Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

Quan niệm của triết học mác lênin về con người

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (74.39 KB, 10 trang )

1
1. Mở đầu
Con người là đối tượng nghiên cứu của nhiều môn khoa học khác nhau
như sinh vật học, tâm lý học, đạo đức học, dân tộc học, y học, triết học,...
song giải đáp những vấn đề chung nhất về con người như bản chất con người,
ý nghĩa cuộc sống của con người trước hết phải là nhiệm vụ của triết học. Chỉ
có triết học Mác-xít mới phân tích bản chất con người, xem xét con người đầy
đủ và sâu sắc, trong mối quan hệ biện chứng và thống nhất giữa hai mặt tự
nhiên và xã hội trên cơ sở lập trường duy vật triệt để nhất.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta và Bác Hồ luôn quan tâm
đến vấn đề xây dựng con người, coi con người là mục tiêu, là động lực chủ
yếu của sự phát triển kinh tế - xã hội. Con người là vốn quý nhất của xã hội,
là tài sản quan trọng nhất của mọi tổ chức, là trung tâm của mọi quá trình phát
triển. Hiện nay, chúng ta đang bước vào thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hố,
hiện đại hố, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, chủ động
hội nhập kinh tế quốc tế, việc đào tạo con người Việt Nam phát triển tồn diện
về chính trị, tư tưởng, trí tuệ, đạo đức, thể chất, năng lực sáng tạo, có ý thức
cộng đồng, lịng nhân ái, khoan dung, tơn trọng nghĩa tình, lối sống văn hố,
quan hệ hài hồ trong gia đình, cộng đồng và xã hội càng trở nên quan trọng
và cấp thiết.
2. Nội dung
2.1. Quan niệm của triết học Mác - Lênin về con người
2.1.1. Phương pháp tiếp cận
Triết học Mác xuất phát từ con người, nhưng Mác đã vượt qua quan
niệm trừu tượng về con người để nhận thức con người hiện thực. Theo Mác,
con người có đời sống hiện thực và biến đổi cùng với sự biến đổi đời sống
hiện thực của nó; trong đó phương thức sản xuất vật chất không chỉ đơn thuần


2
là sự tái sản xuất ra tồn tại thể xác của cá nhân, mà hơn thế nó đã là một hình


thức hoạt động nhất định của những cá nhân ấy, một phương thức sinh sống
nhất định của họ.
Chỉ có thể xem xét con người trong đời sống hiện thực mới hiểu được
đúng bản chất con người của nó khơng phải là cái trừu tượng cố hữu của cá
thể con người. Mác đã đi tới quyết định: "trong tính hiện thực của nó, bản
chất con người là tổng hồ những quan hệ xã hội". Gắn con người với hoạt
động thực tiễn tức là con người có mối quan hệ chặt chẽ với tự nhiên, chinh
phục và cải tạo tự nhiên, bắt tự nhiên phục vụ đời sống của con người. Cũng
chính trong quá trình lao động sản xuất, hoạt động thực tiễn mà con người có
mối quan hệ với nhau, hình thành các mối quan hệ xã hội và mọi quy luật xã
hội, và nhờ đó tạo nên xã hội lồi người với con người hiện thực. Đây chính
là điểm khác nhau căn bản với triết học trước Mác. Mác đã kết luận: "Với tư
cách là con người hiện thực, con người vừa là sản phẩm của tự nhiên và xã
hội, đồng thời vừa là chủ thể cải tạo tự nhiên và xã hội". Nói cách khác, chủ
nghĩa Mác khơng hề phủ nhận mặt tự nhiên, gạt bỏ cái sinh vật khi xem xét
con người, mà xem xét con người như một thực thể sinh học-xã hội. Mác viết:
con người là một sinh vật có tính lồi và xem giới tự nhiên là thân thể vơ cơ
của con người... vì con người là một bộ phận của giới tự nhiên.
2.1.2. Con người là thực thể sinh học - xã hội
Phương diện sinh học về con người:
Triết học Mác đã coi con người là sản phẩm của tự nhiên, là kết quả
của q trình tiến hố lâu dài của tự nhiên. Con người chịu sự chi phối của
môi trường tự nhiên và các quy luật của tự nhiên. Con người cũng có những
nhu cầu sinh học: ăn, uống, ngủ, nghỉ ngơi, tái sản xuất ra giống nòi.
Phương diện xã hội trong con người:


3
Con người là sản phẩm của lao động, chính do lao động và nhờ có lao
động con người cần trao đổi thơng tin với nhau mà ngơn ngữ hình thành, ý

thức hình thành, sự giao tiếp, văn hố, các quan hệ giữa người với người,
quan hệ xã hội hình thành; con người chịu sự tác động, chi phối của môi
trường và các quy luật xã hội; con người có các nhu cầu xã hội như: giao tiếp,
thẩm mỹ, chính trị, an tồn, biết tự trọng và muốn được kính trọng, tự sáng
tạo và tự hoàn thiện bản thân,... Những nhu cầu này rất khác nhau giữa những
con người cụ thể, phụ thuộc vào điều kiện sống, hoàn cảnh của mỗi cá nhân,
đặc tính của mỗi cá nhân, trình độ văn hoá của mỗi người. Một khi nhu cầu
bậc thấp được thoả mãn thì nhu cầu ở bậc cao hơn sẽ xuất hiện. Các nhà quản
lý xã hội và quản lý tổ chức cần phải tìm hiểu tâm tư, nguyện vọng, nhu cầu
của mỗi cá nhân người lao động và tìm cách đáp ứng các nhu cầu đó, nghĩa là
tạo ra lợi ích cho người lao động để từ đó khơi dậy động lực lao động trong
mỗi con người.
Phương diện xã hội và phương diện sinh học của con người tác động
biện chứng, thâm nhập vào nhau và tạo nên con người là động vật xã hội. Phát
triển mặt xã hội nhằm thoả mãn nhu cầu sinh học. Mỗi bước tiến về mặt xã
hội là một bước nâng cao mức độ thoả mãn nhu cầu sinh học. Những nhu cầu
sinh học lại được thể hiện thông qua các quan hệ xã hội. Do đó, khơng kết
hợp cả hai phương diện sinh học, xã hội sẽ dẫn đến nhận thức trừu tượng,
phiến diện về con người, khơng có động lực thúc đẩy sự phát triển. Nhưng
trên thực tế con người lại là những con người ở thời đại khác nhau, các dân
tộc khác nhau, các giai cấp, các nhóm xã hội khác nhau, nên trong họ cái tự
nhiên tồn tại trong sự tác động của cái xã hội. Năng khiếu bẩm sinh của một
con người có thể được ni dưỡng hoặc thui chột đi tuỳ thuộc vào điều kiện,
môi trường xã hội, do hoàn cảnh xã hội quy định.
2.1.3. Bản chất con người


4
Bản chất là tập hợp tất cả các mối quan hệ tất nhiên bên trong tương
đối ổn định và quyết định sự tồn tại và phát triển của sự vật, hiện tượng. Mác

viết: "Bản chất con người không phải là cái trừu tượng cố hữu của những cá
nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó bản chất con người là tổng hoà
của những quan hệ xã hội".
Các quan hệ xã hội rất phong phú, đa dạng, đan xen nhau, hồ quyện
với nhau: như các quan hệ kinh tế, chính trị, đạo đức, tôn giáo, khoa học. Các
quan hệ này cịn được thể hiện dưới các góc độ khác nhau: dân tộc, cộng
đồng, gia đình, giai cấp hoặc của một tập thể, các quan hệ đó diễn ra trong
quá khứ, hiện tại, tương lai, trong những điều kiện và hoàn cảnh lịch sử cụ
thể. Theo quan niệm duy vật lịch sử, quan hệ sản xuất là cơ sở của các quan
hệ xã hội khác, nhưng các quan hệ xã hội khác lại có tính độc lập tương đối.
Bản thân quan hệ sản xuất là quan hệ xã hội của con người trong sản xuất
cũng hình thành và biến đổi với sự biến đổi quan hệ giữa con người với tự
nhiên. Điều đó có nghĩa là các quan hệ xã hội quy định bản chất con người
được triết học Mác xem xét không tách rời, cô lập với các quan hệ giữa con
người với tự nhiên. Bản chất con người không phải bất biến, vốn có mà được
hình thành và biến đổi theo sự biến đổi của các quan hệ xã hội, để thay đổi
bản chất con người phải thay đổi môi trường xã hội.
Hơn nữa, phải xem xét các quan hệ xã hội cấu thành bản chất con
người trong sự liên hệ tổng hoà của chúng. Bản chất con người chỉ có thể
được hình thành và thể hiện trong các mối quan hệ xã hội, những quan hệ xã
hội ấy chi phối, quyết định hành vi của con người trong đời sống hiện thực
phụ thuộc vào hoàn cảnh sinh sống của con người. Mặt khác, khơng chỉ là sự
tổng hồ các quan hệ kinh tế với chính trị, văn hố, đạo đức và pháp quyền,...
mà còn phải xem xét mặt vật chất và tinh thần, mặt không gian và thời gian
của các quan hệ xã hội trong sự tổng hoà đó, đặc biệt cần thấy sự thống nhất


5
cái chung toàn nhân loại với cái đặc thù giai cấp, dân tộc trong cái riêng của
mỗi cá nhân con người. Ở đây cái riêng chỉ tồn tại trong mối liên hệ với cái

chung, nhưng cái chung chỉ là một bộ phận, một khía cạnh hay một bản chất
của cái riêng. Sự xem thường cái cá nhân, cái nhân loại trong việc giải quyết
những vấn đề chính trị - xã hội là biểu hiện xa lạ với quan điểm biện chứng
Mác xít. Ngồi ra, cũng cần phê phán việc thổi phồng cái chung tồn nhân
loại, hạ thấp vai trị của cái đặc thù giai cấp, dân tộc.
2.1.4. Con người vừa là sản phẩm vừa là chủ thể của hoàn cảnh
Trước hết con người là sản phẩm của hồn cảnh vì: con người là kết
quả của q trình tiến hố tự nhiên; con người kết quả của hoạt động sản xuất;
con người là sản phẩm của các quan hệ xã hội và luôn chịu sự chi phối của
các quan hệ xã hội. Hồn cảnh nào thì tạo nên con người ấy. Do đó, phải tạo
ra hồn cảnh có tính người, tạo ra mơi trường tích cực, điều kiện, cơ chế vì con
người.
Mặt khác, con người là chủ thể của hoàn cảnh vì: hồn cảnh lại do con
người tạo ra, cải tạo hồn cảnh cho phù hợp. Thơng qua hoạt động thực tiễn,
con người làm biến đổi đời sống xã hội, đồng thời cũng biến đổi chính bản
thân mình. Do vậy, phát triển nguồn lực con người đã trở thành vấn đề có tính
quy luật của thời đại, con người là trung tâm của sự phát triển. Sử dụng có
hiệu quả các nguồn lực, duy trì và phát triển năng lực của người lao động, đón
đầu những thay đổi có tính chiến lược để tổ chức và quốc gia có lực lượng lao
động thích ứng với mọi tình huống, chủ động đối với tương lai. Đó chính là
vấn đề chiến lược nguồn nhân lực của mọi tổ chức và của quốc gia trong việc
sử dụng, duy trì, bảo tồn và phát triển nguồn nhân lực con người.


6
2.2. Vận dung lý luận về con người trong triết học Mác - Lênin với
việc xây dựng nguồn lực con người trong sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện
đại hố ở Việt Nam
Theo lý luận Mác - Lênin, con người là chủ thể tồn năng, đó chính là
con người được phát triển một cách chỉnh thể hài hoà cả ba mặt cơ bản:

- Thứ nhất, con người với tư cách là sản phẩm của lịch sử tự nhiên (tức
khía cạnh con người bản thể). Đó là góc độ phát triển con người sinh học - xã
hội, do tự nhiên và xã hội tạo nên cả về thể chất lẫn tinh thần: thể lực, trí lực,
đạo đức, thẩm mỹ,... con người được phát triển mặt này chính là nền tảng
quyết định nhất cho mọi sự phát triển về sau ở các tầng cao hơn.
- Thứ hai, con người với tư cách là chủ thể sáng tạo ra lịch sử (thực
chất là động lực và tiềm lực phát triển xã hội). Đó là con người được phát
triển các trình độ tư chất, năng khiếu, tài năng cũng như các khía cạnh phẩm
chất, ý chí, tinh thần,v.v... là chủ thể hoạt động cải tạo, sáng tạo, xây dựng thế
giới mới, điều kiện sống mới, chất sống mới.
- Thứ ba, con người văn hoá (với tư cách là mục tiêu của chính mình).
Đó là con người khơng chỉ phát triển thể chất, tinh thần, có năng lực cao tạo
dựng ra thế giới mới - thế giới văn hố thứ hai, mà điều có ý nghĩa lớn lao là
xây dựng chính bản thân mình với tư cách một chủ thể, phát triển tự do, tối
đa, toàn diện, hài hồ, hay nói cách khác là con người toàn năng: con người
phát triển thể chất - tâm hồn, tình cảm - trí tuệ, đạo đức - thẩm mỹ, văn hoá
vật chất - văn hoá tinh thần, khả năng làm chủ tự nhiên, làm chủ xã hội, làm
chủ chính mình, v.v...
Cùng với nhân loại, nhân dân Việt Nam cũng phải trải qua lịch sử nhận
thức, đấu tranh và xây dựng trong nhiều thập kỷ, đến nay mới có thể đề ra và
thực hiện lý tưởng: "Con người - mục tiêu và động lực của sự phát triển kinh


7
tế xã hội". Tức là nhân dân Việt Nam phải vượt qua nghèo nàn, lạc hậu, đánh
đuổi nhiều kẻ thù xâm lược, giải phóng chính mình, xây dựng một đất nước
giàu mạnh, văn minh (con người là động lực), để rồi trên nền tảng đó mới có
thể phát triển tối đa, toàn diện mọi năng lực và phẩm chất vốn có của mình,
hưởng một cuộc sống hạnh phúc với tất cả các phẩm chất và giá trị nhân văn
(con người là mục tiêu). Cái xã hội phấn đấu cho lý tưởng nhân văn cao đẹp

đó là một xã hội "tất cả của con người, do con người và vì con người".
Những thành tựu nổi bật trong sự phát triển kinh tế từ những năm 80
của thế kỷ XX là kết quả của sự thay đổi chiến lược phát triển của nhiều quốc
gia trên thế giới. Ngày nay, thế giới đang chuyển từ nền kinh tế chủ yếu dựa
vào nguồn tài nguyên hạn hẹp sang nền kinh tế tri thức. Trong nền kinh tế đó,
việc đầu tư cho phát triển nguồn nhân lực được coi là quan trọng hơn các
dạng đầu tư khác. Kinh nghiệm phát triển của khu vực Châu Á trong vài thập
kỷ vừa qua đã cho thấy, sự cất cánh và phát triển của họ là ở chiến lược con
người. Có thể nói, chìa khố của sự thành công nằm ngay trong chân lý đơn
giản: "chiến lược trồng người".
Cùng với quá trình đổi mới nền kinh tế, việc nhận thức về vị trí nhân tố
con người đã có sự thay đổi theo hướng ngày càng đúng hơn. Trong quá trình
đổi mới, quan điểm "con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát
triển kinh tế - xã hội" đã được khẳng định rõ trong đường lối, chính sách của
Đảng, Nhà nước cũng như trong thực tiễn của nước ta. Điều đó phản ánh tính
đúng đắn của tư duy mới phù hợp với xu hướng nhận thức chung của thời đại.
Ở thời đại ngày nay, sự chăm lo đầy đủ đến con người là đảm bảo chắc chắn
nhất của sự phồn vinh, thịnh vượng; sự đầu tư vào con người là cơ sở chắc
chắn nhất cho sự phát triển.


8
Chuyển từ nền kinh tế có kế hoạch tập trung, sang nền kinh tế thị
trường có định hướng XHCN, mà trước tiên là phải thực hiện thành cơng q
trình cơng nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Kinh nghiệm chỉ ra rằng con
người là tài sản quan trọng nhất của đất nước, của một tổ chức. Chiến lược
phát triển cần coi con người là trung tâm của mọi quá trình phát triển. Phát
triển con người ổn định thể hiện công bằng trong mỗi thế hệ và công bằng giữa
các thế hệ, cho phép mọi thế hệ trong hiện tại và tương lai sử dụng tốt nhất năng
lực của họ.

Do đó, trong điều kiện kinh tế thị trường thì lực lượng lao động với
chất lượng cao đáp ứng được yêu cầu sản xuất kinh doanh đã và đang trở
thành lực lượng cạnh tranh mạnh mẽ nhất, quyết định sự thắng lợi của các tổ
chức trên thương trường. Với cách nhìn nhận đó, trong sự nghiệp cơng nghiệp
hố, hiện đại hố nền kinh tế - xã hội, Việt Nam phải coi con người là nguồn
lực của mọi nguồn lực, nguồn lực trí tuệ với kiến thức, kỹ năng, kinh nghiệm
đáp ứng được yêu cầu của kỹ thuật hiện đại là quan trọng nhất.
3. Kết luận
Trong thời gian dài trong cơ chế quan liêu bao cấp trước đây, tình hình
kinh tế nước ta ở trong vòng luẩn quẩn của sự nghèo khổ: muốn phát triển sản
xuất, chúng ta cần có những người lao động phát triển tốt cả về thể lực và trí
lực. Nhưng điều đó chỉ có được, khi nền kinh tế phát triển với năng suất lao
động cao. Nền kinh tế của ta lại kém phát triển, thu nhập của người lao động
thấp, đời sống gặp nhiều khó khăn, nạn suy dinh dưỡng tăng lên, người lao
động không được đào tạo đầy đủ. Công cuộc đổi mới của chúng ta đã khơi
dậy tính tích cực của người lao động, biến nó thành nguồn sức mạnh to lớn,
đưa chúng ta vượt khó khăn để phát triển kinh tế. Nếu chỉ dựa vào tinh thần
lao động tích cực, ý chí vươn lên đơn thuần của nhân dân, chúng ta không thể


9
xây dựng được một nền sản xuất hiện đại. Nhưng nếu chỉ chú ý nâng cao trình
độ học vấn của người lao động, công nghệ hiện đại và đảm bảo sức khoẻ của
người lao động mà không chú ý khơi dậy tính tích cực ở họ, chúng ta cũng
khơng thể tận dụng được cơ hội để vượt qua những thử thách hiện nay. Vì
vậy, quan tâm đến nhu cầu, lợi ích của người lao động một cách toàn diện, từ
nâng cao mức sống, sức khoẻ đến nâng cao trình độ của họ là nhiệm vụ mà ta
cần phải làm.
Nhà nước cần tạo một mơi trường xã hội thích hợp cho người lao động
không chỉ trong hoạt động sản xuất, mà còn trong các quan hệ xã hội khác. Để

đạt được mục tiêu trên, chúng ta phải cải tạo quan hệ sản xuất, ln điều
chỉnh nó cho phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất. Thực tế thời gian qua đã chứng minh rằng, về cơ bản quan hệ sản xuất
thời kỳ trước đổi mới chưa phù hợp với phát triển của lực lượng sản xuất.
Hiện nay, nền kinh tế thị trường định hướng XHCN đang hình thành và phát
triển. Đây cũng chính là q trình từng bước điều chỉnh quan hệ sản xuất để
nó phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất. Kinh tế thị
trường đòi hỏi mọi của cải đều phải trở thành hàng hoá, kể cả tư liệu sản xuất,
sức lao động, trí tuệ và sản phẩm lao động. u cầu đó đã tạo ra cạnh tranh,
thơi thúc người lao động tích cực học tập nâng cao trình độ chun mơn,
nghiệp vụ để vươn lên có việc làm tốt, thu nhập cao, kích thích phát minh
sáng tạo. Chính đây là một nhân tố quan trọng góp phần hình thành quan hệ
hợp lý, rõ ràng, bình đẳng giữa người và người.
Không chỉ ở Việt Nam mà ở hầu hết các nước XHCN nhiều người cũng
thừa nhận rằng, chúng ta đã hướng theo những mẫu người chưa thật phù hợp
với thực tiễn thời đại và với tinh thần của CNXH. CNXH đòi hỏi con người
phải hiện thực và sinh động hơn, phải phong phú và đa dạng hơn, phải văn
hố và trí tuệ hơn với những cá tính độc đáo và những phẩm chất năng động


10
mới. Chỉ như vậy, thời đại mới đi đúng dòng chảy tự nhiên, mới thực hiện
được sứ mệnh lịch sử của mình trong q trình phát triển, nó mới là điều kiện
cho con người vươn tới giá trị đích thực cao cả của mình./.



×