Tải bản đầy đủ (.pdf) (29 trang)

Tiểu luận tổng quan về thị trường tài chính, thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (430.69 KB, 29 trang )

MỤC LỤC:
LỜI MỞ ĐẦU………………………………………………………………….…2
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH
1.1. Lịch sử hình thành thị trường tài chính…………………..……………4
1.2. Khái niệm về thị trường tài chính:...…………………...………………7
1.3. Chức năng của thị trường tài chính:…………………..…………….…7
1.4. Phân loại thị trường tài chính:…………………………………………8
1.5.Vai trị của thị trường tài chính. ………………………………………11
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VỀ THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH Ở VIỆT NAM
2.1.Thị trường tiền tệ:
2.1.1. Thị trường vốn ngắn hạn:………………………….………..15
2.1.2. Thị trường liên ngân hàng:……………………...…………..15
2.2. Thị trường hối đoái:…………………………………………………..15
2.3. Thị trường chứng khoán:……………………………………….…….16
2.3.2. Những hạn chế của thị trường chứng khoán Việt
Nam………………………………………………………………………….……17
CHƯƠNG 3: VAI TRỊ CỦA THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH ĐỐI VỚI NỀN KINH
TẾ VIỆT NAM HIỆN NAY
3.1. Thị trường tài chính tạo lập nguồn vốn cho nền kinh tế……………..24
3.2. Thị trường tài chính góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của nền
kinh tế……………………………………………………………...…………….25
3.3. Thị trường tài chính góp phần đầy nhanh q trình tự do hóa tài chính
và hội nhập quốc tế………………..………………………………….………….26
CHƯƠNG 4 :ĐÁNH GIÁ VÀ ĐƯA RA GIẢI PHÁP:
4.1 Đánh giá:……………………………………..………………………28
4.1.1. Về thị trường tiền tệ…………….………………………… 28
4.1.2. Về thị trường chứng khoán: ………………………….……28
4.2 Giải pháp:…………………...………………………………………..28
KẾT LUẬN

1



LUAN VAN CHAT LUONG download : add


1.Lời mở đầu :
Trong quá trình phát triển kinh tế xã hội nhu cầu về vốn luôn là vấn đề quan
trọng được ưu tiên hàng đầu trước khi bắt đầu vào một năm tài khóa mới. Để thấy
rằng việc hình thành một thị trường vốn cho phát triển kinh tế xã hội là vơ cùng
quan trọng thì việc tìm hiểu thị trường vốn hay thị trường tài chính (TTTC) ra đời
là do đâu và nó có vai trị to lớn như thế nào đối với nền kinh tế nói chung và nền
kinh tế Việt Nam nói riêng là điều hết sức cần thiết. Đó chính là lý do chung tơi
tập trung nghiên cứu chuyên đề:“tổng quan về thị trường tài chính”.
TTTC là một sản phẩm bậc cao của nền kinh tế thị trường hay nói chính xác hơn,
là nền kinh tế tiền tệ, ở đó, bên cạnh các thị trường khác, thị trường tài chính hoạt
động như là một sự kết nối giữa “người cho vay đầu tiên” và “người sử dụng cuối
cùng”, tạo ra vô số các giao dịch, và ở mỗi giao dịch, dù động cơ nào ,cũng tạo ra
các dòng chảy về vốn trong một nền kinh tế - như là sự lưu thông máu trong một
cơ thể - một nền kinh tế hoạt động lành mạnh và có hiệu quả chỉ khi nào thị trường
này cũng hoạt động có hiệu quả như thế, và ngược lại.
Trong nền kinh tế thị trường cung và cầu gặp nhau tạo thành thị trường. Giá cả
hàng hoá xuất hiện nhằm giải quyết trạng thái cân bằng cung và cầu là u cầu cấp
bách. Hàng hố trong thị trường tài chính là các cơng cụ tài chính. Đối với mỗi
chủ thể hoạt động sản xuất kinh doanh, vốn để đầu tư cho phát triển kinh doanh,
phát triển sản xuất là yếu tố sống cịn, vì vậy vốn có vị trí to lớn trong nền kinh tế.
Trong mối quan hệ tương quan với các thị trường khác, TTTC có vị trí là thị
trường khởi điểm cho các loại thị trường, nó có tác dụng chi phối điều hành và
xâm nhập vào các loại thị trường khác. Biết rõ mối quan hệ giữa thị trường tài
chính và các thị trường khác, chính phủ có thể giải quyết nạn khan hiếm vốn và
điều hành quản lý kinh tế thị trường thông qua thị trường tài chính.
TTTC nâng cao năng suất và hiệu quả hoạt động kinh doanh, sản xuất của nền

kinh tế. Tạo ra tốc độ vịng ln chuyển vốn nhanh, góp phần làm tăng trưởng kinh
tế. Tạo điều kiện cho sự thành lập các tổ chức kinh tế mới.
TTTC tạo ra cơ hội đầu tư và đem lại lợi ích cho mọi thành viên trong xã hội. Các
tổ chức kinh tế và người dân thông qua TTTC sử dụng hợp lý nguồn vốn để đầu tư
dưới nhiều hình thức khác nhau để bảo đảm và tăng nguồn vốn.
TTTC giúp cho việc sử dụng vốn có hiệu quả hơn, khơng chỉ đối với người có
tiền đầu tư mà cịn cả với người vay tiền để đầu tư. Người cho vay sẽ có lãi thơng
qua lãi suất cho vay. Người đi vay vốn phải tính tốn sử dụng vốn vay đó hiệu
quả.
Có thể nói, TTTC là chiếc cầu nối giữa cung và cầu vốn trong nền kinh tế, tạo
điều kiện thuận lợi chuyển nguồn vốn nhàn rỗi đến nơi thiếu vốn để đáp ứng nhu
cầu phát triển kinh tế. Thơng qua TTTC mà hình thành giá mua giá bán các loại cổ

2

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


phiếu, trái phiếu, kỳ phiếu, giấy nợ ngắn hạn, dài hạn…hình thành nên tỷ lệ lãi
suất đi vay, lãi suất cho vay, lãi suất ngắn, trung hạn và dài hạn.
Ở Việt Nam, kể từ khi nền kinh tế chuyển sang vận hành theo cơ chế thị trường,
đặc biệt là trong bối cảnh hội nhập kinh tế khu vực và thế giới,gia nhập WTO, lĩnh
vực tài chính là lĩnh vực mang tính nhạy cảm ln địi hỏi sự đổi mới cả về mặt
nhận thức và thực tiễn.
Chính vì vậy, việc nghiên cứu thi trường tài chính là hết sức quan trọng, nó sẽ giúp
cho các nhà đầu tư hiểu rõ loại thị trường đặc biệt này, từ đó nắm bắt được tầm
quan trọng, ảnh hưởng của nó đối với hoạt động SXKD để có kế hoạch sử dụng
vốn có hiệu quả nhất.

3


LUAN VAN CHAT LUONG download : add


CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH
1.1.Lịch sử hình thành thị trường tài chính.
Thị trường tài chính xuất hiện hàng ngàn năm trước công nguyên:
“Những thỏa thuận cho vay giữa các cá nhân đã xuất hiện ở nhiều nền văn
minh cổ đai.Bằng chứng cho thấy ít nhất hai tổ chức hoạt động dạng ngân hàng
vào thời đại Babylonia và Assyria.”

Cũng giống như các loại thị trường khác, thể chế thị trường phải được duy
trì trong nền kinh tế tài chính. Tức là, các chủ thể thừa vốn và thiếu vốn trên thị
trường tạo ra cung và cầu về sản phẩm tài chính.
Trong cơ chế kinh tế bao cấp,việc kinh doanh do NN điều phối, các chủ thể
hoàn toàn bị động trong ước muốn kinh doanh, dù biết hướng đó là mang lại lợi
nhuận cao. Cịn trong sự thơng thoáng của nền kinh tế thị trường, các chủ thể chủ
động tìm đường đầu tư có lợi cho mình để đạt được hiệu quả tối ưu, đồng thời, sự
phát triển của nền kinh tế thị trường đã làm xuất hiện các chủ thể thừa vốn và cũng
có cả những người cần vốn.
Các chủ thể cần nguồn tài chính:
Các doanh nghiệp: để có thể hoạt động SXKD mỗi doanh nghiệp điều có một
lượng vốn tự có nhất định, nhưng con số này là có hạn đối với nhu cầu tăng qui
mơ sản xuất, đầu tư dự án mới hay đầu tư cơ sở vật chất, áp dụng cơng nghệ…của
doanh nghiệp. Vì vậy, huy động nguồn tài chính là một nhu cầu thường xuyên của
mỗi doanh nghiệp.
Nhà nước thông qua NSNN, cung cấp kinh phí để thực hiện các chức năng,
nhiệm vụ của mình như:
Phân bổ nguồn tài chính quốc gia
Kích thích phát triển sản xuất kinh doanh.

Định hướng hình thành cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển: cung cấp kinh

4

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


phí đầu tư cơ sở hạ tầng cơng cộng, hình thành các ngành then chốt…
Trợ giá.
Giải quyết các vấn đề xã hội: chi hoạt động bộ máy nhà nước, lực lượng cơng
an,quốc phịng, giáo dục, y tế, hỗ trợ thất nghiệp, ủng hộ thiên tai…
Tất cả đều chi từ nguồn NSNN có hạn. Do vậy, để đầu tư dự án phát triển kinh tếxã hội hay để bù đắp bội chi Nhà nước cũng cần huy động thêm nguồn tài chính từ
các chủ thể khác.
Ngồi ra, các tổ chức tín dụng cũng thường xuyên cần huy động nguồn tài chính
để cho vay, các nhà đầu tư cần vốn cho dự án mới, các hộ gia đình, cá nhân cần
nguồn tài chính để trang trải nhu cầu chi đột xuất.
Bên cạnh đó, nền kinh tế thị trường cũng tồn tại những chủ thể thừa vốn:
Doanh nghiệp: nguồn vốn đang thừa đó là những khoản thu nhập chưa có nhu cầu
sử dụng (ngắn hạn hoặc dài hạn như doanh thu tiêu thụ chưa tới kì thanh tốn, số
tiền quỹ khấu hao cơ bản chưa dùng, lợi nhuận tái đầu tư chưa dùng...) những
khoản này đều có thể cho vay.
Các hộ gia đình, cá nhân có tiền để dành, tiền được thừa kế, mặc dù số tiền mỗi cá
nhân, hộ gia đình có được không phải lớn nhưng thành phần này lại chiếm tỉ trọng
cao trong xã hội (khoảng 70%) nên nếu tập trung lại thì sẽ trở thành một nguồn tài
chính vơ cùng mạnh.
Cịn có quỹ tiền tệ của các tổ chức xã hội, quỹ bảo hiểm mà chưa sử dụng cũng là
nguồn cung ứng vốn.
Các chủ thể thừa vốn không muốn để phí nguồn tài chính nhàn rỗi của mình, họ
tìm kiếm lợi nhuận thông qua hoạt động đầu tư, còn các chủ thể thiếu vớn dùng nó
để bở sung vớn cho hoạt động SXKD và các nhu cầu đầu tư khác sao cho có hiệu

quả và tiết kiệm.
Vấn đề là làm sao để cho đầu tư gặp được tiết kiệm; phải có nơi để tạo ra sự
gặp gỡ này. Sự gặp gỡ này chính là quá trình giao lưu vớn hay nói khác hơn là cần
tạo ra một nơi để cho những nguồn vốn nhàn rỗi không có chỗ đầu tư giao lưu với
những nhà đầu tư đang cần vốn.
Ban đầu, việc vay và cho vay dựa trên sự quen biết, tín nhiệm (anh em, hàng xóm,
bạn bè…) nên phạm vi và số lượng rất hạn chế.
Khi các chủ thể gặp nhau thơng qua vai trị của người trung gian là Ngân hàng thì
có sự dễ dàng hơn, việc ln chuyển vốn được nhanh chóng và đáng tin cậy hơn.
Nhưng phạm vi lựa chọn các phương án cho vay của Ngân hàng không được rộng
lớn,lãi suất không phải lúc nào cũng hấp dẫn người gửi tiền vào để có tiềm lực
mạnh, việc gửi và rút tiền gặp nhiều phiền hà, việc cho vay không phải lúc nào
cũng dễ dàng với bất kì ai…
Có thể khẳng định rằng: mợt nền kinh tế muốn tăng trưởng thì phải có hoạt động
đầu tư; trước khi muốn đầu tư, phải huy động vốn từ nguồn tiết kiệm; đầu tư có
hiệu quả sinh ra lợi nhuận lại làm tăng thêm nguồn tiết kiệm. Bắt nguồn từ mối
quan hệ nhân quả giữa đầu tư và tiết kiệm, một yêu cầu đặt ra là cần có nhiều hình

5

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


thức huy động vốn mới, nhanh chóng, linh hoạt hơn, góp phần giải quyết cân đối
giữa cung và cầu về nguồn tài chính trong xã hội.
Các cơng cụ huy động vốn xuất hiện dưới nhiều hình thức để đáp ứng yêu cầu đó:
Các giấy tờ ghi nợ: Nhà nước phát hành trái phiếu cơng trình, cơng trái..., doanh
nghiệp phát hành thương phiếu, trái phiếu…
Các công ty cổ phần phát hành cổ phiếu để huy động vốn.
=> giấy tờ ghi nợ, cổ phiếu gọi chung là chứng khoán (CK)

Khi CK xuất hiện thì cũng xuất hiện nhu cầu mua bán, chuyển nhượng giữa các
chủ sở hữu khác nhau: người này có nhu cầu rút vốn đầu tư hoặc di chuyển vốn
cần bán thì có người khác muốn mua CK đó. Chính điều này làm xuất hiện một
loại thị trường đặc biệt để cân đối cung cầu về vốn trong nền kinh tế là “thị trường
tài chính”.

Như vậy, thị trường tài chính (TTTC) ra đời là để giải quyết mâu thuẫn giữa cung
và cầu về vốn trong nền kinh tế thông qua các cơng cụ tài chính đặc biệt là các
loại CK.
6

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


1.2. Khái niệm về thị trường tài chính:
Bắt ng̀n từ mối quan hệ nhân quả giữa đầu tư và tiết kiệm: một nền kinh tế
muốn tăng trưởng thì phải có hoạt động đầu tư; trước khi muốn đầu tư, phải huy động
vốn từ nguồn tiết kiệm; đầu tư có hiệu quả sinh ra lợi nhuận lại làm tăng thêm nguồn tiết
kiệm. Vì vậy, mối quan hệ nhân quả này tuần hoàn và tạo nên sự phát triển kinh tế xã hội.
Tuy nhiên, vấn đề là làm sao để cho đầu tư gặp được tiết kiệm; phải có nơi để tạo ra sự
gặp gỡ này. Đó chính là quá trình giao lưu vốn hay nói khác hơn đó là thị trường tài
chính, là nơi tạo ra cơ chế cho những nguồn vốn nhàn rỗi không có chỗ đầu tư giao lưu
với những nhà đầu tư đang cần vốn.
Như vậy, thị trường tài chính là thị trường giao dịch, mua bán, trao đổi các sản
phẩm tài chính ngắn hạn, trung hạn, dài hạn để đáp ứng nhu cầu khác nhau của các chủ
thể trong nền kinh tế. Trong đó, các chủ thể thừa vốn thì tìm kiếm lợi nhuận thông qua
hoạt động đầu tư, còn các chủ thể thiếu vốn bổ sung vốn cho hoạt động sản xuất kinh
doanh và các nhu cầu đầu tư khác. Việc hình thành quá trình giao lưu vốn giữa những
chủ thể thừa vốn và thiếu vốn đã tạo nên một thị trường với đầy đủ cơ chế như trong một
nền kinh tế thị trường. Đồng thời, do sản phẩm trên thị trường là sản phẩm tài chính, có

tính nhậy cảm và ảnh hưởng đến mọi thành phần trong nền kinh tế nên thị trường tài
chính là thị trường bậc cao. Do đó, thị trường tài chính phải là loại thị trường bậc cao, chỉ
tồn tại và hoạt động trong điều kiện của nền kinh tế thị trường.

1.3. Chức năng của thị trường tài chính:
Chức năng đầu tiên, cũng là chức năng quan trọng nhất của thị trường tài chính là
khơi thông các nguồn vốn và dẫn vốn để đáp ứng các nhu cầu của nền kinh tế xã hội. Để
thực hiện được chức năng này, thị trường phải tạo ra các kênh huy động vốn từ nơi thừa,
như: cá nhân, hộ gia đình, các đơn vị kinh tế, tổ chức đoàn thể xã hội, Chính phủ, … ở
trong và ngoài nước để chuyển sang các nhà đầu tư thiếu vốn, như: các đơn vị kinh tế,
Chính phủ, cá nhân, hộ gia đình, …
Chức năng thứ hai của thị trường tài chính là kích thích tiết kiệm và đầu tư. Thị
trường tạo ra sân chơi, để những người có tiền nhàn rỗi có cơ hội đầu tư như nhau và
được tự do tham gia vào thị trường để tìm kiếm những nơi đầu tư có suất sinh lợi cao
nhất, tạo thành thói quen tích lũy tiền tệ một cách thường xuyên hơn, là một nguồn đầu
vào không thể thiếu của thị trường. Nếu thị trường không kích thích được người dân tích
lũy và tham gia vào thị trường như là một kênh dẫn vốn cho nền kinh tế thì thị trường đó
sẽ không thể hoạt động tốt. Đồng thời, nhà đầu tư trên thị trường khi tìm kiếm nguồn vốn
tài trợ cho các hoạt động đầu tư phải nhận thức được việc sử dụng vốn sao cho có hiệu
quả nhất, có hiệu suất sử dụng đồng vốn cao nhất để bảo toàn vốn, sinh lời và tích lũy.
Chính vì vậy, thị trường tài chính có chức năng nâng cao năng suất và hiệu quả hoạt động
của toàn bộ nền kinh tế, kích thích đổi mới, áp dụng khoa học kỹ thuật, công nghệ tiên
tiến để tăng hiệu quả đầu tư, góp phần thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế xã hội.

7

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


Chức năng thứ ba của thị trường tài chính là làm gia tăng tính thanh khoản cho

các tài sản tài chính. Tính thanh khoản là tính chất dễ dàng chuyển hóa các tài sản tài
chính thành tiền mặt và được thực hiện ở thị trường thứ cấp, là thị trường mua bán, giao
dịch cổ phiếu và các giấy tờ có giá đã phát hành trên thị trường sơ cấp. Tính thanh khoản
ở thị trường tài chính càng cao thì càng thu hút nhiều chủ thể tham gia vào thị trường và
giúp chủ sở hữu các tài sản tài chính dễ dàng chuyển đổi danh mục đầu tư theo yêu cầu.
Do đó, mỗi thị trường khác nhau có tính thanh khoản khác nhau, phụ thuộc vào trình độ
phát triển các định chế tài chính của thị trường ấy. Nếu các cơ chế của thị trường thông
thoáng sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các công cụ tài chính lưu thông thông suốt. Ngoài
ra, thị trường tài chính còn có chức năng định giá tài sản tài chính, phân phối vốn trên thị
trường theo tín hiệu của thị trường.
Tùy thuộc vào các chức năng khác nhau của thị trường cũng như các tiêu chí phân loại
khác nhau, thị trường tài chính cũng có nhiều cách phân loại khác nhau. Nhưng tựu trung
lại, thị trường tài chính thường có ba cách phân loại cơ bản: theo thời hạn, tính chất luân
chuyển vốn và theo cơ cấu của thị trường.

1.4. Phân loại thị trường tài chính:

8

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


Căn cứ theo thời hạn luân chuyển vốn, thị trường tài chính được phân thành: thị
trường tiền tệ, thị trường hối đoái và thị trường chứng khoán.
- Thị trường tiền tệ là thị trường giao dịch, mua bán các chứng từ có giá
ngắn hạn. Các chứng từ có giá ngắn hạn như: tín phiếu Kho bạc, khoản vay ngắn hạn
giữa các Ngân hàng, thỏa thuận mua lại, chứng chỉ tiền gửi, thương phiếu, … Đây là thị
trường nhằm thỏa mãn những nhu cầu vốn trong ngắn hạn. Căn cứ theo mục đích này của
thị trường mà không cần quan tâm đến thời hạn của các chứng từ có giá, khái niệm trên
được hiểu theo nghĩa của thị trường mở thì thị trường tiền tệ là thị trường giao dịch, mua

bán ngắn hạn các giấy tờ có giá.
- Thị trường hối đoái là thị trường giao dịch, mua bán, trao đổi ngoại tệ và
các phương tiện thanh toán quốc tế. Thị trường ngoại hối là một cơ chế mà nhờ đó giá trị
tương đối của các đồng tiền quốc gia được xác lập. Đặc điểm của thị trường ngoại hối là
tiền được đổi lấy tiền, đây là thị trường thực sự và tất yếu mang tính quốc tế; cứ khi nào
mà dân chúng ở những khu vực đồng tiền khác nhau còn kinh doanh với nhau thì các
9

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


giao dịch ngoại hối còn rất cần thiết. Ngày nay, thị trường hối đoái mang tính toàn cầu
nhờ sự phát triển của công nghệ thông tin. Trong hoạt động kinh tế đối ngoại, các doanh
nghiệp trong nước đều phải tham gia các thị trường hối đoái để mua - bán, vay - cho vay
ngoại tệ. Các nghiệp vụ trên thị trường hối đoái phần lớn mang tính chất ngắn hạn (không
quá một năm) nên thị trường này được xem là một bộ phận của thị trường tiền tệ. Khi đó,
thị trường tài chính chỉ bao gồm thị trường tiền tệ và thị trường vốn.
- Thị trường chứng khoán là thị trường giao dịch, mua bán các chứng từ có
giá trung hạn và dài hạn. Thị trường chứng khoán là một bộ phận quan trọng nhất của thị
trường vốn dài hạn, thực hiện cơ chế chuyển vốn trực tiếp từ nhà đầu tư sang nhà phát
hành; qua đó, thực hiện chức năng của thị trường tài chính là cung ứng nguồn vốn trung
và dài hạn cho nền kinh tế. Sản phẩm tài chính trên thị trường chứng khoán là các loại
trái phiếu, cổ phiếu và các công cụ tài chính khác như: chứng chỉ quỹ đầu tư, công cụ
phát sinh - hợp đồng tương lai, quyền chọn, quyền mua cổ phiếu, chứng quyền. Thị
trường chứng khoán tập trung vốn cho đầu tư và phát triển kinh tế. Do đó, nó có tác động
rất lớn đến môi trường đầu tư nói riêng và nền kinh tế nói chung.
Căn cứ vào cơ cấu của thị trường, thị trường tài chính được phân thành thị trường
sơ cấp và thị trường thứ cấp.
- Thị trường sơ cấp là thị trường phát hành lần đầu các chứng từ có giá để
huy động và tập trung vốn. Trên thị trường này, vốn từ nhà đầu tư sẽ được chuyển sang

nhà phát hành thông qua việc nhà đầu tư mua các chứng khoán mới phát hành. Thị
trường sơ cấp có đặc điểm là nơi duy nhất mà các chứng khoán đem lại vốn cho người
phát hành, tạo ra hàng hóa cho thị trường giao dịch và làm tăng vốn đầu tư cho toàn bộ
nền kinh tế. Những người bán chứng khoán trên thị trường sơ cấp thường là Kho bạc,
Ngân hàng Nhà nước, Công ty phát hành, Tập đoàn bảo lãnh phát hành, …Thị trường sơ
cấp thường diễn ra trong một thời gian nhất định.
- Thị trường thứ cấp là thị trường mua bán trao đổi các chứng từ có giá đã
phát hành lần đầu. Trên thị trường này, các nhà đầu tư chuyển nhượng quyền mua bán
chứng khoán và điều đó làm cho chứng khoán đã phát hành có tính thanh khoản. Khoản
tiền thu được từ việc bán chứng khoán thuộc về các nhà đầu tư và các nhà kinh doanh
chứng khoán chứ không thuộc về nhà phát hành nên luồng tiền chỉ vận chuyển giữa
những nhà đầu tư chứng khoán trên thị trường. Thị trường thứ cấp là một bộ phận quan
trọng của thị trường chứng khoán, gắn bó chặt chẽ với thị trường sơ cấp. Giao dịch trên
thị trường thứ cấp phản ánh nguyên tắc cạnh tranh tự do, giá giao dịch chứng khoán do
cung - cầu trên thị trường quyết định.
Thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Thị
trường sơ cấp là cơ sở và là tiền đề cho sự hình thành và phát triển của thị trường thứ cấp;
vì đó là nơi cung cấp hàng hóa chứng khoán lưu thông trên thị trường thứ cấp. Ngược lại,
thị trường thứ cấp là động lực, là điều kiện cho sự phát triển của thị trường sơ cấp; vì nếu
không có thị trường thứ cấp để lưu hành, mua bán, trao đổi tạo ra tính thanh khoản cho
chứng khoán thì rất khó để phát hành và thu hút nhà đầu tư trên thị trường sơ cấp. Việc
phân biệt thị trường sơ cấp và thứ cấp chỉ có ý nghĩa về mặt lý thuyết. Trên thực tế, tổ
chức thị trường không phân biệt đâu là thị trường sơ cấp, đâu là thị trường thứ cấp. Vì tại
một thị trường có thể cùng diễn ra đồng thời hoạt động mua bán chứng khoán mới phát
hành và chứng khoán mua bán lại. Điều cần quan tâm là phải coi trọng thị trường sơ cấp
vì đây là thị trường tạo vốn và có cơ chế giám sát chặt chẽ thị trường thứ cấp để bảo vệ
thị trường tài chính ổn định.

10


LUAN VAN CHAT LUONG download : add


Căn cứ vào tính chất luân chuyển vốn, thị trường tài chính được phân thành thị
trường công cụ nợ và thị trường công cụ vốn.
- Thị trường công cụ nợ là thị trường phát hành, mua bán các chứng khoán
nợ. Thực chất các công cụ nợ (trái phiếu, tín phiếu, kỳ phiếu, …) là các thỏa thuận có
tính hợp đồng. Trong đó, người vay vốn thanh toán cho người giữ công cụ một khoản
tiền cố định trong những khoản thời gian nhất định (thanh toán lãi) cho tới kỳ hạn cuối
cùng thì thanh toán giá trị gốc. Trên cơ sở kỳ hạn thanh toán, công cụ nợ được chia làm
ba loại khác nhau:
- Công cụ nợ ngắn hạn.
- Công cụ nợ trung hạn.
- Công cụ nợ dài hạn.
Quan hệ vay mượn dựa trên công cụ nợ thường ấn định trước thời hạn và lãi suất cố định.
Người sở hữu công cụ nợ không có quyền biểu quyết trong quản trị điều hành của bên
vay.
- Thị trường công cụ vốn là thị trường phát hành, mua bán các chứng
khoán vốn. Vốn được huy động trên thị trường bằng việc bán cổ phần, chứng chỉ quỹ đầu
tư, …Người nắm giữ cổ phiếu gọi là cổ đông, họ góp vốn vào các doanh nghiệp cổ phần
trên cơ sở gắn liền với hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và được chia cổ
tức dựa trên kết quả kinh doanh theo số lượng cổ phần mà họ nắm giữ. Chính vì vậy mà
giá trị cổ tức không ổn định như người giữ công cụ nợ nhưng cổ tức có thể cao hoặc thấp
hơn lãi trái phiếu, vì nó tùy thuộc vào kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. Nhưng họ có
quyền biểu quyết trong quản trị điều hành doanh nghiệp vì họ là chủ sở hữu. Người giữ
chứng khoán vốn có nhiều rủi ro hơn người giữ chứng khoán nợ trong trường hợp doanh
nghiệp bị phá sản. Người giữ chứng khoán nợ được ưu tiên thanh toán nợ trước.
Ngoài ra, trong cách phân loại này, còn có thị trường công cụ phái sinh. Đây là thị trường
phát hành và mua bán các chứng khoán phát sinh, như: chứng quyền, quyền chọn, hợp
đồng tương lai, …

Ngày nay, một thị trường tài chính không nhất thiết phải có không gian vật lý. Vì
vậy, thị trường tài chính còn được phân theo thể thức sau:
- Thị trường thô sơ và thị trường vi tính hóa.
- Thị trường thường trực và thị trường huy động.
- Thị trường chứng khoán đã đăng ký và thị trường lưu lượng chứng khoán.
Mỗi cách phân loại thị trường tùy thuộc vào tiêu chí mà chúng ta muốn hướng
đến. Từ những cơ sở lý luận nêu trên, thị trường tài chính tại Việt Nam cũng đã được
hình thành và phát triển. Nhằm đánh giá thực trạng của thị trường tài chính Việt Nam,
tiểu luận này chỉ tập trung phân tích trên ba thị trường trong phân loại theo thời hạn luân
chuyển vốn. Đó là thị trường tiền tệ, thị trường hối đoái và thị trường chứng khoán. 

1.5.Vai trò của thị trường tài chính.
Vai trị đầu tiên : và cũng là quan trọng nhất của thị trường tài chính là
kênh dẫn vốn từ người tiết kiệm đến người kinh doanh, giúp cho việc chuyển vốn
từ người khơng có cơ hội đầu tư sinh lời đến những người có cơ hội đầu tư sinh
lời.
11

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


Để thực hiện được vai trò này, thị trường phải tạo ra các kênh huy động vốn từ nơi
thừa, như: cá nhân, hộ gia đình, các đơn vị kinh tế, tổ chức đoàn thể xã hội, Chính
phủ, … ở trong và ngoài nước để chuyển sang các nhà đầu tư thiếu vớn, như: các
đơn vị kinh tế, Chính phủ, cá nhân, hộ gia đình… bằng hình thức tài trợ trực tiếp
hoặc tài trợ gián tiếp:
Tài trợ trực tiếp:
Người cần vốn phát hành các loại CK lần đầu ( CK khởi thủy) để
huy động nguồn vốn nhàn rỗi của người có vốn nhằm đáp ứng nhu cầu hoạt động
của mình. Ở đây, quan hệ giữa người có vốn và người cần vốn khơng phải qua bất

kì trung gian nào, nguồn tài chính vận động thẳng từ người thừa vốn đến người
thiếu vốn trong khi CK vận động theo chiều ngược lại. Do đó mà vốn được lưu
chuyển nhanh chóng hơn nhiều so với thơng qua các tổ chức tài chính trung gian,
đáp ứng kịp thời nhu cầu vốn của các chủ thể.
Tài trợ gián tiếp:
Các trung gian tài chính phát hành CK thứ cấp để huy động các nguồn tài chính
tạm thời nhàn rỗi của những người có vốn, sau đó mới dùng số tiền này mua lại
CK khởi thủy của những người thiếu vốn. Ở đây, nguồn tài chính khơng vận động
thẳng từ người thừa vốn sang người thiếu vốn mà phải qua các trung gian nhất
định.
Vai trò thứ hai:Thị trường tài chính thúc đẩy nâng cao việc sử dụng vốn
có hiệu quả hơn, khơng chỉ đối với người có tiền đầu tư mà còn cả với người vay
tiền để đầu tư.
Người cho vay sẽ có lãi thơng qua lãi suất cho vay. Người đi vay vốn phải
tính tốn sử dụng vốn vay đó hiệu quả nhất do họ phải hoàn trả cả vốn lẫn lãi cho
người cho vay đồng thời phải tạo thu nhập và tích lũy cho chính bản thân mình,
bên cạnh đó người cho vay cũng phải cân nhắc, lựa chọn dự án hoạt động hiệu quả
cao, an tồn, ít rủi ro với khả năng sinh lãi cao nhất trước khi đầu tư vào đó. Chính
cái sân chơi với đích đén là đầu tư và tiết kiệm để sinh lời và tích lũy mà TTTC
tạo ra, đã kích thích các nhà đầu tư tích cực tính tốn trong kinh doanh vì mục tiêu
cuối cùng là lợi nhuận.
Với sự linh hoạt của thị trường tài chính, người có tiền nhàn rỗi có nhiều cơ
hội để lựa chọn hình thức và thời điểm đầu tư thích hợp hơn, như: dễ dàng bán các
CK đã mua để rút vốn và thực hiện đầu tư vào các CK khác, tức là, có thể lưu
chuyển vốn từ nơi kinh doanh kém hiệu quả sang nơi kinh doanh có hiệu quả, tạo
ra sự luân chuyển vốn một cách linh hoạt trong nền kinh tế.
Vai trị thứ ba:
Thị trường tài chính được hình thành tùy thuộc vào điều kiện chính trị - kinh tế xã hội của mỗi nước nên có những đặc thù riêng ở thị trường của mỗi nước. Tuy

12


LUAN VAN CHAT LUONG download : add


nhiên, ngày nay với tốc độ tự do hóa tồn cầu, khơng một thị trường nào có thể
phát triển riêng lẻ mà phải có mối liên hệ lẫn nhau. Điều đó được thể hiện bằng
việc mức độ tự do hóa thị trường tài chính trong nước và mức độ hội nhập vào nền
kinh tế thế giới. Vì thế mà hiện nay ở hầu hết các nước trên thế giới đều tiến hành
cải cách tài chính tiền tệ theo xu hướng tự do hóa tài chính. Việc hình thành và
phát triển thị trường tài chính của mỗi quốc gia sẽ tạo điều kiện thuận lợi hơn cho
quá trình hội nhập của mỗi quốc gia, mở ra khả năng to lớn cho sự hợp tác và phát
triển. TTTC sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư mua, bán CK mà không
cần phải qua các thủ tục phức tạp và khơng cần số vốn lớn như các hình thức đầu
tư trực tiếp. Như vậy TTTC bổ sung thêm hình thức đầu tư của nước ngoài vào
trong nước, tận dụng được nguồn vốn của nước ngoài, cung cấp cho sự phát triển
kinh tế xã hội trong nước.
Vai trị thứ tư.
TTTC đóng vai trị quan trọng trong việc thực hiện chính sách tài chính –
tiền tệ của Nhà nước trong việc điều hoà các hoạt động kinh tế- xã hội.
Bằng việc sử dụng các công cụ của TTTC cùng với cơ chế hoạt động của thị
trường, Nhà nước có thể thực thi có hiệu quả các chính sách tài chính và tiền tệ
như:
Thơng qua thực hiện chính sách thị trường mở bằng việc mua, bán chứng
khốn của Chính phủ, thay đổi tỉ lệ dự trữ bắt buộc, lãi suất tái chiết khấu của các
NHTM, Nhà nước có thể thực hiện việc điều hành lưu thông tiền tệ.
TTTC là nơi Nhà Nước tiến hành vay nợ dân chúng một cách dễ dàng nhất. Điều
này sẽ giúp Nhà nước giải quyết bội chi NSNN, mà khơng phải phát hành tiền, từ
đó ngăn chặn lạm phát, kiềm chế lạm phát giúp thực hiện cả chính sách tài chính
và tiền tệ.


13

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


14

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VỀ THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH Ở
VIỆT NAM
2.1.Thị trường tiền tệ:
2.1.1. Thị trường vốn ngắn hạn:(Về thị trường vốn ngắn hạn hay còn gọi
là thị trường tiền tệ)
Nhìn chung, thị trường này chưa thực sự phát triển và Ngân hàng Nhà nước
(NHTW) chưa thực sự đóng vai trị can thiệp có hiệu quả vào thị trường này. Các loại lãi
suất của NHTW: lãi suất cơ bản, lãi suất tái cấp vốn, lãi suất chiết khấu, lãi suất nghiệp
vụ thị trường mở, lãi suất đấu thầu tín phiếu kho bạc nhà nước có tác động rõ nét đến thị
trường. Các cơng cụ điều hành chính sách tiền tệ, đặc biệt là công cụ dự trữ bắt buộc...
thiếu linh hoạt. Các Ngân hàng thương mại (NHTM) và Tổ chức tín dụng cạnh tranh với
nhau tăng lãi suất huy động vốn một cách một chiều, tạo nguy cơ tiềm ẩn rủi ro cho chính
các NHTM.
2.1.2. Thị trường liên ngân hàng:
Hoạt động Ngân hàng hiện đang nóng với những diễn biến trái chiều và ba vấn đề
nổi cộm: các Ngân hàng thương mại khan hiếm tiền đồng Việt Nam, cung ngoại tệ trong
nền kinh tế tăng cao và sức ép dư luận về chống lạm phát từ việc cung ứng tiền ra lưu
thơng.
Ba vấn đề trên có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Để đáp ứng nhu cầu về tiền
đồng Việt Nam, cũng như cung ngoại tệ quá lớn và tăng mạnh, thì Ngân hàng Nhà nước

Việt Nam (NHNN) phải đẩy mạnh mua ngoại tệ vào cung ứng đồng Việt Nam ra lưu
thông. Song cung ứng đồng Việt Nam ra lưu thơng thì lại gặp phải sức ép của dư luận về
chống lạm phát đang tăng cao từ góc độ tiền tệ.
Càng về cuối năm khối lượng ngoại tệ chuyển vào Việt Nam càng tăng mạnh, lớn
nhất đó là kiều hối. Cũng về thời điểm cuối năm, các NHTM cổ phần và doanh nghiệp cổ
phần gấp rút phát hành cổ phiếu mới để hoàn thành kế hoạch năm 2007 về tăng vốn điều
vốn lệ theo nghị quyết đại hội cổ đơng biểu quyết nhất trí từ đầu năm. Cổ đơng là người
Việt Nam ở nước ngồi, cổ đơng nước ngồi phải chuyển tiền về Việt Nam để góp vốn.
Một bộ phận khác người Việt Nam ở nước ngoài chuyển tiền về cho người thân vay
mượn hoặc đầu tư hộ vào các loại trái phiếu khác nhau.
Bên cạnh đó là tiền từ nước ngoài chuyển về đầu tư vào thị trường trường bất
động sản. Một nguồn vốn ngoại tệ quan trọng khác đó là vốn đầu tư gián tiếp vào thị
trường chứng khốn (TTCK) Việt Nam thường sơi động vào cuối năm. Số vốn này bao
gồm cả việc mua chứng khoán trên Sở GDCK TP.HCM, Trung tâm GDCK Hà Nội, cả số
vốn mua cổ phần trở thành cổ đông lớn, cổ đông chiến lược của các doanh nghiệp Việt
Nam.
Tất cả số ngoại tệ đó phải chuyển sang nội tệ, tức là đồng Việt Nam. Song NHNN
Việt Nam với tư cách người mua bán cuối cùng can thiệp trên thị trường ngoại tệ liên
ngân hàng thì hạn chế mua vào.
Những nguồn vốn ngoại tệ lớn tiếp theo đó là vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài,
vốn ODA và nguồn thu từ khách quốc tế chi tiêu tại Việt Nam.
Về kim ngạch xuất nhập khẩu, đến hết tháng 11/2007, Việt Nam đạt kim ngạch nhập

15

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


khẩu 54,11 tỷ USD, tăng 31,1% so với cùng kỳ năm ngoái, kim ngạch xuất khẩu tăng 20,
nhập siêu 9,0 tỷ USD và dự báo cả năm 2007 cũng dừng ở mức 9,0 tỷ USD. Do nhập siêu

nên thu hút một lượng vốn ngoại tệ rất lớn. Tuy nhiên, cung ngoại tệ vẫn dồi dào thể hiện
tập trung ở thặng dư cán cân vãng lai, đến nay chưa có con số thống kê được cơng bố
chính thức.
Nguồn thơng tin từ Văn phịng Chính phủ cho hay, chỉ riêng 6 tháng đầu năm
2007, NHNN đã mua vào 9 tỷ USD để tăng quỹ dự trữ, tương ứng cung ứng ra lưu thông
144.000 tỷ đồng. Theo TS. Lê Xuân Nghĩa, phát biểu tại cuộc hội thảo hai Luật Ngân
hàng, tổ chức sáng ngày 29/11/2007 tại TP.HCM thì con số này của cả năm 2007 không
thấp hơn 12 tỷ USD. Như vậy số tiền đồng Việt Nam cung ứng ra lưu thông qua kênh
mua ngoại tệ lên tới gần 200.000 tỷ đồng. Với việc mua vào một khối lượng lớn USD đã
làm cho quỹ dự trữ ngoại tệ của quốc gia hiện nay lên tới 20 tỷ USD.
Song mua khối lượng lớn như vậy nhưng lượng cung USD hiện nay trên thị trường vẫn
đang rất lớn, nếu không mua vào, tỷ giá VND/USD giảm mạnh và các NHTM trở nên
tình trạng thừa vốn USD, nhưng khan hiếm đồng Việt Nam.
Cũng do tình trạng thiếu hụt đồng Việt Nam, nên có thời điểm lãi suất cho vay qua đêm
trên thị trường nội tệ liên ngân hàng đã lên tới 12%/năm, thậm chí có thời điểm lên tới
18%/năm, cao hơn lãi suất cho khách hàng vay vốn. NHNN thông qua nghiệp vụ thị
trường mở mua vào giấy tờ có giá ngắn hạn cung ứng hơn 10.000 tỷ đồng cho các
NHTM, nhưng khơng thấm gì so với nhu cầu khan hiếm tiền đồng Việt Nam hiện nay
của thị trường tiền tệ. Cũng chính do tình trạng đó, nên hiện nay các NHTM đang đẩy
mạnh huy động vốn trong nền kinh tế bằng nhiều biện pháp khác nhau, như tăng chi phí
khuyến mãi, tăng lãi suất, từ đó tạo áp lực tăng lãi suất cho vay và từ đó góp phần tạo
thêm áp lực gia tăng lạm phát.
Bởi vậy, trong điều hành chính sách tiền tệ cần có chiến lược dài hạn, chủ động
hơn, đảm bảo khoa học và sát thông lệ quốc tế. Cần tham khảo và học hỏi kinh nghiệm
của các nước trong khu vực, như: Trung Quốc, Philippines,… có điều kiện giống Việt
Nam nhưng họ không lúng túng như nước ta.

2.2. Thị trường hối đoái:
Tỷ giá hối đoái sụt giảm gần đây chủ yếu do áp lực giảm cung ứng tiền VND
trong lưu thông để kiềm chế lạm phát. Chính vì vậy, nhiều định chế tài chính lớn đều đưa

ra nhận định, khả năng tỷ giá VND/USD sẽ theo chiều hướng đi xuống trong thời gian từ
nay đến hết năm 2007.
Tuy nhiên ông Lê Xuân Nghĩa, Vụ trưởng Vụ Chiến lược phát triển ngân hàng,
Ngân hàng Nhà nước (NHNN) cho rằng, tỷ giá hối đối sẽ khơng mất hơn 0,5% trong
những tháng cịn lại của năm (từ đầu năm đến nay tỷ giá giảm 0,5%). NHNN sẽ có động
thái can thiệp khi đồng USD giảm dưới mức 16.000 VND/USD.
Thị trường đang xuất hiện tình trạng khan hiếm tiền đồng, tỷ giá sụt giảm. Vậy tại
sao NHNN vẫn chưa có động thái tích cực trong việc hút USD về?
Đây là một bài toán đã được NHNN tính tốn, vì nếu tiếp tục tung VND hút USD về thì
lượng tiền trong lưu thơng sẽ gia tăng, kéo theo lạm phát. Điều này cho thấy, nếu NHNN
không thực hiện chủ trương trên, tốc độ lạm phát còn cao hơn.
Nhiều khả năng, tốc độ lạm phát của Việt Nam trong năm nay sẽ cao hơn mức

16

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


tăng trưởng của nền kinh tế, khó đạt được mục tiêu mà Chính phủ và Quốc hội đã đề ra.
Như vậy, để kiềm chế lạm phát buộc NHNN phải hạn chế việc đưa tiền ra. Theo
đó, ngồi các chính sách khác, NHNN đành giảm hoặc ngưng mua USD.
Trên thị trường, lãi suất huy động VND đang chuyển động tăng do khan hiếm VND, kéo
theo lãi suất đầu ra tăng. Hậu quả là giá cả tăng, doanh nghiệp phải điều chỉnh giá bán
đảm bảo lợi nhuận, lúc này lạm phát sẽ còn cao hơn?
Việc khan hiếm tiền đồng chỉ là nhất thời. Trên thực tế, hiện còn nhiều ngân hàng
đang dư vốn khả dụng và chưa giải ngân kịp. Điều này được chứng minh, gần đây nhiều
nhà băng phải chạy đua giải ngân để đảm bảo chỉ tiêu cuối năm, trong đó đáng chú ý là
cho vay mua bất động sản; gia tăng hạn mức, thời gian, đồng thời giảm lãi suất đầu ra để
thu hút khách hàng.
Tốc độ tăng trưởng tín dụng của Việt Nam năm nay dự báo sẽ lên đến 30 - 40%.

Như vậy, nếu tăng thêm cung tiền, khả năng tín dụng tăng trưởng nóng cịn cao hơn sẽ
ảnh hưởng đến nền kinh tế.
Lãi suất qua đêm có những thời điểm lên đến 16 - 17%/năm và hiện vẫn duy trì
trên mức 10%/năm, cao gần gấp 3 lần so với trước, thưa ông?
Về căn bản, mức tăng trưởng tín dụng đang gia tăng nóng, tính thanh khoản trên
thị trường liên ngân hàng chỉ biến động trong một thời gian ngắn. Có thể gần đây, nhu
cầu thanh tốn hàng hóa của khách hàng tăng mạnh nên họ cần đến vốn ngân hàng.
Từ đó, các ngân hàng đổ xơ vay trên thị trường liên ngân hàng khiến lãi suất qua
đêm biến động. Nhưng sau Tết Dương lịch, tính thanh khoản của thị trường liên ngân
hàng sẽ ổn định trở lại.
Tuy nhiên, một thực tế cho thấy, việc dự báo và quản trị rủi ro thanh khoản của
một số ngân hàng còn yếu kém. Nếu các ngân hàng xây dựng được bảng cân đối tài sản
đến từng ngày, chắc chắn sẽ không xảy ra hiện tượng khan hiếm tiền đồng như thời gian
gần đây.
Tỷ giá hối đoái sẽ biến động như thế nào trong thời gian tới và NHNN sẽ có động
thái điều chỉnh vào lúc nào?
Với tỷ giá hối đối, nếu đã biến động thì sẽ mạnh hơn cả lãi suất, có thể lên đến 5
- 10%. Nếu kinh doanh trên thị trường hối đối mà khơng có dự báo trước dẫn đến lỗ là
chuyện bình thường. Người mua cuối cùng bao giờ cũng là NHNN.
Nếu thấy cần, NHNN sẽ mua vào và ngưng mua khi thấy không cần thiết. Tuy
nhiên, khi tỷ giá xuống mức 16.000 VND/USD sẽ có điều chỉnh ngay, vì nếu để tỷ giá
xuống thấp sẽ ảnh hưởng đến xuất khẩu và đầu tư trực tiếp nước ngồi.
Do đó, nhiều khả năng tỷ giá chỉ có thể sụt giảm xuống mức xấp xỉ 16.000
VND/USD. Hiện nay mức giảm của tỷ giá là 0,5%, nên mức tối đa chỉ xuống khoảng 1%
cho cả năm 2007.
Thực tế, NHNN có mua vào USD và lượng USD hút về từ đầu tháng 8 đến nay
đạt gần 6 tỷ USD. Nhưng do vốn đầu tư gián tiếp và trực tiếp vào Việt Nam tăng nhanh,
cung dội, trong khi cầu yếu đã góp phần làm tỷ giá suy giảm.

2.3. Thị trường chứng khoán:

2.3.1. Những thành tựu đạt được của thị trường chứng khoán Việt Nam
Về tổ chức và phát triển thị trường: Thị trường chứng khốn có tổ chức phá triển nhanh
về quy mơ, tổng mức vốn hóa trên thị trường ngày càng tăng. Doanh nghiệp và chính phủ

17

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


đã sử dụng thị trường chứng khoán như một kênh đẩy mạnh việc thu hút vốn đầu tư và
nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trong nền kinh tế.
Khung pháp lý, chính sách cho hoạt động và phát triển thị trường chứng khốn
từng bước được hồn thiện.
Tính cơng khai, minh bạch của các tổ chức niêm yết được tăng cường, hoạt động
sản xuất kinh doanh có bước phát triển khá về quy mô, doanh số và lợi nhuận. Thị trường
chứng khốn đã làm gia tăng uy tín của cơng ty niêm yết.
Thị trường chứng khốn góp phần tạo sự thành cơng của chương trình cổ phần
hóa doanh nghiệp nhà nước kết nối với niêm yết và đăng ký giao dịch.
Thị trường chứng khốn tạo điều kiện nâng cao trình độ quản lý, đều hành hoạt
động nghiệp vụ chuyên môn trong lĩnh vực chứng khốn.
Góp phần đa dạng hóa va phát triển các định chế tài chính trung gian.
Thị trường chứng khoán giúp đẩy mạnh việc phổ biến kiến thức về chứng khốn
và thị trường chứng khốn trong cơng chúng.
Thị trường chứng khốn từng bước thúc đẩy tiến trình hội nhập quốc tế.
2.3.2. Những hạn chế của thị trường chứng khoán Việt Nam.
Thị trường chứng khoán chưa thật sự khẳng định được vai trò của một kênh huy
động vốn chủ lực trong nền kinh tế hiện nay.
Môi trường pháp lý chưa có tác dụng thúc đẩy mạnh mẽ thị trường chứng khoán
Việt Nam phát triển, thể chế cho hoạt động thị trường cịn chưa hồn chỉnh.
Sự phối hợp giữa tài chính, chứng khốn, ngân hàng trong chính sách điều hành quản lý

thị trường cịn nhiều hạn chế.
Quy mơ thị trường chứng khốn cịn nhỏ, hàng hóa giao dịch với số lượng chưa nhiều,
chất lượng chưa cao. Chỉ số VN-Index chưa thực sự trở thành phong vũ biểu của nền
kinh tế.
Quan hệ cung cầu hàng hóa trên thị trường chứng khốn cịn mất cân đối gây nên
những biến động cho thị trường. Thị trường chứng khoán hoạt động chưa thực sự ổn
định, vững chắc, kể cả hoạt động giao dịch mà nguyên nhân chính vẫn phụ thuộc vào tâm
lý đầu tư ngắn hạn.
Tổ chức hoạt động của thị trường chứng khốn cịn nhiều hạn chế, hoạt động của
thị trường tự do còn rộng.
Hệ thống các tổ chức trung gian và hổ trợ thị trường cịn hạn chế về năng lực tài
chính, quản trị công ty và chất lượng dịch vụ.
Hệ thống cơ sở hạ tầng, đặc biệt về hệ thống công nghệ thơng tin của các thị
trường giao dịch chứng khốn, cơng ty chứng khốn cịn bất cập trước sự phát triển q
nhanh của thị trường địi hỏi cần phải có đầu tư, nâng cấp theo hướng hiện đại.
Khả năng giám sát, cưỡng chế thực thi còn hạn chế một phần do công nghệ tin
học, một phần do cơ sở pháp lý và lực lượng cán bộ cịn yếu.
Thị trường chứng khốn còn thiếu khả năng tiếp cận với thị trường chứng khốn
thế giới trong xu thế hội nhập.
Chưa có kinh nghiệm trong quản lý chính sách.
Từ thực trạng của thị trường tài chính Việt Nam, để củng cố và phát triển, chúng
ta phải thực sự nâng cao vai trò của thị trường tài chính trong bối cảnh Việt Nam hiện

18

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


nay.


19

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


CHƯƠNG 3. VAI TRỊ CỦA THỊ TRƯỜNG TÀI
CHÍNH ĐỐI VỚI NỀN KINH TẾ VIỆT NAM HIỆN NAY
Với tốc độ hội nhập và tồn cầu hố ngày càng cao hiện nay, một đất nước
muốn tồn tại và phát triển khơng cịn sự lựa chọn nào khác là hội nhập, nếu không
sẽ lạc hậu rồi suy tàn. Việt Nam cũng không nằm ngoài quy luật tác động của nền
kinh tế thị trường, cho nên, từ khi bắt đầu đổi mới đất nước đến nay (ĐH VI năm
1986), chúng ta đã tích cực thực hiện chính sách mở cửa, tham gia các tổ chức
thương mại, Ngân hàng trong khu vực và thế giới: WTO, ASEAN, WB, IMF,
ADB…
Dưới ảnh hưởng của TTTC trong nền kinh tế thị trường, nhịp độ kinh tế
nước ta đã có những bước chuyển mạnh mẽ, đặc biệt là trong đầu tư và tài chính.
Tất cả nhờ vao vai trị to lớn của TTTC.
Hiện nay, Việt Nam đang có tốc độ tăng trưởng kinh tế liên tục và luôn giữ
ở mức cao trong vòng 5 năm qua và trong chiến lược phát triển đến năm 2020,
Việt Nam phấn đấu trở thành nước công nghiệp về cơ bản. Cho nên, để đáp ứng
nhu cầu về vốn cho phát triển kinh tế xã hội từ nay đến năm 2020, nền kinh tế Việt
Nam luôn đòi hỏi nguồn vốn huy động rất lớn. Chính vì thế, thị trường tài chính
Việt Nam hình thành và phát triển có vai trò rất to lớn là nơi tập trung mọi nguồn
lực về tài chính cho sự nghiệp phát triển của đất nước.
Thị trường tài chính đóng vai trò là kênh dẫn vốn từ người tiết kiệm đến
người kinh doanh, giúp cho việc chuyển vốn từ người khơng có cơ hội đầu tư sinh
lợi đến những người có cơ hội đầu tư sinh lợi.
Khi lãi suất tiết kiệm chưa thật sự hấp dẫn những người có tiền nhàn rỗi
mong muốn có nơi đầu tư sinh lợi cao hơn, mạo hiểm hơn thì thị trường chứng
khoán là một kênh huy động vốn trực tiếp cho nền kinh tế. Dựa vào tính thanh

khoản cao của tài sản tài chính trên thị trường này cũng như tính linh hoạt trong
lựa chọn danh mục đầu tư sao cho mức sinh lời tối ưu, thị trường chứng khoán ra
đời ở Việt Nam đã thật sự là nơi thu hút vốn rất lớn vì tính hấp dẫn ở suất sinh lời
cao hơn lãi suất tiết kiệm hay sự kỳ vọng vào giá trị cổ phiếu trong tương lai.
Hiện nay, nguồn vốn đầu tư đóng góp khoảng 50% - 55% tăng trưởng kinh
tế hằng năm. Bởi vậy, huy động vốn cho đầu tư phát triển kinh tế - xã hội là một
khâu cốt yếu của toàn bộ hệ thống các ngân hàng nước ta.
Trong điều kiện vốn ngân sách nhà nước có hạn, vốn tự có của doanh nghiệp và
người sản xuất cịn ít ỏi, thì vốn đầu tư cho sản xuất kinh doanh chủ yếu dựa vào
vốn tín dụng ngân hàng.
Để có vốn cho vay, các ngân hàng thương mại (NHTM) đã huy động vốn
trong xã hội, vốn trong dân, vốn nước ngoài. Hệ thống ngân hàng huy động vốn
cho đầu tư phát triển bằng đa dạng các phương thức, như: giải tỏa vốn đọng trong
số nợ xấu, phát hành cổ phiếu và trái phiếu tăng vốn điều lệ, thu hút tiền gửi tiết
kiệm và phát triển dịch vụ ngân hàng.
20

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


Tổng nguồn vốn huy động của các NHTM và tổ chức tín dụng tồn quốc
trong 5 năm qua đạt tốc độ tăng khoảng 20% - 25%/năm, gấp hơn 3 lần tốc độ
tăng trưởng kinh tế.
Cụ thể: vốn huy động của hệ thống Ngân hàng
Năm 2004 tăng 26,5% so với năm trước
năm 2005 tăng 25,53%
Năm 2006 tăng 17,7%
Năm 2007 tăng 24,94%
Năm 2008 tăng 30,39%
Năm 2009 tăng 18%

Và 6 tháng đầu năm 2010 tăng hơn 12%.
Có thể khẳng định, hệ thống ngân hàng đóng vai trị chủ lực đáp ứng nhu cầu vốn
cho nền kinh tế. Đáng chú ý là các NHTM nhà nước chiếm trên 70% thị phần huy
động vốn; thị phần của các NHTM cổ phần tuy còn khiêm tốn, nhưng đang có xu
hướng tăng nhanh.
Bên cạnh các kênh huy động vốn nói trên hệ thống ngân hàng cịn là đầu
mối đàm phán và ký kết, tổ chức tiếp nhận vốn và cho vay nhiều dự án của WB,
ADB,... về điện lực, giao thông nông thôn, cải thiện môi trường, xóa đói giảm
nghèo.
Huy động vốn của ngân sách chủ yếu bằng hình thức phát hành tín phiếu Kho bạc
nhà nước qua đấu thầu tại Ngân hàng Nhà nước, với sự tham gia của các ngân
hàng, tổ chức bảo hiểm, quỹ đầu tư...; phát hành trái phiếu Chính phủ trong và
ngồi nước, phát hành công trái và vốn của Công ty dịch vụ tiết kiệm Bưu điện,
vốn của Bảo hiểm xã hội chuyển cho Quỹ hỗ trợ phát triển (nay là Ngân hàng Phát
triển). Thêm vào đó cịn có nguồn vốn ODA do Ngân hàng Phát triển cho vay lại.
Trong giai đoạn 2004 - 2009, Chính phủ đã phát hành khoảng gần 60.000 tỉ đồng
trái phiếu; trong đó 50.000 tỉ đồng phát hành qua Kho bạc Nhà nước, 8.000 tỉ đồng
phát hành qua đấu giá trên Trung tâm Giao dịch chứng khốn Hà Nội và Thành
phố Hồ Chí Minh...
Cuối năm 2010, Chính phủ cũng lần đầu tiên phát hành 750 triệu USD trái
phiếu ra thị trường quốc tế, thời hạn trái phiếu là 10 năm. Giá bán cuối cùng của
trái phiếu cho các nhà đầu tư nước ngoài bằng 98,223% mệnh giá, với lãi suất là
6,875%/năm, tính ra theo lãi suất của nó, lãi suất của 100% mệnh giá trái phiếu là
7,125%/năm. So với một số nước có mức độ tín nhiệm tương đương Việt Nam thì
lãi suất trái phiếu của Việt Nam thấp hơn. Cụ thể, lãi suất trái phiếu cùng kỳ hạn
của Phi-lip-pin là 8,075%/năm, của In-đô-nê-xi-a là 7,75%/năm. Tồn bộ số vốn
phát hành trái phiếu Chính phủ nói trên được Bộ Tài chính để Tổng cơng ty Cơng
nghiệp tàu thủy Việt Nam vay lại đầu tư cho các dự án đóng tàu.
Đến ngày 31-12-2005, nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước đã tham
gia với tư cách "vốn mồi" để thực hiện trên 6.600 dự án thuộc đối tượng hỗ trợ

theo quy định của Chính phủ với tổng số vốn theo hợp đồng tín dụng đã ký
21

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


khoảng 160.000 tỉ đồng, đã giải ngân gần 110.000 tỉ đồng, dư nợ 79.578 tỉ đồng.
Cùng với hình thức hỗ trợ trực tiếp, hình thức bảo lãnh tín dụng và hỗ trợ lãi suất
sau đầu tư cũng được đẩy mạnh. Đến nay đã có 1.846 dự án được hỗ trợ lãi suất
sau đầu tư với tổng số vốn hỗ trợ theo hợp đồng là 1.550 tỉ đồng và 5 dự án được
bảo lãnh tín dụng đầu tư với tổng số vốn gần 30 tỉ đồng; với hai hình thức hỗ trợ
gián tiếp này đã tạo vốn để huy động hàng chục ngàn tỉ đồng từ các nhà đầu tư, tổ
chức tín dụng cho đầu tư phát triển.
Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh đã huy động gần 7.000 tỉ đồng trái phiếu địa
phương; riêng Hà Nội cũng huy động được hàng trăm tỉ đồng qua phát hành trái
phiếu xây dựng cầu Thanh Trì. Đây là một giải pháp rất quan trọng để huy động
vốn cho đầu tư phát triển, giảm sức ép về cung ứng vốn từ hệ thống ngân hàng,
phù hợp với thông lệ quốc tế.
Để giảm sự phụ thuộc vào vốn vay ngân hàng và được phép của Chính phủ, một
số loại trái phiếu doanh nghiệp cũng được phát hành để huy động vốn trong xã
hội, như: trái phiếu của Tổng công ty Điện lực Việt Nam, trái phiếu của Tổng cơng
ty Dầu khí... Tính đến nay, số vốn trái phiếu doanh nghiệp phát hành cũng lên tới
vài nghìn tỉ đồng.
Một kênh huy động vốn quan trọng khác là cổ phần hóa doanh nghiệp nhà
nước theo hình thức bán đấu giá và bán cổ phần của Nhà nước trong các doanh
nghiệp cổ phần hóa mà cổ phiếu có tính thanh khoản cao, lợi nhuận hấp dẫn, như:
Vinamilk, Công ty Cao su miền Nam, một số nhà máy điện... đã thu được hàng
nghìn tỉ đồng cho ngân sách nhà nước. Đó là chưa kể hàng chục ngàn tỉ đồng đã
được huy động trong doanh nghiệp tư nhân.
Đối với vai trò nâng cao hiệu quả hoạt động của nền kinh tế thì, các cơng cụ và

chính sách trên thị trường tài chính ngày càng phát triển sẽ giúp khai thông các
nguồn vốn và khai thác triệt để các nguồn lực tài chính. Các nguồn lực tài chính
bao gồm nguồn lực trong nước và nguồn lực từ nước ngoài.
Đối với nguồn lực tài chính trong nước, sự phát triển đa dạng các dịch vụ
về tài
chính làm cho những khoản tiết kiệm, tiền nhàn rỗi được đưa vào lưu thông sinh
lợi mà khơng cịn là tình trạng đưa vào cất trữ ở nhà như cách mà người ta gọi là
“tiết kiệm ngây thơ” của trước đây. Khi đó, nội lực tài chính trong nước được huy
động triệt để.
Đối với nguồn lực tài chính bên ngồi, các chính sách khơi thơng luồng tiền
vào và ra bằng cơ chế giám sát hơn góp phần thu hút nguồn lực tài chính lớn của
các tập đồn nước ngồi.
Khi TTTC phát triển, mọi thơng tin trên thị trường được công khai, minh
bạch. Nhà đầu tư muốn phát hành cổ phiếu huy động vốn trên thị trường phải thực
sự là đơn vị hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả cao. Sự cạnh tranh thu hút
vốn này buộc các doanh nghiệp phải nâng cao hiệu quả hoạt động, thường xuyên
đổi mới công nghệ để tăng hiệu quả kinh tế. Vì thế mà hiệu quả kinh tế của xã hội
22

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


cũng được nâng lên. Mặt khác, khi doanh nghiệp tạo được sự kỳ vọng vào một giá
trị thị trường tương lai tăng cao sẽ kích thích cho mọi người tăng tiết kiệm để đầu
tư vào các doanh nghiệp có hiệu quả cao. Vì vậy, TTTC có vai trị kích thích việc
sử dụng vốn tiết kiệm và có hiệu quả.
Như đã trình bày ở trên, với tốc độ tự do hóa tồn cầu hiện nay, khơng một
thị trường nào có thể phát triển riêng lẻ mà phải có mối liên hệ lẫn nhau. Điều đó
được thể hiện bằng việc mức độ tự do hóa thị trường tài chính trong nước và mức
độ hội nhập vào nền kinh tế thế giới. Việt Nam hiện nay đang tiến hành cải cách

tài chính tiền tệ theo xu hướng tự do hóa tài chính, được thể hiện ở các mặt sau:
- Tự do hóa lãi suất: lãi suất hình thành trên thị trường phải do thị trường
quyết định, phụ thuộc vào cung cầu, đầu tư, mức tiết kiệm và thu nhập trong nền
kinh tế. Tự do hóa lãi suất thường gắn liền với nó là tự hóa tỷ giá hối đối, có tác
động mạnh đến toàn bộ nền kinh tế quốc dân, quyết định tốc độ và tính chất của
tăng trưởng kinh tế.
- Tự do hóa cơ chế quản lý tỷ giá linh hoạt: là thực hiện chế độ tỷ giá thả
nổi có quản lý. Việc áp dụng cơ chế này là phù hợp với thị trường tài chính hiện
tại của Việt Nam. Tuy nhiên, điều cần lưu ý là điều chỉnh tỷ giá linh hoạt tương
ứng với một rổ tiền tệ, gồm các đồng tiền tham gia vào thương mại với Việt Nam
hơn là neo chặt vào dollar Mỹ. Mấu chốt của chính sách tỷ giá thả nổi có quản lý
là xây dựng một hành lang tỷ giá cho phép tỷ giá dao động trong một giới hạn nhất
định xung quanh tỷ giá chính thức của Ngân hàng Nhà nước.
Ngồi ra, q trình tự do hóa tài chính ở Việt Nam phải được tiến hành từng bước
và gắn với tự do hóa các lĩnh vực khác như:
- Tự do hóa giao dịch vãng lai
- Tự do hóa giao dịch vốn
- Thực hiện chuyển đổi đờng bản tệ
Thị trường tài chính phát triển sẽ làm tăng khả năng chuyển đổi tiền tệ đối với các
giao dịch qua tài khoản vãng lai; mở rộng và không hạn chế các giao dịch tài chính
qua biên giới của cơng dân nước sở tại và nước ngồi; các luồng vốn nước ngoài
được tự do ra vào trên thị trường chứng khoán. Khi nền kinh tế của một nước là
lớn mạnh và đồng tiền có uy tín thì đồng tiền của quốc gia đó được xem là đồng
tiền chuyển đổi tự do khi mà bất cứ ai có đồng tiền đó đều có quyền tự do chuyển
đổi sang những ngoại tệ tự do mang đầy đủ chức năng thanh toán và dự trữ quốc tế
theo tỷ giá hối đoái thị trường ngay ở trong nước và cả khi ra khỏi biên giới quốc
gia.

23


LUAN VAN CHAT LUONG download : add


Thị trường tài chính phát triển giúp cho các chủ thể tham gia trên thị trường
có thể hịa nhập vào nhau cho dù họ ở bất kỳ đâu trên thế giới và khi đó tính hội
nhập quốc tế được thể hiện. Trước hết là trong lĩnh vực kinh tế - thương mại.
Những vùng, miền kinh tế khác nhau có thể đang xen hoạt động kinh tế - thương
mại của nhau thơng qua thị trường tài chính ở mỗi quốc gia khi mà thị trường tài
chính được tự do hóa. Các tổ chức, cơng dân của một nước có thể đầu tư, giao
dịch, mua bán hàng hoá và dịch vụ với các tổ chức, cá nhân của nước khác nếu
như nền tài chính của hai nước được liên kết với nhau. Các giao dịch của hai bên
đều được thể hiện trên thị trường. Vì thế mà kinh tế thế giới ngày càng mang tính
tồn cầu. Để đáp ứng cho việc hội nhập quốc tế trong lĩnh vực kinh tế - thương
mại, lĩnh vực tài chính – ngân hàng cũng phải có sự hội nhập quốc tế sâu rộng vào
thị trường thế giới. Thực hiện chức năng này, Ngân hàng phải thực sự có tiềm lực
tài chính và uy tín trên thế giới. Khi đó, thương hiệu của các Ngân hàng hay tổ
chức tài chính là yếu tố quan trọng khi giao dịch trên thị trường thế giới. Bên cạnh
đó, các chủ thể tham gia trên thị trường tài chính, ngồi thực hiện các hoạt động và
dịch vụ, yếu tố con người, văn hóa – xã hội vùng, miền mà họ là người ở đó, cũng
được thể hiện thơng qua q trình giao dịch, hoạt động trên thị trường. Từ đó mà
tính văn hóa, xã hội, ngoại giao giữa các nước, các khu vực được hội nhập, đan
xen vào nhau.
Ta đã biết, sự ra đời của TTTC là để giải quyết mâu thuẫn giữa cung cầu về
nguồn tài chính, và chính sự linh hoạt mà thị trường này tạo ra trong sự ln
chuyển vốn đẩy đã nhanh q trình tự do hố và hội nhập, tạo môi trường thuận
lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam.
Việt Nam đang có tốc độ tăng trưởng kinh tế liên tục và luôn giữ ở mức cao
trong vòng năm năm qua và trong chiến lược phát triển đến năm 2020, Việt Nam
phấn đấu trở thành nước công nghiệp về cơ bản. Cho nên, để đáp ứng nhu cầu về
vốn cho phát triển kinh tế xã hội từ nay đến năm 2020, nền kinh tế Việt Nam luôn

đòi hỏi nguồn vốn huy động rất lớn. Chính vì thế, thị trường tài chính Việt Nam
hình thành và phát triển có vai trò rất to lớn là nơi tập trung mọi nguồn lực về tài chính
cho sự nghiệp phát triển của đất nước.

3.1. Thị trường tài chính tạo lập nguồn vốn cho nền kinh tế
Với vai trò là tích tụ và tập trung tư bản cho nền kinh tế, hệ thống Ngân
hàng thương mại là một kênh huy động vốn giáp tiếp để tạo lập nguồn vốn. Hệ
thống Ngân hàng thương mại thực hiện chức năng huy động vốn của mọi thành
phần kinh tế trong xã hội thông qua các dịch vụ tiền gửi tiết kiệm, dịch vụ thanh
toán, …Lãi suất huy động trên thị trường có ảnh hưởng rất quan trọng đến lượng

24

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


vốn mà các Ngân hàng thương mại huy động được. Lãi suất này phải đảm bảo là
lãi suất thực dương, tức là phải cao hơn tỷ lệ mất giá của tiền tệ nhưng phải thấp
hơn lãi suất cho vay để đảm bảo hiệu quả kinh doanh cho hệ thống Ngân hàng. Từ
nguồn vốn huy động này, các Ngân hàng thương mại cung ứng một lượng vốn dồi
dào cho nền kinh tế thông qua hoạt động cấp tín dụng. Lãi suất trên thị trường tiền
tệ có ảnh hưởng lớn đến việc phát hành và mua bán chứng khoán trên thị trường
vốn.
Khi lãi suất tiết kiệm chưa thật sự hấp dẫn những người có tiền nhàn rỗi
mong muốn có nơi đầu tư sinh lợi cao hơn, mạo hiểm hơn thì thị trường chứng
khoán là một kênh huy động vốn trực tiếp cho nền kinh tế. Dựa vào tính thanh
khoản cao của tài sản tài chính trên thị trường này cũng như tính linh hoạt trong
lựa chọn danh mục đầu tư sao cho mức sinh lời tối ưu, thị trường chứng khoán ra
đời ở Việt Nam đã thật sự là nơi thu hút vốn rất lớn vì tính hấp dẫn ở suất sinh lời
cao hơn lãi suất tiết kiệm hay sự kỳ vọng vào giá trị cổ phiếu trong tương lai. Mặt

khác, nhà đầu tư cần vốn chỉ phải bỏ ra chi phí rất thấp nhưng có thể huy động
nguồn vốn lớn, tức thì, không bị bó hẹp như cơ chế cho vay. Tuy nhiên, điều này
còn phụ thuộc vào sự thuyết phục của nhà đầu tư từ những dự án kinh tế có sức
sinh lời cao. Điều quan trọng là cần phải khơi thông cơ chế hoạt động cho thị
trường chứng khoán phát triển.

3.2. Thị trường tài chính góp phần nâng cao hiệu quả hoạt
động của nền kinh tế
Các công cụ và chính sách trên thị trường tài chính ngày càng phát triển sẽ
giúp khai thông các nguồn vốn và khai thác triệt để các nguồn lực tài chính. Các
nguồn lực tài chính bao gồm nguồn lực trong nước và nguồn lực từ nước ngồi.
Đối với nguồn lực tài chính trong nước, cần phát triển đa dạng các dịch vụ về tài
chính để những khoản tiết kiệm, tiền nhàn rỗi được đưa vào lưu thông sinh lợi hơn
là đưa vào cất trữ. Khi đó, nội lực tài chính trong nước được huy động triệt để. Đối
với nguồn lực tài chính bên ngồi, cần có chính sách khơi thơng luồng tiền vào và
ra bằng cơ chế giám sát hơn là các biện pháp quản lý hành chánh, để thu hút
nguồn lực tài chính lớn của các tập đồn nước ngồi.
Thị trường tài chính phát triển, mọi thông tin trên thị trường được công khai, minh
bạch. Nhà đầu tư muốn phát hành cổ phiếu huy động vốn trên thị trường phải thực
sự là đơn vị hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả cao. Sự cạnh tranh thu hút
vốn này buộc các doanh nghiệp phải nâng cao hiệu quả hoạt động, thường xuyên
đổi mới cơng nghệ để tăng hiệu quả kinh tế. Vì thế mà hiệu quả kinh tế của xã hội
cũng được nâng lên. Mặt khác, khi doanh nghiệp tạo được sự kỳ vọng vào một giá
trị thị trường tương lai tăng cao sẽ kích thích cho mọi người tăng tiết kiệm để đầu
tư vào các doanh nghiệp có hiệu quả cao. Vì vậy, thị trường tài chính có vai trị
kích thích việc sử dụng vốn tiết kiệm và có hiệu quả.

25

LUAN VAN CHAT LUONG download : add



×