Tải bản đầy đủ (.pdf) (196 trang)

vấn đề an ninh con người trong pháp luật quốc tế hiện đại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.28 MB, 196 trang )


1
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ TƯ PHÁP
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI




CHU MẠNH HÙNG





VẤN ĐỀ AN NINH CON NGƯỜI
TRONG PHÁP LUẬT QUỐC TẾ HIỆN ĐẠI





LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC









HÀ NỘI – 2012





2
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ TƯ PHÁP
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI


CHU MẠNH HÙNG




VẤN ĐỀ AN NINH CON NGƯỜI
TRONG PHÁP LUẬT QUỐC TẾ HIỆN ĐẠI

Chuyên ngành: Luật Quốc tế
Mã số : 62 38 01 08


LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC




Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Nguyễn Bá Diến
PGS.TS. Đoàn Năng






Hà Nội - 2012


3




LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình
nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu nêu
trong luận án là trung thực. Những kết luận
khoa học của luận án chưa từng được ai công
bố trong bất kỳ công trình nào khác

TÁC GIẢ LUẬN ÁN


Chu Mạnh Hùng













4
MỤC LỤC

Trang

MỞ ĐẦU 1
Chương 1: CÁC VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ AN NINH CON NGƯỜI 8
1.1.

Khái niệm an ninh con người 8
1.2.

Mối quan hệ giữa quyền con người và an ninh con người 28
1.3.

Mối quan hệ giữa an ninh con người và an ninh quốc gia 32
1.4.

Vai trò của an ninh con người 40
1.5.

Các nguy cơ đe dọa an ninh con người 43
Chương 2: PHÁP LUẬT QUỐC TẾ VÀ THỰC THI PHÁP LUẬT QUỐC

TẾ VỀ AN NINH CON NGƯỜI
58
2.1.

Sự hình thành và phát triển của chế định an ninh con người
trong luật quốc tế
58
2.2.

Quy định của pháp luật quốc tế về an ninh con người 66
2.3.

Các thiết chế quốc tế bảo đảm an ninh con người 88
2.4.

Các giải pháp tăng cường an ninh con người 108
Chương 3: CHÍNH SÁCH, PHÁP LUẬT VÀ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG
BẢO ĐẢM AN NINH CON NGƯỜI Ở VIỆT NAM
113
3.1.

Chính sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam về an ninh con người

113
3.2. Pháp luật Việt Nam về an ninh con người 132
3.3. Các giải pháp góp phần tăng cường an ninh bảo đảm an ninh con
người ở Việt Nam
156
KẾT LUẬN 178
CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ

TÀI LUẬN ÁN
181
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 182






5

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

ASEAN (The Association of Southeast
Asian Nations)
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
AU (Africa Union) Liên minh châu Phi
ECOSOC (Economic and Social Council) Hội đồng kinh tế - xã hội Liên hợp quốc

EU (European Union) Liên minh châu Âu
HRC (Human Rights Council) Hội đồng Nhân quyền
ICCPR (International Covenant on Civil
and Political Rights)
Công ước quốc tế về các quyền dân
sự, chính trị
ICESCR (International Covenant on
Economic, Social and Cultural Rights)
Công ước Quốc tế về các quyền kinh
tế, xã hội và văn hoá
ICJ (International Court of Justice) Toà án công lý quốc tế

ILO (International Labour Organization) Tổ chức Lao động Quốc tế
NGOs (Non - Governmental Organization) Tổ chức phi chính phủ
UDHR (Universal Declaration of Human
Rights)
Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền
con người
UNDP (United Nations Development Programme)

Chương trình Phát triển Liên hợp quốc
UNESCO (The United Nations Educational,
Scientific and Cultural Organization)
Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn
hoá Liên hợp quốc
UNICEF (United Nations Children’s Fund) Quỹ Nhi đồng Liên hợp quốc
UPR (Universal Periodic Review) Cơ chế Đánh giá định kỳ toàn thể
WHO (World Health Organization) Tổ chức Y tế Thế giới


6
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong lịch sử phát triển của nhân loại cũng như của mỗi quốc gia, con
người luôn là trung tâm và là mục tiêu phấn đấu của cộng đồng quốc tế. Có thể nói,
những thành tựu pháp luật quốc tế và pháp luật của các quốc gia đều hướng tới bảo
vệ, phục vụ con người trên nền tảng an ninh con người phải được bảo đảm nhằm
mục đích xây dựng cuộc sống tự do, bình đẳng và hạnh phúc cho mỗi con người
trong tiến trình phát triển.
Đối với Việt Nam, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đã mở ra một thời kỳ
mới, có tính bước ngoặt cả về lý luận và thực tiễn đối với sự nghiệp xây dựng đất

nước. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ
sung và phát triển năm 2011); Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến
năm 2020; Báo cáo chính trị tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI là những dấu
mốc lớn mang tính bước ngoặt trong nhận thức lý luận của Đảng ta về con người,
quyền con người cũng như an ninh con người. Mặt khác, Hiến pháp 1992 sửa đổi
năm 2001 cũng khẳng định chúng ta xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của dân, do dân và vì dân với mục tiêu vì con người. Như vậy, quan điểm
nhất quán của Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà nước Việt Nam coi con người là
mục tiêu cũng như động lực của quá trình phát triển xã hội. Với nhận thức như vậy
nên an ninh con người phải là vấn đề cốt lõi trong nhận thức và hành động thực tiễn.
Bởi vậy, Đảng và Nhà nước Việt Nam xác định con người ở vị trí trung tâm của các
chính sách kinh tế - xã hội, là nhân tố quan trọng để phát triển bền vững, thực hiện
thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Quan điểm lấy con người làm trung tâm trong chủ trương, đường lối cũng
như pháp luật được coi là nền tảng tư tưởng để Việt Nam tiếp tục con đường xây
dựng chủ nghĩa xã hội đồng thời hội nhập sâu rộng cùng cộng đồng quốc tế. Quá
trình toàn cầu hóa và sự tham gia hội nhập của Việt Nam đã tạo nhiều cơ hội để
phát triển nhưng bên cạnh đó chúng ta cũng đứng trước không ít những nguy cơ,

7
thách thức đòi hỏi Việt Nam phải kiên trì quan điểm, nhận thức và có được những
giải pháp mang tính chủ động, tích cực. Những vấn đề như việc làm của người dân,
sự lan tràn của dịch bệnh, ô nhiễm môi trường, sự gia tăng của tội phạm, hậu quả
của thiên tai đang từng ngày, từng giờ trực tiếp tác động tới cuộc sống và sự an
lành của người dân. Những vấn đề đó có thể là mặt trái của quá trình toàn cầu hóa,
có thể là những mâu thuẫn bên trong mỗi quốc gia hoặc do thảm họa tự nhiên gây
ra. Đó là những nguy cơ không chỉ đe dọa tới sự tồn vong, tiến trình phát triển của
quốc gia mà hiện hữu hơn còn đe dọa đến cuộc sống thường ngày của người dân.
Nhận thức rõ về nó và chủ động ứng phó là trách nhiệm mỗi quốc gia phải làm. Việt
Nam phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa và xây dựng Nhà nước

pháp quyền của dân, do dân và vì dân và như vậy mục đích cuối cùng cũng là chăm
lo cho cuộc sống tốt lành của người dân.
Hơn nữa, hiện nay Việt Nam là thành viên tích cực của Hiệp hội các quốc
gia Đông Nam Á (ASEAN) và đang nỗ lực cùng tất cả các thành viên khác để hình
thành Cộng đồng ASEAN dựa trên ba trụ cột trong đó có Cộng đồng Văn hóa - Xã
hội ASEAN mà mục tiêu chính của cộng đồng này là lấy con người làm trung tâm,
có trách nhiệm xã hội nhằm xây dựng tình đoàn kết, thống nhất bền lâu giữa các
quốc gia và dân tộc ASEAN.
Những vấn đề trong nước và quốc tế, những yếu tố chủ quan và khách
quan liên quan đến mỗi quốc gia và mỗi người dân đặt ra yêu cầu phải nghiên cứu
một cách toàn diện, sâu rộng vấn đề an ninh con người. Tuy nhiên, qua khảo sát các
công trình nghiên cứu khoa học ở Việt Nam, đặc biệt dưới góc độ luật pháp quốc tế
vấn đề này chưa được chú ý đúng mức, còn nhiều ý kiến khác nhau. Xuất phát từ
những đòi hỏi cả ở phương diện lý luận và thực tiễn, tôi lựa chọn đề tài: "Vấn đề an
ninh con người trong pháp luật quốc tế hiện đại" làm luận án tiến sĩ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong quá trình triển khai đề tài, tôi đã có dịp tham khảo nhiều công trình,
bài viết khoa học về an ninh con người do các nhà khoa học ở Việt Nam và trên thế
giới nghiên cứu.

8
Tại Việt Nam, các công trình khoa học tiếp cận vấn đề này theo những
phương diện khác nhau, có thể nêu ra một số công trình như:
Năm 2004, Học viện Quan hệ Quốc tế có đề tài nghiên cứu khoa học "Các
vấn đề an ninh phi truyền thống ở Đông Nam Á: Tác động đối với ASEAN và Việt
Nam" do PGS.TS Nguyễn Phương Bình làm chủ nhiệm đề tài. Đề tài đề cập đến
những cách tiếp cận khác nhau về an ninh phi truyền thống; những thách thức của
an ninh phi truyền thống ở khu vực Đông Nam Á cũng như quan điểm và sự hợp tác
của ASEAN và Việt Nam về an ninh phi truyền thống. Nội dung nổi bật được thể
hiện trong đề tài là vấn đề an ninh con người với ý nghĩa là một biểu hiện của an

ninh phi truyền thống. Tuy nhiên, vấn đề an ninh con người mà đề tài xem xét cũng
mới chỉ dừng lại ở việc thể hiện các quan điểm khác nhau về an ninh con người.
Năm 2006, Nhà xuất bản Khoa học xã hội đã phát hành cuốn sách: "Chênh
lệch phát triển và an ninh kinh tế ở ASEAN" do PGS.TS Nguyễn Xuân Thắng chủ
biên. Nội dung cuốn sách đề cập đến cách tiếp cận về an ninh trong xu thế toàn cầu
hóa, từ an ninh truyền thống sang an ninh phi truyền thống mà trọng tâm là an ninh
con người dựa trên nền tảng của an ninh kinh tế.
Năm 2007, Học viện Quan hệ Quốc tế cũng thông qua đề tài nghiên cứu
khoa học cấp Bộ: " Các thách thức an ninh phi truyền thống ở Đông Nam Á và tác
động đến Việt Nam" với chuyên đề nghiên cứu là "An ninh con người" do TS. Tạ
Minh Tuấn thực hiện. Chuyên đề đã giới thiệu được tổng quan về an ninh con người
như khái niệm, đặc điểm, các yếu tố cấu thành của an ninh con người cũng như hệ
thống cơ quan bảo vệ an ninh con người. Tuy nhiên, chuyên đề này xem xét vấn đề
an ninh con người dưới góc độ quan hệ quốc tế.
Tháng 07 năm 2008, Bộ môn Quan hệ Quốc tế thuộc Đại học Khoa học xã
hội và nhân văn Thành phố Hồ Chí Minh cũng đã tổ chức hội thảo "An ninh con
người ở Đông Nam Á". Hội thảo đã tập trung rất nhiều bài viết của các nhà khoa
học thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau nhưng đều có mối quan tâm chung là an ninh
con người xét ở cả bình diện rộng cũng như hẹp, thế giới cũng như Việt Nam nhưng
khía cạnh luật pháp quốc tế chưa được quan tâm nhiều trong nội dung Hội thảo và
các bài viết.

9
Năm 2009, Nhà xuất bản Khoa học xã hội đã xuất bản cuốn sách "Quyền
con người - Tiếp cận đa ngành và liên ngành khoa học xã hội" do TS. Võ Khánh
Vinh làm chủ biên. Cuốn sách cũng bao gồm tập hợp các chuyên đề của các nhà
khoa học xã hội trong đó có TS. Tường Duy Kiên với chuyên đề: "Quyền con người
và an ninh con người". Tác giả chủ yếu xem xét vấn đề quyền con người trong mối
quan hệ với an ninh con người cũng như những điểm giao thoa và những nội dung
khác biệt của hai khái niệm trong cùng một đối tượng tham chiếu là con người.

Với tạp chí chuyên ngành luật học, tác giả Chu Mạnh Hùng và tác giả Trịnh
Xuân An có bài viết: "An ninh con người trong tiến trình hình thành cộng đồng
ASEAN" đăng trên Tạp chí Luật học số 9 năm 2007. Bài viết này, các tác giả chủ
yếu phân tích các đặc điểm của an ninh con người và xem xét an ninh con người là
một mục tiêu của tiến trình hình thành và phát triển của Cộng đồng ASEAN trong
tương lai.
Trên phạm vi quốc tế, vấn đề an ninh con người cũng được nhiều tác giả và
các quốc gia, tổ chức quốc tế quan tâm điển hình như: Báo cáo phát triển con người
năm 1994 của Cơ quan phát triển Liên hợp quốc (UNDP); Tác giả Davidn Bladwin
với bài viết "Khái niệm an ninh" đăng trên tạp chí Nghiên cứu quốc tế năm 1997
(Vol 23); Tác giả Capie và Evans với cuốn sách An ninh Châu Á - Thái bình dương
được xuất bản tại Singapore năm 2002; Ủy ban An ninh con người với nghiên cứu
"An ninh con người ngày nay" xuất bản tại New York năm 2003; Bộ Ngoại giao
Nhật Bản có Sách xanh về ngoại giao, xuất bản năm 1999; Bộ Ngoại giao và
Thương mại Canada với Chính sách đối ngoại của Canada về an ninh con người; ở
Trung Quốc có tác giả Vương Dật Châu với cuốn sách "An ninh quốc tế trong thời
đại toàn cầu hóa" và được Nhà xuất bản Chính trị quốc gia xuất bản năm 2004.
Nghiên cứu của các tác giả quốc tế chủ yếu quan tâm đến an ninh con người trên
phương diện đối ngoại hoặc với ý nghĩa là một công cụ của quan hệ quốc tế và gắn
an ninh con người với các yếu tố chính trị.
Luật pháp quốc tế tạo cơ sở và khuôn khổ pháp lý cho quan hệ quốc tế giữa
các chủ thể trong đó có vấn đề an ninh con người. Tuy nhiên, nhìn nhận an ninh con

10
người dưới góc độ luật pháp quốc tế thì chưa có một công trình toàn diện mà chỉ ở
những khía cạnh đơn lẻ. Vì vậy, luận án nghiên cứu một cách toàn diện vấn đề an
ninh con người dưới góc độ luật pháp quốc tế hiện đại.
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của luận án
Mục đích của luận án là làm sáng tỏ bản chất của an ninh con người thông
qua việc luận giải cơ sở lý luận và thực tiễn của vấn đề an ninh con người thông qua

luật pháp quốc tế; cơ sở việc nghiên cứu các quan điểm về an ninh con người, rút ra
các đặc điểm cũng như mối quan hệ với các khái niệm có liên quan để làm sáng tỏ
bản chất của an ninh con người.
Để đạt được mục đích đó, luận án có các nhiệm vụ cơ bản sau:
- Làm rõ một số vấn đề lý luận cơ bản, ý nghĩa phương pháp luận của vấn
đề an ninh con người dưới góc độ luật pháp quốc tế.
- Nghiên cứu những qui định của pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam
liên quan đến an ninh con người để làm rõ và có nhận thức đúng đắn về vấn đề an
ninh con người trong tiến trình toàn cầu hóa.
- Phân tích thực trạng và những thách thức đối với an ninh con người trên
thế giới nói chung và ở Việt Nam nói riêng. Xác định rõ quan điểm, nhận thức và đề
xuất các giải pháp tăng cường bảo đảm an ninh con người đặc biệt là ở Việt Nam.
Đối tượng nghiên cứu:
Luận án nghiên cứu về an ninh con người dưới góc độ luật pháp quốc tế
hiện đại.
Phạm vi nghiên cứu:
- Luận án nghiên cứu vấn đề an ninh con người với các cách tiếp cận khác
nhau, đặc biệt là pháp luật quốc tế liên quan đến an ninh con người và những thách
thức đối với an ninh con người.
- Luận án cũng đề cập đến an ninh con người ở khu vực Đông Nam Á đặc
biệt là vấn đề an ninh con người ở Việt Nam nói chung, pháp luật và cơ chế bảo
đảm an ninh con người ở Việt Nam nói riêng.

11
4. Phương pháp nghiên cứu
- Luận án được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác -
Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề con người và an ninh con người.
- Luận án được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy
vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, sử dụng tổng hợp các phương pháp
nghiên cứu như: Phân tích, tổng hợp, logic, lịch sử, qui nạp, đối chiếu… để làm

sáng tỏ vấn đề an ninh con người trong pháp luật quốc tế đặc biệt là những quan
điểm, giải pháp để bảo đảm an ninh con người ở Việt Nam. Các phương pháp được
sử dụng để nghiên cứu mối quan hệ tác động qua lại lẫn nhau trong một tổng thể và
được đặt trong điều kiện kinh tế - xã hội cụ thể nhằm đánh giá một cách toàn diện,
khách quan về lý luận cũng như thực tiễn bảo đảm an ninh con người trên thế giới
cũng như Việt Nam.
5. Điểm mới của luận án
- Luận án là công trình nghiên cứu đầu tiên, toàn diện về vấn đề an ninh con
người dưới góc độ luật pháp quốc tế ở Việt Nam.
- Làm rõ được cơ sở khoa học, các vấn đề lý luận về an ninh con người.
Đưa ra và làm rõ được nội hàm của khái niệm an ninh con người trong pháp luật
quốc tế.
- Luận án khái quát được nội dung, bản chất của vấn đề an ninh con người
đặc biệt là dưới góc độ pháp lý nhằm tạo ra khuôn khổ cho sự hợp tác quốc tế giữa
các chủ thể đặc biệt là chủ thể luật quốc tế.
- Phân tích đánh giá một cách chính xác, toàn diện và đầy đủ về thực trạng
cũng như những nguy cơ và thách thức đối với an ninh con người trên cả phương
diện pháp luật và thực tiễn, đề xuất phương hướng và giải pháp cụ thể nhằm thể
hiện rõ quan điểm, đường lối của Việt Nam về vấn đề an ninh con người, góp phần
hoàn thiện pháp luật liên quan đến an ninh con người ở Việt Nam.
Những kết quả nghiên cứu của luận án có giá trị tham khảo cho việc nghiên
cứu, xây dựng và hoàn thiện pháp luật Việt Nam về an ninh con người. Luận án

12
cũng có thể làm tài liệu tham khảo trong quá trình giảng dạy và học tập ở các
trường đại học, các học viện có chuyên ngành về luật học, chính trị học và quan hệ
quốc tế. Luận án cũng là một nguồn tư liệu để cán bộ làm công tác thực tiễn hiểu
đầy đủ và sâu sắc nhằm vận dụng đúng đắn các quan điểm cũng như qui định của
pháp luật liên quan đến an ninh con người đặc biệt trong bối cảnh chúng ta đang hội
nhập cùng cộng đồng quốc tế và đang nỗ lực cùng các nước trong khu vực Đông

Nam Á xây dựng thành công Cộng đồng ASEAN vào năm 2015.
6. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận án gồm 3 chương:
Chương 1: Các vấn đề lý luận về an ninh con người.
Chương 2: Pháp luật quốc tế và thực thi pháp luật quốc tế về an ninh con người.
Chương 3: Chính sách, pháp luật và các giải pháp tăng cường bảo đảm an
ninh con người ở Việt Nam.

13
Chương 1
CÁC VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ AN NINH CON NGƯỜI

1.1. KHÁI NIỆM AN NINH CON NGƯỜI
1.1.1. Định nghĩa an ninh con người
Khi gặp phải nguy hiểm hoặc cảm thấy có sự đe dọa thì mới nghĩ đến an
ninh, cho nên khi nói tới an ninh thì đặc trưng cơ bản nhất được nhắc tới là mối
quan hệ giữa uy hiếp và nguy hiểm. Trong tiếng Trung, "an ninh" được hiểu là trạng
thái với các nội dung: chưa có nguy hiểm, không bị đe dọa, không xảy ra sự cố.
Trong tiếng Anh "Security" (an ninh) không chỉ bao hàm trạng thái của an ninh như
tránh được nguy hiểm, khỏi bị lo sợ mà còn bao gồm việc bảo vệ an ninh, biện pháp
an ninh và cơ cấu của an ninh [19, tr. 99]. Với nghĩa tiếng Việt, an ninh là trật tự xã
hội, tình hình chính trị yên ổn, không lộn xộn, không nguy hiểm [107, tr. 33]. So
sánh những định nghĩa trên chúng ta thấy nội dung cơ bản là giống nhau: an ninh là
không tồn tại sự đe dọa và nguy hiểm.
An ninh không chỉ phản ánh hiện thực khách quan mà còn đề cập đến một
trạng thái tâm lý - cảm giác an toàn và đối lập với nó là cảm giác bất an. Bất an là
năng lực cảm biến của con người về những rủi ro có thể đến với mình hoặc liên
quan đến mình và vì vậy nó phần nào giống như bản năng sinh tồn hay một loại
phản ứng của con người trước những tín hiệu về sự xuất hiện của rủi ro. Bất an là

một trạng thái tâm lý bình thường và phổ biến của con người không những vậy nó
còn phản ánh sự lành mạnh của con người xét ở phương diện sinh học, thể hiện sự
nhạy cảm của con người trước những rủi ro. Tuy nhiên, khi bất an trở thành trạng
thái tâm lý phổ biến thì đó là vấn đề đáng lo ngại bởi nó nói lên tính đe dọa đối với
cộng đồng xã hội. Nếu bất an trở thành hiện tượng xã hội phổ biến, con người sẽ
phải đối mặt với những rủi ro, đó là sự khủng hoảng tâm lý có tính chất toàn diện và
sâu sắc. Con người cảm nhận về sự bất an rất khác nhau vì cảm giác không chỉ đơn
thuần là một kích thích mà nó còn là hệ quả của quá trình nhận thức [2, tr. 2].

14
An ninh là một nội dung cơ bản trong quan hệ quốc tế được điều chỉnh
bằng luật pháp quốc tế. Xét ở phương diện lý luận quan hệ quốc tế [81, tr. 31] có
những quan niệm cơ bản khác nhau về vấn đề an ninh: Chủ nghĩa hiện thực
(Realism) nhìn nhận an ninh từ khía cạnh sức mạnh quân sự và các mối đe dọa từ
bên ngoài (khách quan) thì Chủ nghĩa tự do (Liberalism) lại tiếp cận an ninh theo
nghĩa rộng bao gồm cả sức mạnh quân sự và phi quân sự, các mối đe dọa từ bên
trong lẫn bên ngoài (chủ quan, khách quan). Như vậy, dù ở khía cạnh nào thì những
quan niệm trên cũng chỉ coi quốc gia là đối tượng của an ninh.
Những thay đổi cơ bản của quan hệ quốc tế thời kỳ hậu chiến tranh lạnh
dưới tác động mạnh mẽ của làn sóng khoa học và công nghệ mới đặc biệt là công nghệ
thông tin cũng như quá trình toàn cầu hóa làm cho khái niệm an ninh được mở rộng từ
an ninh truyền thống đến an ninh phi truyền thống. An ninh truyền thống coi quốc gia
là đối tượng của an ninh: ở cấp độ thấp là việc quốc gia mất quyền kiểm soát đối với
một phần lãnh thổ hoặc dân cư; ở cấp độ cao hơn là quốc gia bị xâm chiếm làm mất
đi yếu tố chủ quyền và ở cả hai cấp độ tất cả các hành động xâm chiếm đều được
thực hiện bằng chiến tranh [93, tr. 25]. Như vậy, với an ninh truyền thống thì giá trị
của an ninh được biểu hiện bằng sự toàn vẹn của lãnh thổ và nền độc lập của quốc
gia. Những nguy cơ, những mối đe dọa lại xuất phát từ những quốc gia khác bởi
vậy vũ lực là phương thức hàng đầu được sử dụng để bảo vệ sự an toàn của chính
quốc gia đó và cân bằng quyền lực là phương cách quan trọng và nó tương đương

với năng lực quân sự của quốc gia. Như vậy, an ninh truyền thống lấy quốc gia làm
đối tượng và chủ yếu đề cập đến những quan hệ chính trị, quân sự giữa các quốc gia
nhưng an ninh phi truyền thống không chỉ quan tâm đến sức mạnh quân sự, đến
quốc gia mà còn là cá nhân con người. Theo đó, an ninh của một dân tộc không chỉ
còn bị đe dọa bởi các yếu tố chính trị, quân sự truyền thống mà còn chịu sức ép của
các yếu tố kinh tế, xã hội, tôn giáo Hơn thế nữa, an ninh quốc gia không chỉ còn
gói gọn trong khái niệm toàn vẹn lãnh thổ, bảo đảm chủ quyền hay độc lập chính trị
mà còn bao hàm cả vấn đề ổn định hệ thống kinh tế và giữ gìn các giá trị căn bản
của dân tộc [81, tr. 32]. Do đó, với an ninh truyền thống, quốc gia là đối tượng cũng
như chủ thể của an ninh thì với an ninh phi truyền thống, con người và an ninh con

15
người là đối tượng trong đó an toàn của con người và tự do cá nhân được coi là giá
trị của an ninh. Vì vậy, các mối đe dọa đối với an ninh con người có thể xuất phát từ
quốc gia khác, có thể trực tiếp từ các quốc gia, các chủ thể phi nhà nước và các nguy cơ
có tính chất toàn cầu. Để bảo đảm an ninh con người vũ lực chỉ là giải pháp thứ yếu mà
quan trọng hơn là phát triển con người, quản lý con người. Có thể nói, an ninh con
người là điểm nối giữa an ninh truyền thống và an ninh phi truyền thống [93, tr. 46]
bởi con người là trung tâm trên các cấp độ quốc gia, khu vực và quốc tế.
Những tư tưởng về an ninh con người cũng đã xuất hiện từ lâu, ngay khi
trên cương vị người đứng đầu Hợp chủng quốc Hoa kỳ, Tổng thống Franklin
Roosevelt khi nói về bốn quyền tự do cơ bản của con người, trong đó có quyền "
không phải sống trong sợ hãi" [96, tr. 5]. Những năm 1960 khi các nhà kinh tế học
bắt đầu bàn về an ninh và các mô hình phát triển kinh tế trong đó có an ninh con
người. Đến thập kỷ 70 các nhà nghiên cứu quan hệ quốc tế đã phác thảo và tranh
luận về một mô hình trật tự thế giới mới ổn định hơn và bắt đầu quan tâm đến sự an
toàn của cá nhân con người. Giai đoạn thập kỷ 70, nhóm "câu lạc bộ Rome" đã đưa
ra hàng loạt các báo cáo về "những vấn đề của thế giới" dựa trên ý tưởng cho rằng
đang tồn tại rất nhiều vấn đề phức tạp đe dọa tất cả mọi người ở tất cả các quốc gia,
đó là: nghèo đói, vấn đề môi trường, đô thị hóa không kiểm soát được, lạm phát,

khủng hoảng kinh tế và tiền tệ
Mỗi người trên thế giới này phải đối mặt và chịu nhiều sức ép, nhiều vấn đề
ở nhiều mức độ tác động khác nhau và đòi hỏi phải mất nhiều thời gian đấu tranh,
thậm chí vì miếng ăn cho hôm sau người ta phải lo lắng về sức mạnh của bản thân
mình và cả sức mạnh của quốc gia mình nữa rồi cũng có thế phải lo lắng về sức
mạnh của bản thân mình và cả sức mạnh của quốc gia mình nữa rồi cũng có thể
phải lo lắng về một cuộc thế chiến có thể xảy ra hay một cuộc chiến tranh trong nay
mai với phe đối lập trong vùng lân cận [124, tr. 7].
Những vấn đề đặt ra và những mối quan tâm được đặt trong bối cảnh rộng
lớn đang vận động theo xu thế toàn cầu tác động đến mỗi cá nhân con người đặc
biệt là tiến trình công nghiệp hóa, tăng trưởng dân số, sự xuống cấp của môi

16
trường Những tác động qua lại ở cấp độ vĩ mô cho chúng ta thấy rõ ràng rằng sự
tăng trưởng kinh tế toàn cầu có những giới hạn nhất định theo qui luật và vì vậy mà
rất có thể xã hội loài người phải đối mặt với một trận "Đại hồng thủy" trong tương
lai. Tuy nhiên, người ta vẫn tin rằng "một trạng thái cân bằng toàn cầu" chắc sẽ
được tạo ra để đảm bảo đáp ứng những nhu cầu cơ bản cho mỗi người và mỗi cá
nhân đều có thể có những cơ hội bình đẳng để phát huy khả năng của mình. Như
vậy, những ý tưởng ban đầu về an ninh con người và cơ hội của mỗi người trong
cuộc sống và sẽ có những cách thức chuyển đổi nhất định tạo ra sự phát triển toàn
cầu, qua đó đảm bảo được an ninh toàn cầu và tạo ra nhiều cơ hội cho mỗi cá nhân
trong cuộc sống. Năm 1980, Ủy ban độc lập về Các vấn đề phát triển quốc tế do ông
Willy Brandt làm Chủ tịch xuất bản "Báo cáo Bắc - Nam" (North - South Report).
Trong Báo cáo này ông viết:
…Báo cáo của chúng tôi dựa trên những lợi ích chung và cơ bản
nhất. Đó là những gì để nhân loại cần để tồn tại và không đặt ra những
câu hỏi về chiến tranh và hòa bình mà là về vấn đề cả thế giới sẽ làm gì
để vượt qua đói nghèo và những khoảng cách trong điều kiện sống giữa
người giàu và người nghèo… [125, tr. 13].

Tranh luận về tính cần thiết của việc thống nhất Bắc - Nam để phát triển,
Báo cáo này cho rằng tâm điểm của vấn đề chính là ý chí, nguyện vọng vượt qua
những căng thẳng, mang lại những kết quả hữu ích và có ý nghĩa cho nhân loại trên
toàn thế giới.
Ủy ban thứ hai về giải trừ quân bị và các vấn đề an ninh do Olof Palme làm
Chủ tịch và cũng là tác giả của Báo cáo nổi tiếng về "an ninh chung" (common
security) cũng quan tâm những ý tưởng khác nhau về hòa bình và an ninh. Báo cáo
này mặc dù đề cập đến những vấn đề quân sự và an ninh quốc gia nhưng cũng thừa
nhận rằng vấn đề an ninh của thế giới thứ 3 đang bị đe dọa bởi "nghèo đói và sự bất
bình đẳng về kinh tế" [126, tr. 15].
Sau khi chiến tranh lạnh kết thúc, thế giới phải đối diện với nhiều nguy cơ
mất an ninh mới, đòi hỏi và yêu cầu phải có được những ý tưởng và sáng kiến để

17
giải quyết những vấn đề an ninh ngày càng tăng. Năm 1991, Sáng kiến Stockhom
về một nền quản trị và an ninh toàn cầu đã đưa ra lời kêu gọi vì "một trách nhiệm
chung trong những năm 1990". Kêu gọi này trùng với quan điểm của Albert Einstein
năm 1945 khi ông cho rằng "Chúng ta ở một mức độ nào đấy, có thể nói con người
là văn minh khi và chỉ khi việc tạo ra và duy trì một điều kiện sống tươm tất cho con
người được mọi người và tất cả mọi quốc gia trên thế giới thừa nhận như một nghĩa
vụ chung". Lời kêu gọi này đề cập đến những thách thức an ninh hơn là sự thù địch
và những vấn đề quân sự, chiến tranh. Năm 1995, Báo cáo của Ủy ban về quản trị
toàn cầu "Láng giềng của chúng ta" đã nhắc lại Sáng kiến Stockhom về an ninh:
"Khái niệm an ninh toàn cầu phải được mở rộng từ trọng tâm là an ninh quốc gia để
bao hàm cả an ninh cho con người và an ninh của cả trái đất" [123, tr. 338].
Đó là những ý tưởng ban đầu về an ninh con người. Khái niệm an ninh con
người xuất hiện vào đầu những năm 90 với đóng góp của Mahbub ul Haq và
Chương trình phát triển Liên hợp quốc (UNDP). Mahbub ul Haq là một nhà kinh tế
học, cố vấn lâu năm cho UNDP và là nhân vật chính trong việc đưa ra chỉ số so
sánh về phát triển con người của Liên hợp quốc (The Human Development Index -

HDI). Nỗ lực phát triển con người đặt trọng tâm của tư tưởng về phát triển và
những chính sách liên quan là sự bảo vệ cho cá nhân con người chứ không chỉ đơn
thuần là phát triển kinh tế vĩ mô. "Báo cáo phát triển con người năm 1994" của
UNDP xác định an ninh con người là sự an toàn của con người trước những đe dọa
triền miên và sự bảo vệ con người trước những biến động bất thường tổn hại đến
cuộc sống. Nội hàm của khái niệm này rộng hay hẹp tùy thuộc vào việc xác định
những gì cấu thành nên quyền và sự an toàn của con người.
Mặc dù đã có nhiều nghiên cứu nhằm lý giải câu hỏi thế nào là an ninh con
người, nhưng các cách thức tiếp cận đều thừa nhận con người có quyền được bảo vệ
an toàn và an ninh đối với bản thân họ. Nói cách khác, con người phải được bảo vệ
khỏi các mối đe dọa từ bên ngoài đối với bản thân mình và tạo lập cảm giác an toàn
trong cuộc sống gia đình, nơi làm việc cũng như trong xã hội. Vì vậy, xuất hiện các
xu hướng khác nhau khi định nghĩa an ninh con người.

18
Thứ nhất, an ninh con người được hiểu theo "nghĩa hẹp". Những người ủng
hộ trường phái này cho rằng an ninh con người tập trung chủ yếu vào các mối đe
dọa bằng bạo lực đối với các cá nhân, Tổng Thư ký Liên hợp quốc, ông Kofi Annan
cho rằng: "An ninh là việc bảo vệ các cộng đồng và các cá nhân khỏi bạo lực từ bên
trong" [96, tr. 2]. Vì thế, quan niệm này thường tập trung phân tích và nghiên cứu
chiến tranh, xung đột, bạo lực và các tác động của chúng tới con người. Logic của
cách nhìn này là phát triển kinh tế, trật tự và hòa bình khó có thể bám rễ ở các nước
đang phát triển nếu không có một môi trường mà ở đó việc giải trừ các tay súng bất
hợp pháp được thực hiện. Nghĩa là một môi trường có thể nuôi dưỡng một trật tự
chính trị hoặc chí ít là khôi phục lại một trật tự như vậy để làm điều kiện tiên quyết
cho phát triển. Như vậy, Nhà nước vẫn đóng vai trò quan trọng trong việc bảo đảm
an ninh con người. Canada là một trong số các quốc gia theo đuổi cách tiếp cận này.
Năm 1997, trong một bài viết của mình, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Canada ông
Lloyd Axworthy đã chỉ ra rằng an ninh con người bao gồm an ninh chống lại tình
trạng thiếu thốn về kinh tế, một chất lượng cuộc sống chấp nhận được và đảm bảo

các quyền cơ bản của con người. Ông còn tiến xa hơn khi nhận xét an ninh con
người đã trở thành một biện pháp mới của an ninh toàn cầu. Bộ Ngoại giao Canada
định nghĩa "an ninh con người là không bị các mối đe dọa rõ ràng đối với các quyền
của con người, an toàn và sinh mạng của họ". Hiểu một cách rộng hơn, an ninh con
người bổ sung cho cách hiểu truyền thống về an ninh của các quốc gia. Theo nghĩa
này, an ninh con người gồm nhiều cách tiếp cận nhằm ngăn chặn và giải quyết các
xung đột bạo lực, bảo vệ thường dân ở những nơi xung đột diễn ra và tăng cường
năng lực của Nhà nước để bảo đảm an ninh cho người dân. Đặt con người vào trung
tâm chính sách an ninh sẽ tăng cường an ninh quốc gia và quốc tế, thúc đẩy sự phát
triển ấm no của con người. An ninh của từng quốc gia cũng như cộng đồng quốc tế
suy cho cùng sẽ đòi hỏi phải ngăn chặn và giải quyết các cuộc xung đột trong biên
giới quốc gia. Tuy vậy, không phải lúc nào Nhà nước cũng đảm bảo được an ninh
cho con người. Quan niệm của Canada cũng được nhiều quốc gia chia sẻ như Na
Uy, Thụy Sĩ, Nam Phi Tuy nhiên, cũng có ý kiến cho rằng cách tiếp cận này là
nhằm nâng cao ảnh hưởng chính trị với tư cách là "cường quốc hạng trung". Sở dĩ

19
như vậy là vì bản chất an ninh con người mà chính phủ các nước này quan niệm thể
hiện những nguyên tắc trong chính sách đối ngoại của họ trong những năm 1990, đó
là: nhân quyền, luật nhân đạo quốc tế và phát triển kinh tế - xã hội dựa trên sự bình
đẳng. An ninh con người được sử dụng như một khái niệm để thực hiện chương
trình nghị sự về nhân đạo của họ như: Tòa án hình sự quốc tế, cấm mìn sát thương,
buôn bán vũ khí, bắt lính trẻ em Chương trình nhân đạo và an ninh con người do
các quốc gia này triển khai có hiệu quả trên thực tế.
Thứ hai, an ninh con người được hiểu theo "nghĩa rộng". Các nhà nghiên
cứu đều cho rằng "Báo cáo phát triển con người " năm 1994 của UNDP đã đề cập
toàn diện về khái niệm an ninh con người. Ngày nay, thế giới đang bước sang kỷ
nguyên an ninh con người mà ở đó toàn bộ quan niệm về an ninh sẽ thay đổi một
cách căn bản. An ninh đồng nghĩa với an ninh của cá nhân con người chứ không chỉ
an ninh cho các quốc gia, an ninh của người dân chứ không chỉ là an ninh lãnh thổ.

Tương tự như vậy, chủ quyền giờ đây không chỉ được xem xét dưới góc độ bảo vệ
biên giới mà còn được đặt trên nền tảng bảo vệ người dân và trong một số trường
hợp có thể bao gồm cả việc bảo vệ họ trước chính phủ và các cơ quan nhà nước tại
chính đất nước của họ. Đây được coi là nền tảng cho một trong những nội dung
quan trọng nhất của an ninh con người, đó là an ninh lấy con người làm trung tâm.
Như vậy, theo quan điểm chính thức được ghi nhận trong "Báo cáo phát
triển con người" năm 1994, an ninh con người có hai khía cạnh: (1) An toàn trước
các mối đe dọa triền miên như đói khát, bệnh tật, áp bức; (2) Con người cần được
bảo vệ trước những biến động bất thường và có hại đối với cuộc sống hàng ngày dù
ở trong gia đình, nơi công sở hay ở cộng đồng. Ủy ban an ninh con người của Liên
hợp quốc định nghĩa an ninh con người là phải bảo vệ các giá trị cơ bản quan trọng
nhất trong cuộc sống của tất cả mọi người theo hướng tăng cường khả năng tự do
lựa chọn và hưởng thụ của con người, nghĩa là bảo vệ con người khỏi những mối đe
dọa và tình huống nguy hiểm và hiện hữu ở khắp mọi nơi. Nói cách khác, cần phải
tạo dựng cùng lúc các hệ thống chính trị, pháp luật, môi trường, kinh tế, quân sự và
văn hóa để giúp con người đặt nền móng cho sự tồn tại, cho cuộc sống của bản thân
và nhân phẩm của chính mình.

20
Nhiều nước trên thế giới ủng hộ cách tiếp cận này của Liên hợp quốc, nhất
là châu Á mà đại diện là Nhật Bản. Nhật Bản cho rằng an ninh con người bao quát
một cách tổng hợp tất cả các mối đe dọa đối với sự tồn tại, cuộc sống hàng ngày và
nhân phẩm con người [93, tr. 78]. Khi nào mục tiêu chính là đảm bảo sự tồn vong
và nhân phẩm của mỗi cá nhân thì cần phải có tư duy rộng hơn về an ninh con
người chứ không có nghĩa là bảo vệ tính mạng trong tình huống xung đột. Vì vậy,
nghèo đói, dịch bệnh, dân chủ, nhân quyền đều trở thành mối đe dọa đối với an
ninh con người.
Như vậy, giai đoạn những năm 1990 của thế kỷ trước an ninh con người đã
trở thành đối tượng tranh luận của nhiều nhà nghiên cứu từ các lĩnh vực và trường
phái khác nhau tập trung ở hai góc độ phân tích: Thứ nhất, an ninh con người nhằm

tạo ra một không gian an toàn ở cấp độ toàn cầu theo đó các nguyên tắc cơ bản của
luật quốc tế và Hiến chương Liên hợp quốc đã coi con người ở trung tâm mọi mối
quan hệ. Vì vậy, câu đầu tiên của Hiến chương Liên hợp quốc đã viết rằng: "Chúng
tôi, nhân dân các nước (We the peoples )" nhằm khẳng định việc bảo đảm an ninh
con người thông qua khuôn khổ luật pháp. Thứ hai, an ninh con người bao hàm
cách tiếp cận đa ngành bởi khi nói về an ninh con người là nói đến tổng thể các mối
đe dọa nhằm vào con người.
Cho dù còn nhiều cách hiểu và quan niệm khác nhau nhưng tôi cho rằng
trên phương diện quốc tế thì cách tiếp cận của Liên hợp quốc về an ninh con người
là đầy đủ và cần thiết. Bởi lẽ từ cách tiếp cận đó mỗi quốc gia tùy thuộc đặc thù
điều kiện riêng của mình để xử lý vấn đề an ninh con người sao cho hiệu quả nhất.
Tất nhiên, kết quả có thể khác nhau nhưng đều thể hiện nỗ lực chung của các quốc
gia, đó là hợp tác và phát triển vì con người.
Từ các quan điểm trên đây, có thể khẳng định: An ninh con người là những
bảo đảm bằng pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia để con người không bị đe
dọa trước các mối nguy hiểm và tạo lập một cuộc sống an toàn, phát triển.
Tiến trình toàn cầu hóa làm cho các quốc gia tăng cường sự giao lưu, hợp
tác nhưng quá trình đó cũng tạo tiền đề cho việc nhân rộng các mối đe dọa và một

21
xu hướng an ninh có vẻ như đang đảo ngược: trước đây các nước lớn luôn là mối đe
dọa đối với các nước khác thì ngày nay các nước đang phát triển cũng trở thành mối
đe dọa đối với cộng đồng quốc tế nói chung liên quan đến các vấn đề như di dân, tội
phạm, buôn lậu hoặc dịch bệnh Ở mỗi quốc gia, các mối đe dọa cũng trở nên đa
dạng và ở nhiều tầng nấc khác nhau. Nó có thể đến từ một nhóm chính trị, sắc tộc,
tôn giáo, từ một vùng lãnh thổ hoặc từ các tầng lớp xã hội khác nhau. Chính vì vậy,
mối đe dọa đối với an ninh con người không chỉ đến từ bên ngoài mà còn đến từ
bên trong, không chỉ bởi các tác nhân nhà nước mà còn có tác nhân phi nhà nước,
nó có thể có biểu hiện bạo lực nhưng cũng có thể là các mối đe dọa phi bạo lực.
1.1.2. Đặc điểm của an ninh con người

An ninh con người phản ánh bước phát triển mới trong môi trường an ninh
truyền thống [80, tr. 34]. Xét trên phương diện lý luận cũng như thực tiễn, còn có
nhiều cách hiểu khác nhau về an ninh con người nhưng nhìn chung an ninh con
người có những đặc điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, quan niệm về an ninh con người xác định rõ ràng chủ thể tham
gia đó chính là con người. Điều này có nghĩa rằng chính cá nhân con người cần có
an ninh, vì vậy con người là trung tâm của khái niệm. Theo cách hiểu truyền thống
khi nói tới an ninh, người ta hiểu một cách vĩ mô đó phải là an ninh của một cộng
đồng lớn (quốc gia) mà ở đó gắn liền với vận mệnh của mỗi dân tộc trước những
thời khắc của lịch sử nhưng con người với tư cách là chủ thể của an ninh sẽ đưa đến
cách nhìn trực diện hơn, trực tiếp và cụ thể hơn đối với chủ thể là cá nhân con người
xung quanh những gì đang diễn ra thường ngày. Mặc dù cách tiếp cận là như vậy
nhưng không thể phủ nhận vai trò của Nhà nước cũng như các quan niệm truyền
thống về an ninh quốc gia mà còn coi an ninh con người là một nội dung bổ sung
cho những quan niệm trước đó. Như vậy, những nỗ lực đảm bảo an ninh con người
không thể thay thế dàn xếp an ninh quốc gia, bảo vệ lãnh thổ, biên giới, bảo vệ cuộc
sống và tài sản của người dân vẫn là trách nhiệm của nhà nước mà không chủ thể
nào có khả năng, điều kiện để gánh vác nghĩa vụ này. Do vậy, an ninh quốc gia
chính là điều kiện tiên quyết để đảm bảo an ninh nói chung đặc biệt là sự sinh tồn

22
và nhân phẩm của con người. Nhà nước có vai trò tạo dựng nền tảng vững chắc về
an ninh và môi trường sống hợp lý để tạo điều kiện cho mỗi người có thể tự chăm
sóc bản thân và phát huy tối đa năng lực của mình đồng thời hạn chế và loại bỏ
những nguy cơ có thể đe dọa tới an ninh con người. An ninh quốc gia và Nhà nước
không tách rời, biệt lập mà trái lại phải bổ sung cho nhau để thực hiện những yêu
cầu cụ thể của an ninh con người. Vì vậy, giải quyết tốt mối quan hệ này thì sự bền
vững của quốc gia, an ninh con người và sự phát triển của mỗi cá nhân sẽ được bảo
đảm. Đây sẽ là nội dung cốt lõi nhất trong nội hàm khái niệm an ninh con người.
Như vậy, an ninh con người coi trật tự của quốc gia và sự an toàn của con người

làm trung tâm. Nó quan tâm tới việc làm thế nào con người sống trong một xã hội
họ có được tự do thực hiện sự lựa chọn của mình hay không, mức độ họ có thể tiếp
cận thị trường và các cơ hội xã hội và liệu họ sống trong hòa bình hay xung đột. Nói
một cách đơn giản đó là mọi mối quan tâm đều tập trung vào con người và phục vụ
con người. Cũng cần chú ý có những luồng ý kiến thậm chí muốn nâng an ninh con
người lên mức "chủ quyền con người" và hạ thấp vai trò của chủ quyền quốc gia, do
vậy gặp phải những phản ứng mạnh từ nhiều quốc gia, nhất là các nước Châu Á.
Đây là một thực tế đang diễn ra trong quan hệ quốc tế khi các vấn đề nhân đạo hoặc
nội bộ của các nước bị quốc tế hóa tạo cớ cho sự can thiệp của nước ngoài. Can
thiệp nhân đạo ở Kosovo, áp dụng cấm vận và trừng phạt vì lý do bảo vệ nhân
quyền ở Myanmar hay chống khủng bố và chống phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt
ở Apganixtan và Irac là những ví dụ điển hình [96, tr. 16].
Hai là, khái niệm an ninh được xem xét trên bình diện rộng nên an ninh con
người hàm chứa một loạt những nguy cơ tiềm tàng. Theo Liên hợp quốc những
nguy cơ trên gồm: thất nghiệp, ma túy, tội phạm, ô nhiễm môi trường, vi phạm nhân
quyền và những lo ngại truyền thống là chiến tranh và bạo lực có tổ chức. Cách tiếp
cận lấy an ninh con người làm trung tâm có thể cho phép xây dựng những ưu tiên
trong chính sách mang tính đồng bộ và tổng thể. Xét ở góc độ cấu trúc an ninh toàn
cầu, sự ổn định và trật tự của hệ thống quan hệ quốc tế lấy quốc gia làm trung tâm
ngày càng bị đe dọa và chịu tác động tiêu cực từ tình trạng nghèo khổ và suy thoái
môi trường, khan hiếm nguồn lực và hạn chế trong quản lý, điều hành quốc gia. Xét

23
ở góc độ cá nhân, bên cạnh các nguy cơ nghèo đói, bệnh tật thì an sinh và cuộc sống
của mỗi người dân ngày càng bị đe dọa bởi tình trạng xung đột và bất ổn định bên
trong mỗi quốc gia do chênh lệch về trình độ và nguồn lực phát triển. Do vậy, an
ninh con người chỉ có thể được đảm bảo trên nền tảng của phát triển kinh tế một
cách bền vững, đây là điều kiện tiên quyết đảm bảo cho sự ổn định của mỗi quốc
gia cũng như trật tự pháp lý quốc tế mà ở đó quốc gia là chủ thể cơ bản [58, tr. 12].
Thứ ba, an ninh con người ghi nhận sự tùy thuộc lẫn nhau. Nếu như có một

mối đe dọa đối với an ninh con người ở một nơi nào đó trên thế giới thì cũng sẽ có
tác động liên quan đến con người ở khắp mọi nơi. Những nguy cơ lớn đối với an
ninh hiện nay như: bệnh tật, ô nhiễm môi trường… không còn là những vấn đề
riêng biệt của quốc gia mà đã trở thành vấn đề toàn cầu bởi khi an ninh của một
cộng đồng dân cư bị đe dọa ở một nơi nào đó trên thế giới thì nhiều quốc gia đều có
thể bị ảnh hưởng. Nói cách khác, hàng ngày trên thế giới có rất nhiều sự kiện xảy
ra, mỗi sự kiện thường có ảnh hưởng trực tiếp tới một nhóm người nhất định.
Nhưng các nhân tố tạo thành mối đe dọa đối với an ninh con người không chỉ là
từng sự kiện cụ thể, chúng xảy ra đồng thời hoặc liên tục tiếp nối nhau và hậu quả
của một sự kiện này có thể trở thành nguyên nhân cho một sự kiện khác. Hơn nữa,
các mối đe dọa đối với an ninh con người không có sự khác biệt về bản chất có khác
chăng chỉ là mức độ nghiêm trọng của các mối đe dọa. Người dân sống ở nước giàu
thì khả năng bị đe dọa bởi bệnh tật sẽ ít hơn người dân ở các nước nghèo do họ có
điều kiện sinh hoạt, môi trường sống và hệ thống chăm sóc sức khỏe tốt hơn. Nhưng
điều này không có nghĩa là họ không mắc các loại bệnh giống như những người
sống ở nước kém phát triển như bệnh HIV/AIDS.
Trong thời đại ngày nay, không chỉ các quốc gia phụ thuộc lẫn nhau mà con
người cũng gia tăng sự phụ thuộc do họ tương tác với nhau thường xuyên hơn. Điều
này có được là nhờ tiến bộ của khoa học công nghệ về tăng trưởng kinh tế tạo điều
kiện cho con người di chuyển xa hơn và nhanh hơn trong một khoảng thời gian
ngắn hơn rất nhiều. Khi dịch SARS bắt đầu xuất hiện ở Hong Kong thì ngay sau đó
một loạt quốc gia cũng bị ảnh hưởng. Vì thế, không thể nói việc chống dịch SARS
là công việc riêng của Hong Kong hay một quốc gia nào và dịch SARS là mối quan

24
tâm của người dân ở mọi quốc gia. Sự phối hợp của các quốc gia còn được thể hiện
trong cách đối phó của các quốc gia Đông Nam Á trước những thảm họa của tự
nhiên như trận sóng thần năm 2006. Một câu hỏi đặt ra là ngay khi tất cả các nước
trong khu vực và trên thế giới cùng phối hợp với nhau thì làm thế nào để chống lại
một cơn sóng thần khổng lồ như vậy? Sóng thần có thể dự báo trước và ngay sau

khi thảm họa xảy ra vấn đề cứu trợ cần được triển khai ngay lập tức. Tương tự như
vậy, cơn bão đổ vào Myanmar tháng 5/2008 làm chết và mất tích hơn 100.000 ngàn
người và gây thiệt hại cho quốc gia này hơn 10 tỷ USD nhưng vấn đề cứu trợ sau
cơn bão mới là điều cần nói tới khi đề cập khái niệm an ninh con người. Chính phủ
Myanmar đồng ý nhận sự cứu trợ của Liên hợp quốc thông qua vai trò điều phối của
ASEAN chứ không thả nổi vấn đề cũng là một phương cách giải quyết. Một mối đe
dọa đối với an ninh con người ở một nơi trên thế giới có liên quan đến con người ở
khắp mọi nơi và nó không còn là những vấn đề riêng biệt của mỗi quốc gia. Vì vậy,
cần phải có sự hợp tác để đối phó với các nguy cơ nói trên. Tính phức tạp của môi
trường sống của con người và các nhân tố tác động đến an ninh con người có mối
quan hệ qua lại và bổ sung cho nhau. An ninh con người đòi hỏi những nhu cầu
thiết yếu của con người phải được đáp ứng nhưng đồng thời an ninh con người cũng
khẳng định vai trò của nền hòa bình thế giới mà ở đó có sự phát triển kinh tế bền
vững, các quyền và tự do cơ bản của con người được tôn trọng, công bằng xã hội
được bảo đảm. Nghịch lý ở chỗ khi con người ngày càng có khả năng làm chủ vận
mệnh của mình thì lại phải đối mặt với ngày càng nhiều các mối đe dọa từ thiên
nhiên và từ những hậu quả do quá trình phát triển tạo ra và các nguy cơ đó thì một
quốc gia đơn lẻ không thể giải quyết được do vậy cần phải có sự hợp tác quốc tế.
Thực tế đó cho thấy, nguyên tắc các quốc gia có nghĩa vụ hợp tác với nhau được ghi
nhận trong Hiến chương Liên hợp quốc năm 1945 và Tuyên bố của Liên hợp quốc
về các nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế năm 1970 càng trở nên có ý nghĩa
Thứ tư, khái niệm an ninh con người về cơ bản mang tính chủ động, tích
cực. Điều này có nghĩa rằng nếu các quốc gia chú trọng tới vấn đề an ninh con
người, coi đó như một chiến lược cụ thể, dài hạn, có tác động tích cực trong việc
đảm bảo an ninh chung thì khi có khủng hoảng xảy ra, chi phí để phòng ngừa và

25
khắc phục sẽ ít hơn và có hiệu quả hơn. Ví dụ, chi phí để kiểm soát, khống chế sự
lây lan của đại dịch HIV/AIDS thông qua việc đầu tư vào chăm sóc sức khỏe ban
đầu và tăng cường giáo dục y tế cộng đồng cũng như các nguy cơ lây nhiễm… sẽ

chỉ chiếm một phần rất nhỏ trong tổng chi phí để giải quyết căn bệnh một khi nó đã
trở thành đại dịch. Với ý nghĩa như vậy, khái niệm an ninh con người cũng có thể
coi là nhân tố phát triển con người. Vấn đề an ninh con người sẽ khó được đảm bảo
khi con người không thể phát triển do không có một mức sống tối thiểu, công ăn
việc làm, có thu nhập và khi xã hội không ổn định. Hơn nữa, theo nhà tâm lý học
Abrham Maslon, nhu cầu của mỗi cá nhân sẽ tăng dần từ thấp đến cao theo năm thứ
bậc chính như: nhu cầu sinh tồn tối thiểu (ăn uống, sinh hoạt, quần áo ); nhu cầu
an ninh (an toàn về mặt sức khỏe, nhà cửa, việc làm ); nhu cầu xã hội (kết giao bạn
bè, giao tiếp, đồng nghiệp ); nhu cầu được công nhận (được tin tưởng, trân trọng,
được đánh giá đúng về những thành tích đóng góp cho cộng đồng ); nhu cầu lý
tưởng (thể hiện mục tiêu sống, khát vọng theo đuổi của bản thân) [81, tr. 50]. Từ đó
theo qui luật chung, con người sẽ có xu hướng bước lên bậc thang cao hơn khi đã
thỏa mãn những nhu cầu ở bậc thang phía dưới. Điều đó cũng có nghĩa là an ninh
của mỗi người cũng sẽ song hành cùng với nhu cầu mà con người đánh giá là cần
thiết. Vì vậy, đảm bảo được sự phát triển con người bền vững thì sẽ đảm bảo được
an ninh con người.
Từ những phân tích nêu trên, có thể khẳng định sự hình thành và phát triển
của khái niệm an ninh con người gắn liền với sự vận động của quan hệ quốc tế cũng
như luật pháp quốc tế; đồng thời giúp chúng ta phân biệt an ninh con người với một
số khái niệm có liên quan như quyền con người, an ninh quốc gia.
1.1.3. Các yếu tố cấu thành an ninh con người
Báo cáo phát triển con người của UNDP năm 1994 đã miêu tả chi tiết an
ninh con người: "Nó có nghĩa là an toàn từ các mối đe dọa đói nghèo, bệnh tật, tội
phạm, sự đàn áp. Nó cũng có nghĩa bảo vệ khỏi sự đổ vỡ có hại và bất ngờ trong
mẫu hình của đời sống hàng ngày tại gia đình, công việc, trong cộng đồng hay trong
môi trường của chúng ta" [127, tr. 23]. Cụ thể hơn, an ninh con người nghĩa là trẻ

×