Tải bản đầy đủ (.pdf) (32 trang)

Khảo sát tình hình dịch bệnh trên cá tra (Pangasianodon hypophthalmus) nuôi ở Thoại Sơn - An Giang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (880.85 KB, 32 trang )

1
TRƯ
TRƯ


NG Đ
NG Đ


I H
I H


C TÂY ĐÔ
C TÂY ĐÔ
KHOA SINH H
KHOA SINH H


C
C


NG D
NG D


NG
NG
LU
LU




N
N
VĂN T
VĂN T


T NGHI
T NGHI


P
P
KH
KH


O S
O S
Á
Á
T TÌNH HÌNH B
T TÌNH HÌNH B


NH TRÊN
NH TRÊN
C
C

Á
Á
TRA
TRA
(
(
Pangasianodon
Pangasianodon
hypophthalmus
hypophthalmus
)
)
NUÔI
NUÔI


THO
THO


I SƠN
I SƠN
-
-
AN GIANG
AN GIANG
C
C
á
á

n b
n b






ng d
ng d


n
n
Ths
Ths
. NGUY
. NGUY


N MINH H
N MINH H


U
U
Ks. NGUY
Ks. NGUY



N TH
N TH
À
À
NH TÂM
NH TÂM
Sinh viên thực hiện
ĐOÀN KIM NGÂN

2010
2
CHƯƠNG 1
ĐẶT VẤN ĐỀ
1.1 Giới thiệu
Hiện nay ngành nuôi trồng thủy sản (NTTS) được đánh giá là ngành có tiềm năng và
triển vọng lớn ở nước ta. Trong đó, Đồng Bằng Sông Cửu Long (ĐBSCL) có nhiều
điểm thuận lợi với nguồn tài nguyên phong phú rất thích hợp cho NTTS phát triển.
Đặc biệt là nghề nuôi cá tra (Pangasianodon hypophthalmus) ở tỉnh An Giang, Đồng
Tháp, Cần Thơ. Trong đó An Giang là một trong những tỉnh đứng đầu về sản lượng,
chiếm 90% tổng kim ngạch xuất khẩu của tỉnh, tăng từ 25% đến 27%/năm và chiếm
70% sản lượng cá tra nuôi của khu vực ĐBSCL. Tổng diện tích cá tra năm 2009 ở An
Giang khoảng 1.200 ha, sản lượng đạt gần 260.000 tấn (Minh Tuấn, 2009). Do cá có
nhiều ưu điểm như dễ nuôi, tăng trọng nhanh, kích thước lớn, sử dụng tốt thức ăn tự
chế, dễ dàng thích nghi với điều kiện môi trường khắc nghiệt nên cá tra được nuôi rất
phổ biến. Trong thời gian qua, ngành NTTS ở huyện Thoại Sơn cũng không ngừng
phát triển về diện tích và sản lượng, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của
huyện Thoại Sơn nói riêng và tỉnh An Giang nói chung.
Tuy nhiên, phát triển nuôi cá tra với qui mô công nghiệp sẽ làm tăng lượng chất thải
hữu cơ, gây ô nhiễm cho vùng nước xung quanh. Việc mở rộng diện tích, nâng cao
sản lượng nhanh chóng dẫn đến tình hình dịch bệnh phát triển ngày càng nhiều. Việc

sử dụng thuốc, hóa chất trong phòng trị bệnh không hiệu quả góp phần gia tăng mầm
bệnh và gia tăng chi phí sản xuất. Tình hình dịch bệnh được xem là một trong những
nguyên nhân làm giảm năng suất nuôi và làm cho người nuôi cá bị giảm lợi nhuận.
Gần đây nghề nuôi cá tự phát không được kiểm soát, thêm vào đó một số người nuôi
lại chủ động nuôi ở mật độ cao, nhưng trình độ kỹ thuật nuôi còn hạn chế, chất thải ra
môi trường không được xử lý ngày càng nhiều, tạo điều kiện cho mầm bệnh phát
triển. Trước tình hình đó để quản lý dịch bệnh trong ao nuôi và phòng trị các loại bệnh
nguy hiểm thường gặp một cách hiệu quả, thì việc thực hiện đề tài “Khảo sát tình
hình dịch bệnh trên cá tra (Pangasianodon hypophthalmus) nuôi ở Thoại Sơn -
An Giang” là rất cần thiết nhằm góp phần giúp người dân ở huyện Thoại Sơn nuôi cá
tra có hiệu quả hơn.
1.2 Mục tiêu đề tài
Nhằm khảo sát một số bệnh thường gặp trên cá tra nuôi thương phẩm trong ao đất tại
Thoại Sơn - An Giang từ đó cung cấp cho người nuôi những thông tin cần thiết về
quản lý sức khỏe cá trong ao nuôi một cách hiệu quả.


3
1.3 Nội dung nghiên cứu
Điều tra tình hình bệnh và sử dụng thuốc trị bệnh trên cá tra tại Thoại Sơn - An Giang.
Tổng hợp dữ liệu, đánh giá tình hình bệnh và sử dụng thuốc trị bệnh trên cá tra tại
Thoại Sơn - An Giang.

























4
CHƯƠNG 2
LƯỢC KHẢO TÀI LIỆU
2.1

Một số đặc điểm sinh học của cá tra
Theo Rainboth (1996) cá tra thuộc:
Ngành: Chordata
Lớp: Ostelchithyes
Bộ: Siluriforrmes
Họ: Pangasiidae
Giống: Pangasius
Loài: Pangasianodon hypophthalmus Sauvage, 1878.


Hình 2.1: Hình dạng ngoài của cá tra (Pangasianodon hypophthalmus)
Cá tra sống ở mương, ao, hồ vùng nước ngọt và cả ở nước lợ với nồng độ muối thấp
(10-14 ppt). Cá ít chịu đựng được nhiệt độ thấp dưới 15
o
C nhưng chịu nóng tới 39
o
C.
Cá có thể chịu đựng được nước phèn với pH >4 (pH dưới 4 thì cá bỏ ăn bị sốc) (Phạm
Văn Khánh, 2004 trích bởi Nguyễn Chí Dũng, 2009). Cá tra có số lượng hồng huyết
cầu trong máu nhiều hơn các loài cá khác, cá có cơ quan hô hấp phụ, có thể thở bằng
bong bong khí. Cá có thể sống trong ao nước tù động và trong môi trường khắc
nghiệt, nước bị nhiễm bẩn (Nguyễn Chung, 2008 trích dẫn bởi Nguyễn Chí Dũng,
2009). Cá tra có tập tính háu ăn và dễ thay đổi loại thức ăn, cá có thể ăn mùn bã hữu
cơ, xác động vật chết, phân gia súc, rau băm nhỏ, bèo tấm, cám, thức ăn tự chế. Thức
ăn có hàm lượng đạm tối ưu nhất cho cá tra ở giai đoạn 2-3g là 38% (Trần Thị Thanh
Hiền, 2009).
2.2 Thực trạng nuôi trồng thủy sản của ĐBSCL
ĐBSCL là một trong những vùng địa lí kinh tế của Việt Nam, toàn vùng có 13 tỉnh và
thành phố với tổng diện tích tự nhiên là 39.889 km
2
chiếm 11,86% diện tích cả nước.
5
Đây là vùng có vị trí thuận lợi và quan trọng để phát triển nông nghiệp và thủy sản,
vùng hạ lưu châu thổ sông Mekong được xem là vùng trù phú nhất không chỉ của Việt
Nam mà còn cả Đông Nam Á. Đồng thời cũng là vùng có sản lượng NTTS lớn nhất cả
nước (Dương Nhựt Long, 2003).
ĐBSCL có khoảng 400.000 ha mặt nước nuôi thủy sản với tổng sản lượng hằng năm
lên đến hơn 1,5 triệu tấn, chiếm hơn 70% sản lượng thủy sản nuôi của cả nước riêng
cá tra, basa diện tích nuôi toàn vùng gần 5.000 ha, tổng sản lượng năm 2007 khoảng 1
triệu tấn (Hùng Anh, 2007). Theo qui hoạch phát triển chung cho vùng ĐBSCL vừa

được Bộ Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn phê duyệt thì tốc độ tăng trưởng diện
tích của vùng trong các năm tới trung bình khoảng 4,2%/năm. Cụ thể đến năm 2010
diện tích nuôi cá tra của vùng đạt 8.600 ha tập trung chủ yếu ở Đồng Tháp là 2.300
ha, An Giang với 2.100 ha. Dự kiến đến năm 2015, diện tích nuôi cá tra của vùng đạt
11.000 ha và đến năm 2020 là 13.000 ha. Theo báo cáo của Bộ, đến nay diện tích thả
nuôi cá tra đạt 5.154 ha, tăng gần 600 ha so với cùng kỳ năm trước, thấp hơn so với
dự kiến do ảnh hưởng khủng hoảng kinh tế thế giới, hoạt động xuất khẩu sụt giảm (Trí
Quang, 2010).
2.3 Tình hình phát triển nuôi trồng thủy sản ở An Giang
An Giang là tỉnh nằm ở khu vực hạ lưu của lưu vực sông Mekong, đây là vùng đất
giàu tiềm năng được thiên nhiên ưu đãi, đặc biệt trong lĩnh vực nông nghiệp và thủy
sản. Tỉnh An Giang có hai nhánh sông Tiền và sông Hậu chảy qua với chiều dài 170
km cùng với hai nhánh sông Châu Đốc (28 km), Vàm Nao (7 km) và hệ thống kênh
gạch chằng chịt với tổng chiều dài 5.170 km (Trần Anh Dũng, 2005). Hệ thống sông
và kênh rạch nhiều đã tạo cho tỉnh An Giang lợi thế lớn trong phát triển ngành NTTS.
NTTS ở An Giang đang tập trung vào các đối tượng nuôi có giá trị kinh tế cao. Trong
đó cá tra đang được ưa chuộng hơn với qui mô sản xuất hàng hóa lớn hơn, đáp ứng
nhu cầu gia tăng nhanh chóng cho chế biến, tiêu thụ nội địa và xuất khẩu. Nếu trước
1995 người dân thích thả cá basa vì cá ít bệnh, thịt ngon, giá cao, thì hiện nay ngược
lại người dân thích nuôi cá tra tuy giá thấp hơn nhưng dễ nuôi, mau lớn, thích nghi tốt
với môi trường khắc nghiệt, con giống dễ tìm, đạt hiệu quả kinh tế cao hơn (Nguyễn
Chính, 2005). Tổng diện tích cá tra năm 2009 ở An Giang khoảng 1.200 ha, sản lượng
đạt gần 260.000 tấn, xấp xỉ năm 2008. Thế nhưng, do giá thức ăn chăn nuôi tăng liên
tục tăng (từ đầu năm đến nay tăng từ 500-600 đồng/kg), nâng giá thành sản xuất bình
quân khoảng 15.000-15.300 đồng/kg) trong khi giá bán bình quân là 14.400-14.800
đồng/kg. Điều này làm cho người nuôi cá tra tiếp tục thua lỗ nên một số hộ đã bỏ
trống ao (Minh Tuấn, 2009).
Nhìn chung ngành thủy sản của tỉnh An Giang trong những năm qua có một số điều
kiện thuận lợi cơ bản để phát triển như: điều kiện tự nhiên thích hợp, có tiềm năng
6

lớn, về diện tích mặt nước và nguồn lợi thủy sản đa dạng cho NTTS, nguồn phụ phế
phẩm từ chế biến nông nghiệp và được sự đầu tư của tỉnh như nghiên cứu, sản xuất,
khuyến ngư, chính sách ưu đãi nhằm tạo điều kiện thuận lợi thúc đẩy ngành thủy sản
phát triển. Bên cạnh đó, cũng có một số khó khăn như: giá cả giảm, dịch bệnh thường
xuyên xảy ra và vấn đề dư lượng thuốc kháng sinh trong các sản phẩm thủy sản, thị
trường tiêu thụ không ổn định làm tình hình phát triển NTTS luôn biến động và hạn
chế trong việc đầu tư.
2.4 Tình hình nuôi thủy sản ở huyện Thoại Sơn

Hình 2.2. Bản đồ huyện Thoại Sơn, An Giang
(Nguồn Sở Nông Ngiệp và PTNT An Giang)
Trong những năm qua nhằm đa dạng hóa sản phẩm nông nghiệp tăng thu nhập, huyện
Thoại Sơn đã thực hiện chuyển dịch cơ cấu cây trồng vật nuôi trong sản xuất nông
nghiệp từ năm 2000. Sau những kết quả đáng khích lệ từ mô hình nuôi tôm càng xanh
trên ruộng lúa với năng suất bình quân 700 kg/ha và lãi bình quân thu được là 45 triệu
đồng/ha. Năm 2002, huyện Thoại Sơn tiếp tục đẩy mạnh xã hội hóa huyện nhà bằng
cách phát động và thúc đẩy phong trào chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp, từ
trồng lúa 3 vụ chuyển sang 1 vụ lúa 1 vụ tôm (cá), hay nuôi tôm trong ruộng, có nơi
chuyển hẳn sang nuôi cá tra và tôm càng xanh (bán thâm canh). Nhờ kết hợp chính
sách chuyển dịch cơ cấu cây trồng với chính sách qui hoạch vùng nuôi, lập các dự án
đầu tư xây dựng 17 công trình thủy lợi (đê bao, kênh mương, cầu cống) một cách
thích hợp nên đã đưa diện tích NTTS của huyện tăng nhanh. Sự tăng nhanh về diện
tích và sản lượng thủy sản ở huyện là nhờ điều kiện thiên nhiên thuận lợi cho việc
phát triển thủy sản, nguồn nhân lực dồi dào với kinh nghiệm NTTS lâu năm, thị
trường xuất khẩu ngày càng mở rộng. Tuy nhiên, ngoài những thuận lợi nói trên, còn
7
có những khó khăn tồn tại như sản xuất chưa gắn chặt với thị trường, còn mang tính tự
phát, con giống chưa đạt chất lượng, và chất lượng cá, tôm thương phẩm cũng chưa
đạt chất lượng và kích cỡ theo yêu cầu thị trường xuất khẩu, giá cả bấp bênh, bệnh tật
trên cá tra ngày càng nhiều (Anh Thi, 2010).

2.5 Tình hình dịch bệnh trên cá tra nuôi thương phẩm
Cá tra là loài cá nước ngọt được nuôi phổ biến ở các tỉnh ĐBSCL, tuy nhiên trong
những năm gần đây người nuôi cá tra bị thiệt hại khá lớn do dịch bệnh thường xuyên
xảy ra (Từ Thanh Dung và csv, 2004) do một số trở ngại chính trong NTTS: kỹ thuật
(17%), kinh tế xã hội (26%), dinh dưỡng (7%), bệnh tật (36%) và trở ngại khác
(14%). Từ đó cho thấy vấn đề dịch bệnh là một trở ngại lớn nhất trong NTTS.
Bệnh trên cá tra nuôi xảy ra khi môi trường xấu, mầm bệnh phát triển và cơ thể vật
chủ bị suy yếu. Các tác nhân gây bệnh chủ yếu trên động vật thủy sản là vi khuẩn (tần
suất xuất hiện 50,9%), siêu vi trùng (24,6%), ký sinh trùng (21,1%), nấm (3,4%) (Từ
Thanh Dung và csv, 2004). Theo Lý Thị Thanh Loan, 2007 (trích dẫn bởi Nguyễn Chí
Dũng, 2009). Từ đó cho thấy các bệnh thường xảy ra và gây thiệt hại cho người nuôi
là bệnh mủ gan với tần số xuất hiện cao (52,8%), bệnh xuất huyết (42,5%), bệnh phù
đầu, phù mắt (20,7%), bệnh vàng da và thân (21,6%). Riêng bệnh gan thận có mủ ở
An Giang chiếm tỉ lệ cao nhất đạt 66,7%, kế đến là Cần Thơ 54,89%, Vĩnh Long
53,8%, Đồng Tháp 36%. Bệnh thường xảy ra từ tháng 5 đến tháng 9 vào mùa nước
xoay ở ĐBSCL, đỉnh điểm rơi vào tháng 9-10 (Đoàn Nhật Phương, 2008).
2.6 Diễn biến về tình hình dịch bệnh trên địa bàn tỉnh An Giang
Theo nghi nhận của Chi cục Thủy Sản An Giang (trích dẫn bởi Trần Anh Dũng, 2005)
các bệnh thường gặp tại hầu hết các vùng nuôi cá tra trọng điểm của tỉnh An Giang
gồm:
Bệnh do vi khuẩn gây ra gồm các bệnh đốm trắng, bệnh nhiễm trùng huyết, bệnh lỡ
loét, bệnh đốm đỏ, bệnh mù mắt hay nổ mắt, bệnh nhiễm vi khuẩn và bệnh vàng da.
Bệnh do ký sinh trùng gây ra gồm các bệnh trùng bánh xe, bệnh trùng quả dưa, bệnh
sán lá gan, bệnh sán lá đơn chủ, bệnh giun tròn, bệnh trùng mỏ neo, bệnh rận cá và
bệnh bào tử trùng.
Tuy nhiên, trong thời gian qua chưa có nghiên cứu nào đánh giá hết tình hình dịch
bệnh trong nuôi cá tra thâm canh ở tỉnh An Giang và việc theo dõi cập nhật tình hình
dịch bệnh xảy ra tại các vùng nuôi trọng điểm cũng chưa được quan tâm đúng mức.
Ngay cả cơ quan quản lý chuyên ngành về thú y thủy sản của tỉnh cũng không thống
kê được hết tình hình dịch bệnh và thất thoát do dịch bệnh gây ra cho nghề nuôi cá tra

tỉnh An Giang (Trần Anh Dũng, 2005).
8
Thuốc phòng và trị bệnh cá hiện tại có nhiều loại trên thị trên trường phục vụ cho nhu
cầu nuôi, với chất lượng và giá cả khác nhau. Quản lý thuốc thú y thủy sản được thực
hiện chặt chẽ (Sở Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn An Giang kết hợp với Chi
cục Quản Lý Thị Trường An Giang thường xuyên thanh tra, kiểm tra) nhằm ngăn
chặn sử dụng thuốc thú y thủy sản trong danh mục cấm sử dụng (Sở Nông Nghiệp và
PTNT An Giang, 2005 trích dẫn bởi Trần Anh Dũng, 2005).
2.7 Đặc điểm một số bệnh thường gặp trên cá tra nuôi
Bệnh là vấn đề được được người nuôi rất quan tâm trong quá trình ương cá giống
cũng như cá thịt (trích dẫn bởi Nguyễn Quốc Thịnh, 2006), bệnh trên cá tra có một số
đặc điểm như sau:
2.7.1 Bệnh do vi khuẩn
Bệnh mủ gan
Bệnh mủ gan còn có một số tên gọi khác là bệnh trắng gan; gan, thận mủ; đốm trắng
trên gan.Tác nhân gây bệnh là vi khuẩn Edwardsiella ictaluri. Môi trường phát triển
đặc trưng của vi khuẩn E. ictaluri là E. ictaluri agar.
Dấu hiệu bệnh lý: bên ngoài không rõ ràng: cá gầy, mắt hơi lồi, giảm ăn. Khi cá bệnh
nặng chúng bỏ ăn, bơi lờ đờ trên mặt nước và tỉ lệ chết cao. Bên trong xoang nội quan
xuất hiện nhiều đốm trắng đục kích cỡ 1-3 mm trên gan, thận và tuỳ tạng. Đặc biệt, ở
giai đoạn đầu của bệnh, những đốm trắng này chỉ xuất hiện ở thận và kế tiếp là tỳ
tạng.
Điều trị: Kháng sinh là phương pháp được sử dụng thường xuyên và hiệu quả nhất
trong việc điều trị bệnh mủ gan. Trong đó chủ yếu là: Flofenicol, Doxycillin,
Enrofloxacin, Ciprofloxacin, Cefalexin, Ampicilin. Ngoài ra có thể kết hợp nhiều loại
kháng sinh để điều trị: Flofenicol + Doxycilin, Amoxcillin + ciprofloxacin, sulbactam
+ ampicilin.

Hình 2.3:
B

ệnh mủ gan tr
ên cá
tra

9
Bệnh phù đầu xuất huyết
Tác nhân gây bệnh: Do vi khuẩn Aeromonas hydrophila gây ra. Ngoài ra, một số
trường hợp còn phân lập được vi khuẩn A. sobria, A. caviae, hoặc Pseudomonas sp.
Vi khuẩn A. hydrophila thường lây lan qua đường miệng, có thể qua da hoặc mang
khi cá bị xây xát.
Điều trị: Một số kháng sinh được sử dụng hiện nay: Doxyciclin, Enrofloxacin,
Sulfamethoxazol-trimethoprim, flofenicol. Ngoài ra trong thực tế sử dụng có sự kết
hợp giữa các nhóm kháng sinh như: Sulfamethoxazol-trimethoprim, Enrofloxacin-
Amoxcillincillin, Enrofloxacin-Colistin để điều trị bệnh nói trên.


Hình 2.4: Bệnh phù đầu xuất huyết

Bệnh vàng da
Chưa biết được tác nhân gây bệnh cụ thể, một số kết quả phân tích cho thấy trên mẫu
bệnh phẩm có hiện tượng giun tròn ký sinh làm tắt nghẽn cuống mật. Một số ao trước
khi bệnh sử dụng một khối lượng lớn kháng sinh và thời gian sử dụng kéo dài. Một số
ao sử dụng thức ăn tự chế với nguồn cá tạp không đảm bảo chất lượng cũng xảy ra
hiện tượng vàng da.

Phòng bệnh: Sử dụng nguồn thức ăn đảm bảo chất lượng, chế độ dinh dưỡng hợp lý
cho cá, quản lý tốt môi trường ao nuôi, định kỳ kiểm tra và xử lý nội ký sinh cho cá.
Điều trị: Cần phải phân tích mẫu để có thể đánh giá nguyên nhân gây bệnh, từ đó đưa
ra phương pháp điều trị hợp lý.







Hình 2.5: Bệnh vàng da
10
2.7.2 Bệnh do ký sinh trùng
Theo Bùi Quang Tề (2001) có 23 loài ký sinh trùng ký sinh trên cá tra nuôi ở các giai
đoạn từ nhỏ đến lớn, tuy nhiên ở giai đoạn cá nuôi thịt chỉ gặp 10 loài ký sinh trùng và
giai đọan cá nhỏ gặp 16 loài. Một số loài ký sinh trùng gây bệnh nguy hiểm cho cá tra
nuôi ở ĐBSCL là trùng bánh xe (Trichodina Trichodinella, Triparbiella), Trùng quả
dưa (Ichthyophthyrius), trùng loa kèn (Apiosoma), sán lá đơn chủ (Silurodiscoides),
giun tròn (Spectatus). Trong số đó thì có thể nói trùng quả dưa là loài ký sinh gây
bệnh nghiêm trọng nhất so với các loại ký sinh trùng khác.
Bệnh trùng quả dưa (đốm trắng)
Tác nhân gây bệnh: Do Ichthyiophthyrius multifiliis, trùng có dạng quả dưa, toàn
thân có nhiều lông tơ, giữa thân có một nhân lớn hình móng ngựa. Trùng mềm mại có
thể bị biến dạng khi vận động. Dấu hiệu bệnh lý: da, mang, vây của cá bị nhiễm bệnh
có nhiều trùng bám thành các hạt lấm tấm rất nhỏ, màu hơi trắng đục, có thể nhìn rõ
bằng mắt thường. Da mang có nhiều nhớt, màu sắc nhợt nhạt. Cá bệnh nổi từng đàn
trên mặt nước, bơi lờ đờ yếu ớt, hay tập trung gần bờ nơi có nhiều cây cỏ thủy sinh.
Trùng bám nhiều ở mang, phá hoại biểu mô làm cá ngạt thở.

Hình 2.6 Bệnh trùng quả dưa
Bệnh trùng bánh xe (Trùng Mặt Trời)
Tác nhân gây bệnh: do nhiều giống loài thuộc giống Trichodina, Tripartiella,
Trichodinellla ký sinh chủ yếu ở da và mang cá. Sau khi rời khỏi cơ thể cá, trùng có
thể sống tự do trong nước được 1-1,5 ngày. Triệu trứng khi mới mắc bệnh: trên thân
cá có nhiều nhớt màu trắng hơi đục, da cá chuyển màu xám. Khi bệnh nặng trùng ký

sinh ở mang, phá hủy các tơ mang khiến cá bị ngạt thở, thân đầy nhớt và bạc trắng.
11

Hình 2.7 Bệnh trùng bánh xe (trùng mặt trời)
2.8 Thuốc và hóa chất dùng trong nuôi trồng thủy sản
Theo qui chế khảo nghiệm giống, thức ăn, thuốc, hóa chất và chế phẩm sinh học dùng
trong NTTS (Ban hành kèm theo quiết định số 18/2002/QĐ – BTS ngày 3/6/2002 của
Bộ trưởng Bộ Thủy Sản). Trong chương I, điều 3, các từ ngữ thuốc, hóa chất, chế
phẩm sinh học được hiểu như sau:
Thuốc: là chế phẩm có nguồn gốc từ động vật, thực vật, khoáng chất, hóa chất,
vacxin, và các chế phẩm sinh học khác dùng để phòng và trị bệnh, điều chỉnh sinh
trưởng, phát triển và sinh sản, xử lý và cải tạo môi trường nuôi.
Hóa chất: là sản phẩm hóa học được dùng để xử lý, cải tạo môi trường, phòng và trị
bệnh cho NTTS.
Chế phẩm sinh học: là sản phẩm có nguồn gốc từ sinh vật, kể cả vi sinh vật, các thực
liệu từ nấm, vi trùng, virut và các nguyên sinh; độc tố, nộc độc từ nguồn động vật
hoặc thực vật gây hại cho động vật để chuẩn đoán, phòng bệnh, chữa bệnh cho thủy
sản nuôi trồng và xử lý môi trường nước nuôi thủy sản.
Theo Nguyễn Phú Son và csv (2003) (trích dẫn bởi Đặng Thụy Mai Thy, 2007) thì chi
phí hóa chất và thuốc thú y thủy sản chỉ dao động quanh mức 5% (2-10%) tổng chi
phí cho nuôi cá thịt trong ao, bè/vụ.








12

CHƯƠNG 3
VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1 Vật liệu nghiên cứu
Giấy, viết, sổ ghi chép và mẫu phiếu phỏng vấn các hộ nuôi cá tra.
Máy tính phục vụ cho việc nhập, xử lý số liệu và viết báo cáo.
3.2 Phương pháp nghiên cứu
3.2.1 Thời gian và địa điểm nghiên cứu
Đề tài được thực hiện: Từ tháng 02/2010 đến tháng 07/2010
Địa điểm thực hiện:
Điều tra, thu số liệu tại huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang.
Phân tích, xử lý số liệu và viết báo cáo tại Thành phố Cần Thơ.
3.2.2 Phương pháp thu thập số liệu
Thông tin thứ cấp: liên kết với các cơ quan ban ngành tại địa bàn nghiên cứu để lấy
thông tin, kết hợp tham khảo các tài liệu như: sách, tạp chí, website và các nghiên cứu
trước để tìm thông tin liên quan tới đề tài.
Thông tin sơ cấp: phỏng vấn trực tiếp các hộ nuôi cá tra để thu thập những thông tin
về bệnh trên cá tra. Thuốc, hóa chất và cách phòng trị bệnh. Tổng số hộ phỏng vấn là
30 hộ (Theo phiếu phỏng vấn).
3.2.3 Phương pháp xử lý số liệu
Số liệu được kiểm tra sau đó tiến hành nhập vào máy tính, sau đó mã hóa và được
kiểm tra trước khi tiến hành phân tích số liệu.
Sử dụng các phần mềm vi tính: Exell
(
phiên bản 2003), SPSS (phiên bản 11.0) để xử
lý và phân tích số liệu.
3.3 Các biến chủ yếu được sử dụng trong nghiên cứu
Thông tin chung về hộ nuôi cá (tên, tuổi, trình độ kỹ thuật)
Thông tin về qui trình kỹ thuật nuôi
Thông tin về các loại bệnh
Thông tin về thuốc và hóa chất phòng trị bệnh



13
CHƯƠNG 4
KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
4.1 Thông tin chung
4.1.1 Trình độ văn hóa của người nuôi
Trình độ học vấn còn thấp là một trong những hạn chế để áp dụng khoa học kỹ thuật
nhằm giảm giá thành và tăng lợi nhuận. Qua khảo sát 30 hộ nuôi cá tra ở Thoại Sơn -
An Giang cho kết quả về trình độ văn hóa của người nuôi như sau:
Bảng 4.1: Trình độ văn hóa
Trình độ văn hóa Số hộ nuôi Tỉ lệ phần trăm (%)
Cấp 1 8 26,7
Cấp 2 11 36,7
Cấp 3 6 20
Trung cấp 1 3,3
Đại học 4 13,3
Hầu hết các chủ hộ điều là nông dân có trình độ học vấn không cao 17% có trình độ
trung cấp và đại học, trình độ cấp 3 chiếm 20%, nhiều nhất là cấp 1 và 2 chiếm 63%
(Hình 4.1).
27%
36%
20%
17%
Cấp 1 Cấp 2 Cấp 3 Trung cấp và Đại học

Hình 4.1: Tỉ lệ phần trăm trình độ văn hóa của người nuôi
Nhìn

chung trình độ văn hóa của các chủ hộ nuôi cá tra trong những năm gần đây đã

cải thiện hơn so với kết quả điều tra của Nguyễn Quốc Thịnh (2006) điều tra tình hình
sử dụng thuốc và hóa chất ở Đồng Tháp chỉ có 1,8% trình độ trên cấp 3, cấp 3 chiếm
15,8%, cấp 2 chiếm 61,4% còn lại là trình độ cấp 1. Qua khảo sát cho thấy thời gian
nuôi trung bình của người dân từ 4-5 năm (thấp nhất là 1 năm và cao nhất là 10 năm).
Có một số hộ nuôi lâu năm, cũng có một số hộ hiện nay mới đầu tư vào việc nuôi cá
nên kinh nghiệm của họ còn thấp, trình độ học vấn chưa cao, nuôi cá còn theo cảm
14
tính, học hỏi kỹ thuật qua hình thức truyền miệng. Đó là một trong những hạn chế để
áp dụng khoa học kỹ thuật nhằm khống chế dịch bệnh, sử dụng thuốc thú y thủy sản
đúng mục đích.
4.1.2 Qui mô nông trại
Phần đông số nông hộ được khảo sát có qui mô nuôi vừa và nhỏ, với diện tích trung
bình hơn 1,5 ha, nhỏ nhất là 0,2 ha và lớn nhất 5 ha. Tỉ lệ diện tích được thể hiện qua
Bảng sau:
Bảng 4.2: Qui mô nông trại
Qui mô Số hộ nuôi Diện tích (ha) Tỉ lệ phần trăm (%)
Nhỏ 10 0,2-0,9 33,3
Vừa 17 1-2,7 56,7
Lớn 3 3-5 10
Trong tổng số 229 hộ nuôi cá tra trong ao ở Thoại Sơn An Giang, qua khảo sát 30 hộ,
thì có tới 17 hộ nuôi với qui mô vừa (chiếm 56,7%), có diện tích nuôi từ 1 ha đến
2,7 ha, 10% số hộ là do các công ty đầu tư nuôi với qui mô lớn, còn lại là một số nông
hộ nuôi với qui mô nhỏ 33,3%.

10%
57%
33%
Lớn Vừa Nhỏ

Hình 4.2: Tỉ lệ phần trăm qui mô của nông trại nuôi cá tra

So với kết quả điều tra của Trần Văn Nhì (2005), đánh giá việc sử dụng nguồn nguyên
liệu địa phương làm thức ăn nuôi cá tra (Pangasius hypophthalmus) ở An Giang, qui
mô nông trại của các hộ nuôi hiện nay lớn hơn trước đây rất nhiều. Khi đó qui mô có
diện tích lớn nhất trên 3000m
2
chỉ chiếm (38,3%), ao từ 1000-3000m
2
chiếm (58,6%),
còn lại là những ao nuôi với qui mô nhỏ (3,1%). Điều đó cho thấy nuôi cá tra công
nghiệp ngày càng phát triển, diện tích nuôi ngày càng được mở rộng nguồn nước dễ bị
ô nhiễm thì tình hình quản lý dịch bệnh cũng được quan tâm nhiều hơn.
15
4.2 Đặc điểm về kỹ thuật
4.2.1 Diện tích, độ sâu, mật độ và kích cỡ cá nuôi
Kết quả điều tra 30 hộ nuôi cá tra ở huyện Thoại Sơn - An Giang thông tin về diện
tích, độ sâu mực nước và mật độ nuôi như sau:
Bảng 4.3.: Diện tích, độ sâu, mật độ thả và kích cỡ cá giống
Thông tin Số hộ nuôi Trung bình/ao
Diện tích (m
2
) 30 5.633 ± 1.902
Độ sâu (m) 30 3,84 ± 0,52
Kích cỡ cá giống (cm) 30 1,84 ± 0,44
Mật độ thả (con/m
2
) 30 56,6 ± 20,59
Qua Bảng 4.3 cho thấy diện tích trung bình của ao nuôi là (
5.633±1.902
m
2

). Theo nhận
định của người nuôi tại địa bàn khảo sát ao càng rộng và thoáng, thì càng tạo không
gian cho cá dễ hoạt động, mặc khác ao lớn còn làm giảm được chi phí đào ao. Nhưng
ao quá lớn cũng gây nhiều khó khăn trong quản lí như cải tạo ao, cho ăn, chăm sóc,
thu hoạch và nhất là vấn đề dịch bệnh. Nó có thể gây giảm hiệu quả điều trị, hoặc gây
chết cá hàng loạt do tính sai liều lượng thuốc cần xử lý, nên các ao nuôi có diện tích
trung bình khoảng 5000m
2
được đa số người dân ở Thoại Sơn chọn nuôi.

Hình 4.3: Ao nuôi cá tra ở Thoại Sơn
Bên cạnh đó thì độ sâu mực nước trong ao cũng ảnh hưởng không kém đến quá trình
phát triển cũng như chăm sóc cá. Mực nước trung bình trong ao nuôi tại địa bàn
nghiên cứu là (
3,84±0,52
m) (Bảng 4.3). Theo người nuôi, độ sâu thích hợp là từ 3-
3,5m, với độ sâu đó thì một số yếu tố như nhiệt độ, pH của ao ít biến động. Nhờ đó đã
tạo điều kiện thuận lợi cho sự sinh trưởng của cá. Độ sâu quá cao thì ảnh hưởng đến
16
phòng trị bệnh và chất lượng nước của cá nuôi, do lớp nước dưới đáy ao ít được trao
đổi, nhiệt độ và lượng oxy hòa tan thấp, chất lắng đọng nhiều.
Kích cỡ cá giống cũng được người nuôi quan tâm, nhìn chung các hộ nuôi thả giống
có kích cỡ trung bình (
1,84±0,44
cm) giới hạn từ 1-3 cm. Đa số các hộ thả cá từ 1,5-2
cm chiếm 90%, một số hộ còn lại thả cá từ 2-3 cm chiếm 10%. Theo người nuôi kích
cỡ cá giống thả nuôi càng nhỏ nguy cơ hao hụt càng cao do cá chưa đủ sức đề kháng
để chống chọi với môi trường nên rất dễ nhiễm bệnh.
Qua Bảng 4.3 cho thấy mật độ cá thả của các hộ nuôi trung bình là (
56,6±20,59

con/m
2
), theo Nguyễn Thanh Phương và csv (2004) (trích dẫn bởi Trần Anh Dũng,
2005), thì mật độ trung bình của cá nuôi ao là (20,5 con/m
2
). Điều này cho thấy mật
độ thả trung bình ở các ao nuôi cá tra tại Thoại Sơn tương đối cao do người nuôi tận
dụng tối đa diện tích mặt nước. Nuôi mật độ cao sẽ gây bất lợi cho cá, cạnh tranh
nhiều về không gian sống dẫn đến cá phân đàn cao, cá yếu và nhỏ luôn bị cá khỏe
chen lấn, cạnh tranh thức ăn nên phải dạt vào bờ và nhóm cá này ngày càng yếu và dễ
bệnh hơn do chất lượng nước gần bờ xấu, nhiều rong tảo và thiếu thức ăn. Hơn nữa
nuôi ở mật độ cao còn làm tăng lượng mùn bã hữu cơ do thức ăn dư thừa và chất thải
của cá, từ đó làm cho nguồn nước nuôi giàu dinh dưỡng gây khó khăn trong quản lý
chất lượng nước và khống chế dịch bệnh trên cá nuôi.
4.2.2 Cải tạo ao
Chuẩn bị và cải tạo ao trước khi thả nuôi là khâu quan trọng đối với việc nuôi thủy sản
trong ao đất. Vì các yếu tố gây hại cho đối tượng nuôi có thể tồn tại dưới đáy ao. Qua
điều tra nhận thấy các ao nuôi đều là ao cũ đã qua quá trình sử dụng nên hầu như đều
cải tạo ao trước khi thả nuôi theo qui trình rút nước  sên bùn  dùng thuốc/hóa chất
 phơi ao  lấy nước vào. Có 8 loại thuốc hóa chất được sử dụng để cải tạo ao,
thông tin về các loại thuốc hóa chất này thể hiện ở Bảng 4.4.
Bảng 4.4: Thuốc và hóa chất cải tạo ao
Thuốc/hóa chất Số hộ nuôi Tỉ lệ phần trăm (%)
Vôi 30 100
Muối 18 60
Chlorine 25 83,3
Sunphat đồng 3 10
Iodine 2 6,67
Virkon 2 6,67
BKC 5 16,6

TCCA 4 13,3
Khác 4 13,3

17
Đa số các hộ nuôi cá tra đều có cải tạo ao, hóa chất được sử dụng phổ biến là vôi
(100%), muối (60%) và chlorine (83,3%). Ngoài ra các hộ nuôi còn sử dụng nhiều
loại hóa chất cải tạo khác nhưng số lượng sử dụng không đáng kể như sunphat đồng,
Iodine, Virkon, BKC, TCCA, (Hình 4.4).
0
20
40
60
80
100
%
Vôi Muối Chlorine Sunphat đồng Iodine BKC TCCA Khác

Hình 4.4: Tỉ lệ phần trăm thuốc và hóa chất cải tạo ao nuôi cá tra
Môi trường thuận lợi và ổn định giúp cho cá phát triển tốt và hạn chế được sự phát
triển của mầm bệnh đặc biệt là hình thức nuôi cá tra thâm canh thì vấn đề cải tạo ao
nuôi được quan tâm trước nhất. Kết quả này cũng phù hợp với kết quả điều tra của
Đặng Thụy Mai Thy (2007), Nghiên cứu nguyên nhân gây bệnh gạo trên cá tra ở
Đồng Tháp thì vôi cũng được sử dụng phổ biến trong quá trình cải tạo và xử lý ao
nuôi với 100% số hộ sử dụng và 8,33% hộ dùng muối. Các loại hóa chất khác cũng
được dùng cải tạo ao như: BKC, KMnO
4,
Iodine Qua đó cho thấy các hộ nuôi chủ
yếu chỉ sử dụng vôi để cải tạo ao do rẻ tiền, có chức năng diệt khuẩn ở nồng độ cao và
số lượng phong phú, hiệu quả sử dụng cao nên được người nuôi ưa chuộng.
4.2.3


Thời vụ nuôi và thả giống
Qua điều tra cho thấy số vụ nuôi bình quân của người dân nuôi cá tra công nghiệp là
1,5 vụ/năm. Thời gian mỗi vụ nuôi trung bình khoảng 6-8 tháng tùy theo kích cỡ con
giống. Nguồn giống thả nuôi chủ yếu là từ 3 nguồn chính: địa phương, trong tỉnh và
ngoài tỉnh.
18
B
ảng 4.5: Nguồn giống cá tra thả nuôi của các nông hộ
Nguồn giống Số hộ nuôi (n) Tỉ lệ phần trăm (%)
Địa phương 12 40
Trong tỉnh 10 33,3
Ngoài tỉnh 8 26,7
Tổng 30 100
Qua khảo sát cho thấy đa số người dân điều sử dụng nguồn giống từ địa phương
(40%) và trong tỉnh (33,3%). Còn lại một số hộ sử dụng nguồn giống mua từ tỉnh khác
chiếm (26,7%) (Hình 4.5).
40%
33%
27%
Địa phương Trong tỉnh Tỉnh khác

Hình 4.5: Tỉ lệ phần trăm nguồn giống cá tra thả nuôi của nông hộ
Con giống là một trong những yếu tố quan trọng và rất được quan tâm đối với người
nuôi cá tra. Nguồn giống có chất lượng tốt sẽ góp phần nâng cao hiệu quả của vụ nuôi.
Theo các hộ nuôi cá tra ở Thoại Sơn thì gần đây chất lượng cá giống thường không ổn
định, các hộ nuôi thường gặp nhiều khó khăn do việc chọn con giống kém chất lượng,
cá thường bị bệnh chỉ trong thời gian ngắn sau khi thả nuôi nên việc kiểm tra kỹ chất
lượng cá giống là việc làm rất cần thiết. Tuy nhiên, theo kết quả trên cho thấy, nguồn
giống trong tỉnh chỉ đáp ứng trên 70% nhu cầu giống cho các hộ nuôi cá thịt. Nếu sử

dụng nguồn giống nhập tỉnh, mất nhiều thời gian vận chuyển gây xây xát, gây sốc, tạo
điều kiện cho mầm bệnh phát triển, mặc khác nếu dùng con giống không rõ nguồn gốc
có thể là giống kém chất lượng hoặc đã sử dụng kháng sinh quá mức trước đó sẽ gây
khó khăn trong quá trình nuôi.
Thời điểm thả giống của các hộ được khảo sát hầu như diễn ra quanh năm, từ tháng
6-9 có số hộ thả giống nhiều nhất. Ở thời điểm các tháng còn lại trong năm thì có số
hộ thả giống thấp nhất. Mặc dù cá tra có thể nuôi quanh năm nhưng các hộ nuôi cho
rằng nên tập trung thả giống từ tháng 6-12 dương lịch. Vì trong giai đoạn này, nước lũ
lên cao và nguồn nước sông tương đối tốt, nên cá lớn nhanh và ít bị bệnh. Theo Lê
Xuân Sinh và Nguyễn Thanh Phương (2005) (trích dẫn bởi Đặng Thụy Mai Thy,
19
2007), trong một năm thì có ba khoảng thời gian mà cá tra mẫn cảm với điều kiện môi
trường. Tháng 10-12, đây là thời gian lũ rút, nông dân làm đất chuẩn bị cho vụ lúa
Đông-Xuân, nhiệt độ nước thường thấp trong thời gian này. Tháng 1-4 là thời gian có
mực nước thấp trên các con sông cùng với việc phóng thích các chất thải từ việc thu
hoạch lúa. Tháng 5-6 là thời kì chấm dứt mùa khô và bắt đầu mùa mưa, nhiệt độ nước
thường cao không tốt cho nuôi trồng thủy sản.
4.2.4 Thức ăn sử dụng
Trong nuôi cá tra công nghiệp thức ăn chiếm tỉ lệ lớn trong tổng chi phí sản xuất và
quiết định đến lợi nhuận sau cùng (Nguyễn Quốc Thịnh, 2006). Đa số các hộ nuôi
điều dùng thức ăn công nghiệp (TACN) và thức ăn tự chế (TATC) trong quá trình
nuôi. Qua khảo sát các hộ nuôi cá tra ở Thoại Sơn thì các loại thức ăn được sử dụng
như sau:
Bảng 4.6: Thức ăn sử dụng trong nuôi cá tra
Tên thức ăn Số hộ nuôi Tỉ lệ phần trăm (%)
TACN 20 66,7
TATC 0 0
TACN + TATC 10 33,3
Tổng 30 100
Kết quả điều tra cho thấy trong tổng số 30 hộ điều tra thì có 66,7% hộ sử dụng TACN

hoàn toàn, 33,3% số hộ sử dụng kết hợp TACN từ 1-2 tháng đầu và 2 tháng cuối vụ,
giai đoạn còn lại sử dụng TATC, không có hộ nào sử dụng hoàn toàn TATC. Điều này
cho thấy người dân đã nhận thức được vai trò của TACN trong nuôi cá tra (Hình 4.6).
66.7%
33.3%
TACN TACN + TATC

Hình 4.6: Tỉ lệ phần trăm các loại thức ăn sử dụng trong nuôi cá tra
TACN có chất lượng ổn định đảm bảo nhu cầu dinh dưỡng cho cá nuôi hạn chế được
ô nhiễm môi trường. Việc sử dụng hoàn toàn TACN sẽ làm tăng chi phí sản xuất và
không phải nông hộ nào cũng có khả năng. Vì vậy một số hộ đã sử dụng TACN ở hai
20
tháng đầu và hai tháng cuối vụ, các tháng còn lại sử dụng TATC. Tùy thuộc vào điều
kiện của từng hộ nuôi sử dụng công thức TATC khác nhau nhưng chủ yếu là cám,
tấm, cá tạp và chất kết dính. Một số hộ nuôi còn bổ sung thêm một số thành phần khác
như: vitamin, thuốc, kháng sinh,…Tuy nhiên sử dụng TATC thì thời gian nuôi kéo
dài, hệ số tiêu tốn thức ăn cao do chất lượng thức ăn không đảm bảo nhu cầu dinh
dưỡng. Mặc khác, khi sử dụng TATC sẽ góp phần tăng cường ô nhiễm nước ao và gia
tăng sự xuất hiện dịch bệnh.
4.3 Tỉ lệ và nguyên nhân hao hụt trong nuôi cá tra
Hiện nay, nuôi cá tra được phát triển nhanh và nuôi với mật độ cao nên người nuôi
phải thay nước liên tục mà môi trường nuôi ngày càng biểu hiện xấu do lượng chất
hữu cơ thải trực tiếp ra môi trường rất lớn. Qua đó góp phần đưa mầm bệnh và nguồn
nước xấu từ ngoài vào làm nguy cơ xuất hiện dịch bệnh tăng lên ảnh hưởng đến tỉ lệ
hao hụt của cá nuôi là đều khó tránh khỏi. Tỉ lệ cao hay thấp cũng cần phải xem xét
đến nhiều yếu tố liên quan như: dịch bệnh, ô nhiễm môi trường nước, chất lượng con
giống hay mật độ thả.
0
10
20

30
40
50
60
70
80
90
100
Nguyên nhân
gây bệnh
%
Môi trường
Giống + môi
trường

Hình 4.7: Tỉ lệ phần trăm nguyên nhân hao hụt trong nuôi cá tra thâm canh
Theo kết quả khảo sát cho thấy có hai nguyên nhân chính gây ra hao hụt trong quá
trình nuôi. Trong 30 hộ được điều tra thì 100% số hộ nuôi điều cho rằng cá hao hụt là
do môi trường bị ô nhiễm, chất lượng nước của vùng nuôi suy giảm dẫn đến phát sinh
bệnh trên cá tra nuôi. Trong đó có 73,3% số hộ nuôi thì cho là nguyên nhân hao hụt
trong quá trình nuôi vừa do môi trường, vừa do chất lượng con giống không đảm bảo,
mà nguyên nhân sâu xa là người sản xuất giống chạy theo số lượng nên dùng quá
nhiều kháng sinh (kể cả kháng sinh không rõ nguồn gốc) ở giai đoạn cá giống, làm
cho việc phòng trị bệnh trong giai đoạn nuôi cá thịt gặp nhiều khó khăn. Kết quả này
cao hơn so với nghiên cứu của Đặng Thụy Mai Thy (2007), môi trường cũng là
21
nguyên nhân chủ yếu gây bệnh trên cá tra nuôi dẫn đến hao hụt nhưng chỉ chiếm 41%,
thức ăn và con giống thì ít hơn chiếm tỉ lệ lần lượt là 38% và 21%. Từ các yếu tố trên
cho thấy con giống suy thoái kết hợp với nuôi mật độ cao và môi trường nước ngày
càng ô nhiễm là nguyên nhân gây bệnh trên cá nuôi xảy ra nhiều hơn trong giai đoạn

hiện nay. Do đó, việc phổ biến cho người nuôi hiểu rõ kỹ thuật nuôi một cách bền
vững là cần thiết.
4.4 Tình hình xuất hiện bệnh trên cá tra trong mô hình nuôi ao đất ở Thoại Sơn-
An Giang.
Nuôi cá tra công nghiệp là mô hình rất có hiệu quả, tuy nhiên do mật độ nuôi quá cao
và cung cấp một lượng lớn thức ăn nên môi trường nuôi dễ dàng bị ô nhiễm tạo điều
kiện cho bệnh phát sinh và lây lan. Hiện nay bệnh là vấn đề được người nuôi rất quan
tâm trong quá trình ương cá giống cũng như nuôi cá thịt. Theo thông tin ghi nhận từ
các hộ nuôi cá tra thường xuất hiện các bệnh phổ biến như: Gan thận mủ (GTM), phù
đầu xuất huyết (PĐXH), vàng da, bệnh do ký sinh trùng và gần đây có xuất hiện thêm
bệnh trắng gan trắng mang (TGTM)… gây thiệt hại nghiêm trọng cho người nuôi.
4.4.1 Bệnh do ký sinh trùng
Kết quả khảo sát trên 30 hộ nuôi cá tra tại Thoại Sơn cho thấy đa số các hộ nuôi nhận
dạng được bệnh trên cá nuôi do ký sinh trùng hay vi khuẩn gây ra đều thông qua tập
huấn và hướng dẫn của cán bộ kỹ thuật địa phương, từ các cửa hàng kinh doanh thuốc
thú y thủy sản hoặc do kinh nghiệm của người nuôi có được. Các hộ cho rằng trong
nuôi cá tra thâm canh thì tác nhân gây bệnh ký sinh chủ yếu thuộc nhóm trùng bánh
xe (TBX), sán lá mang, trùng mỏ neo, rận cá và trùng quả dưa. Có hai loại ký sinh
trùng được biết đến nhiều nhất là trùng bánh xe (100%) và sán lá mang (80%) (Hình
4.8). Các loại bệnh do ký sinh trùng khác gây ra ở mức tương đối thấp với dưới 50%
số hộ phát hiện. Các hộ còn cho biết thêm ký sinh trùng xuất hiện chủ yếu ở giai đoạn
tháng 1-3 của chu kỳ nuôi, ở giai đoạn cá lớn thì ít hơn. Tuy nhiên, với điều kiện của
hộ nuôi, chỉ có thể phát hiện những ký sinh trùng có kích thước lớn như nhóm giun
sán còn nhóm ký sinh trùng có kích thước nhỏ như TBX, trùng quả dưa… thì không
thể phát hiện được ở tại ao nuôi nên người dân phải nhờ đến các trung tâm chuẩn đoán
dịch bệnh. Do đó ảnh hưởng không nhỏ trong việc điều trị bệnh cho cá.
22
0
10
20

30
40
50
60
70
80
90
100

sinh trùng
%
TBX Sán lá mang Trùng mỏ neo
Trùng quả dưa Rận cá

Hình 4.8: Tỉ lệ phần trăm tần suất xuất hiện bệnh do ký sinh trùng trên cá tra
Theo kết quả điều tra của Trần Anh Dũng (2005), khảo sát các tác nhân gây bệnh
trong nuôi cá tra ở An Giang cũng có hai loại ký sinh trùng gây hại nhiều nhất là TBX
và sán lá mang nhưng với tỉ lệ không cao so với kết quả điều tra hiện tại lần lượt là
88% và 68,3%. Điều này cho thấy cá tra rất mẫn cảm với bệnh do TBX gây ra (100%)
và gây hại chủ yếu là ở giai đoạn cá giống có thể do cá giống thường được ương nuôi
với mật độ cao, đúng ngay vào mùa phát sinh nhiều bệnh do ký sinh trùng gây ra và
sức đề kháng của cá yếu đã tạo điều kiện cho TBX tấn công.
Giải pháp xử lý môi trường và bệnh do ký sinh trùng gây ra
Sử dụng hóa chất để xử lý môi trường và bệnh do ký sinh trùng trong ao nuôi được
người nuôi rất quan tâm. Kết quả khảo sát cho thấy người dân thường sử dụng nhiều
loại hóa chất để xử lý môi trường như CuSO
4
chiếm (83,3%), BKC (26,7%), NaCl
(20%), TCCA (33,3%), Iodine (46,7%) và một số loại khác…. Nhưng sử dụng nhiều
nhất là CuSO

4
do đây là một hóa chất trị bệnh ký sinh trùng khá hiệu quả và rẻ tiền.
Bên cạnh đó Dipterex cũng được một số hộ nuôi sử dụng để điều trị bệnh ký sinh
trùng trên cá rất có hiệu quả (Hình 4.9).
23
83.3
26.7
33.3
20
60
46.7
13.3
0
10
20
30
40
50
60
70
80
90
%
CuSO4 BKC TCCA NaCl Dipterex Iodine Khác

Hình 4.9: Tỉ lệ phần trăm thuốc và hóa chất trị bệnh ký sinh trùng
4.4.2 Bệnh do vi khuẩn
Tỉ lệ các loại bệnh do vi khuẩn gây ra được thể hiện qua bảng số liệu sau:
Bảng 4.7: Các loại bệnh do vi khuẩn
Tên bệnh Số hộ nuôi Tỉ lệ phần trăm (%)

Gan thận mủ 30 100
Phù đầu xuất huyết 29 96.7
Trắng gan trắng mang 27 90
Đốm đỏ 23 76,7
Lở loét 4 13,3
Tuột nhớt 9 30
Vàng da 17 56,7
Kết quả điều tra 30 hộ nuôi cá tra ở huyện Thoại Sơn cho thấy hiện nay mầm bệnh
trên cá xuất hiện rất phổ biến. Trong đó bệnh xuất hiện nhiều nhất là gan thận mủ
chiếm (100%), tiếp đến là bệnh phù đầu xuất huyết chiếm (96,7%), TGTM (90%),
ngoài ra còn có bệnh đốm đỏ, lỡ loét, tuột nhớt, vàng da với tần số xuất hiện lần lượt
là 76,7%; 13,3%, 30% và 56,7% (Hình 4.10). Kết quả này so với báo cáo của Lý Thị
Thanh Loan (2007), khảo sát tình hình nuôi và dịch bệnh trên cá tra, cá ba sa của các
tỉnh thuộc khu vực ĐBSCL cho thấy các bệnh thường xảy ra và gây thiệt hại cho
người nuôi có chiều hướng tăng dần đó là bệnh mủ gan (52,8%), xuất huyết (42.5%),
phù đầu phù mắt (20,7%), vàng da và thân (21,6%). Điều này có thể do sự gia tăng
liên tục về sản lượng và mật độ nuôi mà không theo qui hoạch tổng thể. Vì vậy chất
thải, mầm bệnh gia tăng nên lây lan là điều không thể tránh khỏi.

24
0
10
20
30
40
50
60
70
80
90

100
%
Gan thận mủ Phù đầu xuất huyết Trắng gan trắng mang Đốm đỏ
Lở loét Tuột nhớt Vàng da

Hình 4.10: Tỉ lệ phần trăm tần suất xuất hiện bệnh do vi khuẩn trên cá tra

Theo người nuôi cho biết hầu hết các bệnh do vi khuẩn gây ra đều làm hao hụt rất cao
đặc biệt là bệnh mủ gan tỉ lệ cá chết khi bị nhiễm bệnh có thể lên đến 90%, đây là loại
bệnh gây nhiều thiệt hại lớn làm ảnh hưởng tới năng suất và lợi nhuận của nông hộ và
cũng là một trong những loại bệnh tốn nhiều chi phí thuốc, hóa chất phòng trị bệnh và
cũng là bệnh khó trị nhất.
Giải pháp xử lý bệnh do vi khuẩn
Đối với bệnh do vi khuẩn gây ra người dân đều sử dụng kháng sinh để điều trị. Tuy
nhiên, hầu hết đều cho rằng khi chọn loại thuốc kháng sinh thì người nuôi cá đều
thông qua tư vấn của cán bộ kỹ thuật và hướng dẫn của của hàng kinh doanh thuốc thú
y thủy sản. Kết quả khảo sát cho thấy các bệnh do vi khuẩn gây thiệt hại nhiều như
trình bày trên thì hầu hết số hộ khảo sát (trên 80%) đều cho rằng các loại kháng sinh
thông thường như Oxytetracycline, Tetracycline,… đều trị không hiệu quả vì vi khuẩn
đã kháng thuốc, mà họ sử dụng các loại biệt dược như Amoxcillincillin, Ampicillin
và các loại kháng sinh nhóm Fluoroquinolones đã được Bộ Nông Nghiệp hạn chế sử
dụng như: Enrofloxacine, Norflocacine, Ciprofloxacine và một số kháng sinh khác
như Colistin, Trimethoprim, Flofenicol… (Phụ lục C) đều trị rất có hiệu quả. Người
nuôi cho biết bệnh do vi khuẩn xuất hiện kéo dài từ 7-10 ngày và có thể lên đến 20
ngày. Nếu có cách điều trị thích hợp, quản lý môi trường ao nuôi tốt thì bệnh sẽ giảm
dần sau 5-7 ngày điều trị. Đối với bệnh mủ gan, thì hầu hết các hộ nuôi đều có sử
dụng các loại kháng sinh trên kết hợp với nhau Bệnh phù đầu xuất huyết dùng
Kanamycin, Flofenicol, Doxycyllin, Sunfamid, Enrofloxacin, Ciprofloxacin,
Amoxcillin, Ampicillin,…và tùy theo kinh nghiệm của mỗi hộ nuôi mà có cách phối
trộn các loại thuốc với nhau với liều lượng khác nhau. Còn đối với bệnh TGTM khi

25
xuất hiện với mức độ nhẹ thì hầu hết người nuôi chỉ thay nước, xử lý môi trường bằng
các loại thuốc, hóa chất như: BKC, TCCA, Fiba, Chlorine, Sunphat đồng (CuSO
4
),
thuốc tím (KMnO
4
),… kết hợp bổ sung một số chất như vitamin C, B
12
, khoáng chất
nhằm tăng cường sức đề kháng và tạo máu cho cá. Theo cách điều trị này người nuôi
cho biết bệnh sẽ giảm dần sau 3-7 ngày nếu bệnh được phát hiện sớm và điều trị kịp
lúc. Nếu phát hiện bệnh trễ và điều trị không đúng lúc thì bệnh sẽ càng nặng khi đó
100% số hộ nuôi chỉ thay nước xử lý môi trường ao nuôi và ngưng cho ăn đến khi cá
hết bệnh.
Phương pháp trị bệnh của các hộ nuôi cá tra đa số là theo cảm tính không theo một qui
luật nào cả, ngoài ra do trị bệnh kém hiệu quả nên hiện nay người nuôi kết hợp nhiều
loại kháng sinh và sử dụng quá liều so với yêu cầu. Theo thông tin của người nuôi thì
bệnh do vi khuẩn gây ra thường xuất hiện như: bệnh mủ gan, xuất huyết… do đó quá
trình sử dụng thuốc hay kháng sinh quá nhiều làm cho vi khuẩn gây bệnh có thể đề
kháng được thuốc nên khi sử dụng với liều cao không những mầm bệnh không tiêu
diệt được còn làm cho cá dễ bị sốc, tạo điều kiện cho các tác nhân gây bệnh có thể dễ
xâm nhập và gây bệnh cho cá. Theo Nguyễn Đức Hiền (2008) (trích dẫn bởi Nguyễn
Chí Dũng, 2009) giải thích kết quả điều trị kém hiệu quả trên cá còn do người nuôi
chọn thuốc chưa đúng hoặc sử dụng thuốc không đúng chỉ định hay phối hợp cùng lúc
nhiều loại thuốc gây tương kỵ và ức chế lẫn nhau. Đồng thời việc điều trị kém hiệu
quả nên người nuôi tăng liều thuốc lên 2-3 lần so với chỉ định hoặc thay đổi kháng
sinh liên tục làm cho vi khuẩn kháng thuốc càng gia tăng. Đặc biệt trong giai đoạn
ương cá giống thì người nuôi sử dụng thuốc tăng cao đến hàng chục lần làm ảnh
hưởng xấu đến chất lượng con giống và việc điều trị bệnh cho cá nuôi sau này ngày

càng trở nên kém hiệu quả.
Nhận thức của người nuôi về bệnh trên cá tra
Theo đa số các hộ nuôi cá ở Thoại Sơn thì bệnh xuất hiện hầu như quanh năm nhưng
bệnh tập trung nhiều nhất vào những tháng gió lạnh, lúc giao mùa, nước đổ và khi lũ
rút. Ở những tháng nhiệt độ thấp cá bỏ ăn dẫn đến suy yếu, nhiễm bệnh và chết. Ở
những tháng mùa hè (tháng 4-5) nhiệt độ cao cũng làm cho cá bị sốc và nhiễm bệnh
đặc biệt là bệnh xuất huyết ruột gây chết cá. Những tháng lũ rút hay những tháng lũ
mới đổ về thì nguồn nước bị ô nhiễm cũng làm cho cá dễ bị bệnh. Hầu hết các hộ nuôi
cá Tra ở Thoại Sơn đều quan tâm đến vấn đề dịch bệnh ở cá nuôi và biết cách phòng
trị bệnh cho cá. Có nhiều phương pháp phòng trị bệnh khác nhau như giữ gìn tốt môi
trường nước, bổ sung thuốc và hóa chất phòng trị bệnh. Tuy nhiên kiến thức phòng, trị
bệnh cá của người dân chủ yếu từ kinh nghiệm thực tế sản xuất. Phòng bệnh luôn
được tiến hành nhưng phương thức của mỗi người khác nhau, biện pháp đơn giản luôn
được thực hiện là thay nước, xử lý nước, bổ sung vitamin hằng ngày trong khẩu phần
ăn của cá. Thuốc phòng trị bệnh cá của người dân sử dụng chủ yếu từ 3 nguồn: thuốc

×