Tải bản đầy đủ (.pdf) (22 trang)

LUẬN VĂN:Sự tuần hoàn của tư bản ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (406.08 KB, 22 trang )










LUẬN VĂN:

Sự tuần hoàn của tư bản








Lời mở đầu

Sự tuần hoàn của tư bản ở đây là gì?
Nó được hiểu như một chu kỳ hay một vòng quay của tiền tệ, sự tuần hoàn đó nó sẽ
không mất đi mà chỉ biến đổi từ dạng này sang dạng khác, nó được hiểu qua công thức
sau:
T - H - T'
T - là số tiền tệ (tư bản), bỏ ra ban đầu để mua tư liệu sản xuất, sức lao động, sau đó
biến thành "H" đem bán để thu về một lượng giá trị là T'. T' ở đây là số tiền hay giá trị kết
tinh của sản xuất hàng hoá mà chúng ta nói một cách chính xác hơn là lợi nhuận mà nhà tư
bản thu được qua quá trình đầu tư sản xuất. Mỗi quá trình của tư bản, tiền tệ càng lớn thì


lợi nhuận thu được càng cao tức "T' " và để minh chứng cho những khái niệm trên đây,
chúng ta sẽ xem kỹ hơn các qúa trình chu chuyển của tư bản trong bài dưới đây để từ đó có
thể hiểu rõ hơn về quá trình tuần hoàn và chu chuyển của tư bản!


I. Tuần hoàn của tư bản
1.1. Ba giai đoạn vận động của tư bản và sự biến hoá hình thái
của tư bản.
Mọi tư bản sản xuất trong qúa trình vận động đều trải qua 3 giai đoạn, tồn tại dưới ba
hình thức và thực hiện ba chức năng.
Giai đoạn thứ nhất: Nhà tư bản xuất hiện trên thị trường với tư cách người mua, thực
hiện hành vi T - H, tức là mua.
Giai đoạn thứ hai: Nhà tư bản tiêu dùng sản xuất các hàng hoá đã mua, tức tiến hành
sản xuất, kết quả là nhà tư bản có được một hàng hoá có giá trị lớn hơn giá trị các yếu tố
sản xuất ra hàng hoá đó.
Giai đoạn thứ ba: Nhà tư bản trở lại thị trường với tư cách là người bán, thực hiện
hành vi H' - T', tức là bán.
a. Giai đoạn thứ nhất: T - H
T - H ở đây chỉ là hành vi mua bán thông thường, tiền tệ được sử dụng làm phương
tiện mua như mọi số tiền khác trong lưu thông. Tiền tuy làm phương tiện mua nhưng phải
mua được hàng hoá sức lao động và tư liệu sản xuất nhằm mục đích sản xuất giá trị thặng
dư. Hành vi T - H không chỉ đơn thuần biểu thị việc chuyển hoá một món tiền thành hàng
hoá, mà nó đã bước vào 9 giai đoạn vận động tuần hoàn của tư bản.
Hơn nữa, việc mua tư liệu sản xuất và sức lao động không những phải phù hợp với
loại sản phẩm cần chế tạo, mà phải tỉ lệ thích hợp với nhau về số lượng. Tỉ lệ đó nhằm bảo
đảm cho quá trình sản xuất được tiến hành bình thường và nhất là để sử dụng được triệt để
toàn bộ thời gian lao động của công nhân. Nếu thiếu tư liệu sản xuất thì công nhân không
không đủ việc làm. Ngược lại, thiếu công nhân thì tư liệu sản xuất cũng không được tận
dụng để tạo ra sản phẩm. Do đó, lòng thèm khát lao động thặng dư của nhà tư bản cũng
không được thoả mãn.

Quá trình này thể hiện như sau:
Slđ
T -
H



TLsx
Rõ ràng, trong quá trình này hành vi T - Slđ (việc mua sức lao động) là yếu tố đặc
trưng khiến tiền xuất hiện ngay từ đầu với tư cách là tư bản. Hành vi T - Tlsx chỉ cần thiết
để sức lao động đã mua có thể hoạt động được song T - Slđ được coi là nét đặc trưng của
phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa không phải do tính chất tiền tệ của mối quan hệ đó.
Tiền đã xuất hiện rất sớm để mua cái được gọi là sự phục vụ, nhưng tiền lúc ấy vẫn không
biến thành tư bản tiền tệ. Nét đặc trưng không phải ở chỗ người ta có thể mua sức lao động
bằng tiền, mà sức lao động biến thành hàng hoá. Đây là một việc mua bán, một quan hệ
hàng hoá tiền tệ, những người mua là nhà tư bản - kẻ chiếm hữu tư liệu sản xuất và người
bán là người lao động làm thuê bị tách rời hoàn toàn với tư liệu sản xuất và tư liệu sinh
hoạt. Vậy không phải bản chất của tiền tệ đã đẻ ra mối quan hệ tư bản chủ nghĩa; trái lại,
chính sự tồn tại của quan hệ tư bản chủ nghĩa mới làm cho chức năng của tiền tệ là công cụ
của lưu thông hàng hoá nói chung biến thành chức năng của tư bản. Do đó, trên cơ sở tư
liệu sản xuất và sức lao động đã hoàn toàn bị tách rời nhau, quan hệ giai cấp giữa nhà tư
bản và người lao động làm thuê đã có rồi, thì tiền của nhà tư bản ứng ra để thực hiện hành
vi:
Slđ
Tlsx
Hoàn thành quá trình này, giá trị tư bản đã trút bỏ hình thái tiền tệ và mang hình thái
các yếu tố của sản xuất TBCN: tư liệu sản xuất và sức lao động, tức là hình thái tư bản sản
xuất. Như vậy, kết quả của giai đoạn thứ 1' là tư bản tiền tệ biến thành tư bản sản xuất.
b. Giai đoạn thứ hai: SX
Tư bản ứng ra mua hàng hoá sức lao động tư liệu sản xuất nhằm mục đích thu về một

tư bản có gía trị lớn hơn. Mục đích đó không thể thực hiện được bằng cách bán ngay các
hàng hoá đã mua mà chỉ có thể đạt được bằng cách sử dụng các hàng hoá ấy sản xuất ra
một hàng hoá mới. Do đó, tiếp theo giai đoạn thứ 1' (mua sức lao động và tư liệu sản xuất)
tất yếu dẫn đến giai đoạn thứ hai - giai đoạn sử dụng các hàng hoá đã mua, tức sản xuất.
Quá trình này có thể biển diễn như sau:
Slđ
T
-

H


H


SX H'



Tlsx
Quá trình sản xuất ở đây diễn ra cũng giống như quá trình sản xuất của mọi hình
thái xã hội khác, là sự kết hợp của hai yếu tố sức lao động và tư liệu sản xuất. Phương thức
kết hợp đặc thù này không chỉ là kết quả, mà còn là yêu cầu của sự vận động tư bản, qúa
trình sản xuất vì vậy trở thành một chức năng của tư bản, trở thành quá trình sản xuất tư
bản chủ nghĩa. Trong khi thực hiện chức năng của mình, tư bản sản xuất tiêu dùng các
thành phần của nó để biến thành một khối lượng sản phẩm có giá trị lớn hơn. Kết quả là
một hàng hoá mới được tạo ra khác cả về giá trị sử dụng và lượng giá trị so với các hàng
hoá cấu thành tư bản sản xuất. Hàng hoá mới này là hàng hoá mang giá trị thặng dư, đã trở
thành H', có giá trị bằng giá trị của tư bản sản xuất hao phí ra nó cộng với gía trị thặng dư
(m) do tư bản sản xuất ấy đẻ ra. Nhờ vậy kết quả của giai đoạn thứ hai là tư bản sản xuất

biến thành tư bản hàng hoá.
c. Giai đoạn thứ ba: H ' - T'
Sản xuất hàng hoá, tư bản chưa thể ngừng vận động nhà tư bản đang tồn tại dưới hình
thức hàng hoá, cần phải đem bán để thu tiền về.
Quá trình này có thể biểu hiện bằng công thức H' - T'. Không khác gì hàng hoá thông
thường, hàng hoá tư bản đưa ra lưu thông cũng chỉ thực hiện chức năng vốn có của hàng
hoá là bán để lấy tiền. Nhưng nó là tư bản hàng hoá người ngay sau khi quá trình sản xuất,
nó đã là hàng hoá, có giá trị bằng giá trị tư bản ứng trước và giá trị thặng dư. Nhờ vậy, tiến
hành trao đổi theo đúng quy luật giá trị của nó thu về được T', nghĩa là thu về được số tiền
trội hơn so với số tiền ứng ra ban đầu. Chức năng của H' không chỉ là chức năng của mọi
sản phẩm hàng hoá, mà quan trọng hơn còn là chức năng thực hiện giá trị thặng dư được
tạo ra trong qúa trình sản xuất. Kết thúc giai đoạn này, tư bản hàng hoá đã biến thành tư
bản tiền tệ. Đến đây, mục đích của tư bản được thực hiện. Tư bản trở lại hình thái ban đầu,
với số lượng lớn hơn trước.
Tổng hợp quá trình vận động của tư bản trong cả ba giai đoạn, ta có công thức:



Slđ
Tlsx




Trong công thức này, với tư cách là một giá trị, tư bản đã trải qua một chuỗi biến hoá
hình thái có quan hệ với nhau, qui định lẫn nhau; có bao nhiêu biến hoá hình thái là có bấy
nhiêu thời kỳ hay giai đoạn của quá trình vận động từ tư bản. Trong giai đoạn đó, có hai
giai đoạn thuộc lĩnh vực lưu thông và một giai đoạn thuộc lĩnh vực sản xuất. Sự vận động
của tư bản trải qua đoạn, lần lượt mang ba hình thái rồi quay trở về hình thái ban đầu với
giá trị không chỉ được bảo tồn mà còn tăng lên, gọi là sự tuần hoàn của tư bản.

Tuần hoàn của tư bản chỉ có thể tiến hành bình thường chừng nào các giai đoạn khác
nhau của nó không ngừng chuyển tiếp. Mặt khác, bản thân sự tuần hoàn của tư bản lại làm
cho tư bản phải nằm lại ở mỗi một giai đoạn tuần hoàn trong một thời gian nhất định. Do
đó, sự vận động tuần hoàn của tư bản là sự vận động đứt quảng không ngừng. Chính trong
sự vận động mâu thuẫn đó mà tư bản tự bảo tồn, chuyển hoá giá trị và không ngừng lớn
lên.
1.2. Sự thống nhất của ba hình thái tuần hoàn của tư bản
công nghiệp.
Trong quá trình vận động trải qua 3 giai đoạn, tư bản lần lượt khoác lấy các hình thái
tư bản tiền tệ, tư bản sản xuất, tư bản hàng hoá và ở mỗi hình thái nó hoàn thành một chức
năng thích hợp. Đó là tư bản công nghiệp (công nghiệp với ý nghĩa bao quát mọi ngành
sản xuất vật chất kinh doanh). Tư bản công nghiệp là hình thái tồn tại duy nhất của tư bản
với chức năng không chỉ chiếm lấy giá trị thặng dư mà còn tạo ra giá trị thặng dư.
T
-

H

………s
ản xuất…… …….H'
-

T

G. đoạn I
Hình thức tư
bản tiền tệ.
Chức năng:
mua các yếu
t

ố sản xuất

G. đoạn II
Hình thức tư
bản sản xuất.
Chức năng sản
xuất ra hàng
hoá t
ạo ra
G. đoạn III.
Hình thức tư
bản hàng hoá.
Chức năng thực
hiện giá trị
và giá tr



Tư bản tiền tệ, tư bản sản xuất và tư bản hàng hoá đều không phải là những loại tư
bản độc lập mà chỉ là những hình thái chức năng đặc thù của tư bản công nghiệp. Tư bản
này lần lượt mang 3 hình thái và xét trong qúa trình vận động liên tục, mỗi hình thái đều
có thể xem là điểm xuất phát đồng thời là điểm hồi qui của nó. Vì vậy, tư bản công nghiệp
vận động đồng thời cùng một lúc dưới cả 3 dạng tuần hoàn: tuần hoàn của tư bản tiền tệ,
tuần hoàn của tư bản sản xuất, tuần hoàn củatư bản hàng hoá.
a. Dưới chủ nghĩa tư bản, tư bản cho vay là một bộ phận của tuần hoàn tư bản công
nghiệp dưới hình thức tư bản tiền tệ tách ra. Trong quá trình tuần hoàn của tư bản công
nghiệp tất yếu sẽ dẫn đến hai hiện tượng ngược nhau: Một số nhà tư bản có một lượng tiền
tạm thời chưa dùng đến, họ cần cho vay để thu lợi tức; trong khi đó, một số nhà tư bản
khác cần tư bản để mua NVL, cần mở rộng kinh doanh mà chưa tích luỹ đủ vốn họ cần
phải đi vay. Từ đó xuất hiện tư bản cho vay.

Tư bản cho vay là tư bản mà quyền sở hữu và quyền sử dụng tách rời nhau. Cùng
một tư bản, đối với người cho vay nó là tư bản sở hữu, tức là nó chỉ được tạm giao cho
người khác sử dụng sau kỳ hạn nhất định sẽ được hoàn lại kèm theo một số lãi , đối với
người đi vay nó là tư bản hoạt động, làm chức năng tạo ra lợi nhuận - tư bản cho vay là
một loại hàng hoá đặc biệt vì người bán không mất quyền sở hữu còn người mua khi dùng
thì giá trị của nó không mất đi mà còn tăng lên, giá cả của nó không do giá trị mà do giá trị
dùng của nó quyết định và thấp hơn nhiều so với giá trị. Tuần hoàn của tư bản tiền tệ có
công thức: T - H SX H' - T', với điểm xuất phát là T và điểm kết thúc là T', biểu thị
một cách rõ nhất động cơ và mục đích vận động của tư bản là giá trị tăng thêm giá trị, tiền
đẻ ra tiền hay tư bản cho vay. Trong tuần hoàn này, T là phương tiện ứng ra trong lưu
thông nên hình như lưu thông đẻ ra giá trị lớn hơn và T' là mục đích đạt được trong lưu
thông nên hình như lưu thông đẻ ra giá trị lớn hơn, còn giai đoạn sản xuất chỉ làkhâu trung
gian. Do đó hình thái tuần hoàn của tư bản tiền tệ là hình thái nổi bật nhất, đặc trưng nhất
nêu rõ nhất động cơ, mục đích của tuần hoàn của tư bản đồng thời cũng là hình thái phiến
diện nhất, che giấu nhất quan hệ bóc lột tư bản chủ nghĩa.
b. Tuần hoàn của tư bản sản xuất có công thức:
SX H' - T' - H' SX


Nói lên sự hoạt động lắp đi lắp lại theo chu kỳ của tư bản sản xuất. Tư bản hàng hoá
trong tuần hoàn này cho thấy rõ nó là kết quả trực tiếp của sản xuất, còn tư bản tiền tệ kết
thúc sự thực hiện tư bản hàng hoá (H') - là phương tiện mua, chuẩn bị các điều kiện cần
thiết cho sản xuất, tức là chỉ làm môi giới cho tư bản hàng hoá chuyển thành tư bản sản
xuất. Tuần hoàn này vạch rõ nguồn gốc của tư bản. Dù là tái sản xuất giản đơn hay tái sản
xuất mở rộng, nguồn gốc tư bản đều từ qúa trình sản xuất mà ra. Song tuần hoàn này
không biểu thị việc sản xuất giá trị thặng dư. Dù là sản xuất hay sản xuất kết cục của nó
chỉ xuất hiện dưới hình thái cần thiết để làm chức năng tư bản sản xuất, thực hiện qúa trình
tái sản xuất, nó không hề chỉ ra mục đích của quá trình là làm tăng thêm giá trị. Do đó
người ta dễ lầm rằng mục đích của nó chỉ là sản xuất, trung tâm của vấn đề là cố gắng sản
xuất thật nhiều, thật rẻ, có trao đổi sản phẩm cũng chỉ là trao đổi sản phẩm để sản xuất

được liên tục.
c. Trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa, tư bản thương nghiệp là một bộ phận của tư
bản công nghiệp dưới hình thái tư bản hàng hoá tách ra. Nó được hình thành khi có một số
thương nhân ứng tư bản tiền tệ ra đảm bảo việc mua và bán hàng hoá cho tư bản công
nghiệp nhằm mục đích thu lơị nhuận. Tư bản thương nghiệp là tư bản hoạt động trong lĩnh
vực lưu thông hàng hoá. Nó thực hiện chức năng của tư bản hàng hoá đã tách ra khỏi quá
trình tuần hoàn của tư bản công nghiệp. Sự tách rời này phản ánh sự phát triển sản xuất và
phân công lao động xã hội.
Ra đời từ tư bản công nghiệp, tư bản thương nghiệp có quan hệ hai mặt đối với tư
bản công nghiệp: sự "phụ thuộc ở bên trong" và "độc lập ở bên ngoài".
Tuần hoàn của tư bản hàng hoá có công thức: H' - T' - H SX H' khác hẳn với các
hình thái tuần hoàn khác, điểm xuất phát của nó bao giờ cũng bắt đầu bằng H' - một giá trị
đã tăng thêm giá trị, một giá trị tư bản ứng trước đã chứa đựng giá trị thặng dư với bất kỳ
qui mô như thế nào. Do đó tuần hoàn tư bản hàng hoá có một số đặc điểm sau đây:
- Ngay từ đầu nó đã biểu hiện là hình thái của sản xuất hàng hoá tư bản chủ nghĩa
nên đã bao gồm cả tiêu dùng sản xuất và tiêu dùng cá nhân.
- Kết thúc bằng H chứ chưa chuyển hoá trở lại thành tiền đã tăng thêm giá trị mới
(T'), nó là hình thái chưa hoàn thành, còn phải tiếp tục vận động.


- Tuần hoàn của tư bản hoàng hoá là hình thái nổi bật sự liên tục của lưu thông hàng
hoá. H' là điểm bắt đầu tuần hoàn và H' điểm kết thúc tuần hoàn đều biểu hiện một khối
lượng giá trị sử dụng được sản xuất ra để bán. Do đó H' điểm bắt đầu tuần hoàn đòi hỏi lưu
thông thì điểm kết thúc H' cũng đòi hỏi ngay một qúa trình lưu thông mới.
- Hình thái tuần hoàn này còn trực tiếp bộc lộ mối quan hệ giữa những người sản
xuất hàng hoá với nhau. Nó không phải là một hình thái vận động chung cho mọi tư bản
công nghiệp cá biệt - mà đồng thời còn là hình thái vận động của tổng số những tư bản cá
biệt, tức là toàn bộ tư bản của các giai cấp các nhà tư bản, là một vận động trong đó vận
động của mỗi một tư bản công nghiệp cá biệt chỉ là một vận động bộ phận, chằng chịt với
những vận động của các tư bản khác nhau và được qui định bởi những vận động này.

Tóm lại, nếu xét riêng từng hình thái tuần hoàn, mỗi hình thái chỉ phản ánh hiện thực
tư bản chủ nghĩa một cách phiến diện, làm nổi bật bản chất này và che dấu bản chất khác
sự vận động của tư bản công nghiệp. Do đó, phải xem xét đồng thời cả 3 hình thái tuần
hoàn mới nhận thức đầy đủ sự vận động thực tế của tư bản, mới hiểu biết đúng đắn bản
chất của mối quan hệ giai cấp mà tư bản biểu hiện trong sự vận động của nó.
Trong thực tế, chỉ có sự thống nhất của 3 hình thái tuần hoàn thì qúa trình vận động
của tư bản mới có thể tiến hành liên tục không ngừng. Tuần hoàn của tư bản chỉ tiến hành
được bình thường khi cả ba giai đoạn chuyển tiếp một cách trôi chảy. Nếu một giai đoạn
nào ngừng trệ thì toàn bộ tuần hoàn sẽ bị ngừng trệ. Song muốn đảm bảo tuần hoàn không
ngừng của tư bản, bảo đảm cho tư bản liên tục chuyển hoá hình thái qua các giai đoạn kế
tiếp nhau thì phải đủ hai điều kiện.
Thứ nhất, toàn bộ tư bản phải phân ra ba bộ phận, tồn tại đồng thời ở cả ba hình thái.
Thứ hai, mỗi bộ phận tư bản ở mỗi hình thái khác nhau đều phải không ngừng liên
tục trải qua 3 hình thái. Hai điều kiện này quan hệ chặt chẽ với nhau, ràng buộc lẫn nhau,
làm tiền đề cho nhau. Chỉ khi có sự sắp xếp của các bộ phận tư bản tồn tại đồng thời ở cả 3
hình thái thì mới có sự kế tục nhau của các bộ phận tư bản ấy. Vì vậy, tuần hoàn của tư
bản trong sự liên tục của nó không những là sự thống nhất của quá trình lưu thông và quá
trình sản xuất, mà còn là sự thống nhất của cả 3 tuần hoàn của nó nữa.
II. Chu chuyển của tư bản:


Tuần hoàn của tư bản nói lên sự biến hoá hình thái của tư bản qua các giai đoạn lưu
thông và sản xuất. Tuần hoàn. Do tư bản là một sự vận động, không bao giờ đứng yên, nó
liên tục thực hiện quá trình biến hoá hình thái tức là tuần hoàn không ngừng. Sự tuần hoàn
của tư bản, nếu xét nó là một quá trình định kỳ đổi mới và lắp đi lắp lại. Chứ không phải là
một quá trình cô lập riêng lẻ thì gọi là chu chuyển của tư bản.
Nếu như khi phân tích tuần hoàn của tư bản, ta phân tích các hình thái chuyển đổi của
tư bản qua 3 giai đoạn vận động của nó thì khi phân tích chu chuyển của tư bản ta sẽ phải
lần lượt phân tích tốc độ vận động của tư bản nhanh hay chậm hay nói cách khác phân tích
thời gian chu chuyển và số vòng chu chuyển và nghiên cứu ảnh hưởng của tốc độ đó đối

với việc sản xuất và giá trị thặng dư.
2.1. Thời giai chu chuyển và số vòng chu chuyển.
Thời gian chu chuyển của tư bản là khoảng thời gian là khi nhà tư bản ứng một
lượng tư bản ra dưới một hình thái nào đó cho đến khi nó chở về tay nhà tư bản cũng dưới
hình thái như thế có thêm giá trị thặng dự.
Vì chu chuyển của tư bản chỉ là tuần hoàn của tư bản xét trong một quá trình định kỳ
nên thời gian chu chuyển của tư bản cũng là thời gian tư bản trải qua các gian đoạn lưu
thông và sản xuất trong quá trình tuần hoàn tức là bằng tổng thời gian lưu thông và thời
gian sản xuất cộng lại.
Thời gian sản xuất của tư bản là thời gian tư bản nằm trong lĩnh vực sản xuất. Thời
gian sản xuất bao gồm:
- Thời gian lao động trực tiếp: Là thời gian người lao động dùng tư liệu lao động tác
động vào đối tượng lao động để tạo ra sản phẩm. Đây là thời gian đầu tạo ra giá trị và giá
trị thặng dư cho nhà tư bản.
- Thời gian gián đoạn lao động: Là thời gian đối tượng lao động hoặc bán thành
phẩm, chịu sự tác động của tự nhiên mà không cần lao động của con người góp sức hoặc
nếu có không đáng kể.
Thời gian lao động trực tiếp và thời gian gián đoạn lao động có thể xen kẽ vào nhau,
cũng có thể tách thành những thời kỳ riêng biệt tuỳ thuộc từng ngành sản xuất cụ thể.


Thời gian gián đoạn lao động không tạo ra giá trị và giá trị thặng dư. Do đó, rút ngắn
thời gian này là vấn đề có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với các xí nghiệp tư bản chủ
nghĩa.
Thời gian sản xuất của tư bản dài hay ngắn do tác động của nhiều yếu tố, chủ yếu là 4
nhân tố sau đây:
- Tính chất của ngành sản xuất.
- Sản phẩm sản xuất chịu sự tác động của quá trình tự nhiên dài
hay ngắn.
- Năng xuất lao động, trình độ phát triển của khoa học kỹ thuật cao

hay thấp.
- Dự trữ sản xuất đủ, thiếu hay thừa.
Thời gian lưu thông của tư bản là thời gian tư bản nằm trong lĩnh vực lưu thông.
Trong thời gian lưu thông tư bản không làm chức năng sản xuất do đó không sản xuất
không sản xuất ra hàng hoá, cũng không sản xuất ra giá trị thặng dư.
Thời gian lưu thông ngắn hay dài khiến cho quá trình sản xuất lắp đi lắp lại nhanh
hay chậm, khối lượng một tư bản nhất định làm chức năng ưt bản sản xuất được nhiều lần
hay ít lần do đó hiệu quả của tư bản, tức là việc sản xuất ra giá trị thặng dư cao hay thấp.
Thời gian lưu thông gồm thời gian mua và thời gian bán, trong đó thời gian bán quan
trọng hơn và khó khăn hơn. Thời gian lưu thông dài hay ngắn chủ yếu là 3 nhân tố: tình
hình thị trường tốt hay xấu; khoảng cách thị trường xa haygần; giao thông khó khăn hay
thuận lợi, phương tiện giao thông hiện đại hay thô sơ.
Chịu ảnh hưởng của hàng loạt nhân tố nên thời gian sản xuất và thời gian lưu thông
của các nhà tư bản không thể không giống nhau. Do đó thời gian chu chuyển tư bản trong
các ngành khác nhau cũng như trong cùng một ngành rất khác nhau. Thời gian chu chuyển
của tư bản dài ngắn khác nhau nên tất yếu sẽ dẫn đến sự muốn tính toán và so sánh chúng
người ta thường tính tốc độ chu chuyển của các tư bản trong cùng một thời gian nhất định,
thường là một năm, xem tư bản đã quay được mấy vòng. Ta có công thức sau:


n =
CH
ch

n: Số vòng chu chuyển
CH: Là thời gian trong 1 năm
ch: Là thời gian chu chuyển 1 vòng của tư bản.
2.2. Tư bản cố định và tư bản lưu động.
Thời gian chu chuyển của tư bản bao gồm toàn bộ thời gian chu chuyển của các bộ
phận tư bản phải ứng ra để tiến hành sản xuất. Nhưng phương thức chu chuyển của các bộ

phận tư bản không giống nhau, do đó vòng chu chuyển của chúng cũng rất khác nhau.
Trong lĩnh vực kinh tế người ta phân chia các bộ phận tư bản thành tư bản cố định và tư
bản lưu động.
Tư bản cố định là bộ phận tư bản tham gia toàn bộ vào quá trình sản xuất, nhưng giá
trị của nó chỉ chuyển từng phần sang sản phẩm. Được xếp vào tư bản cố định trước hết là
bộ phận tư bản tồn tại dưới hình thái tư liệu lao động như máy móc, nhà xưởng đang được
sử dụng trong quá trình sản xuất. Tư liệu lao động càng bền, càng có giá trị thì càng chậm
hao mòn bấy nhiêu thời gian và giá trị khấu hao càng nhiều. Do bản chất của tư bản cố
định là chỉ chuyển một phần giá trị của nó sang sản phẩm chứ không chuyển toàn bộ giá trị
nên thông thường khi mua dây chuyền sản xuất có giá trị cao các công ty thường tính khấu
hao đều trong nhiều năm nhằm giảm giá thành sản phẩm giúp sản phẩm có chỗ đứng trên
thị trường cạnh tranh.
Bộ phận tư bản này không lưu thông dưới hình thái giá trị sử dụng của nó chỉ có giá
trị của nó lưu thông và lưu thông dần từng phần theo nhịp độ giá trị đó được chuyển vào
sản phẩm. Phần giá trị cố định như vậy trong tư liệu lao động không ngừng giảm cho đến
khi tư liệu lao động không thể dùng được nữa.
Tư bản lưu động là một bộ phận tư bản sản xuất mà giá trị của nó sau một thời kỳ sản
xuất có thể hoàn lại hoàn toàn cho nhà tư bản dưới hình thức tiền tệ, sau khi hàng hoá đã
bán song. Ngược lại với tư bản cố định, tư bản lưu động chuyển toàn bộ gía trị sang sản
phẩm trong quá trình sản xuất. Đó là tư bản bất biến dưới hình thái nguyên liệu, vật liệu


phụ, nhiên liệu tiêu dùng trong quá trình sản xuất. Bộ phận tư bản khả biến xét về
phương thức chu chuyển cũng giống như bộ phận tư bản bất biến lưu động nên cũng được
xét vào tư bản lưu động.
Sự phân chia tư bản thành tư bản cố định và tư bản lưu động là đặc điểm riêng của tư
bản sản xuất. Căn cứ vào sự phân chia là phương thức chu chuyển của tư bản. Tư bản cố
định chu chuyển chậm hơn tư bản lưu động. Trong khi tư bản cố định chu chuyển được 1
vòng thì tư bản lưu động có thể chu chuyển được nhiều vòng hơn.
Xác định tư liệu sản xuất là tư bản cố định hay tư bản lưu động phải căn cứ vào chức

năng của nó trong quá trình sản xuất. Trong quá trình sản xuất tư bản cố định bị hao mòn
dần. Một chiếc máy từ chỗ mới nguyên vẹn bị hao mòn dần trong quá trình sử dụng cuối
cùng chỉ còn là đống sắt vụn. Đó là hao mòn về mặt giá trị sử dụng. Đi đôi với hao mòn
vật chất giá trị của nó cũng bị giảm dần do đã chuyển từng phần sang sản phẩm. Đó là hao
mòn về mặt giá trị. Những sự hao mòn đó gọi là hao mòn hữu hình - hao mòn do sử dụng
trong sản xuất, do phá hoại của thiên nhiên gây ra.
Ngoài hao mòn hữu hình tư bản cố định còn bị hao mòn vô hình. Hao mòn vô hình là
nói về những trường hợp máy móc tuy còn tốt nhưng đã bị mất giá vì có những máy móc
tốt hơn hiện đại hơn xuất hiện. Nó là hao mòn thuần tuý về mặt giá trị. Một số nguyên
nhân dẫn đến hao mòn hữu hình:
- Năng suất lao động tăng lên do đó làm giảm giá trị của những chiếc máy cũ tuy giá
trị sử dụng của chúng còn nguyên vẹn hoặc mới bị hao mòn một phần.
- Tiến bộ của khoa học kỹ thuật được ứng dụng đã tạo ra những máy móc tối tân hơn,
có công suất cao hơn các máy móc cũ. Tình hình này là làm cho các máy móc cũ tuy giá trị
sử dụng còn nguyên vẹn nhưng giá trị bị giảm đi nhiều.
Hao mòn vô hình và hao mòn hữu hình của tư bản cố định đều được tính chuyển vào
giá trị sản phẩm, lưu thông của sản phẩm, chuyển hoá thành tiền và hình thành quỹ khấu
hao dùng để đổi mới tư bản cố định khi đến kỳ tái tạo ra tư bản đó dưới hình thái hiện vật.
Tư bản cố định phải được bảo quản chu đáo để tránh những hao mòn bất thường và
nâng cao hiệu quả của nó. Việc bảo quản thực hiện một phần ngay trong việc sử dụng, bảo


tồn nó và chuyển giá trị của nó vào sản phẩm. Việc bảo quản này là một cống hiến tự
nhiên, không mất tiền của lao động sống. Ngoài việc bảo quản đó, tư bản cố định còn phải
được bảo quản thực sự. Do đó phải có những chi tiêu đặc biệt để bảo dưỡng, tu bổ và sửa
chữa TSCĐ. Những chi phí bảo quản và sửa chữa đó được phân phối bình quân vào suốt
cuộc đời phục vụ trung bình của tư bản cố định và tính vào giá cả sản phẩm sản xuất ra. Số
tư bản chi cho bảo quản và sửa chữa xét về nhiều điểm là một thứ tư bản có tính chất đặc
biệt, không thể xếp vào tư bản lưu động cũng không thể xếp vào tư bản cố định. Nhưng vì
là một bộ phận trong chi phí thường ngày nên nó được sắp xếp vào tư bản lưu động, trừ

những chi phí sửa chữa lớn có tính chất thay thế hay đổi mới tư bản cố định tính vào quĩ
khâú hao TSCĐ.
2.3. Chu chuyển chung, chu chuyển thực tế của tư bản ứng trước và tỉ suất giá trị
thặng dư hàng năm.
a. Chu chuyển chung.
Tốc độ chu chuyển của tổng tư bản ứng trước được tính bằng tốc độ chu chuyển
trung bình của tư bản cố định và tư bản lưu động. Công thức tính tốc độ chu chuyển của
tổng tư bản ứng trước được tính bằng giá trị chu chuyển của tư bản cố định và giá trị chu
chuyển của tư bản lưu động trong năm chia cho tổng số tư bản ứng trước.
Ví dụ: Tổng tư bản ứng trước là 80.000 đ, trong đó tư bản cố định là 60.000đ và cứ
10 năm phải đổi mới 1 lần tức 1 năm chu chuyển giá trị của nó vào sản phẩm mới
60.000
10

= 6.000đ; còn tư bản lưu động là 20.000 và cứ 2 tháng chu chuyển một lần tức 1 năm
chuyển một số giá trị vào sản phẩm mới là 20.000 x 6 = 120.000đ thì tốc độ chu chuyển
của tổng tư bản ứng trước bằng
120.000 + 6.000
80.000
= 1,575 vòng.
Qua ví dụ trên chỉ rõ tốc độ chu chuyển của tổng tư bản tỉ lệ thuận với tổng giá trị
chu chuyển của tư bản cố định và tư bản lưu động, tỉ lệ nghịch với giá trị của tổng tư bản
ứng trước.
Tăng tốc độ chu chuyển của tư bản sẽ tăng được hiệu suất sản xuất và mang lại giá trị
thặng dư nhiêù hơn cho nhà tư bản. Tăng tốc độ chu chuyển của tư bản cố định còn giúp


nhà tư bản có thể tránh được thiệt hại do hao mòn và tăng cường sử dụng quĩ khấu hao vào
việc mở rộng và cải tiến sản xuất.
b. Chu chuyển thực tế.

Chu chuyển thực tế là thời gian để tất cả các bộ phận của tư bản ứng trước được khôi
phục toàn bộ về mặt giá trị cũng như về mặt hiện vật chu chuyển thực tế chủ yếu do thời
gian tồn tại của tư bản cố định quyết định.
Ví dụ: trong một doanh nghiệp chu chuyển của tư bản cố định 10 năm 1 lần, tư bản
lưu động chu chuyển 3 lần. Như vậy chu chuyển thực tế của tư bản ứng trước là 10 năm.
Ngày nay khoa học kỹ thuật rất phát triển việc cho ra đời các máy móc hiện đại thay
thế cho những máy móc cũ lạc hậu là điều tất yếu. Nhưng chính sự thay thế này là một
trong những nhân tố ảnh hưởng đến tốc độ chu chuyển thực tế của tư bản ứng trước.
Qua phân tích chu chuyển chung và chu chuyển thực tế của tư bản ứng trước ta thấy
sự khác biệt rõ ràng giữa tuần hoàn và chu chuyển tư bản. Tư bản tuần hoàn không ngừng
và thường xuyên lặp đi lặp lại sự tuần hoàn đó. Trong quá trình tuần hoàn có rất nhiều
vòng tuần hoàn nhỏ riêng biệt được thực hiện. Còn chu chuyển của tư bản chỉ xét trong
một quá trình cô lập riêng lẻ.
c. Tỉ suất giá trị thặng dư hàng năm.
Tỉ suất giá trị thặng dư là tỉ lệ phần trăm giữa giá trị thặng dư vào tư bản khả biến
biểu thị bằng công thức.
m' =
m
v
x 100
Tăng tốc độ chu chuyển của tư bản có ý nghĩa hết sức quan trọng, nó chính là nâng
cao tỉ suất giá trị thặng dư hàng năm, tức là nâng cao tỉ số giữa khối lượng giá trị thặng dư
hàng năm với tư bản khả biến ứng ra trước.
Giả định hai tư bản A và B có khối lượng tư bản khả biến ứng ra như nhau là
20.000đ, có tỉ suất giá trị thặng dư như nhau 100% nhưng tư bản A mỗi năm chỉ chu
chuyển một vòng còn tư bản B được 2 vòng thì số lượng giá trị thặng dư hai tư bản ấy thu
được sẽ khác nhau: tư bản A thu được 20.000đ x 100% = 20.000đ, còn tư bản B thu được


(20.000đ x 2) x 100% = 40.000đ. Do đó tỉ suất giá trị thặng dư hàng năm của hai tư bản

cũng khác nhau. Tư bản A đạt tỉ suất giá trị thặng dư hàng năm là
20.000
20.00
x 100% = 100%;
tư bản B đạt tỉ suất giá trị thặng dư là
40.000
20.000
x 100% = 200%.
Tuy hai tư bản khả biến ứng trước như nhau nhưng do tốc độ chu chuyển khác nhau
nên tư bản khả biến sử dụng khác nhau và do đó tuy tỉ suất giá trị thặng dư thực tế như
nhau lại dẫn đến tỉ suất giá trị thặng dư hàng năm khác nhau.
III. ý nghĩa thực tiễn khi nghiên cứu lý thuyết thuần hoàn và chu chuyển của tư
bản đối với việc quản lý các doanh nghiệp ở nước ta khi bước vào nền kinh tế thị
trường có sự quản lý của Nhà nước.
Tại Đại hội Đảng lần thứ VI năm 1986 đánh dấu một bước ngoặt quan trọng cho nền
kinh tế nước ta, từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp chuyển sang nền kinh tế thị
trường có sự quản lý của Nhà nước. Trước năm 1986 quan hệ ngoại giao của nước ta với
các nước trên thế giới rất mờ nhạt, chủ yếu quan hệ với một số nước anh em như: Liên Xô
(cũ), Trung Quốc, Bungari với mục đích tiếp tục nhận viện trợ . Nền kinh tế trong nước
còn đang yếu, các doanh nghiệp sản xuất theo lệnh từ cấp trên đưa xuống và cũng chính
Nhà nước tìm cách tiêu thụ sản phẩm cho doanh nghiệp bên cạnh đó lạm phát luôn là mức
phi mã. Từ khi chuyển sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước các doanh
nghiệp có trách nhiệm duy trì, bảo tồn và phát triền nguồn vốn hiện có nghĩa là doanh
nghiệp tự mình sản xuất kinh doanh tìm "đầu vào" và "đầu ra" cho doanh nghiệp. Về phía
Nhà nước lúc này chỉ quản lý các doanh nghiệp ở tầm vĩ mô. Do đó nghiên cứu lý thuyết
thuần hoàn của tư bản rất có ý nghĩa đối với việc quản lý các doanh nghiệp ở nước ta trong
nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước.
Thứ nhất: xác định đường lối sản xuất kinh doanh cho doanh nghiệp.
Hiện nay nước ta đang tồn tại song song 5 phần kinh tế. Cùng với sự xuất hiện của
những doanh nghiệp mới thành lập đã có rất nhiều doanh nghiệp làm ăn không có hiệu quả

dẫn đến phá sản. Ngay từ khi có quyết định bỏ vốn thành lập doanh nghiệp nhà quản trị
phải trả lời được 3 câu hỏi: doanh nghiệp sản xuất cái gì? sản xuất như thế nào? sản xuất
cho ai? chỉ khi trả lời ba câu hỏi này một cách đầy đủ và chính xác nhất thì hoạt động sản


xuất kinh doanh của doanh nghiệp mới được tiến hành bình thường và liên tục hay nói
cách khác doanh nghiệp góp phần thực hiện quá trình tuần hoàn tư bản.
Để trả lời được câu hỏi doanh nghiệp sản xuất cái gì? doanh nghiệp cần phân tích nhu
cầu của thị trường xem thị trường đang thiếu cái gì mà nhu cầu về mặt hàng ngày đang
tăng và nó sẽ mang lại nhiều lợi nhuận nhất cho doanh nghiệp trong khả năng vốn hiện có.
Sau đó nhà quản trị sẽ bỏ vốn để mua tư liệu sản xuất như nguyên vật liệu chính, nguyên
vật liệu phụ, thiết bị sản xuất, nhiên liệu, nhà xưởng, kho tàng và mua sức lao động (trả
lương cho công nhân). Đây là giai đoạn vốn của doanh nghiệp từ hình thái tiền tệ chuyển
sang hình thái hiện vật. ở giai đoạn này nhà quản trị phải cân đối vốn để mua tư liệu sản
xuất và trả lương cho công nhân theo tỉ lệ thích hợp. Nếu thiếu một trong hai nhân tố đó
thì quá trình sản xuất sẽ bị gián đoạn làm ảnh hưởng tới sự tuần hoàn và chu chuyển của tư
bản. Dựa vào phân tích tốc độ chu chuyển của vốn các doanh nghiệp không chỉ lên kế
hoạch sản xuất kinh doanh mà còn phải xây dựng chiến lược kinh doanh dài hạn bằng cách
hình thành các quĩ như quĩ đầu tư, phát triển, quĩ khấu hao, quĩ phúc lợi. Sau một thời gian
sản xuất những quĩ này được đưa ra sử dụng mở rộng sản xuất (theo chiều rộng) hoặc cải
tiến máy móc, nhập thêm dây chuyền hiện đại để tăng năng suất lao động (mở rộng theo
chiều sâu).
Thứ hai: tiết kiệm được tư bản ứng trước.
Sau một thời gian dài hoạt động máy móc sẽ bị hao mòn dần do chuyển một phần giá
trị vào sản phẩm. Ngoài việc cải tiến máy móc, nhập thêm những dây chuyền sản xuất tiên
tiến, hiện đại các doanh nghiệp phải dựa vào kinh nghiệm sản xuất kinh doanh mà dự tính
trước những công việc bảo dưỡng, tiểu tu, trung tu, đại tu tài sản cố định sau những
khoảng thời gian hoạt động nhất định, cũng như việc sửa chữa hư hỏng thông thường và
bất thường có thể xảy ra.
Ngoài ra, để tránh hao mòn vô ích, nhất là hao mòn vô hình doanh nghiệp phải ra sức

tiết kiệm các chi phí bảo quản và sửa chữa bằng cách nâng cao ý thức người lao động đối
với việc sử dụng máy móc, tăng cường sử dụng hết công suất máy thiết kế để thu hồi vốn
nhanh và thu nhiều lợi nhuận trong thời gian ngắn nhất.
Thứ ba: đưa ra các giải pháp để tăng tốc độ chu chuyển vốn.


Muốn quay vòng vốn nhanh để tiếp tục một chu kỳ sản xuất mới các doanh nghiệp
phải ra sức rút ngắn thời gian sản xuất và thời gian lưu thông vì nó là thành phần tạo nên
thời gian chu chuyển của vốn. Các doanh nghiệp ở nước ta trong cơ chế thị trường có sự
quản lý của nhà nước thường đưa ra những giải pháp sau đây để rút ngắn thời gian sản
xuất.
+ áp dụng khoa học - kỹ thuật hiện đại để tăng năng suất lao động. Bên cạnh việc
nhập khẩu một số dây chuyền nước ngoài có công nghệ tiên tiến các doanh nghiệp không
nên bỏ qua những dây chuyền sản xuất có khả năng sử dụng bằng cách bán lại cho những
doanh nghiệp cần nó.
+ Mở rộng quan hệ để liên doanh, liên kết. Việt Nam là một trong những nước nghèo
nhất trên thế giới do đó liên doanh liên kết là con đường ngắn nhất để bắt kịp với sự tiến
bộ của xã hội.
+ Cải tiến bộ máy tổ chức và quản lý lao động. Hiện nay một số doanh nghiệp nhà
nước có cơ cấu tổ chức quản lý cồng kềnh dẫn đến giải quyết công việc bị chồng chéo lên
nhau,vi phạm quyền hạn và trách nhiệm của người này với người khác. Vì vậy, các doanh
nghiệp cần phải giảm lực lượng lao động gián tiếp không có năng lực để bộ máy được gọn
nhẹ linh hoạt, tuân thủ chế độ một thủ trưởng. Mặt khác lực lượng lao động trực tiếp là
người sản xuất ra sản phẩm nên phải bố trí ca kíp làm việc hợp lý cho mọi người để có
thời gian nghỉ ngơi. Thực hiện chế độ làm việc 40 giờ một tuần đồng thời trả lương xứng
đáng cho người lao động đã bỏ sức ra, khuyến khích người lao động làm việc có năng suất,
hiệu quả bằng những phần thưởng vật chất và tinh thần.

Một số giải pháp rút ngắn thời gian lưu thông.
+ Nhu cầu của con người thường xuyên biến đổi, khi một nhu cầu này được thoả mãn

nhu cầu khác lại xuất hiện, qúa trình này không ngừng diễn ra. Để thoả mãn nhu cầu của
người tiêu dùng đồng nghĩa bán được sản phẩm và thu hồi vốn nhanh, các doanh nghiệp
phải thường xuyên nghiên cứu thị trường, tìm hiểu thị trường xem sản phẩm nào đang có
nhu cầu trên thị trường để tăng sản lượng sản xuất. Ngược lại, nếu một số sản phẩm do


doanh nghiệp sản xuất ra đang bão hoà và có xu hướng giảm dần doanh nghiệp nên chuyển
hướng sản xuất kinh doanh sản phẩm khác.
+ Cải tiến mặt hàng sao cho chủng loại hàng hoá của doanh nghiệp luôn phong phú
đa dạng, phù hợp với từng đối tượng, giới tính, độ tuổi. Sản xuất đa dạng hoá sản phẩm
không những thoả mãn tối đa nhu cầu của người tiêu dùng mà còn tận dụng được những tư
liệu sản xuất chưa dùng đến và giảm thiểu rủi ro trong kinh doanh.
+ áp dụng các hình thức thanh toán linh hoạt và đặc biệt phải xây dựng các kênh
phân phối. Xác định đâu loại thị trường chính, thị trường mục tiêu từ đó phân khúc thị
trường nhằm mở rộng thị phần.
Thứ tư: hạn chế rủi ro trong kinh doanh.
Trong cơ chế thị trường sự cạnh tranh diễn ra hết sức khốc liệt, nó tạo ra nhiều cơ
hội làm ăn mới nhưng cũng chứa đầy những thách thức và đe doạ. Nắm bắt được qui luật
tuần hoàn và chu chuyển vốn của doanh nghiệp các nhà quản trị tận dụng cơ hội để đầu tư
mở rộng sản xuất kinh doanh.



Kết luận

Sản xuất tư bản chủ nghĩa là sự thống nhất biện chứng giữa quá trình sản xuất và qúa
trình lưu thông, giữa quá trình tạo ra giá trị thặng dư và quá trình thực hiện giá trị thặng
dư. Vì vậy nghiên cứu lý thuyết tuần hoàn và chu chuyển của tư bản chính là nghiên cứu
quá trình lưu thông để xác định rõ hơn vị trí của lưu thông và hiểu biết đầy đủ sự vận động
của tư bản cùng với những biểu hiện của quan hệ bóc lột tư bản chủ nghĩa trong qúa trình

vận động đó.
Nước ta sau hơn 10 năm thực hiện công cuộc đổi mới chuyển từ nền kinh tế tập
trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường đã thu được nhiều kết quả to lớn đáng
khả quan. Bộ mặt đất nước đã và đang thay đổi một cách nhanh chóng, đời sống nhân dân
được cải thiện và nâng cao. Đặc biệt trong một vài năm trở lại đây kinh tế thị trường đã tạo
ra một môi trường kinh tế hết sức sôi động và cạnh tranh gay gắt do đó để tồn tại và đứng
vững trên thị trường các doanh nghiệp cần kết hợp phân tích lý thuyết tuần hoàn và chu
chuyển của tư bản với điều kiện hiện có của doanh nghiệp. Do lần đầu tiên với việc nghiên
cứu môn Kinh tế chính trị và thời gian có hạn nên không thể tránh được những sai sót
trong quá trình thực hiện.





Tài liệu tham khảo


1. C.Mác tư bản quyển 2 - Tập 1
2. C.Mác tư bản quyển 2 - Tập 2
3. Chính sách cổ phần hoá DNNN (NXB chính trị quốc gia 1997)
4. Một số văn kiện Đại hội Đảng VIII
5. Giáo trình “Kinh tế chính trị” tập II - Trường ĐH KTQD
6. Tạp chí “Tài chính tiền tệ” số 2, 05, 18 năm 1999
7. Tạp chí “Phát triển kinh tế” các số: 20-22/2000
8. Tạp chí “Ngân hàng” số 4/2000
9. Tạp chí “Doanh nghiệp” số 8/2000

Mục lục


Trang

Lời mở đầu
3

I/ Tuần hoàn của tư bản
4

1.1. Ba giai đoạn vận động của tư bản và sự biến hoá hình thái
của tư bản
4

a. Giai đoạn thứ nhất: T - H 4



b. Giai đoạn thứ hai: sản xuất 5

c. Giai đoạn thứ ba: H' - T' 6

1.2. Sự thống nhất của ba hình thái tuần hoàn
của tư bản công nghiệp
7

II/ Chu chuyển của tư bản
11

2.1. Thời gian chu chuyển và số vòng chu chuyển 11

2.2. Tư bản cố định và tư bản lưu động 13


2.3. Chu chuyển chung, chu chuyển thực tế của tư bản ứng trước và tỉ
suất giá trị thặng dư hàng năm
15

III/ ý nghĩa thực tiễn khi nghiên cứu lý thuyết tuần hoàn và chu
chuyển của tư bản đối với việc quản lý các doanh nghiệp ở nước ta
khi bước vào nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước
17

Kết luận
21



×