Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

TIỂU LUẬN CHUYÊN NGÀNH sự PHÁT TRIỂN lý LUẬN sứ MỆNH LỊCH sử của GIAI cấp CÔNG NHÂN và sứ MỆNH LỊCH sử của GIAI cấp CÔNG NHÂN VIỆT NAM HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (268.74 KB, 27 trang )

SỰ PHÁT TRIỂN LÝ LUẬN VỀ SỨ MỆNH LỊCH SỬ CỦA GCCN.
SỨ MỆNH LỊCH SỬ CỦA GCCN VIỆT NAM HIỆN NAY.

Xây dựng một xã hội tốt đẹp, không còn áp bức bóc lột, bất công; mọi
người đều bình đẳng, được tự do phát triển toàn diện; đó là mơ ước của con
người từ khi lịch sử xã hội xuất hiện giai cấp và nhà nước đến nay, nhất là khi
CNTB ra đời và bộc lộ rõ bản chất bóc lột, xấu xa; thì mơ ước đó càng trở nên
cháy bỏng. CNTB ra đời là một nấc thang phát triển tất yếu trong lịch sử, nó
đã đem lại những thành tựu to lớn cho nhân loại, nhất là sự phát triển của lực
lượng sản xuất, của khoa học công nghệ, và những tiến bộ về dân chủ… Tuy
nhiên ngay từ khi ra đời, CNTB đã luôn gắn liền với muôn vàn bạo lực, tội ác,
lừa gạt và bóc lột, như Mác đã viết: “Tư bản đến thế gian, từ đầu đến chân
mỗi lỗ chân lông đều thấm máu và bùn” (1). Vì vậy ngay từ khi CNTB ra đời,
nhất là từ đầu thế kỷ XIX trở đi, các tầng lớp nhân dân lao động đã liên tục
đấu tranh chống CNTB, giai cấp tư sản. Đặc biệt nhiều nhà tư tưởng đương
thời đã đứng về phía nhân dân lao động đã đã trực tiếp phê phán CNTB và
nêu lên ý tưởng về việc xây dựng một xã hội tốt đẹp trong tương lai; tiêu
biểu như Xanh-xi-mông, Phu-ri-ê và Ô-oen... Tuy nhiên tư tưởng của các
ông chỉ mang tính không tưởng, bởi nó chỉ là sản phẩm của tư duy thuần
túy, chỉ là những nhận định, những phỏng đoán mang tính chủ quan, không
có cơ sở khoa học, cho nên không thể thực thi xây dựng được trên thực tế.
Đặc biệt tuy các ông đã đứng ra bảo vệ, bênh vực cho GCCN, cho những
người lao động, nhưng các ông chỉ thấy họ là những người nghèo khổ đáng
thương, mà không thấy được chính GCCN là lực lượng xã hội có sứ mệnh

1

C.Mác-Ăngghen, tuyển tập, tiếng trung, xuất bản lần thứ nhất, q23, tr 829.

1



lịch sử thế giới là lật đổ CNTB, xây dựng thành công xã hội mới, xã hội
công bằng bình đẳng, tự do, hạnh phúc.
Chỉ đến khi Mác, Ăng-ghen, vận dụng quan điểm duy vật biện chứng
vào nghiên cứu trong lĩnh vực lịch sử - xã hội, kế thừa những tư tưởng tiến bộ
của nhân loại; đặc biệt khi đi sâu nghiên cứu xã hội tư sản, các ông đã phát
hiện ra rằng: GCCN là sản phẩm của nền đại công nghiệp, là con đẻ của
CNTB và là giai cấp duy nhất có sứ mệnh lịch sử thế giới là xóa bỏ CNTB
xây dựng thành công CNXH và CNCS văn minh trên tòan thế giới. Tuy nhiên
không phải ngay khi bước vào nghiên cứu lý luận, Mác và Ăngghen đã phát
hiện ngay ra sứ mệnh lịch sử của GCCN; mà đó là quá trình lâu dài, gắn liền
với việc từng bước chuyển biến lập trường của hai ông trong quá trình hoạt
động lý luận, chính trị và thông qua thực tiễn phong trào công nhân.

1. SỰ PHÁT TRIỂN LÝ LUẬN VỀ SỨ MỆNH LỊCH SỬ CỦA
GCCN.
Mác và Ăngghen là những người sáng lập ra CNXHKH, phát hiện ra sứ
mệnh lịch sử của GCCN; nhưng thực tế cho đến cuối những năm 30 của thế
kỷ XIX, các ông vẫn là những nhà dân chủ cách mạng, đứng trên lập trường
duy tâm theo phái Hê-ghen trẻ. Bước chuyển biến lập trường từ duy tâm sang
duy vật, từ dân chủ cách mạng sang chủ nghĩa cộng sản được đánh dấu từ thời
kỳ làm biên tập viên báo “Sông Ranh” (Từ cuối năm 1842 đến đầu năm
1843). Theo đó những quan niệm đúng đắn của các ông về tự nhiên, xã hội và
tư duy, cũng như về những nguyên lý của CNCS, trong đó vấn đề sứ mệnh
lịch sử của GCCN từng bước được hình thành. Trong thời gian từ 1844 cho
đến trước khi “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản” ra đời; thông qua những tác
phẩm viết chung và riêng của hai ông như: “Tình cảnh giai cấp lao động ở

2



Anh” và “Bản thảo kinh tế - triết học”(1844), “Gia đình thần thánh” và “Hệ tư
tưởng Đức” (1844-1846), “Sự kốn cùng của triết học” (1846-1847)… chúng
ta nhận thấy diễn ra quá trình chín muồi dần dần những quan điểm duy vật về
lịch sử, về kinh tế chính trị và về CNXHKH, trong đó vấn đề sứ mệnh lịch sử
của GCCN từng bước được hình thành và hoàn thiện cả trên phương diện
nhận thức và lý luận. Đặc biệt cho đến “Tuyên ngôn của đảng cộng sản”
(1848) – tác phẩm được coi là đánh dấu sự đời của CNXHKH, thì vấn đề sứ
mệnh lịch sử của GCCN trở nên chín muồi, bởi cho đến thời kỳ này, đã xuất
hiện những điều kiện khách quan để Mác, Ăngghen nghiên cứu và khái quát
thành lý luận.
Vào những năm 30-40 của thế kỷ XIX: Sau cuộc cách mạng công
nghiệp lần thứ nhất, đại công nghiệp ở Châu Âu phát triển mạnh mẽ, do đó làm
cho lực lượng sản xuất phát triển và quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa được
xác lập, đánh đấu sự ra đời của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Nước
Anh đã trở thành cường quốc tư bản với nền công nghiệp hùng mạnh, Đức và
một số nước Tây Âu khác tuy cuộc cách mạng công nghiệp diễn ra muộn hơn,
nhưng những thành tựu mà nó đạt được làm cho phương thức sản xuất tư bản
chủ nghĩa chiếm vị trí ngày càng quan trọng và thể hiện tính ưu việt hơn hẳn
chế độ Phong kiến, như Mác đánh giá: “GCTS trong quá trình thống trị giai
cấp chưa đầy một Thế kỷ, đã tạo ra những lực lượng sản xuất nhiều hơn và đồ
sộ hơn lực lượng sản xuất của tất cả các thế hệ trước kia gộp lại” (1). Song
những mâu thuẫn vốn có của nó cũng bắt đầu bộc lộ, đó là mâu thuẫn giữa lực
lượng sản xuất và quan hệ sản xuất mà biểu hiện về mặt xã hội là mâu thuẫn
giữa GCTS với GCCN. Sự phát triển cùng những mâu thuẫn của CNTB giúp
Mác và Ăng-ghen có cơ sở thực tiễn nghiên cứu sự ra đời, quá trình phát triển,
bản chất và sự diệt vong tất yếu của CNTB.

1


C.Mác và Ăng-ghen, Toàn tập, Nxb CTQG, H.1995, tập 4, tr603.

3


Cùng với sự phát triển của CNTB, GCCN ngày càng phát triển cả về số
và chất lượng; dần dần trở thành giai cấp ổn định, độc lập tách ra khỏi “Đám
quần chúng nghèo khổ”, bước lên vũ đài chính trị, đấu tranh không khoan
nhượng với GCTS. CNTB càng phát triển làm cho mâu thuẫn kinh tế xã hội
càng phát triển và các cuộc đấu tranh của GCCN ngày càng diễn ra mạnh mẽ,
điển hình là: Hai cuộc đấu tranh của công nhân Ly-on (Pháp) vào các năm
1831, 1834 đã thực sự vươn ra ngoài khuôn khổ của những cuộc: đấu tranh
kinh tế đơn thuần. Phong trào Hiến chương Anh cuối những năm 30 của thế
kỷ XIX, đã trở thành “Phong trào cách mạng to lớn đầu tiên thực sự có tính
chất quần chúng và hình thức chính trị”(1). Cuộc đấu tranh của công nhân XiLê-Di Đức năm 1844 và sự xuất hiện sau đó: “Đồng minh những người chính
nghĩa”- Tổ chức cách mạng đầu tiên của những người cộng sản; cho thấy
phong trào đấu tranh của công nhân diễn ra mạnh mẽ rộng khắp. Tuy các
phong trào trên cuối cùng đều thất bại, nhưng nó là thực tiễn chứng tỏ sự lớn
mạnh của GCCN và chứng minh GCTS đã lỗi thời về mặt lịch sử, chỉ có công
nhân thực sự là giai cấp có sứ mệnh lịch sử thế giới.
Chính từ thực tiễn đó đặt ra cùng những thành tựu của khoa học tự
nhiên và kế thừa có chọn lọc những giá trị tư tưởng, lý luận của nhân loại mà
trực tiếp là triết học cổ điển Đức, kinh tế chính trị cổ điển Anh và chủ nghĩa
xã hội không tưởng phê phán Pháp, Mác và Ăng ghen đã luận chứng một cách
khoa học về sứ mệnh lịch sử của GCCN. Trong đó: “Tuyên ngôn của đảng
cộng sản” là tác phẩm đầu tiên luận chứng một cách chín muồi sứ mệnh lịch
sử của GCCN.
Trong tác phẩm “Tuyên ngôn của đảng cộng sản”, lần đầu tiên Mác và
Ăngghen đã đưa ra khái niệm về GCCN hay GCVS: “GCVS là giai cấp
những người công nhân làm thuê hiện đại, vì mất các tư liệu sản xuất của

1

Lê-nin toàn tập. Nxb TB.M 1977, Tập 38, tr 365.

4


bản thân, nên buộc phải bán sức lao động của mình để sống” (2). Đặc biệt trên
cơ sở luận giải địa vị kinh tế - xã hội khách quan của GCCN, C.Mác và
Ph.Ăng ghen đã đưa ra kết luận khoa học: sự sụp đổ của giai cấp tư sản và sự
thắng lợi của giai cấp vô sản đều là tất yếu như nhau; mà như Mác viết: “Vấn
đề là ở chỗ tìm hiểu xem giai cấp vô sản thực ra là gì, và phù hợp với tồn tại
ấy của bản thân nó, giai cấp vô sản buộc phải làm gì về mặt lịch sử” (2). Về
địa vị kinh tế - xã hội khách quan của GCCN, được các ông chỉ rõ GCCN là
giai cấp đại biểu cho lực lượng sản xuất hiện đại, cho phương thức sản xuất
tiên tiến; là giai cấp được sản sinh từ nền đại công nghiệp và được đại công
nghiệp rèn luyện trở thành giai cấp có tính tổ chức, tính kỷ luật cao, có tinh
thần cách mạng triệt để, tinh thần đoàn kết quốc tế cao cả và có khả năng tập
hợp lãnh đạo quần chúng tiến hành cách mạng. Do đó, các ông khẳng định;
không ai khác, chính GCCN là giai cấp nắm giữ vai trò sứ mệnh lịch sử thế
giới, là người “đào huyệt chôn chủ nghĩa tư bản” và xây dựng thành công
CNXH, chủ nghĩa cộng sản văn minh trên phạm vi toàn thế giới. Ăng ghen
viết: “Thực hiện sự nghiệp giải phóng thế giới ấy - đó là sứ mệnh lịch sử của
giai cấp vô sản hiện đại”(3) và “Trong cuộc cách ấy, những người vô sản
chẳng mất gì hết ngoài xiềng xích trói buộc họ. Họ sẽ giành được cả thế
giới”(4). Tuy nhiên, ngay trong “Tuyên ngôn của đảng cộng sản”, Mác,
Ăngghen cũng đã chỉ ra rằng, để hoàn thành được sứ mệnh lịch sử của mình
tất yếu GCCN phải thành lập được một chính đảng độc lập, phải thực hiện
đoàn kết quốc tế, các ông còn chỉ rõ con đường thực hiện sứ mệnh lịch sử đó
chỉ có thể được thực hiện thông qua cách mạng vô sản, tức là sử dụng bạo lực

cách mạng lật đổ toàn bộ trật tự xã hội hiện hành...

C.Mác-Ăngghen, Toàn tập, tập 4, Nxb CTQG, H.1995, tr596.
C.Mác - Ph.Ăngghen, Toàn tập, tập 2, Nxb CTQG, H,1995, tr56.
3 C.Mác - Ph.ăngghen, Toàn tập, tập 20, Nxb CTQG, H,1994, tr393.
4 C.Mác - Ph.ăngghen, Toàn tập, tập 4, Nxb CTQG, H,1995, tr.646.
1
2

5


Thực tiễn lịch sử đã chứng minh, sau khi “Tuyên ngôn của đảng cộng
sản” ra đời, phong trào công nhân phát triển mạnh mẽ, được thể hiện thông
qua vai trò của công nhân trong cuộc cách mạng 1848 – 1849 ở châu Âu, hoặc
việc phong trào công nhân vượt qua thử thách khắc nghiệt trong đấu tranh
cách mạng những năm 50 để bước vào giai đoạn lên cao vào những năm 60
của thế kỷ XIX; đặc biệt Công xã Pa-ri đã cho thấy sự lớn mạnh vượt bậc của
phong trào sau khi công nhân được tuyên truyền, được giáo dục, giác ngộ về
sứ mệnh lịch sử… Mặc dù cuối cùng đều thất bại, song sự phát triển mạnh mẽ
của phong trào công nhân giai đoạn này, đã chứng tỏ những kết luận của Mác
và Ăngghen về vai trò, sứ mệnh lịch sử thế giới của GCCN là hoàn toàn đúng
đắn. Mặt khác, Mác và Ăngghen còn tiếp tục nghiên cứu tổng kết từ thực tiễn
phong trào đấu tranh cách mạng của GCCN, nhất là từ những thành công và
thất bại của Công xã Pa-ri, để bổ sung, phát triển toàn diện lý luận về nguyên
lý của CNXHKH nói chung và về vai trò sứ mệnh lịch sử của GCCN nói
riêng, làm cho nó thêm hoàn bị, triệt để nhằm đáp ứng yêu cầu của cuộc đấu
tranh thực hiện sứ mệnh lịch sử của GCCN. Thông qua một số tác phẩm như:
“Ngày 18 tháng sương mù của Lui Bô-na-pac-tơ” (1852), “Nội chiến ở Pháp”
(1871), “Phê phán cương lĩnh Gô-ta” (1875), “Chủ nghĩa xã hội phát triển từ

không tưởng đến khoa học” (1878)…Vấn đề sứ mệnh lịch sử của GCCN tiếp
tục được Mác và Ăngghen bổ sung, phát triển thêm nhiều nội dung mới; trong
đó tập trung vào nội dung chủ yếu là: để thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình,
GCCN phải xây dựng được chính đảng độc lập vững mạnh, phải thực hiện
liên minh công - nông và kiên quyết sử dụng bạo lực trong đấu tranh cách
mạng...
Trước hết về vai trò của đảng của GCCN: từ Công xã Pa-ri, từ sự phát
triển và hoạt động của các đảng công nhân ở các nước châu Âu thời kỳ này,

6


Mác-Ăngghen rút ra kết luận: một vấn đề có tính chất quyết định sự thành bại
của cuộc đấu tranh của GCCN để thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình là việc
xây dựng, củng cố và phát triển đảng, bất luận trong hoàn cảnh nào. Để đảng
vững mạnh, các ông yêu cầu: trong mọi trường hợp đảng phải độc lập về
chính trị, phải gắn bó mật thiết với quần chúng, đảng phải được vũ trang bằng
lý luận cách mạng; đặc biệt đảng phải giữ gìn sự đoàn kết thống nhất nội bộ,
đồng thời phải xây dựng tinh thần đoàn kết quốc tế của các đảng công nhân;
phải tích cực đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội xét lại và những nhóm, những
lực lượng thù địch với CNXHKH, với phong trào công nhân. Có thể nói đến
đây, Mác và Ăngghen đã bổ sung, phát triển những luận điểm cực kỳ quan
trọng về đảng cách mạng - đội tiền phong của GCCN, làm hình mẫu để các
đảng cộng sản tự hoàn thiện mình trong quá trình đấu tranh cách mạng.
Về liên minh công - nông: sau cách mạng 48-49 ở châu Âu, nhất là sau
thất bại của Công xã Pa-ri, Mác-Ăngghen chỉ rõ: để tạo sức mạnh to lớn, thực
hiện thắng lợi sứ mệnh lịch sử của GCCN, cũng như giải phóng toàn bộ nhân
dân lao động khỏi mọi áp bức của CNTB, tất yếu phải thực hiện liên minh
công - nông. Mác viết: “Công nhân Pháp không thể tiến lên được một bước
nào, cũng không thể đụng đến một sợi tóc nào của chế độ tư sản, trước khi

đông đảo nhân dân đứng giữa GCVS và GCTS ”(1). Mặt khác, Mác cũng chỉ
ra vai trò của liên minh công - nông không chỉ trong giai đoạn đấu tranh giành
chính quyền mà các ông đặc biệt coi trọng xây dựng liên minh công - nông
dưới chuyên chính vô sản, vì dưới chuyên chính vô sản mới đủ những điều
kiện để thực hiện liên minh và chỉ rõ mục đích của liên minh là để đi đến xoá
bỏ sự khác biệt giữa hai giai cấp này và dẫn đến xoá bỏ giai cấp nói chung –
hay nói cách khác là nhằm thực hiện thắng lợi sứ mệnh lịch sử của GCCN.
Đồng thời Mác cũng chỉ ra một trong những vấn đề thuộc về đường lối chiến
1

C.Mác và Ph. ăngghen, toàn tập, tập 7, Nxb CTQG, H,1993, tr.30.

7


lược và phương pháp trong liên minh là không được dùng bạo lực với nông
dân, mà phải giáo dục, thuyết phục họ, để họ tự nguyện gia nhập vào hàng
ngũ của những người vô sản.
Về sử dụng bạo lực cách mạng: trên cơ sở tổng kết kinh nghiệm của
Công xã Pa-ri, một lần nữa Mác, Ăngghen tiếp tục khẳng định để thực hiện
thắng lợi sứ mệnh lịch sử của mình, GCCN phải dùng bạo lực một cách triệt
để, không khoan nhượng để đập tan nhà nước tư sản. Từ đó các ông đã phát
triển một cách toàn diện vấn đề bạo lực cả về mục đích, hình thức và phương
pháp sử dụng… Đặc biệt nếu như trước đây Mác cho rằng phải thực hiện vũ
trang toàn dân, thì đến đây, theo các ông GCCN phải xây dựng một quân đội
thường trực mạnh, kiên quyết tấn công kẻ thù, tiêu diệt chúng tận sào huyệt
cuối cùng.
Có thể nói việc phát hiện ra sứ mệnh lịch sử thế giới của GCCN là một
trong những cống hiến vĩ đại của Mác và Ăng ghen, đã giúp cho phong trào
đấu tranh của GCCN chuyển từ tự phát lên tự giác. Nói cách khác dưới ánh

sáng lý luận của Mác, Ăng ghen đã làm cho GCCN ý thức sâu sắc về địa vị và
sứ mệnh lịch sử của mình, để từ đó từng bước cùng toàn thể nhân dân lao
động đấu tranh thực hiện sứ mệnh lịch sử đó; đồng thời cũng là cơ sở để sau
này V.I.Lênin kế thừa, phát triển trong điều kiện mới. Đánh giá về những
cống hiến của Mác và Ăng ghen, V.I.Lênin nhấn mạnh: “Điểm chủ yếu trong
học thuyết của Mác là ở chỗ nó làm sáng tỏ vai trò lịch sử thế giới của giai
cấp vô sản là người xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa”(1).
Sau khi Mác và Ăngghen qua đời, lý luận về sứ mệnh lịch sử của các
ông tiếp tục được V.I.Lênin bảo vệ và phát triển một cách sáng tạo trong điều
kiện lịch sử mới - điều kiện ĐQCN và cách mạng vô sản. Cuối thế kỷ XIX,
đầu thế kỷ XX, CNTB phát triển thành CNĐQ, chấm dứt thời kỳ phát triển
1

V.I.Lênin, Toàn tập, tập 23, Nxb Tiến bộ Mát-xcơ-va, 1980, tr11.

8


tương đối hoà bình những năm 70, 80 của thế kỷ XIX; vì vậy làm cho những
mâu thuẫn vốn có của nó đã gay gắt trở nên càng gay gắt hơn, nhất là mâu
thuẫn giữa GCCN với GCTS. Đối với GCCN giai đoạn này tiếp tục phát triển
cả về số và chất lượng, chủ nghĩa Mác ảnh hưởng ngày càng sâu rộng vào
phong trào công nhân làm cho phong trào đấu tranh của công nhân phát triển
cả về quy mô, hình thức và tính chất chính trị ngày càng rõ hơn; vì vậy cách
mạng vô sản đã đặt ra một cách trực tiếp. Đặc biệt nước Nga trở thành nơi tập
trung mâu thuẫn của thời đại, trở thành trung tâm của cách mạng thế giới; do
đó khả năng bùng nổ cách mạng vô sản ở nước Nga là hoàn toàn hiện hữu.
Như vậy đến giai đoạn này do quy luật phát triển không đều của CNĐQ,
Lênin đã nhận định: cách mạng vô sản có thể nổ ra và giành thắng lợi ở một
số nước, thậm chí ở một nước tách riêng ra mà nói, đó là nơi tập trung những

mâu thuẫn gay gắt làm cho nước đó trở thành khâu yếu nhất trong sợi dây
chuyền của CNĐQ. Vì thế theo V.I.Lênin, nước Nga không cần phải chờ sự
chín muồi của cách mạng Tây Âu, GCCN Nga có thể tiến hành cách mạng để
giành chính quyền. Tuy nhiên trong giai đoạn này phong trào công nhân thế
giới cũng như ở nước Nga chịu sự ảnh hưởng tiêu cực của chủ nghĩa cơ hội
trong Quốc tế II. Đặc biệt ở nước Nga, quan điểm của phái Dân tuý và phái
Mác-xít hợp pháp đã gây chia rẽ nghiêm trọng phong trào công nhân. Chính
vì vậy từ thực tiễn lịch sử cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX đặt ra cho
V.I.Lênin phải bảo vệ và phát triển toàn diện CNXHKH, trong đó có vấn đề
sứ mệnh lịch sử của GCCN, nhằm trang bị thế giới quan khoa học và củng cố
phong trào công nhân cũng như chuẩn bị mọi mặt để GCCN Nga tiến hành
cách mạng vô sản thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình.
Từ yêu cầu thực tiễn đặt ra, thông qua các tác phẩm: “Làm gì?”(1902),
“Một bước tiến hai bước lùi”(1904), “Hai sách lược của đảng xã hội dân chủ

9


trong cách mạng dân chủ”(1905), “Nhà nước và cách mạng”(1917-1918),
“Kinh tế chính trị trong thời đại chuyên chính vô sản”(1919), “Bệnh ấu trĩ tả
khuynh trong phong trào cộng sản”(1920), “Thà ít mà tốt”(1923)... một mặt
V.I.Lênin tiếp tục đấu tranh bảo vệ và khẳng định lại những quan điểm, tư
tưởng của Mác và Ăngghen về vai trò sứ mệnh lịch sử của GCCN cũng như
các nguyên lý của CNXHKH. Mặt khác V.I.Lênin còn bổ sung phát triển, làm
rõ những điều kiện và khả năng để GCCN thực hiện sứ mệnh lịch sử của
mình. Đặc biệt vấn đề xây dựng chính đảng được V.I.Lênin phát triển thành
học thuyết về xây dựng đảng kiểu mới của GCCN, trong đó V.I.Lênin chỉ ra
quy luật hình thành đảng, nhấn mạnh đảng kiểu mới của GCCN phải lấy
CNXHKH làm nền tảng, kim chỉ nam cho hành động; Người viết: không có
lý luận thì không có phong trào cách mạng… chỉ đảng nào được một lý luận

tiên phong hướng dẫn thì mới có khả năng làm tròn vai trò chiến sỹ tiên
phong. Về điều kiện để thực hiện sứ mệnh lịch sử của GCCN, V.I.Lênin tiếp
tục khẳng định quan điểm của Mác về một trong những điều kiện quan trọng
là phải thực hiện liên minh giai cấp. Tuy nhiên, V.I.Lênin đã bổ sung, phát
triển tư tưởng về liên minh lên trình độ mới, đó là GCCN phải mở rộng liên
với các tầng lớp lao động khác trong xã hội, đặc bịêt là trí thức. V.I.Lênin
viết: “Trước sự liên minh của các đại biểu khoa học, GCVS và giới kỹ thuật,
không một thế lực đen tối nào đứng vững được”(1)... Những đóng góp của
V.I.Lênin không chỉ thể hiện sự trung thành với lý luận của Mác và Ăngghen,
mà còn góp phần bảo vệ và phát triển sáng tạo lý luận về sứ mệnh lịch sử của
GCCN của Mác và Ăngghen lên tầm cao mới trong điều kiện đế quốc chủ
nghĩa và cách mạng vô sản. Do đó nó đã cổ vũ mạnh mẽ GCCN Nga cũng
như GCCN trên toàn thế giới đứng lên đấu tranh thực hiện mục tiêu sứ mệnh
lịch sử của mình.
1

V.I.Lênin, Toàn tập, tập 40, Nxb Tiến bộ Mát-xcơ-va, 1978, tr218.

10


Công lao của V.I.Lênin không chỉ thể hiện ở việc đấu tranh bảo vệ và
phát triển sáng tạo lý luận về sứ mệnh lịch sử của Mác và Ăngghen, mà còn
thể hiện ở việc V.I.Lênin đã trực tiếp cùng với Đảng Bôn- sê- vích lãnh đạo
GCCN Nga, tiến hành cuộc cách mạng XHCN tháng Mười thành công năm
1917, mở ra một thời đại mới - thời đại quá độ từ CNTB lên CNXH trên
phạm vi toàn thế giới, biến lý luận trở thành hiện thực. Trong quá trình lãnh
đạo xây dựng CNXH hiện thực trên nước Nga V.I.Lênin tiếp tục bổ sung phát
triển làm phong phú thêm lý luận về sứ mệnh lịch sử của GCCN trong điều
kiện có chính quyền, GCCN bước vào thời kỳ cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã

hội mới và đấu tranh chống các thế lực thù địch bao vây chống phá từ mọi
phía. Cách mạng tháng Mười thành công cùng những thành tựu bước đầu
trong dựng xã hội mới và đấu tranh chống các thế lực thù địch của GCCN
Nga, khẳng định tính hiện thực sứ mệnh lịch sử của GCCN và cổ vũ động
viên GCCN trên toàn thế giới đứng lên đấu tranh thực hiện sứ mệnh lịch sử
của mình. Theo gương cách mạng tháng Mười, GCCN ở nhiều nước trên thế
giới đã tiến hành cuộc cách mạng thành công, làm tan vỡ một mảng lớn của
CNTB và làm cho CNXH hiện thực từ một nước trở thành một hệ thống trên
thế giới.
Sau V.I.Lênin, các đảng cộng sản và công nhân quốc tế, trong quá trình
lãnh đạo xây dựng CNXH hiện thực, tiếp tục khẳng định tính đúng đắn và bổ
sung phát triển thêm nhiều nội dung mới làm phong phú thêm lý luận của chủ
nghĩa Mác-Lênin về sứ mệnh lịch sử của GCCN. Đặc biệt đối với các nước
XHCN còn lại đang tiến hành cải cách đổi mới hiện nay như Trung Quốc,
Việt Nam, Cuba, thông qua những thành tựu của công cuộc đổi mới, cải cách,
đã phát triển thêm nhiều vấn đề quan trọng về sứ mệnh lịch sử của GCCN
như: vai trò sứ mệnh lịch sử của GCCN trong sự nghiệp CNH,HĐH và vai

11


trò, yêu cầu xây dựng của đảng cộng sản trong điều kiện toàn cầu hoá, hội
nhập quốc tế cũng như trong xây dựng, phát triển nền kinh tế tri thức hiện
nay...
Tuy có những bước thăng trầm nhất định, thậm chí cả những thoái trào
tạm thời, nhưng lịch sử hơn 80 năm tồn tại của CNXH hiện thực đã chứng
minh tính ưu việt của chế độ xã hội mới do GCCN và chính đảng của nó xây
dựng nên. Đó cũng là bằng chứng sinh động nhất để minh chứng GCCN là giai
cấp duy nhất đủ khả năng tiến hành cách mạng XHCN xây dựng xã hội mới.
Tuy nhiên, cuộc đấu tranh của GCCN nhằm thực hiện mục tiêu, sứ mệnh lịch

sử của mình không phải lúc nào cũng diễn ra một cách dễ dàng, chỉ có thuận
lợi; mà là quá trình hết sức lâu dài, khó khăn phức tạp; sự sụp đổ của CNXH ở
Liên-xô và Đông Âu đã chứng minh điều đó.

2. VẤN ĐỀ SỨ MỆNH LỊCH SỬ CỦA GCCN HIỆN NAY.
* Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân hiện nay.
Trong giai đoạn hiện nay, trước sự sụp đổ của CNXH ở Liên Xô, Đông
Âu; trước những điều chỉnh thích nghi của CNTB, những biến đổi của những
điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội thế giới; bên cạnh đó cuộc cách mạng khoa
học công nghệ hiện đại và xu thế toàn cầu hoá kinh tế thế giới đang diễn ra
mạnh mẽ, tác động sâu sắc đến mọi mặt của đời sống xã hội; làm mờ đi tính
chính trị của cuộc đấu tranh giữa GCCN và GCTS. Lợi dụng tình hình đó,
nhiều người cho rằng CNTB đã thay đổi về bản chất, công nhân ở các nước tư
bản không còn bị bóc lột nữa, địa vị của họ đã có sự thay đổi căn bản, do đó

12


lý luận của Mác về sứ mệnh lịch sử của GCCN không còn đúng trong thời đại
hiện nay. Theo họ, thời đại hiện nay là thời đại của “văn minh trí tuệ”, của
“kinh tế tri thức” thì trí thức mới là lực lượng tiên phong, có vai trò lãnh đạo
cách mạng trong sự nghiệp xây dựng xã hội mới.
Chúng ta không phủ nhận một thực tế là, hiện nay CNTB do nắm được
ưu thế về vốn, khoa học công nghệ, nên có bước phát triển nhất định. Mặt
khác trong quá trình quản lý xã hội, CNTB có sự điều chỉnh và thực hiện một
số chính sách xã hội như, cho công nhân đóng góp cổ phần, quan tâm đến nơi
ăn, ở, điều kiện làm việc, phương tiện đi lại của công nhân…Sự điều chỉnh
này đã dẫn tới một sự ngộ nhận rằng ngày nay CNTB đã thay đổi bản chất,
rằng GCCN đã giàu có, không còn bị bóc lột như trước đây nữa, và do đó
những nguyên lý lý luận mà CNXHKH nêu ra đã trở nên lỗi thời, lạc hậu.

Trên thực tế, sự điều chỉnh thích nghi của CNTB hiện nay cũng ảnh hưởng
không nhỏ đến các lực lượng cách mạng. Nhiều người tỏ ra hoang mang, dao
động, thậm chí từ bỏ mục tiêu lý tưởng cộng sản; nhiều nước đã giành độc lập
tỏ ra lúng túng trong việc lựa chọn con đường đi của nước mình và phong trào
cộng sản và công nhân quốc tế gặp rất nhiều khó khăn, thách thức.
Đúng là hiện nay, việc thực hiện cổ phần hoá ở các nước tư bản phát
triển đang diễn ra với quy mô ngày càng rộng khắp. Tuy nhiên, cần khẳng
định rằng, việc bán cổ phiếu cho công nhân không những không động chạm
đến quyền lợi của giới chủ, mà trái lại càng làm tăng thêm quyền lực kinh tế
cho họ. Một chủ tư bản không cần một số lượng tư bản lớn cũng có thể chi
phối cả công ty, hoặc nhiều công ty trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh hết
sức lớn. Bán cổ phiếu cho người lao động chỉ diễn ra trong chừng mực không
tổn hại đến quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, đến lợi ích của giới chủ. Khi
đã có cổ phần trong công ty, dù người công nhân có được những quyền lợi

13


nhất định gắn với hoạt động sản xuất của Công ty và lợi tức do kết quả hoạt
động sản xuất, kinh doanh đem lại. Nhưng thực chất nguồn lợi nhuận ấy
chẳng qua là một phần giá trị thặng dư do chính công nhân làm ra, chứ không
phải bớt đi giá trị thặng dư mà giới chủ tư bản đã bỏ túi. Vậy là, người công
nhân không phải đã trở thành nhà “nhà tư bản” theo cái cách người ta nói,
mà là “thành nhà tư bản đối với chính mình”.
Như vậy, công nhân hiện nay dù có cổ phần trong các công ty của tư
bản, song cũng chẳng vì thế mà thay đổi địa vị làm thuê và bị bóc lột trong xã
hội tư bản. Chế độ cổ phiếu thật sự là phương pháp hữu hiệu cột chặt người
lao động vào công ty của nhà tư bản, là bắt họ lệ thuộc hơn nữa vào giới chủ.
Hy vọng thay đổi địa vị người lao động trở thành người chủ thật sự ở các
nước tư bản chủ nghĩa, chỉ là ảo tưởng, là ngộ nhận mà thôi.

CNTB dù có những điều chỉnh thích nghi và đạt được những thành tựu
to lớn về kinh tế trong những thập kỷ gần đây, nhưng trong lòng thế giới tư
bản hiện đại, mâu thuẫn vốn có của nó giữa lực lượng sản xuất hiện đại và
quan hệ sản xuất dựa trên chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư
liệu sản xuất không những vẫn còn tồn tại, mà có mặt còn sâu sắc hơn và lan
ra phạm vi rộng hơn. Đại hội IX của Đảng Cộng sản Việt Nam nhận định:
“CNTB hiện đại đang nắm ưu thế về vốn, khoa học và công nghệ, thị trường,
song không thể khắc phục nổi những mâu thuẫn vốn có”(1).
Mâu thuẫn xã hội cơ bản giữa giai cấp những người vô sản và giai cấp
những người hữu sản; giữa những người nghèo và những người giàu không
chỉ còn trong phạm vi một quốc gia, nó đã phát triển ở tầm quốc tế. Rõ ràng,
CNTB hiện đại dù có biến đổi, thích nghi thì về bản chất vẫn không hề có sự
Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb CTQG, H.2001,
tr.13.
1

14


thay đổi; nó vẫn là chế độ bóc lột, bất công và đầy mâu thuẫn. Vì vậy, thực
chất của những quan điểm trên chẳng qua là sự biện hộ cho địa vị thống trị và
bóc lột của GCTS, biện hộ cho sự tồn tại “vĩnh hằng” của CNTB trên cơ sở
phủ nhận vai trò lịch sử khách quan của GCCN, phủ nhận tính tất yếu của
hình thái kinh tế – xã hội cộng sản chủ nghĩa. Mặt khác, chúng ta cũng cần
nhận thức cho đúng quan điểm của V.I.Lênin: chủ nghĩa đế quốc là “phòng
chờ” của CNXH trong điều kiện mới hiện nay. Bởi cùng với sự phát triển và
tác dộng của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại thì “phòng chờ”
đó càng được mở rộng hơn. Song chính với sự mở rộng “phòng chờ” đó, tất
yếu sẽ diễn ra sự vùng dậy của lực lượng sản xuất làm nổ tung toàn bộ quan
hệ sản xuất đang trói buộc nó. Những thành tựu của cách mạng khoa học công

nghệ hiện đại, mà CNTB đang lợi dụng để kéo dài tuổi thọ của nó, đang dần
vượt ra khỏi sự kiểm soát của chính nó; cuộc khủng hoảng kinh tế bắt đầu từ
Mỹ, đã lan ra toàn cầu hiện nay đã chứng minh điều đó. Do đó chúng ta cần
nhắc lại luận điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen trong “Tuyên ngôn của Đảng
Cộng sản”: “Giai cấp tư sản không những đã rèn những vũ khí giết mình mà
nó còn tạo ra những người sử dụng vũ khí ấy - những công nhân hiện đại,
những người vô sản”(1); luận điểm nổi tiếng đó càng trở nên có ý nghĩa trong
điều kiện lịch sử mới. Hiện nay GCCN ở các nước tư bản vẫn từng ngày, từng
giờ phát triển mạnh mẽ cả về số và chất lượng, khi được giác ngộ giai cấp,
giác ngộ về sứ mệnh lịch sử, nhất là được sự lãnh đạo, dẫn dắt của một chính
đảng cộng sản chân chính thì họ chính là lực lượng quyết định đến sự lật đổ
chế độ tư bản chủ nghĩa, tiến hành xây dựng CNXH ngay tại các nước tư bản
đó.
Sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu đối với GCCN
và nhân loại tiến bộ trên thế giới, đó là một thực tế đau xót. Sự thoái trào của
1

C.Mác và Ph. Ăngghen, sđd, tập4, tr613.

15


CNXH hiện thực không chỉ là “mảnh đất hiện thực” cho sự tấn công của các
thế lực phản động, thù địch vào CNXH, mà còn ảnh hưởng đến niềm tin của
những người cộng sản về mục tiêu, con đường đi lên CNXH. Thế nhưng, điều
đó không có nghĩa là GCCN đã “mất vai trò lịch sử”: cũng không làm mất đi
ý chí phấn đấu và niềm tin vào tương lai xã hội chủ nghĩa của đa số công
nhân và nhân dân lao động trên thế giới. Trái lại, GCCN có thêm những bài
học quý giá về những vấn đề cơ bản của cách mạng, bài học sâu sắc về “cách
mạng phải biết tự bảo vệ”; càng nhận thức rõ hơn tính chất quyết liệt, gay go

của cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc trong thời đại ngày nay; càng
hiểu rõ hơn những bước thăng trầm, những khúc quanh trên con đường thực
hiện sứ mệnh lịch sử của mình.
Thực tiễn cho thấy, sau khi CNXH hiện thực ở Liên Xô và các nước
Đông Âu sụp đổ, các Đảng cộng sản ở các nước XHCN còn lại đã rút ra cho
mình những bài học quý báu, kiên trì chủ nghĩa Mác-Lênin, lãnh đạo công
cuộc cải cách, đổi mới giành được những thành tựu rất to lớn góp phần phục
hồi uy tín, vị thế cũng như khẳng định bản chất ưu việt của chế độ XHCN,
đồng thời bảo vệ và phát triển sáng tạo lý luận CNXHKH nói chung, lý luận
về sứ mệnh lịch sử của GCCN nói riêng trong điều kiện mới.
* Về vai trò của trí thức.
Đối với trí thức: Chúng ta không phủ nhận, trí thức có vai trò rất quan
trọng trong mọi thời đại, là lực lượng xã hội đi đầu trong việc phát triển các lý
thuyết khoa học và công nghệ, trong việc tiếp thu, ứng dụng các thành tựu
khoa học công nghệ vào trong quá trình sản xuất, nâng cao năng xuất lao
động. Trong sự nghiệp xây dựng xã hội mới hiện nay, vai trò của trí thức ngày
càng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Song không vì thế mà trí thức có thể thay

16


thế vai trò lịch sử thế giới của GCCN. Bởi lẽ, xét về mặt lịch sử, trí thức chỉ là
một tầng lớp xã hội không thuần nhất, họ chưa bao giờ và không bao giờ là
một giai cấp. Trí thức không đại biểu cho một phương thức sản xuất nào,
cũng không phải là lực lượng kinh tế, chính trị độc lập. Họ chỉ là một tầng lớp
xã hội đi theo và chịu ảnh hưởng của hệ tư tưởng của giai cấp mà nó phục vụ.
Do đó, trí thức không thể là người lãnh đạo cách mạng, mặc dù, các giai cấp
thống trị trong lịch sử đều cần đến trí thức và đào tạo ra đội ngũ trí thức của
mình để thực hiện vai trò thống trị đối với xã hội.
Trong xã hội tư bản chủ nghĩa, trí thức không có lợi ích đối kháng trực

tiếp với giai cấp tư sản, họ cũng là người làm thuê và cũng bị bóc lột, nhưng
được giai cấp tư sản đào tạo, sử dụng và được ưu đãi đặc biệt. Do đó, trí thức
không phải lực lượng bị áp bức, bóc lột nặng nề như GCCN, nên không có
tinh thần cách mạng triệt để. Hơn nữa họ lại không có hệ tư tưởng riêng, vì
vậy họ không thể thay thế vai trò lãnh đạo cách mạng của GCCN .
Thực tiễn lịch sử đã chứng minh, trí thức chưa bao giờ lãnh đạo thành
công một cuộc cách mạng nào. Những cuộc đấu tranh của trí thức tuy đã gây
được tiếng vang và có những đóng góp nhất định đối với sự phát triển của lịch
sử, với tiến bộ xã hội, nhưng họ cũng sẵn sàng thoả hiệp với giai cấp thống trị
khi các yêu cầu tối thiểu đưa ra được đáp ứng. Họ không bao giờ đưa cuộc
đấu tranh đó đến thắng lợi cuối cùng để giải phóng nhân dân lao động.
Từ cơ sở lý luận và thực tiễn trên, chúng ta có thể khẳng định, trí thức
không thể nắm giữ vai trò sứ mệnh lịch sử được. Dù hiện nay, cách mạng
khoa học công nghệ hiện đại có phát triển mạnh mẽ thế nào chăng nữa,
GCCN vẫn là giai cấp lãnh đạo cách mạng. Tất nhiên, như thế không có nghĩa
là chúng ta phủ nhận vai trò của trí thức. Trái lại, các đảng cộng sản, nhà nước

17


XHCN hiện nay cần phải có chính sách đúng đắn để đào tạo, thu hút đội ngũ
trí thức phục vụ cho sự nghiệp cách mạng của mình. Đồng thời bản thân
GCCN và các đảng cộng sản, cũng phải không ngừng nâng cao trình độ trí tuệ
của mình mới có thể đáp ứng được yêu cầu mới của sự nghiệp cách mạng
hiện nay.

3. SỨ MỆNH LỊCH SỬ CỦA GCCN VIỆT NAM.
GCCN Việt Nam là một lực lượng xã hội to lớn, đang phát triển, bao
gồm những người lao động chân tay và trí óc, làm công hưởng lương trong
các loại hình sản xuất kinh doanh và dịch vụ công nghiệp, hoặc sản xuất kinh

doanh và dịch vụ có tính chất công nghiệp. GCCN Việt Nam là một bộ phận
của GCCN quốc tế, tuy ra đời muộn ở một nước thuộc địa nửa phong kiến,
kinh tế lạc hậu, song GCCN Việt Nam có đầy đủ đặc trưng cơ bản của GCCN
quốc tế và sứ mệnh lịch sử của GCCN nói chung. Đánh giá về GCCN Việt
Nam Hồ Chí Minh khẳng định: “Chỉ có giai cấp công nhân là giai cấp dũng
cảm nhất, cách mạng nhất, luôn luôn gan góc đương đầu với bọn đế quốc,
thực dân… giai cấp công nhân ta tỏ ra là người lãnh đạo xứng đáng nhất và
đáng tin cậy nhất của nhân dân Việt Nam”(1). Đặc biệt từ khi đảng cộng sản
Việt Nam - đội tiền phong của GCCN Việt Nam ra đời, đã lãnh đạo cách
mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Trước hết, dưới sự
lãnh đạo của Đảng, GCCN Việt Nam cùng toàn thể dân tộc đã tiến hành thắng
lợi cuộc cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, khai sinh ra nước Việt
Nam dân chủ cộng hoà, nhà nước công nông đầu tiên ở khu vực Đông Nam
Á. Tiếp đó GCCN Việt Nam và đội tiền phong của nó lại tiến hành lãnh đạo
cuộc cách mạng giải phóng dân tộc thắng lợi, đánh bại sự xâm lược của chủ
. Hồ Chí Minh, Toàn tập, T10, Nxb CTQG, H. 2002, tr. 29.

1

18


nghĩa thực dân cũ và mới, làm tan rã một mảng lớn chủ nghĩa đế quốc ở thuộc
địa, thống nhất tổ quốc, đưa cả nước quá độ đi lên CNXH.
Trong sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước, giai cấp công nhân Việt
Nam đã và đang cùng toàn dân tiến hành hai nhiệm vụ chiến lược, xây dựng
thành công CNXH và bảo vệ vững chắc tổ quốc Việt Nam XHCN. Thực hiện
thắng lợi mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh” đồng thời tích cực hội nhập quốc tế, cùng với các lực lượng tiến bộ
trên toàn thế giới phấn đấu vì hoà bình, độc lập và tiến bộ xã hội.

Trong bối cảnh hiện nay, mặc dù tình hình quốc tế và khu vực có nhiều
diễn biến phức tạp. Song đứng vững trên lập trường cộng sản chủ nghĩa, kiên
định với những nguyên lý của CNXHKH, Đảng ta khẳng định, mặc dù lịch sử
thế giới đang trải qua những bước quanh co, phức tạp; nhưng “theo quy luật
khách quan, loài người nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội” (1). Vì vậy,
GCCN Việt Nam vẫn là giai cấp duy nhất có vai trò sứ mệnh lịch sử, xây
dựng thành công CNXH ở Việt Nam, góp phần thực hiện thắng lợi sứ mệnh
lịch sử của giai cấp công nhân thế giới, như Đảng ta khẳng định: “Giai cấp
công nhân nước ta có sứ mệnh lịch sử to lớn: Là giai cấp lãnh đạo cách
mạng thông qua đội tiền phong là Đảng cộng sản Việt Nam, giai cấp đại diện
cho phương thức sản xuất tiên tiến; giai cấp tiên phong trong sự nghiệp xây
dựng chủ nghĩa xã hội, lực lượng đi đầu trong sự nghiệp CNH,HĐH đất nước
vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” (2).
Đặc biệt qua hơn 20 năm đổi mới, cùng với quá trình CNH,HĐH đất nước,
GCCN nước ta đã có những chuyển biến quan trọng, tăng nhanh về số lượng,
đa dạng về cơ cấu, chất lượng được nâng lên, đã hình thành ngày càng đông
Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb CTQG, H.2001,
tr.14.
2 Nghị quyết Hội nghị lần thứ sáu, BCHTƯ đảng, khoá X. Báo Nhân dân, ngày 19/2/2008.
1

19


đảo bộ phận công nhân trí thức; đang tiếp tục phát huy vai trò là giai cấp lãnh
đạo cách mạng thông qua đội tiền phong là Đảng Cộng sản Việt Nam, giai
cấp tiên phong trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, lực lượng đi đầu
trong sự nghiệp CNH,HĐH đất nước, hội nhập kinh tế quốc tế; có nhiều cố
gắng để phát huy vai trò là lực lượng nòng cốt trong liên minh với giai cấp
nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Tuy nhiên, sự phát triển của GCCN hiện nay về số lượng, cơ cấu và
trình độ học vấn, chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp chưa đáp ứng được yêu
cầu của sự nghiệp CNH,HĐH đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế. Hiện còn
thiếu nghiêm trọng các chuyên gia kỹ thuật, cán bộ quản lý giỏi, công nhân
lành nghề. Bên cạnh đó tác phong công nghiệp và kỷ luật lao động còn nhiều
hạn chế, một bộ phận công nhân chậm thích nghi với cơ chế thị trường.
GCCN còn hạn chế về phát huy vai trò nòng cốt trong liên minh giai cấp
GCCN với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Giác ngộ giai cấp và bản lĩnh chính trị của công nhân cũng không đồng đều;
sự hiểu biết về chính sách, pháp luật còn nhiều hạn chế. Tỉ lệ đảng viên và
cán bộ lãnh đạo xuất thân từ công nhân còn thấp. Một bộ phận công nhân
chưa thiết tha phấn đấu vào Đảng và tham gia hoạt động trong các tổ chức
chính trị - xã hội. Nhìn tổng quát, lợi ích một bộ phận công nhân được hưởng
chưa tương xứng với những thành tựu của công cuộc đổi mới và những đóng
góp của họ; việc làm, đời sống vật chất và tinh thần của công nhân đang có
nhiều khó khăn, bức xúc, đặc biệt là ở bộ phận công nhân lao động giản đơn
tại các doanh nghiệp của tư nhân và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Để thực hiện thắng lợi sự nghiệp CNH,HĐH đất nước, vấn đề đặt ra
hiện nay là phải xây dựng GCCN Việt Nam lớn mạnh, có giác ngộ giai cấp và
bản lĩnh chính trị vững vàng; có ý thức công dân, yêu nước, yêu chủ nghĩa xã

20


hội, tiêu biểu cho tinh hoa văn hoá của dân tộc; nhạy bén và vững vàng trước
những diễn biến phức tạp của tình hình thế giới và những biến đổi của tình
hình trong nước; có tinh thần đoàn kết dân tộc, đoàn kết, hợp tác quốc tế; thực
hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp lãnh đạo cách mạng thông qua đội tiền
phong là Đảng Cộng sản Việt Nam. Vì vậy trong thời gian tới cần phải thực
hiện tốt một số vấn đề sau:

Một là, Tiếp tục nghiên cứu, tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận về vai
trò, sứ mệnh lịch sử của GCCN Việt Nam trong điều kiện kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa. Đẩy mạnh CNH,HĐH đất nước, phát triển các
ngành công nghiệp với công nghệ hiện đại, đồng thời phát triển các cơ sở
công nghiệp theo hướng hiện đại nhằm xây dựng đội ngũ công nhân trí thức
và chuyển một bộ phận ngày càng lớn GCCN, đội ngũ thợ thủ công thành
công nhân. Xây dựng cơ chế thông thoáng hơn, mời gọi các nhà đầu từ nước
ngoài nhằm tạo ra nhiều cơ sở sản xuất, kinh doanh theo kiểu công nghiệp, để
thu hút nhiều lao động. Dựa trên thế mạnh của từng địa phương phát triển các
ngành công nghiệp trên cơ sở chuyển mạnh cơ cấu kinh tế theo hướng ưu tiên
các ngành dịch vụ kinh tế - kỹ thuật cao, công nghiệp chế biến nông sản thực
phẩm và công nghiệp - công nghệ cao nhằm thu hút người lao động, phát triển
GCCN về cả số và chất lượng.
Hai là, đẩy mạnh công tác đào tạo, tự đào tạo nhằm nâng cao trình độ
mọi mặt cho công nhân. Tiếp tục củng cố và ưu tiên đầu tư nâng cấp, phát
triển mạng lưới các trường dạy nghề, các trung tâm dịch vụ việc làm tại các
tỉnh, thành đủ sức đào tạo công nhân có chất lượng ngày càng cao gắn với thị
trường lao động trong và ngoài nước. Kết hợp chặt chẽ giữa các trường dạy
nghề trung ương, các trường dạy nghề tỉnh với các trung tâm dịch vụ việc làm
ở các huyện và các doanh nghiệp, để công nhân có thể tiếp cận được với công

21


nghệ hiện đại và rèn luyện tác phong lao động công nghiệp. Khuyến khích
phát triển các loại hình tổ chức dạy nghề và học nghề theo kiểu dân doanh. Bổ
sung và điều chỉnh các chế độ, chính sách khuyến khích công nhân đi học để
bồi dưỡng nâng cao trình độ về mọi mặt cả chính trị và chuyên môn nghề
nghiệp; coi trọng việc đào tạo đối với công nhân nữ và công nhân xuất thân từ
nông dân. Hoàn thiện cơ chế, chính sách nhằm tăng quyền chủ động hơn cho

các loại hình cơ sở đào tạo nghề.
Ba là, đổi mới và nâng cao chất lượng hoạt động các tổ chức công
đoàn, nhất là công đoàn cơ sở. Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công đoàn đáp ứng
yêu cầu hoạt động trong các loại hình doanh nghiệp, đặc biệt khu vực kinh tế
tư nhân. Chăm lo bồi dưỡng, nâng cao trình độ mọi mặt cho cán bộ công đoàn
chuyên trách về nghề nghiệp, hiểu biết pháp luật, có bản lĩnh chính trị vững
vàng và kinh nghiệm hoạt động trong kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa. Coi trong bồi dưỡng, sử dụng cán bộ công đoàn không chuyên
trách. Xây dựng mối quan hệ phối hợp giữa tổ chức công đoàn với chủ doanh
nghiệp. Trong doanh nghiệp, tổ chức công đoàn là cầu nối giữa công nhân với
chủ doanh nghiệp; công đoàn vừa là đại diện, thay mặt cho công nhân thương
lượng, ký kết thỏa ước lao động tập thể với chủ doanh nghiệp nhằm bảo vệ
quyền lợi và lợi ích chính đáng của công nhân, vừa là người giáo dục, động
viên công nhân nâng cao ý thức kỷ luật, lao động giỏi, sáng tạo với năng suất,
chất lượng, hiệu quả cao đáp ứng mục tiêu duy trì và phát triển không ngừng
của doanh nghiệp.
Bốn là, Bổ sung, sửa đổi, xây dựng và thực hiện nghiêm hệ thống chính
sách, pháp luật bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của công nhân. Thực
hiện rà soát, bổ sung, sửa đổi, xây dựng các chính sách về lao động, việc làm và
nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho công nhân. Có cơ chế để các doanh

22


nghiệp, nhất là các doanh nghiệp dân doanh phải chú trọng thực hiện tốt các
chế độ, chính sách đối với công nhân, cũng như đầu tư bảo đảm các điều kiện
an toàn lao động, môi trường lao động, phòng tránh tai nạn lao động, bệnh
nghề nghiệp. Thực hiện đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế cho công nhân
theo quy định của pháp luật. Bổ sung, sửa đổi, xây dựng các chính sách để phát
huy nguồn lực và trách nhiệm của cả Nhà nước, người sử dụng lao động, các tổ

chức chính trị - xã hội, của toàn xã hội trong việc chăm lo đến đời sống công
nhân. Đẩy mạnh xây dựng các phong trào "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời
sống văn hóa”, “Đền ơn đáp nghĩa”, “Xóa đói giảm nghèo", xây dựng gia
đình văn hóa, khu tập thể văn hóa. Chú trọng công tác tuyên truyền, bồi
dưỡng tinh thần yêu nước, yêu quê hương, tự cường dân tộc; đề cao tinh thần
tập thể, đoàn kết tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau; lối sống cần kiệm, trung thực,
nhân nghĩa, tôn trọng kỷ cương phép nước, quy ước cộng đồng; lao động
chăm chỉ với lương tâm nghề nghiệp cao, có kỹ thuật, sáng tạo, ham học tập
nâng cao hiểu biết… Thông qua đó xây dựng ý thức chính trị, tinh thần đoàn
kết giai cấp của công nhân thuộc các thành phần kinh tế.
Năm là, tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy đảng, quản lý của các
cơ quan nhà nước và hoạt động của các đoàn thể. Phát triển cơ sở đảng ở các
doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Đặc biệt coi
trọng phát triển đảng viên mới, đảng viên trẻ, nâng tỷ lệ đảng viên trong công
nhân. Quan tâm chỉ đạo thành lập công đoàn và các tổ chức đoàn thể trong
các doanh nghiệp dân doanh. Trên cơ sở đó cần phải xây dựng cơ chế phối
hợp giữa Giám đốc, Bí thư, công đoàn, đoàn thể, tại khu vực doanh nghiệp, kể
cả tại doanh nghiệp dân doanh để trung hòa mối quan hệ chủ - thợ, thực hiện
định hướng xã hội chủ nghĩa ngay trong lòng doanh nghiệp. Các cấp ủy đảng
cần tiếp tục tổ chức tuyên truyền học tập nghị quyết của Đảng đến cán bộ

23


đảng viên, công nhân. Các cấp ủy đảng thường xuyên lãnh đạo và kiểm tra
việc thực hiện các nghị quyết của Đảng trong các loại hình doanh nghiệp.
Hoàn thiện cơ chế, chính sách đảm bảo quyền làm chủ của công nhân.
Tóm lại, hiện nay bối cảnh quốc tế có nhiều biến động phức tạp, ảnh
hưởng sâu sắc đến mọi mặt của đời sống xã hội. Mặc dù vậy, lịch sử cũng
không vận động và phát triển nằm ngoài những quy luật mà chủ nghiã MácLênin vạch ra trước đây. Nói cách khác, dù thực tiễn lịch sử hiện nay đang

trải qua những giai đoạn khó khăn phức tạp nhưng điều đó không làm thay
đổi những chân lý khách quan của thời đại. Lý luận về sứ mệnh lịch sử của
GCCN vẫn giữ nguyên giá trị, là “kim chỉ nam” cho các Đảng cộng sản và
GCCN trên toàn thế giới tiếp tục đấu tranh thực hiện mục tiêu cuối cùng của
mình là xây dựng thành công CNXH và cuối cùng là CNCS văn minh trên
toàn thế giới.
Đứng trước những tác động của nhân tố thời đại hiện nay, vấn đề đặt ra
là các đảng cộng sản phải đứng vững trên lập trường của GCCN, có cách nhìn
khách quan, đúng đắn trên mọi lĩnh vực. Phân tích đánh giá một cách toàn
diện những tác động đó, chỉ rõ những mặt tích cực, những thời cơ, thuận lợi
để tận dụng, tiếp thu; mặt khác phải nhận rõ những mặt tiêu cực, những khó
khăn, thách thức để có biện pháp khắc phục; trên cơ sở đó xây dựng, đường
lối, chiến lược, sách lược đúng đắn đẩy mạnh công cuộc cải cách, đổi mới
từng bước đưa CNXH đến bến bờ thắng lợi. Trong quá trình cải cách, đổi mới
phải nắm vững những nguyên tắc của chủ nghĩa Mác- Lênin, kiên trì, không
nóng vội chủ quan; đồng thời phải thường xuyên làm tốt công tác xây dựng,
chỉnh đốn đảng, để không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu
của đảng, bảo đảm cho đảng xứng đáng là hạt nhân đoàn kết, lãnh tụ chính trị
của GCCN, thực sự ngang tầm với yêu cầu, nhiệm vụ mới của cách mạng.

24


Đối với cách mạng Việt Nam, GCCN vẫn là giai cấp duy nhất có sứ
mệnh lịch sử là: thông qua Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo thắng lợi sự
nghiệp CNH,HĐH đất nước và góp phần thắng lợi vào cuộc đấu tranh của
nhân loại tiến bộ hiện nay vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã
hội. Tuy nhiên Đảng, Nhà nước cần phải có phương hướng đúng, chính sách
hữu hiệu nhằm phát triển GCCN Việt Nam cả về số và chất lượng. Bản thân
GCCN Việt Nam cũng cần phấn đấu nâng cao hơn nữa trình độ nghề nghiệp,

trình độ tri thức cũng như giác ngộ giai cấp…mới có thể đáp ứng được tình
hình mới của đất nước và quốc tế cũng mới đủ khả năng hoàn thành được sứ
mệnh lịch sử vẻ vang của mình.
Thực tiễn cho thấy, từ trước đến nay, vấn đề sứ mệnh lịch sử của giai cấp
công nhân luôn gặp phải sự chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch.
Đặc biệt trong bối cảnh hiện nay, cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc
tiếp tục diễn ra gay gắt, phức tạp; chủ nghĩa tư bản đang chiếm nhiều ưu thế
và có bước phát triển nhất định; chủ nghĩa xã hội hiện thực tạm thời lâm vào
thoái trào; cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại đang phát triển
mạnh mẽ như vũ bão; thế giới đang đứng trước những vấn đề toàn cầu đòi hỏi
phải giải quyết…Tất cả những yếu tố trên đã vâ đang tác động sâu sắc đến lý
luận CNXHKH nói chung và vấn đề sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
nói riêng.
Đứng trước những tác động của các nhân tố thời đại hiện nay, việc bảo
vệ và phát triển lý luận CNXHKH nói chung, lý luận về sứ mệnh lịch sử của
giai cấp công nhân nói riêng, là một vấn đề trực tiếp cấp bách, góp phần củng
cố niềm tin và cổ vũ giai cấp công nhân trên toàn thế giới tiếp tục vươn lên
hoàn thành sứ mệnh cao cả của mình.

25


×