1
1. Mở đầu
Trong thời đại xã hội nào, những người lao động sản xuất trong các
ngành sản xuất công nghiệp, dịch vụ cơng nghiệp hay những người cơng nhân
đều có vai trị sáng tạo chân chính ra lịch sử và là những người giữ vai trị
quyết định sáng tạo cơng cụ sản xuất, giá trị thặng dư và chính trị xã hội. Chủ
nghĩa xã hội khoa học là một trong ba bộ phận cấu thành của chủ nghĩa MácLênin đã nghiên cứu một cách toàn diện về các quy luật chính trị xã hội của
q trình phát sinh, hình thành và phát triển của các hình thái kinh tế xã hội
cộng sản chủ nghĩa. Trong đó, chủ nghĩa xã hội khoa học đã tập chung nghiên
cứu những nguyên tắc căn bản, những điều kiện, con đường, hình thức,
phương pháp đấu tranh của giai cấp công nhân để thực hiện chuyển biến từ
chủ nghĩa tư bản sang chủ nghĩa xã hội. Từ vai trị to lớn của giai cấp cơng
nhân, việc khẳng định sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân có ý nghĩa
quan trọng cả về lý luận lẫn thực tiễn. Trước sự khủng hoảng và sụp đổ của
chủ nghĩa xã hội ở Đông Âu và Liên Xô, nhiều người đã bộc lộ sự dao động
và hoài nghi về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Bọn cơ hội xét lại và
các thế lực chống cộng có cơ hội mới để phủ nhận sứ mệnh lịch sử của giai
cấp cơng nhân, vai trị lãnh đạo của Đảng cộng sản và chủ nghĩa xã hội.
Trong giai đoạn mới hiện nay, cơng cuộc cơng nghiệp hố, hiện đại hố
đang diễn ra trên toàn thế giới, chủ nghĩa xã hội đang ở trong thời kỳ thoái
trào, thời đại ngày nay vẫn đang là thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ
nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới cịn đang có nhiều biến động, và có
nhiều tiêu cực thì vấn đề làm sáng tỏ sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
được đặt ra trở nên bức thiết hơn bao giờ hết, cả trên hai phương diện: lý luận
và thực tiễn.
Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là một phạm trù cơ bản nhất của
chủ nghĩa xã hội khoa học, do đó nó đã được C.Mác-Ph.Ăngghen và Lênin
2
nghiên cứu và phát triển hết sức hoàn thiện trong quá trình phát triển của lịch
sử thế giới. Xét trên phương diện lịch sử, những nhận định và lý luận của các
ơng về giai cấp cơng nhân có tác dụng to lớn và đúng đắn. Còn đối với nước
ta, vấn đề trên được Đảng ta rất chú trọng. Vì thế, sứ mệnh lịch sử của giai
cấp công nhân không chỉ thể hiện rõ trong các văn kiện đại hội đại biểu tồn
quốc, mà đây cịn là một trong những đề tài nghiên cứu khoa học của nhiều
nhà lý luận, nhà nghiên cứu lịch sử, và của nhiều thế hệ công nhân, sinh viên.
Sự tác động của sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân không chỉ ảnh
hưởng tới sự chuyển biến của lịch sử thế giới là thay đổi từ hình thái kinh tế
này sang hình thái kinh tế khác, thay đổi từ chế độ kinh tế này sang chế độ
kinh tế khác, mà cịn làm thay đổi tình hình kinh tế chính trị xã hội trên tồn
thế giới, nó tác động tới q trình sản xuất cụ thể, tới bộ mặt phát triển của thế giới.
Như vậy, vấn đề đặt ra là: sứ mệnh lịch sử của giai cấp cơng nhân là gì?
Nội dung, điều kiện khách quan quy định là gì? Trên phương diện lý luận và
thực tiễn, nó được thể hiện ra sao? Và để củng cố và tăng cường sự lãnh đạo
của giai cấp công nhân cần phải tiến hành những biện pháp gì?
2. Nội dung
2.1. Khái niệm giai cấp công nhân, sứ mệnh lịch sử của một giai cấp
Theo em được hiểu thì giai cấp công nhân là giai cấp của những người
lao động hoạt động sản xuất trong các ngành công nghiệp thuộc các trình độ
kĩ thuật khác nhau, mà địa vị kinh tế xã hội của họ phụ thuộc vào chế độ xã
hội đương thời, ở các nước tư bản. Họ là những người về cơ bản khơng có tư
liệu sản xuất phải làm thuê cho giai cấp tư sản và bị giai cấp tư sản bóc lột giá
trị thặng dư ở các nước XHCN. Trước hết ta cần nắm rõ khái niệm giai cấp
công nhân. Trong CNXH, họ là những người đã cùng nhân dân lao động làm
chủ những tư liệu sản xuất chủ yếu và cùng nhau hợp tác lao động cho mình.
3
Khái niệm: cơng nhân là một tập đồn xã hội ổn định, hình thành và phát
triển cùng với sự hình thành của nền công nghiệp hiện đại, với nhịp độ phát
triển của lực lượng sản xuất có tính chất xã hội hóa ngày càng cao; là lực
lượng sản xuất cơ bản, tiên tiến, trực tiếp hay gián tiếp tham gia vào quá trình
sản xuất, tái sản xuất ra của cải vật chất và cải tạo các mối quan hệ xã hội: là
lực lượng chủ yếu của tiến trình lịch sử quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ
nghĩa xã hội.
2.2. Nội dung và điều kiện khách quan quy định sứ mệnh lịch sử của
giai cấp công nhân
2.2.1. Nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp cơng nhân
Nói một cách khái quát, nội dung và sứ mệnh lịch sử của giai cấp cơng
nhân là xố bỏ chế độ tư bản chủ nghĩa, xố bỏ chế độ người bóc lột người,
giải phóng giai cấp cơng nhân, nhân dân lao động và tồn thể nhân loại khỏi
mọi sự áp bức, bóc lột, nghèo nàn lạc hậu, xây dựng xã hội cộng sản chủ
nghĩa văn minh.
Ph.Ăngghen viết: "Thực hiện sự nghiệp giải phóng thế giới ấy đó là sứ
mệnh lịch sử của giai cấp vô sản hiện đại". V.I.Lênin cũng chỉ rõ: "Điểm chủ
yếu trong học thuyết của Mác là ở chỗ nó làm sáng rõ vai trị lịch sử thế giới
của giai cấp vô sản là người xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa”. Ở nước ta,
giai cấp công nhân trước hết phải làm cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân
dân. Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là phải lãnh đạo cuộc cách mạng
đó thơng qua đội tiên phong của mình là Đảng Cộng sản Việt Nam, đấu tranh
giành chính quyền, thiết lập nền chuyên chính dân chủ nhân dân. Trong giai
đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa, giai cấp công nhân từng bước lãnh đạo
nhân dân lao động xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, khơng có người bóc
lột người, giải phóng nhân dân lao động khỏi mọi sự áp bức, bóc lột, bất công.
4
Như vậy thực chất sứ mệnh lịch sử của giai cấp cơng nhân là xóa bỏ chế
độ tư hữu về tư liệu sản xuất khác với việc thay thế chế độ tư hữu này bằng
chế độ tư hữu khác, và tính triệt để cách mạng trong việc thực hiện sứ mệnh
đó là giải phóng giai cấp cùng với q trình giải phóng dân tộc và nhân loại.
Giai cấp này chỉ hồn thành sứ mệnh khi xây dựng thành cơng giai đoạn cao
trào của hình thái kinh tế xã hội CSCN là xã hội CSCN văn minh.
2.2.2. Những điều kiện khách quan quy định sứ mệnh lịch sử của giai
cấp công nhân
Nền sản xuất công nghiệp ngày càng hiện đại đã khách quan tạo ra giai
cấp cơng nhân, họ vốn có đặc điểm: Đại diện cho phương thức sản xuất tiên
tiến, có lợi ích cơ bản đối lập với lợi ích của giai cấp tư sản, có tinh thần cách
mạng triệt để, có ý thức tổ chức kỷ luật cao, có hệ tư tưởng riêng. Do đó,
khơng một giai cấp hay tầng lớp nào có được đặc điểm như giai cấp công
nhân "Giai cấp công nhân là sản phẩm của đại công nghiệp".
Qua sự phát triển nền sản xuất công nghiệp, giai cấp công nhân được
trang bị nhiều kiến thức mới về văn hố cơ bản, khoa học cơng nghệ... và đó
cũng là yêu cầu khách quan đối với giai cấp công nhân.
Nền sản xuất công nghiệp ngày càng hiện đại và xã hội hố ngày càng
cao thì giai cấp cơng nhân càng được thêm lực lượng (cả về số lượng lẫn chất
lượng). Do các giai cấp, các tầng lớp xã hội ngày càng được lơi cuốn, tham
gia các q trình sản xuất công nghiệp hiện đại và nhiều hoạt động chính trị
xã hội khác, họ cũng vươn lên làm chủ sản xuất, làm chủ xã hội là một xu thế
khách quan của lịch sử.
Trong CNTB có mâu thuẫn cơ bản đã hình thành một cách khách quan,
gồm hai mặt:
+ Mặt kinh tế: vấn đề đặt ra là mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất ngày
càng xã hội hoá cao với chế độ chiếm hữu tư nhân TBCN về tư liệu sản xuất.
5
Giai cấp công nhân, con đẻ của nền sản xuất công nghiệp hiện đại, được rèn
luyện trong nền sản xuất cơng nghiệp tiến bộ, đồn kết và tổ chức lại thành
một lực lượng xã hội hùng mạnh. Bị giai cấp tư sản áp bức, bóc lột nặng nề,
họ là giai cấp trực tiếp đối kháng với giai cấp tư sản, và xét về bản chất họ là
giai cấp cách mạng triệt để nhất chống lại chế độ áp bức, bóc lột tư bản chủ
nghĩa. Điều kiện sinh hoạt khách quan của họ quy định rằng, họ chỉ có thể tự
giải phóng bằng cách giải phóng tồn xã hội khỏi chế độ TBCN.
+ Mặt chính trị-xã hội: là mâu thuẫn giữa giai cấp công nhân và giai cấp
tư sản.
Cả hai mặt của mâu thuẫn cơ bản này không thể được giải quyết triệt để
trong khuôn khổ CNTB, tất yếu dẫn đến cách mạng XHCN do giai cấp công
nhân lãnh đạo và tổ chức. Đó là sự quy định khách quan cho sứ mệnh lịch sử
của giai cấp công nhân. Các giai cấp tầng lớp khác trong xã hội có lợi ích cơ
bản thống nhất với lợi ích của giai cấp cơng nhân như trí thức, nơng dân... sẽ
là lực lượng tham gia vào cuộc cách mạng XHCN, còn giai cấp lãnh đạo cuộc
cách mạng tất yếu này phải là giai cấp công nhân. Do mâu thuẫn cơ bản trong
CNTB là mâu thuẫn giai cấp công nhân và giai cấp tư sản, cuộc cách mạng
này do giai cấp công nhân lãnh đạo nhằm mục tiêu cao cả là lật đổ giai cấp tư
sản, giải phóng giai cấp cơng nhân, giai cấp khác trong xã hội và giải phóng
con người.
Vậy giai cấp tiên tiến là do tính chất lao động của nền sản xuất Đại công
nghiệp mà giai cấp công nhân đã dần dần trở thành giai cấp trung tâm, một bộ
phận quan trọng nhất của lực lượng sản xuất của nền sản xuất TBCN, vậy đây
có phải là lực lượng quyết định, phá vỡ quan hệ sản xuất hay không? Đây là
giai cấp duy nhất có khả năng lãnh đạo tồn xã hội xây dựng thành công
phương thức sản xuất mới cao hơn phương thức sản xuất TBCN. Là giai cấp
có tinh thần cách mạng triệt để nhất: Bởi vì trong cuộc đấu tranh chống lại
6
giai cấp tư sản họ khơng có gì để mất ngồi sự nghèo đói, nhưng thắng lợi họ
sẽ được cả thế giới.
Cơng nhân là giai cấp có tinh thần đồn kết có ý thức tổ chức kỷ luật. Do
được rèn luyện trong nền sản xuất Đại công nghiệp nên giai cấp cơng nhân có
sẵn tinh thần đồn kết, ý thức tổ chức kỷ luật trong sản xuất.
Công nhân là giai cấp có tinh thần quốc tế vơ sản: Do tính chất của sản
xuất mà giai cấp cơng nhân có khả năng và điều kiện để tiếp thu của CNXH
khoa học, giác ngộ sứ mệnh lịch sử của giai cấp mình, cũng như đoàn kết
thống nhất giai cấp, đoàn kết với tầng lớp lao động khác ở phạm vi quốc tế
theo chủ nghĩa quốc tế vô sản.
Lịch sử đã chứng minh những kết luận của Mác-Ănghen,và Lênin về sứ
mệnh lịch sử của giai cấp cơng nhân là hồn tồn đúng về lý luận cũng như
thực tiễn. Tuy nhiên, cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân hiện nay đang
đứng trước cam go, thử thách nặng nề nhưng xét toàn cảnh của sự phát triển
kinh tế GCCN vẫn là lực lượng chuẩn bị những tiền đề khách quan cho việc
thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình dù trải qua những thăng trầm, quanh co
nhưng nó vẫn tiếp tục diễn ra theo quy luật khách quan. Hiện nay ở các nước
tư bản phát triển, đời sống của một bộ phận công nhân được cải thiện nhưng
vẫn tồn tại sự bất công, bất bình đẳng trong thu nhập giai cấp tư sản với quần
chúng lao dộng. Dù đã cố gắng tìm cách thích nghi và có biện pháp xoa dịu
nhưng giai cấp TB khơng khắc phục những cổ hủ của nó. Và thực tế cuộc đấu
tranh GCCN diễn ra ở các nước TB dưới nhiều hình thức phong phú với nội
dung khác nhau. Từ sự phân tích địa vị kinh tế-xã hội, đặc điểm chính trị-xã
hội của giai cấp cơng nhân cũng như của các giai cấp và tầng lớp trung gian
có thể kết luận: chỉ có duy nhất giai cấp cơng nhân có sứ mệnh lịch sử xóa bỏ
chủ nghĩa tư bản, từng bước xây dựng chủ nghĩa xã hội cộng sản chủ nghĩa
trên tồn thế giới. Vì vậy cùng với q trình cơng nghiệp hóa hiện đại hóa
7
phải xây dựng giai cấp công nhân phát triển theo số lượng giác ngộ về chính
trị, có bản lĩnh chính trị vững vàng có khả năng tiếp thu sáng tạo công nghệ
mới, lao động đạt năng suất hiệu quả cao làm trịn sứ mệnh của mình.
2.3. Những nhân tố chủ quan trong quá trình thực hiện sứ mệnh lịch
sử của giai cấp công nhân
Sứ mệnh lịch sử của giai cấp cơng nhân được hình thành một cách khách
quan nhưng để thực hiện thắng lợi sứ mệnh lịch sử đó phải có vai trị của
những nhân tố chủ quan. Ngồi việc bản thân giai cấp công nhân không
ngừng lớn mạnh cả về số lượng và chất lượng thành lập ra Đảng cộng sản, sự
lãnh đạo của đảng là nhân tố chủ quan quyết định nhất đảm bảo cho giai cấp
công nhân có thể hồn thành sứ mệnh lịch sử của mình.
Sau khi Liên Xô và các nuớc XHCN ở Đông Âu sụp đổ. Các thế lực
phản động đả kích chủ nghĩa Mác-Lênin phủ nhận sứ mạng lịch sử của giai
cấp công nhân (GCCN) liệu đến ngày nay GCCN có cịn tồn tại hay không?
Để làm rõ điều này chúng ta cần căn cứ vào hai thuộc tính sau đây để nhận diện:
Thứ nhất nói về nghề nghiệp: Mác & Ăng-ghen cho rằng công nhân là
tất cả những người lao động trực tiếp hay gián tiếp có sử dụng cơng cụ lao
động trong lĩnh vực sản xuất cộng nghiệp ngày càng hiện đại.
Thứ hai nói về địa vị: cơng nhân là những người khơng có TLSX (tư liệu
sản xuất) phải làm th, phải bán sức lao động cho nhà tư bản và bị nhà tư
bản bóc lột giá trị thặng dư Mác-Ăngghen gọi họ là giai cấp vơ sản.
Lấy hai tiêu chí trên để phân biệt và xác định rằng giai cấp công nhân
ngày nay không hề bị biến mất mà trái lại ngày càng không ngừng phát triển
về số lượng. Cụ thể theo tổ chức lao động quốc tế 1900, toàn TG có 80 triệu
cơng nhân, sau tám năm đến 1998 tăng đến 800 triệu.
Đối với giai cấp công nhân hiện nay mặc dù cơ cấu ngành nghề ở các
nuớc tư bản dịch vụ chiếm 50-70% sản xuất đã được tự động hoá với một
8
trình rất cao, nhưng trong lao động kể cả trực tiếp hay gián tiếp người lao
động đều phải sử dụng công cụ lao động của công nghiệp hiện đại và họ đều
là những nguời khơng có tư liệu sản xuất. Do đó xét về địa vị xã hội họ vẫn là
người làm thuê. Nếu như trước kia người công nhân chỉ bán sức lao động cơ
bắp là chủ yếu, thì ngày nay họ cịn bán ln cả sức lao động trí óc và đơi khi
bán chất xám lại là điều chủ yếu. Trong xã hội ngày nay có phải cuộc sống
của cơng nhân được trung lưu hóa? Để trả lời câu hỏi này chúng ta cần xét ở
hai xã hội.
Ở các nước tư bản, phần đông họ không cần là những người vô sản trần
trụi với hai bàn tay trắng, một số có tư liệu sản xuất phụ mà họ có thể cùng
gia đình làm thêm ở nhà để sản xuất một số cơng đoạn phụ cho nhà máy, xí
nghiệp. Một số ít có cổ phần nhưng rất bé và bản thân họ cũng chỉ là những
người lao động làm thuê. Và trên thực tế không phải người công nhân nào
cũng có thể mua được cổ phần.
Đối với các nước XHCN sau khi giành được chính quyền họ trở thành
giai cấp lãnh đạo, tư liệu sản xuất là của chung. Họ vẫn là giai cấp cơng nhân
nhưng khơng cịn là vô sản như trước nữa. Như vậy về địa vị kinh tế xã hội
của giai cấp công nhân ở các nước XHCN căn bản đã khác so với trước đây
nhưng trong thời kì quá độ lên XHCN như ở nước ta hiện nay thì cịn có một
bộ phận cơng nhân làm thuê trong các doanh nghiệp tư nhân và họ vẫn là
người bị bóc lột.
Đối với GCCN chính đảng của mình là Đảng Cộng sản, Đảng là bộ tham
mưu chiến đấu của giai cấp, là đại biểu trung thành với lợi ích và quyền lợi
của giai cấp cơng nhân, của nhân dân lao động và của dân tộc. Giữa Đảng với
GCCN có mối liên hệ hữu cơ khơng thể tách rời. Nhưng đảng viên ĐCS có
thể khơng phải là giai cấp công nhân nhưng phải là người giác ngộ về sứ
mệnh lịch sử của giai cấp công nhân và đứng trên lập trường của GCCN.
9
Đảng Cộng sản là Đảng của giai cấp công nhân, nhưng GCCN khơng
phải là ĐCS; vì thế khơng thể lẫn lộn Đảng với giai cấp. Đảng đại diện cho
quyền lợi của giai cấp và quyền lợi của cả dân tộc, vì vậy Đảng phải lơi cuốn
các tầng lớp nhân dân lao động khác và cả dân tộc đứng lên hành động theo
đường lối của Đảng nhằm hoàn thành sứ mệnh lịch sử của giai cấp, do đó bản
thân giai cấp công nhân và mỗi người công nhân cần phải thường xuyên vươn
lên để tự trưởng thành về tư tưởng, chính trị, lập trường cũng như trình độ văn
hố KHKT, tay nghề nhằm đáp ứng nền sản xuất công nghiệp hiện đại.
Ngày nay, do tính quy định của sản xuất hiện đại, GCCN có một số biểu
hiện mới: trình độ văn hóa - tay nghề cao hơn; một số cơng nhân đã có cả tư
liệu sản xuất, cổ phiếu, đời sống một bộ phận được cải thiện v.v... Song những
biểu hiện đó khơng làm thay đổi địa vị cơ bản của công nhân trong CNTB. Họ
vẫn đang là lực lượng chủ yếu làm ra của cải cho xã hội và lợi nhuận cho các
nhà tư bản; là lực lượng đối lập trực tiếp với GCTS, bị bóc lột nhiều nhất và
khoảng cách về mức thu nhập giữa họ với giới chủ ngày càng lớn. Công nhân
trong các nước tư bản phát triển được trí tuệ hóa, lao động bớt nặng nhọc hơn,
có chút ít cổ phần trong doanh nghiệp... thì họ càng bị ràng buộc chặt chẽ hơn
vào guồng máy sản xuất của tư bản, càng bị bóc lột nặng nề và tinh vi hơn.
Theo Tổ chức lao động quốc tế (ILO) tỷ suất bóc lột giá trị thặng dư trung
bình ở thế kỷ XIX là 20, thì hiện nay là 300, cá biệt có nơi, như tập đồn
Microsoft tỷ suất này lên tới 5000. Từ một chiều cạnh khác, hiện nay sự tăng
lên lượng tri thức khoa học và văn hóa của cơng nhân lại cũng là một tiền đề
quan trọng để giúp họ nhận thức và cải tạo xã hội. Họ đang phê phán CNTB
và đến với CNXH như đến với cái đúng và do sự thôi thúc của lý trí chứ
khơng chỉ do nghèo đói. Với tri thức và khả năng làm chủ công nghệ cao, với
năng lực sáng tạo và ý thức về sứ mệnh, GCCN hiện đại đang có thêm điều
kiện để tự giải phóng.
10
Nhờ có những điều chỉnh lớn và tận dụng được thành tựu của cách mạng
khoa học và công nghệ, đặc biệt là qua tồn cầu hóa kinh tế, CNTB đang còn
khả năng tiếp tục kéo dài sự tồn tại nhưng không thể tránh được “định mệnh”
mà Mác đã vạch ra từ sứ mệnh lịch sử thế giới của GCCN. Quá trình tồn cầu
hố kinh tế hiện nay là biểu hiện tập trung của xu thế xã hội hóa lực lượng sản
xuất và cũng làm sâu sắc thêm mâu thuẫn cơ bản trong lịng CNTB. Nó khai
triển mâu thuẫn cơ bản của phương thức sản xuất TBCN đến mọi ngõ ngách
của thế giới qua những biểu hiện xã hội đa dạng. Đó là mâu thuẫn giữa
GCCN hiện đại đang bị CNTB tồn cầu bóc lột giá trị thặng dư với một giai
cấp tư sản “ngày càng trở nên là giai cấp thừa” trong sản xuất và phản động
về chính trị; Đó là mâu thuẫn giữa các nước phát triển với các nước đang phát
triển, hay “phương Bắc và phương Nam”, giữa “trung tâm và ngoại vi”...; là
mâu thuẫn của lợi ích từng quốc gia-dân tộc với lợi ích của các tập đoàn tư
bản; giữa những nước phát triển và đang phát triển; giữa chủ quyền quốc giadân tộc với xu thế đồng hóa cưỡng bức; giữa văn hố dân tộc với cuộc xâm
lăng bằng tư tưởng, lối sống của những nước đế quốc trong mơi trường tồn
cầu đang vận hành theo những cơ chế bất bình đẳng; Đó cịn là mâu thuẫn
giữa các nước tư bản xung quanh việc tranh giành vị trí, thế lực và ảnh hưởng
thơng qua việc chiếm lĩnh ưu thế về KH&CN, những nguồn tài nguyên…
Nhìn chung từ thực tiễn hiện đại, nhu cầu có một tồn cầu hóa với chất
lượng mới đang hiện rõ. Và, mầm mống của một phương thức sản xuất mới
cũng đang lớn dần, chủ yếu là theo cách này. Sứ mệnh lịch sử thế giới của
GCCN mang bản chất quốc tế và không hề xa lạ với những hiện tượng quốc
tế phản ánh tiến bộ xã hội. Chủ động, tích cực hội nhập q trình tồn cầu hóa
kinh tế; tận dụng những thời cơ, tranh thủ ngoại lực từ q trình tồn cầu hố
hiện nay và làm biến đổi nó theo hướng tích cực là một tiến trình hợp quy luật
và là con đường để thực hiện sứ mệnh lịch sử thế giới của GCCN.
11
2.4. Sứ mệnh lịch sử của GCCN Việt Nam hiện nay
GCCN Việt Nam có những đặc điểm chung của giai cấp công nhân: Là
giai cấp tiên tiến, là giai cấp có tinh thần cách mạng triệt để nhất, là giai cấp
có tinh thần đồn kết, ý thức tổ chức kỷ luật và có tinh thần quốc tế vơ sản
nhưng do hồn cảnh lịch sử giai cấp cơng nhân Viêt Nam cịn có những đặc
điểm riêng như sau:
Ra đời trước giai cấp tư sản dân tộc, bị ba tầng áp bức nặng nề ngay từ
mới ra đời đã chịu ảnh hưởng của cách mạng Tháng 10 Nga, tiếp thu CN
Mác-Lênin, không bị ảnh hưởng của các trào lưu tư tưởng tiểu tư sản, GCCN
Việt Nam từ khi có đảng lãnh đạo, đã nhanh chóng bước lên vũ đài chính trị
với tư cách là một lực lượng chính trị độc lập với mục tiêu: Giải phóng dân
tộc xây dựng thành cơng CNXH và CNCS ở Việt Nam. GCCN khi sinh ra đã
kế thừa truyền thống đấu tranh bất khuất chống giặc ngoại xâm của dân tộc,
tinh thần đó lại được nhân lên gấp bội khi có sự lãnh đạo của Đảng.
Sinh ra và trưởng thành ở một nước phong kiến nửa thuộc địa, nông
nghiệp lạc hậu nên hạn chế lớn nhất của giai cấp cơng nhân Việt Nam là cịn
chịu ảnh hưởng tư tưởng nho giáo phong kiến, tác phong của nền sản xuất
nhỏ tiểu nông, câu nệ với sách vở, xa rời quần chúng, thốt ly sản xuất, chúng
ta đừng có ảo tưởng những tàn dư tâm lý sản xuất nhỏ ấy có thể một ngày, hai
ngày bị quét sạch ra khỏi đời sống xã hội.
GCCN Việt Nam hiện nay gồm người lao động chân tay, lao động trí óc,
hoạt động sản xuất trong các ngành công nghiệp thuộc các Doanh nghiệp nhà
nước, hợp tác xã, khu vực tư nhân, hợp tác liên doanh với nước ngoài, họ đại
diện cho phương thức sản xuất tiên tiến có tri thức. Họ là lực lương đi đầu
trong sự nghiệp cơng nghiệp hố, là hạt nhân vững chắc trong liên minh công
nhân, nông dân trí thức. Nhược điểm của giai cấp cơng nhân Việt Nam: như
12
số lượng cịn ít, chưa được rèn luyện nhiều trong cơng nghiệp hiện đại, trình
độ văn hố và tay nghề cịn thấp.
Nhưng điều đó khơng thể là lý do để phủ nhận sứ mệnh lịch sử của
GCCN Việt Nam. Xét về bản chất thì chưa thể có và khơng thể có tổ chức
chính trị nào, giai cấp nào có thể thay thế được giai cấp công nhân trong sự
nghiệp xây dựng một xã hội mới, trong đó nhân dân lao động được làm chủ,
đất nước độc lập và phồn vinh xóa bỏ áp bức bất cơng, mọi người đều có điều
kiện phấn đấu cho cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc.
Sứ mệnh của GCCN Việt Nam là giải phóng dân tộc và phát triển đất
nước theo định hướng XHCN; qua đó giải phóng giai cấp, giải phóng người
lao động, xây dựng một “xã hội dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ,
văn minh”... Hiện nay, để sớm đưa đất nước khỏi tình trạng kém phát triển,
nội dung trọng tâm là đẩy mạnh cơng nghiêp hóa, hiện đại hóa gắn với kinh tế
tri thức và giữ vững định hướng XHCN.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X đã khẳng định đẩy mạnh cơng nghiêp
hóa, hiện đại hóa hiện nay là “Rút ngắn q trình cơng nghiệp hố, hiện đại
hố đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa gắn với phát triển kinh tế tri
thức, coi kinh tế tri thức là yếu tố quan trọng của nền kinh tế và cơng nghiệp
hố, hiện đại hố”. Theo đó phát triển GCCN nước ta cả về số lượng và chất
lượng, và tổ chức; nâng cao giác ngộ và bản lĩnh chính trị, trình độ học vấn và
nghề nghiệp, xứng đáng là lực lượng đi đầu trong sự nghiệp đổi mới. Phát
triển GCCN cũng chính là phát triển, hồn thiện chủ thể của sứ mệnh lịch sử
hiện đại - cơ sở xã hội quan trọng nhất bảo đảm cho sự lãnh đạo của Đảng, khối
đại đồn kết tồn dân tộc vì mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với CNXH.
Sứ mệnh lịch sử của GCCN Việt Nam cũng chỉ có thể thực hiện thắng
lợi khi quyền lãnh đạo cách mạng của GCCN, thơng qua vai trị lãnh đạo của
Đảng cộng sản Việt Nam, được giữ vững và không ngừng tăng cường; Nhà
13
nước XHCN và chế độ dân chủ XHCN, quyền làm chủ của nhân dân lao động
nước ta không ngừng được hoàn thiện và phát triển.
3. Kết luận
Qua bài tiểu luận có thể khẳng định rằng sứ mệnh lịch sử của giai cấp
công nhân là phạm trù cơ bản nhất của chủ nghĩa xã hội khoa học. Phát hiện
ra sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là một trong những cống hiến vĩ đại
nhất của chủ nghĩa Mác-Lênin.
Là lực lượng nòng cốt, chủ yếu và tiền phong của dân tộc, giai cấp cơng
nhân ta có vinh dự và trách nhiệm nặng nề là nhân lên vận hội mới của dân
tộc bằng đẩy nhanh hơn nữa nhịp độ phát triển nền công nghiệp và dịch vụ
với năng suất, chất lượng và hiệu quả kinh tế cao, nhằm đáp ứng thoả mãn
yêu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu, đặc biệt là đứng vững, là đi lên
trong hội nhập kinh tế và cạnh tranh quyết liệt của thị trường thế giới, làm cơ
sở cho tự chủ về kinh tế.
Để giai cấp cơng nhân làm trịn sứ mệnh vẻ vang đó, cùng với tự học tập
nâng cao kiến thức và năng lực nghề nghiệp, rèn luyện tác phong và kỷ luật
công nghiệp, Đảng, Nhà nước và cơng đồn cần làm tốt hơn nữa trách nhiệm
đối với giai cấp cơng nhân.
Đó là việc làm và quyền làm việc của công nhân. Đảng và Nhà nước đã
có chính sách đào tạo và đào tạo lại nghề cho công nhân, nhưng chưa đủ.
Không thể vin vào "thất nghiệp là khó tránh khỏi trong cơ chế thị trường" để
đẩy hàng loạt công nhân vào thất nghiệp khơng đáng có và cả khơng được
phép. Hoặc khơng kiên quyết thay thế những người quản lý yếu kém để doanh
nghiệp lụi bại, công nhân không việc làm.
Cùng với q trình cơng nghiệp hố hiện đại hố phải xây dựng giai cấp
công nhân phát triển về số lượng, giác ngộ về chính trị, có bản lĩnh chính trị
vững vàng, có khả năng tiếp thu sáng tạo cơng nghệ mới, lao động đạt năng
suất hiệu quả cao, làm tròn sứ mệnh của mình./.