nạp vào Đảng, phần nào bù đắp được sự thiệt hại và mở rộng ra là
khác. Ai Lao và Cao Miên vẫn giữ được tổ chức Đảng. Về chất lượng Đảng viên chưa
cao, thành phần chủ yếu là dân cày và tiểu tư sản. Do chính sách khủng bố của Pháp
nhiều chi bộ xí nghiệp của Đảng ở Ba Son, Xe lửa Sài Gòn, Sợi Nam Định, Xi măng Hải
Phòng, các mỏ Hòn Gai, Cẩm Phả, Xe lửa Vinh... bị phá. Do đó làm cho “thành phần
cơng nhân của Đảng đã kém lại kém thêm” [22.59]. Vì trình độ Đảng viên nhìn chung
đều biết chữ. Tuy nhiên trình độ hiểu biết phổ thơng lại rất kém do đó việc nghiên cứu và
tự rèn luyện của đảng viên có phần chậm chạp. Nhưng điều đáng mừng là các đồng chí
đảng viên lại rất hăng hái. Có nhiều đồng chí khi bị tra tấn rất dã man mà vẫn giữ được
tinh thần. Có nhiều đồng chí chun mơn bị truy tìm rất gay gắt, hoạt động trong những
điều kiện rất khó khăn vẫn cương quyết tranh đấu khơng nản chí” [22.59]. Về mặt tổ
chức, mặc dù bị đế quốc khủng bố gắt gao, Đảng vẫn luôn phát triển. Tuy nhiên Đảng
vẫn chưa khôi phục được những chi bộ ở những nơi công nhân tập trung như những đồn
điền ở Nam kỳ, những mỏ ở Bắc kỳ và những tỉnh thành kỹ nghệ phát triển ở Nam Định,
Hải Phòng, Sài Gòn... Về chỉ huy tồn Đảng lúc này khơng được thống nhất, lý do là do
Ban chấp hành Trung ương bị thất bại gần hết. Việc chỉ huy toàn Đảng lúc này là xứ nào
riêng xứ ủy ấy chỉ huy cho nên phần nào nó ảnh hưởng đến chất lượng và sự thống nhất
lãnh đạo của Đảng...
Đặc biệt chính sách khủng bố thâm độc, tàn bạo của đế quốc Pháp và quân phiệt
Nhật 1939-1941, đã làm cho Đảng Cộng sản Đông Dương tổn thất nặng nề. Chúng tìm
mọi biện pháp khủng bố, giết hại đồng bào, cán bộ, chiến sĩ yêu nước, cách mạng, nhất là

đối với cán bộ, đảng viên của Đảng, nhằm làm tê liệt mọi sự hoạt động và sự lãnh đạo
của Đảng, dẫn đến sự tan rã của phong trào trước cách mạng. Chúng tìm cách cài cắm
bọn "A-B" (Antibolchévik - chống bơnsêvích), là những phần tử khiêu khích, phản bội,
mật thám, tay sai của đế quốc, đội lốt cộng sản chui vào tổ chức đảng, dò xét, phá hoại
Đảng [66. 108-110]. Với các thủ đoạn thâm độc, qua mỗi đợt khủng bố của địch hàng
loạt cơ sở, tổ chức đảng và của đoàn thể quần chúng bị phá vỡ mất liên lạc; hàng ngàn
cán bộ đảng viên ưu tú, trong đó có nhiều cán bộ lãnh đạo cao cấp quan trọng của Đảng
bị bắt, tù đày và bị sát hại; nhiều tổ chức cấp bộ đảng phải lập đi lập lại nhiều lần.Trong
những năm 1939 - 1941, các đồng chí Lê Hồng Phong ủy viên Ban Chấp hành Quốc tế


Cộng sản; Nguyễn Văn Cừ Tổng Bí thư Đảng; Hà Huy Tập Tổng Bí thư Đảng; Võ Văn
Tần ủy viên Ban Chấp hành Trung ương, Bí thư Xứ ủy Nam kỳ; Nguyễn Thị Minh Khai
ủy viên Xứ ủy Nam kỳ và Bí thư Thành ủy Sài Gịn... đã bị địch bắt và bị sát hại.
Trong bối cảnh ấy, yêu cầu quan trọng cấp thiết đặt ra cho cách mạng Việt Nam lúc
này là phải làm sao khôi phục lại được các tổ chức cơ sở cũng như hoạt động của Đảng,
khôi phục lại phong trào làm cho Đảng ta thực sự vững mạnh về mọi mặt đủ sức đóng vai
trị là người tiên phong dẫn đường, lãnh đạo cách mạng Việt Nam, lãnh đạo quần chúng
nhân dân đứng lên lật đổ ách áp bức Pháp - Nhật, giải phóng nhân dân ta khỏi kiếp nô lệ
mất nước, giành độc lập tự do, cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân giành chính
quyền về tay nhân dân, xây dựng một chế độ dân chủ mới.
1.2. Chủ trương xây dựng Đảng của Hồ Chí Minh của Đảng ta trong thời kỳ mới
Ngay từ cuối 1938, trước những biến động lớn của tình hình thế giới, Hồ Chí Minh
đã rời Liên Xơ đến Trung Quốc tìm cách về nước hoạt động và trực tiếp lãnh đạo cách
mạng nước ta. Cuối 1938 đến 1940, từ Tây An (Thiểm Bắc), Người về Quế Lâm
(Quảng Tây - Trung Quốc), tìm cách bắt liên lạc với Trung ương Đảng Cộng sản
Đơng Dương. Đầu 1940, Hồ Chí Minh đến Côn Minh (Vân Nam - Trung Quốc) chắp
nối liên lạc với Trung ương Đảng Cộng sản. Qua Ban hải ngoại của Đảng Cộng sản Đơng
Dương, Người đã đóng góp nhiều ý kiến chỉ đạo cho cơng tác xây dựng Đảng, lãnh đạo
cách mạng thời kỳ mới.

Tháng 11.1939, Trung ương Đảng họp hội nghị lần thứ 6 tại Bà Điểm - Gia Định
(gồm Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ, Lê Duẩn, Phan Đăng Lưu...). Sau khi phân tích kỹ
lưỡng tình hình, thấm nhuần những tư tưởng, chỉ đạo của Nguyễn ái Quốc từ trước, Hội
nghị đã nhận định: trong điều kiện lịch sử mới "bước đường sinh tồn của các dân tộc
Đông Dương không phải con đường nào khác hơn là con đường đánh đuổi đế quốc Pháp,
chống tất cả ách ngoại xâm, vô luận da trắng hay da vàng để giành lấy giải phóng độc
lập". Từ đó Hội nghị đặt vấn đề giải phóng dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu, cấp bách nhất
của cách mạng Đông Dương. Để hồn thành nhiệm vụ giải phóng dân tộc, lập Chính phủ
Liên bang cộng hịa dân chủ Đơng Dương, Hội nghị chủ trương thành lập Mặt trận thống
nhất dân tộc phản đế Đơng Dương, đồn kết rộng rãi mọi lực lượng yêu nước dân tộc,
nhất là phải chăm lo xây dựng Đảng Cộng sản Đông Dương vững mạnh, thống nhất.


Trong cơng tác xây dựng Đảng, căn cứ vào tình hình mới đang diễn ra, phân tích một
cách hết sức khách quan, khoa học, Trung ương Đảng chủ trương:
-“Đảng phải thống nhất ý chí và hành động”. Lúc này sự liên lạc giữa các đảng bộ
từ Trung ương đến các xứ ủy, tỉnh ủy, các chi bộ không được mật thiết, địa phương nào
chỉ biết lo cho địa phương ấy, ý chí và hành động của Đảng chưa được thống nhất, sự chỉ
huy của Đảng không thống nhất cho nên trong lúc phong trào cách mạng đang sắp phát
triển hết sức to lớn quyết liệt thì Đảng ta nhất định phải thống nhất ý chí lại thành một ý
chí duy nhất. Hành động nhất định phải thống nhất, trên dưới khăng khít như một, phải
theo ngun tắc, phải có kỷ luật, các đồng chí từ Trung ương đến chi bộ phải liên lạc mật
thiết, kết chặt lại như một người, như một tảng đá... [21. 555].
- “Đảng phải mật thiết liên lạc với quần chúng”. Trong lúc này Đảng phải mật thiết
liên lạc với quần chúng, phải lắp tai nghe tiếng nói của quần chúng, hiểu rõ nguyện vọng
của quần chúng, đề ra những yêu cầu thiết thực với họ... Đảng khơng những chỉ đạo quần
chúng mà cịn phải học hỏi trong quần chúng nữa. Đảng phải xem xét coi những khẩu
hiệu của mình có được quần chúng hiểu rõ và hưởng ứng khơng, phải tìm tịi những
ngun nhân thất bại để sửa đổi, để gần gũi và lôi léo quần chúng... [21.557]
- “Đảng phải có vũ trang lý luận cách mệnh”. Đảng cần phải có vũ trang lý luận

cách mệnh, cần phải hiểu rõ những quy luật vận động và phát triển của xã hội, hiểu rõ
đường lối mình đi, biết tiến, biết thối thì mới có thể làm tròn vai trò lãnh đạo. Đảng phải
xuất bản sách báo huấn luyện, phải mở những lớp huấn luyện, phải huấn luyện lý luận
cách mệnh cho đảng viên. Đảng phải dịch và xuất bản những tác phẩm quan trọng của
chủ nghĩa Mác, Ăng ghen, Lê Nin... nhất là cuốn “Lịch sử Đảng Cộng sản Nga” để huấn
luyện đảng viên và những cán bộ khơng Đảng, vì theo Lê Nin “khơng có lý luận cách
mệnh, khơng có vận động cách mệnh” [21.557].
- Đảng phải biết “lựa chọn cán bộ mới”. Đảng phải coi đây là việc làm rất quan
trọng, nó quyết định đến sự thành bại của Đảng. Phong trào cách mạng ngày càng phát
triển thì càng phải cần có thêm cán bộ mới để chỉ huy. Muốn lựa chọn cán bộ phải căn cứ
vào công tác, phải công tác, phải lựa chọn những người hăng hái và hy sinh, biết cách làm
việc, biết cách cổ động và thuyết phục quần chúng, được quần chúng tín nhiệm. Nếu khơng
chú ý đến lựa chọn và đào tạo cán bộ thì vận động cách mệnh cũng không thể nào phát triển
được. Trong khi lựa chọn cán bộ cần chú ý đưa đa số vô sản vào các cơ quan chỉ huy để dễ
dàng đảm bảo đi đúng con đường cách mạng vô sản [21.558].


- Đảng “phải lập tức khôi phục hệ thống Trung - Nam - Bắc và làm cho các Đảng
bộ từ chi bộ đến Trung ương mật thiết liên lạc”. Vì sự khủng bố của địch làm cho các
đảng bộ bị phá hoại ít nhiều. Vì liên lạc của Trung ương với các xứ ủy, của xứ ủy với các
tỉnh ủy, của tỉnh ủy với các quận, huyện, các chi bộ nhiều nơi bị đình trệ. Vậy Đảng lúc
này phải khơi phục cho được hệ thống Bắc - Trung - Nam và phải làm cho sự liên lạc từ
Trung ương đến các chi bộ trở nên khăng khít, mật thiết... Nhất là trong lúc này Đảng
thay đổi chính sách, phải làm cho chính sách ấy được phổ cập trong tồn Đảng, toàn bộ
đảng viên đều tham gia thảo luận để cho Đảng có thể thực sự tiêu biểu ý chí và hành
động thống nhất của toàn thể đảng viên. Trong lúc tình thế cách mạng ngày một lên cao
như thế nào. Nếu các tổ chức của Đảng từ trên chí dưới khơng liên lạc mật thiết thì Đảng
khơng thể chỉ huy phong trào một cách đúng đắn được. Phong trào cách mạng quần
chúng sẽ vì đó mà yếu ớt đi, cách mạng không thực hiện được thắng lợi [21.560].
- Đảng phải “Khuyếch trương và củng cố cơ sở Đảng ở các thành thị, các trung tâm

điểm kỹ nghệ và các hầm mỏ, đồn điền”. Đảng phải coi đây là nhiệm vụ rất quan trọng.
Mấy thành phố lớn có cơng nghiệp tập trung nhiều như Sài Gòn, chợ Lớn, Hà Nội, Hải
Phòng, Nam Định, Vinh... nhìn chung Đảng ta chưa có cơ sở. Nếu có cũng rất nhỏ yếu. Do
đó, nếu khơng gây dựng được cơ sở rộng rãi, vững vàng ở những nơi cơng nhân tập trung thì
khơng thể nói đến vai trị lãnh đạo thực tế của giai cấp vơ sản trong cuộc cách mạng
[21.560].
- Đảng “phải chú ý gây dựng cơ sở Miên, Lào và tổ chức những đảng bộ tự trị của
các dân tộc thiểu số”. Cách mạng Đơng Dương có mối liên hệ mật thiết với nhau, do đó
Đảng phải đặc biệt chú ý sự vận động các dân tộc Miên, Lào và các dân tộc thiểu số.
Trung ương Đảng cũng như các xứ ủy phải tổ chức ban chuyên môn về vấn đề dân tộc
thiểu số, phải cho người học chữ, học tiếng nói của các dân tộc ấy để tuyên truyền vận
động họ, gây dựng cơ sở đối với Miên, Lào... phải tổ chức cho được những phần tử hăng
hái của các dân tộc thiểu số vào Đảng và các đảng bộ miên, Lào cũng như Thổ, Thượng...
vẫn nằm trong hệ thống duy nhất toàn Đảng, theo đúng tinh thần chủ nghĩa quốc tế,
nhưng được tổ chức thành những Đảng bộ tự trị để chỉ huy cho sát với những đồng chí
đặc biệt của các dân tộc họ và lôi kéo được đông đảo quần chúng trong các dân tộc ấy
đứng lên đấu tranh đánh đổ đế quốc Pháp, giải phóng dân tộc [21.561].
- Đảng “phải củ sốt thi hành nghị quyết”. Con đường chính trị và những nghị
quyết mà Đảng đứa ra có khi vì đồng chí khơng hiểu biết, thiếu năng lực mà làm sai, có


khi bị mật thám phá hoại, cũng có khi vì sự xung đột cá nhân giữa các đồng chí chấp
hành... mà làm chậm chễ hoặc hư hỏng. Tất cả những điều ấy nếu khơng có sự kiểm sốt
thì khơng sao thấy ngay được để kịp sửa đổi. Khơng có kiểm sốt, cơ quan thượng cấp sẽ
khơng thấy được tính năng lực của đảng viên, sự lựa chọn cán bộ do đó sẽ khơng thỏa
mãn, dùng cán bộ sẽ khơng sát với năng lực của họ. Do đó, ở mỗi đảng bộ, mỗi cơ quan
phải kiểm sốt cơng tác của nhau, phải tìm xem vì ngun nhân gì mà cơng tác không
phát triển để kịp thời sửa đổi... [21.562].
- Đảng “phải có các ban chun mơn”. Đảng lúc này chưa có các ban chuyên môn.
Lý do chủ yếu không phải là thiếu người, thiếu tiền mà là do chính Đảng ta vẫn chưa thấy

rõ sự cần thiết của các Ban chuyên mơn. Vì vậy hoạt động của Đảng chưa thực sự chất
lượng, hiệu quả. Đảng phải thành lập những Ban chuyên mơn như: Ban tun truyền vận
động, Ban tài chính, Ban giao thông, Ban công vận, nông vận, Ban vận động dân tộc
thiểu số...
- Đảng phải chú ý đến “Công tác chi bộ”. Chi bộ là cơ sở của Đảng, sinh hoạt
chính trị của chi bộ là biểu hiện chung của tồn Đảng. Phải làm cho các đồng chí
trong chi bộ nhận thức rõ rằng mỗi một đồng chí trong ngày thương là một người lính
của đội quân tuyên truyền vận động đấu tranh, khi bạo động và người đi đầu lãnh đạo
quần chúng ra chiến trường, lúc thành công la những người xây dựng xã hội mới...
Chi bộ có mạnh thì Đảng mới vững mạnh.
- Đảng cịn phải chú ý chống nạn khiêu khích mật thám. Khơng kết nạp những phần
tử mật thám, tay sai đế quốc, hoặc luôn củng cố Đảng, loại khỏi hàng ngũ của Đảng
những phần tử xấu, mật thám tay sai đế quốc; đồng thời tự chỉ trích và đấu tranh trên hai
mặt trận hữu khuynh, tả khuynh... [21.563].
Có thực hiện được tất cả những chủ trương ấy thì Đảng ta mới thực sự vững mạnh, đảm
bảo được sứ mệnh lãnh đạo toàn dân đấu tranh đi đến thành công.
Tháng 9.1940, quân Nhật xâm lược Đông Dương. Thực dân Pháp đầu hàng dâng
Đông Dương cho Nhật. Nhân dân ta một cổ đơi trịng áp bức. Trước tình hình mới,
11/1940, Trung ương Đảng họp Hội nghị lần 7 tại Đình Bảng (Bắc Ninh) (gồm: Trường
Chinh, Hồng Văn Thụ, Hoàng Quốc việt...). Hội nghị tiếp tục nhận định "vấn đề giải
phóng", "vấn đề dân tộc độc lập" đã trở thành thực tại và gắt gao". Đảng phải "lãnh đạo
các dân tộc bị áp bức Đông Dương vũ trang bạo động giành lấy quyền tự do, độc lập".
Hội nghị chủ trương mở rộng hơn nữa Mặt trận dân tộc thống nhất phản đế Đông Dương.


Đồng thời Hội nghị cũng chủ trương giai cấp vô sản Đông Dương phải giữ vững quyền
lãnh đạo cách mạng. Muốn vậy Đảng phải khắc phục những tồn tại khuyết điểm về số
lượng, chất lượng, trình độ đảng viên và công tác Đảng [22. 58-62, 71].
Trước nhiều biến động của tình hình thế giới và trong nước, phong trào cách mạng
trong nước ngày càng phát triển đòi hỏi tăng cường hơn nữa vai trò lãnh đạo của Đảng.

Ngày 28-1-1941, sau 30 năm xa Tổ quốc, Nguyễn ái Quốc trở về Tổ quốc trên mảnh đất
Cao Bằng. Sau khi cùng Trung ương xem xét, phân tích kỹ lưỡng tình hình thế giới và
trong nước có nhiều biến chuyển lớn, từ ngày 10 đến 19-5-1941, tại Pác Pó, Cao Bằng,
Người chủ trì Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 8.
Hội nghị Trung ương lần thứ 8 đã hoàn thiện sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược
cách mạng của Đảng được đề ra tại Hội nghị Trung ương lần thứ 6 (11/1939). Hội nghị
xác định cuộc cách mạng Đông Dương hiện thời là cuộc cách mạng giải phóng dân tộc.
Hội nghị chủ trương thành lập Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh (Việt Minh) mở
rộng khối đoàn kết toàn dân tộc đánh đuổi đế quốc phát xít Pháp - Nhật giành độc lập
hoàn toàn cho Tổ quốc, thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hịa.
Muốn hồn thành sứ mệnh lịch sử đó trước hết phải xây dựng Đảng Cộng sản Đơng
Dương vững mạnh về mọi mặt có đủ điều kiện khả năng lãnh đạo cách mạng đến thành
công.
Về vấn đề xây dựng Đảng, Người cùng Trung ương nhận thấy thực tế tình hình
Đảng ta lúc đó có một thực trạng là: Sau những cuộc khủng bố 1939 - 1940, Đảng ta bị
hao tổn rất nhiều cán bộ. Trong cấp cấp bộ Đảng bị thiếu, thiếu cán bộ chỉ đạo, lại thiếu
cán bộ chuyên môn. Các cán bộ chỉ huy đã thiếu, các cán bộ chuyên môn lại cũng không
đủ, các cấp đảng bộ ít chú trọng tổ chức ra các ban chuyên môn cần thiết như Ban công
vận, nông vận, Ban tuyên truyền làm cho các ngành công tác quan trọng ấy không được
phát triển đầy đủ. [22.132].
Tuy là Đảng của giai cấp vô sản nhưng thành phần của giai cấp vơ sản ở trong
Đảng ít. Đảng viên xuất thân từ các giai cấp khác như nông dân và tiểu tư sản thì chiếm
nhiều hơn. Hiện nay Đảng chỉ có 25% là vơ sản, 5% phụ nữ, cịn 70% nơng dân và tiểu tư
sản, vì đó lực lượng của Đảng ta trong các chỗ vô sản tập trung và các nơi thành thị, đồn
điền lại rất yếu [22.132].


Bên cạnh đó là tình hình phát triển cách mạng không đều. Xem xét các phong trào
cách mạng Đông Dương có nơi phong trào lên cao mà có nơi khơng có gì hết, xem như
trong lúc Nam, Bắc đã có những cuộc khởi nghĩa mà ở các xứ Lào và Cao Miên chưa có

manh mối của Đảng, lại có những tỉnh ở Trung, Bắc Kỳ cũng chưa có manh mối, các dân
tộc thiểu số chưa tổ chức được mấy. Mặt khác, phong trào nơng dân và binh lính mạnh
hơn và lấn át cả phong trào thợ thuyền, thôn quê mạnh hơn thành phố và các nơi kỹ nghệ,
sự chênh lệch phát triển ấy đã đem lại sự thất bại to lớn, ngồi ra lại do manh mối giao
thơng, tổ chức không bền vững. Đảng bộ nhiều nơi thiếu hẳn tinh thần tự động và sáng
kiến, nên manh mối Đảng hay bị đứt và cơng tác Đảng hay bị đình đốn. Những tai hại ấy
làm cho Đảng ta phí tồn rất nhiều thì giờ mới tiếp tục manh mối và tiếp tục cơng tác.
[22.133].
Trước thực trạng ấy, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng đã có chủ trương
xây dựng Đảng lúc này gồm có mấy vấn đề sau:
- Phải gấp rút đào tạo cán bộ chuyên môn như công vận, nông vận, binh vận, quân
sự... “Việc đào tạo cán bộ nay dã trở thành công tác gấp rút, không thể bỏ qua mọi giờ
phút. Tất cả các cấp bộ chỉ huy của Đảng phải đặc biệt chú ý công tác này. Những cấp
bộ ấy phải mau mau tìm ra những đảng viên trung thành có bảo đảm chắc chắn, có năng
lực sáng tạo lập ra các lớp huấn luyện... Dù phải đình đốn rất nhiều ngành khác, việc đào
tạo cán bộ cũng không thể sao lãng được. [22.134]. Đảng phải chú trọng đến việc đào tạo
cán bộ chuyên môn như công vận, binh vận, quân sự... và phải lựa chọn những cán bộ
thích hợp, đào tạo cho họ đủ năng lực và tinh thần chuyên môn về công tác ấy.
- Về mặt tổ chức đảng phải chú ý đào tạo giai cấp vô sản đem Đảng. Trung ương
Đảng xác định rõ cuộc cách mạng Đông Dương hiện nay tuy là cuộc cách mạng giải
phóng mà nó chỉ là một chiến lược trong giai đoạn khúc khuỷu hiện tại của Đảng mà thơi.
Nhưng hình thức tổ chức Đảng vẫn là tổ chức tiền phong của giai cấp vô sản mà linh hồn
của nó cũng là theo chủ nghĩa Mác - Lê Nin. Hơn nữa giai cấp vô sản vẫn luôn là đội tiền
phong của cuộc cứu quốc ngày nay, cho nên xao lãng sự vận động thợ thuyền vào Đảng
cũng là sự thiếu sót to lớn. Huống hồ cuộc cách mạng Đơng Dương cịn phải bước nhiều
qua các giai đoạn lịch sử, còn phải làm xong cuộc cách mạng Tư sản dân quyền Đông
Dương, tiến tới cách mạng xã hội. Nhiệm vụ ấy cịn dài bao nhiêu, khó khăn bao nhiêu


thì ngày nay giai cấp vơ sản cần phải mạnh, cần phải tu bổ các tổ chức tiền phong của

mình bấy nhiêu. [22.135].
- Về mặt phát triển cách mạng, “Đảng phải chú ý phát triển cách mạng cho đều cả ở
những nơi thành phố, khu công nghiệp cũng như những vùng nông thôn. Đảng phải làm
sao cho cách mạng ở đơ thị phong trào thợ thuyền cho có thể lên cao và tiền phong cho
các phong trào khác. Những nơi xưa nay chưa có ta, phải đưa vận động chắp nối các mối
manh làm cho phong trào khỏi cô độc”. Nói chung Đảng phải lấy việc vận động cơng
nhân làm công việc đầu tiên trong tổ chức quần chúng, làm cho phong trào công nhân lên
cao và tiên phong cho các phong trào khác [22.135]. Đảng bộ miền Nam, đảng bộ Mặt
trận phải giúp đỡ việc xây dựng Đảng ở Cam pu chia và Lào. Cụ thể là “Đảng bộ Nam
Kỳ tổ chức và gây dựng cơ sở Đảng ở Cao Miên, Đảng bộ Trung kỳ ở Lào, đối với các
dân tộc thiểu số phải có các ủy ban chuyên môn vận động họ, làm cho họ thành một lực
lượng hậu thuẫn của cuộc cách mạng Đông Dương, đừng để họ ln là một khí cụ đế
quốc lợi dụng mà đàn áp cách mạng”.
- Về mặt giao thông liên lạc, Đảng cần phải đảm bảo sự thống nhất chặt chẽ về giao
thông liên lạc, đảm bảo sự chỉ đạo thông suốt từ Trung ương đến các chi bộ Đảng, tránh
để bị gián đoạn. Sự liên lạc giữa cấp bộ này với cấp bộ khác phải có ngành dự bị.
Tóm lại, lúc này “Đảng ta phải làm những công việc mà từ trước đến nay chưa làm
xong. Nhiệm vụ ấy đặt thêm cho Đảng ta một gánh nặng, vì trong khi đương tiến lên
trước tình thế khó khăn để làm xong những nhiệm vụ mới của lịch sử, thì giờ rất cấp tốc,
nhưng cũng chưa phải hết. Ta phải biết nhằm vào các công tác trung tâm mà tiến tới, phải
nắm lấy thời cơ thuận lợi mà làm việc. Làm sao cho đủ năng lực lãnh đạo cuộc cách
mạng Đông Dương đi đến toàn thắng [22.136].


Chương 2
Hoạt động xây dựng đảng của hồ chí minh
thời kỳ 1939 - 1945

2.1. Chủ tịch Hồ Chí Minh đề ra quan điểm, đường lối, nguyên tắc xây dựng Đảng
thời kỳ 1939-1945

2.1.1. Hồ Chí Minh ln khẳng định vai trị lãnh đạo của Đảng là nhân tố đầu
tiên quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam
Từ khi tiếp thu được chủ nghĩa Mác - Lênin, tìm ra con đường cứu nước cho dân tộc,
cách mạng Việt Nam từ những năm 20 của thế kỷ XX cho đến thời kỳ vận động Cách
mạng Tháng Tám 1939-1945 và ngay cả trong những giai đoạn cách mạng sau khi cách
mạng tháng Tám thành cơng, Hồ Chí Minh ln khẳng định vai trị lãnh đạo tuyệt đối của
Đảng với cách mạng Việt Nam. Cách mạng Việt Nam phải do Đảng tiên phong của giai
cấp vô sản lãnh đạo mới đảm bảo chắc chân thắng lợi. Người luôn chỉ ra sự lãnh đạo của
Đảng là nhân tố đầu tiên quyết định đến mọi thắng lợi của cách mạng.
Mặc dù cách mạng Việt Nam những năm 1939-1945, tính chất là "một cuộc cách
mạng giải phóng dân tộc", "nhiệm vụ giải phóng dân tộc, độc lập cho đất nước là nhiệm
vụ trước tiên của Đảng ta và của cách mạng Đơng Dương" [22. 118]. Nhưng vì xu hướng
phát triển của cách mạng Việt Nam, Đông Dương đã được Đảng và Hồ Chí Minh xác
định từ trước là "cách mạng giải phóng dân tộc phải đi tới cách mạng tư sản dân quyền và
cách mạng xã hội chủ nghĩa". Vì thế, vị trí, vai trị của Đảng Cộng sản Đông Dương vẫn
là Đảng lãnh đạo cách mạng. Hồ Chí Minh và Trung ương đã giải thích và làm rõ vai trò
lãnh đạo của Đảng như sau: "Ta phải chú ý rằng cuộc cách mạng Đông Dương hiện nay
tuy là cuộc cách mạng giải phóng mà nó chỉ là một chiến lược trong giai đoạn khúc
khuỷu hiện tại của Đảng ta mà thơi. Nhưng hình thức tổ chức đảng vẫn là tổ chức tiền
phong của giai cấp vô sản mà linh hồn của nó cũng là theo chủ nghĩa Mác - Lênin. Hơn
nữa giai cấp vô sản vẫn luôn là đội tiền phong của cuộc cứu quốc ngày nay" [22. 135].
Về vai trò lãnh đạo cách mạng Việt Nam 1939-1945 của Đảng Cộng sản Đông Dương đã
được Người và Trung ương xác định trong Điều lệ tóm tắt của Đảng được thông qua Hội
nghị Trung ương 8 (5/1941) như sau; "Đảng Cộng sản Đông Dương là đội quân tiền


phong duy nhất của giai cấp vô sản Đông Dương lãnh đạo giai cấp vơ sản và tồn thể
nhân dân Đơng Dương làm cách mạng giải phóng làm cho Đơng Dương hoàn toàn độc
lập, đặng hoàn thành trách nhiệm của cách mạng tư sản dân quyền, tiến tới cách mạng vô
sản thực hiện xã hội chủ nghĩa, bước đầu của cộng sản chủ nghĩa" [22. 137].

Trong thời kỳ vận động Cách mạng Tháng Tám 1945, Người thường giảng giải cho
cán bộ hiểu vai trò quan trọng đặc biệt của Đảng đối với toàn bộ sự nghiệp cách mạng
nước nhà. Người nói: “Nhà thì phải có cột mới vững chãi. Các đồn thể cách mạng cũng
thế, phải có cột mới vững được, nghĩa là phải có Đảng lãnh đạo” [15.376]; “Mn việc
lấy Đảng làm gốc. Đảng là gia đình của người Cộng sản”. [30.82].
Người thường tuyên truyền giác ngộ làm cho cán bộ, đảng viên và quần chúng hiểu
rõ: vì sao chỉ có Đảng Cộng sản Đơng Dương mới lãnh đạo được sự nghiệp cách mạng
đánh đuổi đế quốc phát xít Pháp - Nhật giành độc lập, tự do cho Tổ quốc, giành chính quyền
về tay nhân dân, thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hịa đến thắng lợi hồn thành. Đảng
Cộng sản Đơng Dương khơng chỉ có chủ nghĩa Mác - Lênin, hệ tư tưởng khoa học tiên tiến
của thời đại soi đường chỉ lối mà Đảng còn là một tổ chức tiên phong của giai cấp công nhân
Việt Nam, vừa đại biểu cho lợi ích của giai cấp cơng nhân Việt Nam, vừa đại biểu lợi ích của
tồn thể dân tộc và nhân dân Việt Nam. Chỉ có Đảng của giai cấp công nhân Việt Nam mới
đấu tranh chống đế quốc, phong kiến triệt để và tuyệt đối trung thành với lợi ích của giai cấp
cơng nhân và dân tộc Việt Nam.
2.1.2. Quan điểm, đường lối, nguyên tắc xây dựng Đảng của Chủ tịch Hồ Chí
Minh
2.1.2.1. Trước hết phải xây dựng cương lĩnh chính trị đúng đắn cho Đảng
Vai trò lãnh đạo và sức mạnh của Đảng trước hết được khẳng định ở cương lĩnh
chính trị đúng đắn của Đảng.
Để lãnh đạo được cách mạng Việt Nam đến thắng lợi, Đảng phải luôn lấy chủ nghĩa
Mác - Lênin làm nền tảng tư tưởng làm kim chỉ nam cho mọi hành động của mình. Đảng
phải vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào hoàn cảnh điều kiện cụ thể của cách
mạng Việt Nam vạch ra được đường lối, chính sách đúng, lại ln bổ sung, hồn chỉnh để
đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ cụ thể của từng giai đoạn cách mạng.
Cương lĩnh chính trị - đường lối chính sách của Đảng phải đáp ứng yêu cầu nhiệm
vụ của cách mạng, phù hợp với quyền lợi, nguyện vọng thiết thân của đông đảo quần


chúng nhân dân thì mới được nhân dân tin theo, hưởng ứng tham gia, đóng góp cho cách

mạng, đưa cách mạng đến thành công.
Trong "vấn đề Đảng", văn kiện kèm theo Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8
(5/1941) đã ghi "Đảng Cộng sản là đội tiền phong", "bộ tham mưu chiến đấu của giai cấp
vơ sản". Đảng "có một lý luận tiền phong cách mạng, hiểu luật tiến hóa của lịch sử, luật
cách mạng. Có chiến lược, chiến thuật đúng khi tiến cơng, khi thế thủ". Đảng là "lãnh tụ
chính trị bênh vực quyền lợi hàng ngày cho quần chúng, đồng thời nâng cao trình độ
chính trị của họ, ln ln lo đến mục đích cuối cùng của cách mạng" [22. 154].
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám chứng tỏ cương lĩnh, chủ trương, đường lối
chính sách của Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng là hồn tồn đúng "Vì chính sách của
Đảng đúng và thi hành chính sách ấy kịp thời, linh động, cuộc tổng khởi nghĩa Tháng
Tám thành cơng".
Trên cơ sở xác định đúng đắn vai trị lãnh đạo cách mạng của Đảng, Hồ Chí Minh nêu
lên quan điểm, đường lối, nguyên tắc xây dựng Đảng vững mạnh.
2.1.2.2. Chú trọng xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, đồng thời xây dựng đảng
về mặt tổ chức
a) Hồ Chí Minh coi trọng việc xây dựng tổ chức Đảng.
Công tác tổ chức có vị trí quan trọng của nó. Tổ chức là điều kiện vật chất đảm bảo
cho tư tưởng được củng cố và biến thành hành động, thành hiện thực. Tổ chức có chặt
chẽ, nội bộ mới đồn kết thật sự, kỷ luật mới nghiêm minh và hành động mới tự giác,
thống nhất.
Người thường xuyên giáo dục cán bộ, đảng viên và nhân dân phải đồn kết đồng
lịng và phải tự tổ chức chặt chẽ thì nước nhà mới mau giành được độc lập, cách mạng
mới chóng thành cơng.
Hồ Chí Minh rất quan tâm đến vấn đề xây dựng tổ chức Đảng, tổ chức đoàn thể
quần chúng cách mạng, dốc toàn tâm toàn lực xây dựng tổ chức Đảng ngày một vững
mạnh, chặt chẽ, đoàn kết, thống nhất.
Ngay trong lúc bị nhà cầm quyền Tưởng Giới Thạch cầm tù, Người vẫn lo nghĩ về
xây dựng tổ chức Đảng, tổ chức đồn thể cách mạng sao cho vững mạnh. Lịng người
"rối như tơ vị", vì "Ai khun bảo đồng chí? Ai giúp đỡ đẩy mạnh việc tổ chức? của
Đảng và của cách mạng nước nhà".



×