Tải bản đầy đủ (.pdf) (25 trang)

LUẬN VĂN: Nghiên cứu lý luận của Lê nin về CNTB nhà nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (467.64 KB, 25 trang )








LUẬN VĂN:

Nghiên cứu lý luận của Lê nin về
CNTB nhà nước trong thời kỳ quá độ
lên CNXH




Mở đầu

Lịch sử loài người đã và đang trải qua năm hình thái kinh tế xã hội đó là: Cộng sản
nguyên thuỷ, Chiếm hữu nô lệ, Phong kiến, Chủ nghĩa tư bản (CNTB), Chủ nghĩa xã hội
(CNXH). Mỗi một hình thái kinh tế xã hội tồn tại trên một phương thức sản xuất đặc trưng
riêng, phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Học thuyết kinh tế
chính trị của Mác - Lê Nin khẳng định: nếu đúng theo nguyên lý về hình thái kinh tế xã hội thì
tất cả các quốc gia muốn phát triển từ phương thức sản xuất này sang phương thức sản xuất
khác cao hơn thì tất yếu phải qua một bước trung gian mà Mác gọi đó là thời kỳ quá độ. Trong
thời kỳ quá độ lên CNXH tất yếu phải trải qua những bước trung gian để tạo lập cơ sở vật chất
kỹ thuật. Trong những bước trung gian đó chủ nghĩa tư bản nhà nước (CNTBNN) được coi như
một “chiếc cầu nhỏ” bắc giữa xã hội cũ tới xã hội chủ nghĩa (XHCN) và “chủ nghĩa tư bản độc
quyền nhà nước là sự chuẩn bị vật chất đầy đủ nhất cho CNXH, là phòng chờ đi vào CNXH, là
nấc thang lịch sử mà giữa nó với nấc thang được gọi là CNXH thì không có một nấc thang nào
ở giữa cả”.


Việt Nam đang trong thời kỳ quá độ lên CNXH, để xây dựng và tạo lập cơ sở vật chất kỹ
thuật thì chúng ta phải có những giải pháp để khai thác triệt để vai trò của mọi thành phần kinh
tế tồn tại trong thời kỳ quá độ, trong đó có thành phần kinh tế TBNN. Vì vậy, việc nghiên cứu
lý luận của Lê nin về CNTB nhà nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH, để vận dụng nó vào
việc phát triển kinh tế đất nước là vô cùng hợp lý.


Nội dung




I. Lý luận của Lê nin về CNTB nhà nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH và thực
tiễn CNTBnn thời Lê nin.
1. Lý luận về sự hình thành và phát triển của CNTB nhà nước của Lê nin.
1.1. Khái niệm về CNTB nhà nước.
Dưới chế độ TBCN, TBNN được thực hiện bằng cách chuyển các xí nghiệp cá biệt vào
trong tay nhà nước tư sản, xây dựng các xí nghiệp mới dựa vào ngân sách nhà nước, nắm cổ
phiếu khống chế công ty cổ phần CNTB nhà nước trong điều kiện chuyên chính tư sản là
hình thức biến dạng của sở hữu TBCN. Mặc dù đó là quyền sở hữu của nhà nước nhưng hình
thức sở hữu này không làm thay đổi bản chất chế độ TBCN. ở các nước đế quốc, CNTBNN
mang tính chất CNTB độc quyền nhà nước.
CNTB độc quyền nhà nước là hình thức thống trị của tư bản độc quyền dựa trên cơ sở tích
tụ và tập trung tư bản cao độ, là biểu hiện của trình độ sản xuất xã hội hoá trên thực tế cao độ,
là hình thức mới của sở hữu TBCN. Dưới chế độ tư bản, việc xã hội hoá sản xuất đã tiến một
bước dài với mức độ cao so với các hình thái xã hội trước đó và được gắn liền với sự phá t triển
của sự phân công xã hội, với sự tích tụ và tập trung tư bản. Các mác đã chỉ ra quy luật chung
của tích luỹ tư bản rằng: sự tập trung tư liệu sản xuất và xã hội hoá lao động đã đạt mức không
còn phù hợp với cái vỏ TBCN của nó nữa. Cái vỏ TBCN ấy phải nổ tung”. Còn Lê nin thì
vạch rõ, CNTB độc quyền nhà nước là tiền đề vật chất đầy đủ và là ngưỡng cửa của CNXH.

Ngày nay, CNTB nhà nước dưới chế độ tư bản đang mang hình thức CNTB độc quyền
nhà nước. Lê nin đã khẳng định CNTB độc quyền nhà nước như sau: “CNTB nhà nước, theo sự
giải thích của toàn bộ sách báo kinh tế là CNTB dưới chế độ tư bản, khi chính quyền nhà nước
trực tiếp khống chế những xí nghiệp TBCN , là sự chuẩn bị đầy đủ nhất cho sự ra đời của
CNXH


CNTB nhà
nước ở các nước đang phát triển dưới chính quyền không thuộc về giai cấp công nhân và nông
dân. ở các nước này, CNTBNN tồn tại dưới rất nhiều hình thức: liên doanh với tư bản nước
ngoài, đặc khu kinh tế, khu chế xuất, khu đầu tư kỹ thuật, nắm cổ phiếu của một số công ty cổ
phần Trong các hình thức này thì việc xây dựng các xí nghiệp quốc doanh TBCN có vai trò
đặc biệt quan trọng. Dựa vào thực tế một số nước, có ý kiến cho rằng, mặc dù vẫn là thứ CNTB
nằm trong quan hệ TBCN nhưng đó là một kiểu CNTB nhà nước mới, là thứ CNTB do nhà
nước trực tiếp khống chế. Một mặt, nhà nước ở các nước đang phát triển vẫn chưa phải là nhà
nước do giai cấp vô sản lãnh đạo nhưng cũng không thuộc về giai cấp tư sản độc quyền, mà
thuộc về giai cấp tư sản dân tộc. Vì thế, không thể tránh khỏi những tiêu cực vốn có của bất kỳ
nhà nước tư sản nào. Nhưng mặt khác, kiểu CNTBNN này có vai trò tích cực trong việc phát
triển kỹ thuật và cải tạo cơ cấu kinh tế, trong việc củng cố nền độc lập về kinh tế, chống lại thế
lực tư bản nước ngoài, đẩy mạnh sự phát triển tự chủ vì nền độc lập của những nước đó.
CNTBNN trong điều kiện chuyên chính vô sản là một kiểu CNTBNN chưa hề có trong
lịch sử. Chính bản chất mới của nhà nước này đã làm cho CNTBNN mang một nội dung mới
và có một vai trò mới.
Từ sự phân tích sơ lược về lịch sử hình thành và các kiểu CNTBNN đã từng tồn tại trong
thực tế đến nay, có thể rút ra một khái niệm chung về CNTBNN cho dù chúng tồn tại trong
điêù kiện lịch sử khác nhau như thế nào.
Theo quan niệm của Lê nin thì:
 CNTBNN là CNTB do nhà nước kiểm soát và điều tiết sự phát triển, vấn đề khác nhau chỉ
là chỗ kiểm soát và điều tiết nhằm mục đích gì, có lợi cho ai, trong giới hạn nào, bằng
phương pháp gì và khả năng kiểm soát, điều tiết đạt mức độ nào.

 CNTBNN là chính quyền nhà nước trực tiếp khống chế những xí nghiệp TBCN. Sự khống
chế trực tiếp ấy đạt tới mức độ nào trong thực tế sẽ quyết định trình độ và hình thức khác
nhau của CNTBNN.
 Toàn bộ vấn đề là phải hiểu rõ với điều kiện nào thì phải phát triển CNTB và nhà nước là
của ai. Cũng từ đây mà hiểu được tính chất “đặc biệt”, “không thông thường” của


CNTBNN trong điều kiện chính quyền nằm trong tay nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng
cộng sản.
1.2. CNTBNN trong hệ thống chính sách kinh tế mới của Lê nin.
1.2.1. Chính sách cộng sản thời chiến và sự tất yếu phải chuyển sang chính sách kinh tế
mới (NEP).
Khi cách mạng Tháng Mười vừa thành công thì chính quyền Xô viết phải đương đầu với
cuộc nội chiến và cuộc can thiệp vũ trang của cả chủ nghĩa đế quốc thế giới. Đứng trước nguy
cơ một mất một còn, chính quyền Xô viết tìm mọi cách để tập trung mọi lực lượng nhằm đánh
bại những lực lượng thù địch bên trong và bên ngoài. Chính sách “Cộng sản thời chiến” ra đời
trong hoàn cảnh ấy. Đó là chính sách kinh tế của nhà nước Xô viết nhằm huy động mọi tài
nguyên trong nước cho nhu cầu của tiền tuyến trong điều kiện nền kinh tế bị tàn phá sau cuộc
chiến tranh thế giới thứ nhất.
Nội dung cơ bản của chính sách “Cộng sản thời chiến”:
 Trưng thu lương thực thừa của nhân dân
 Xoá bỏ quan hệ hàng hoá - tiền tệ, thực hiện chế độ cung cấp hiện vật cho quân đội và bộ
máy nhà nước.
 Thi hành chế độ nghĩa vụ lao động phổ biến đối với tất cả mọi người có năng lực lao động.
Chính sách cộng sản thời chiến đã đóng vai trò quan trọng trong việc bảo đảm thắng lợi cho
cuộc nội chiến. Nhưng sau khi đập tan bọn vũ trang can thiệp và kết thúc nội chiến, tình hình
kinh tế, chính trị, xã hội nước Nga rất bi đát. Đất nước lâm vào cuộc khủng hoảng toàn diện
trầm trọng. Đất nước Xô viết cần có những biện pháp mới, chiến lược mới để khôi phục và
phát triển vì chính sách “Cộng sản thời chiến” không còn phù hợp. Thực tế cho thấy không thể
thực hiện ngay CNXH mà cần phải lùi về CNTBNN, từ bỏ biện pháp tấn công chính diện và

bắt đầu một cuộc bao vây lâu dài. Sự chuyển đổi ấy được đánh dấu bằng chính sách “kinh tế
mới”.
1.2.2. CNTBNN trong hệ thống chính sách kinh tế mới của Lê nin


Những tư tưởng của Lê nin về CNTBNN trong nhà nước chuyên chính vô sản: là CNTB
do nhà nước vô sản kiểm soát và điều tiết. Là sự kết hợp, liên hợp, phối hợp, nhà nước Xô viết,
nền chuyên chính vô sản với CNTB. Là một khối với CNTB ở bên trên.
Bản chất của CNTBNN trong chính sách kinh tế mới của Lê nin: thực chất của NEP là tăng
cường cơ sở kinh tế của liên minh chặt chẽ giữa giai cấp công nhân và nông dân. NEP kiến lập
mối quan hệ đúng đắn giữa công nghiệp XHCN với kinh tế sản xuất hàng hoá nhỏ của nông
dân thông qua việc sử dụng rộng rãi quan hệ hàng hoá - tiền tệ dưới sự kiểm soát của nhà nước
để phát triển lực lượng sản xuất, đồng thời NEP cho phép phát triển và hướng kinh tế tư bản
vào con đường CNTBNN. Với nội dung cụ thể của NEP là :
 Thay thế chế độ trưng thu lương thực thừa bằng chế độ thuế lương thực nghĩa là sau khi thu
hoạch người nông dân phải nộp thuế cho nhà nước phần còn lại thuộc về nông dân và được
trao đổi tự do trên thị trường.
 Thiết lập một cách đúng đắn quan hệ hàng hoá tiền tệ giữa nhà nước với nông dân, giữa
công nghiệp XHCN với nông nghiệp.
 Chuyển các doanh nghiệp nhà nước (quốc doanh) sang chế độ hạch toán kinh tế.
 Sử dụng khả năng của cơ cấu kinh tế nhiều thành phần, các hình thức kinh tế trung gian
quá độ, đặc biệt là sử dụng CNTB nhà nước.
 Tăng cường vai trò quản lý vĩ mô của nhà nước trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế.
Khi chuyển sang NEP, Lê nin đã thẳnh thắn thừa nhận rằng “toàn bộ quan điểm của chúng
ta về CNXH đã thay đổi về cơ bản”. Trước đấy, Đảng và nhà nước Xô viết đã tính có thể dựa
vào nhiệt tình cách mạng mà trực tiếp thực hiện những nhiệm vụ về kinh tế như những nhiệm
vụ về quân sự; có thể dùng những biện pháp trực tiếp của nhà nước vô sản để tổ chức sản xuất
và phân phối sản phẩm theo kiểu cộng sản chủ nghĩa ở một nước tiểu nông. Nhưng chỉ một thời
gian ngắn thực hiện, Lê nin đã thấy rằng không thể xây dựng trực tiếp CNXH ở một nước tiểu
nông như nước Nga lúc đó mà phải “ bắc những chiếc cầu nhỏ, đi xuyên qua CNTBNN, tiến

lên CNXH”.


Với chế độ thuế lương thực thay thế cho chế độ trưng thu lương thực thừa, phần còn lại sau
khi nộp thuế sẽ thuộc về nông dân và có thể tự do trao đổi nó trên thị trường. “Tự do buôn bán
có nghĩa là có sự phát triển của CNTB” nhưng “ CNTB ấy không đáng sợ” làm như thế sẽ cải
thiện được nền kinh tế nông dân mà chúng ta rất cần cải thiện.
Khi chuyển sang NEP, nhà nước Xô viết đã sử dụng những biện pháp, phương pháp hoạt
động của CNTBNN và đã thực hiện việc “điều tiết trao đổi hàng hoá”. Nhưng việc trao đổi ấy
ít nhiều vẫn theo phương thức cũ, nên đã bị thất bại: trao đổi sản phẩm đã biến thành mua bán
sản phẩm. Vậy theo Lê nin “rút lui” là chưa đủ. Cần chuyển từ CNTBNN sang thiết lập chế độ
nhà nước điều tiết việc mua bán và lưu thông tiền tệ. Và khẳng định: “đó là con đường duy
nhất có thể đi theo được đối với chúng ta”.
Lê nin đã nêu lên những hình thức của CNTBNN. Người đặc biệt chú ý tới tô nhượng, vì tô
nhượng tăng cường nền sản xuất lớn hiện đại mà không có nó thì về phương diện kinh tế bước
quá độ lên CNXH là không thể thực hiện được. Hợp tác xã, trong điều kiện cụ thể của nước
Nga lúc đó, theo Lê nin cũng là một hình thức của CNTBNN nhưng có hình thù ít rõ rệt hơn,
phức tạp hơn. Việc chuyển đổi từ chế độ hợp tác xã lên CNXH là chuyển từ tiểu sản xuất lên
đại sản xuất. Chế độ hợp tác xã không xoá bỏ người sản xuất nhỏ với lợi ích tư nhân của họ mà
đặt lợi ích đó dưới sự điều tiết của nhà nước và phục vụ lợi ích chung.
Về mặt chính trị, Lê nin khẳng định nhiều lần rằng CNTBNN là không đáng sợ, không thay
đổi được gì có tính chất căn bản trong chế độ xã hội của nước Nga Xô viết, với hai điều kiện là:
một là, chính quyền nhà nước phải nằm trong tay giai cấp công nhân và nhà nước quy định
khuôn khổ cho sự phát triển của CNTBNN; hai là nhà nước phải nắm các đỉnh cao kinh tế để
điều tiết nền kinh tế. Lê nin cũng cho rằng CNTBNN là một hình thức mới của đấu tranh giai
cấp, chứ không phải là hoà bình giai cấp. Vì vậy, nhà nước phải bảo vệ lợi ích của nhân dân lao
động.
CNTBNN mà Lê nin nêu là một hình thức đặc biệt. Nó khác với khái niệm thông thường về
CNTBNN, vì ở đây nhà nước nằm trong tay giai cấp vô sản và những đỉnh cao của nền kinh tế
thì nằm trong tay nhà nước XHCN.



Từ những điều trình bày trên, chúng ta có thể thấy: CNTBNN không chỉ là một thành phần
kinh tế trong kết cấu của nền kinh tế quá độ mà còn là sách lược của nhà nước vô sản, là con
đường để thực hiện sự quá độ lên chủ nghĩa xã hội trong một nước tiểu sản xuất chiếm ưu thế.
2. Thực tiễn thực hiện CNTBNN ở nước Nga thời Lênin.
2.1. Tính tất yếu của CNTBNN ở nước Nga.
Chính sách kinh tế mới nói chung, CNTBNN nói riêng ra đời là xuất phát từ điều kiện
thực tế và là sự tất yếu do hoàn cảnh thực tế đề ra. Nước Nga là nước chậm tiến ở Châu Âu,
cho nên nước Nga Xô viết chỉ mới có nguyện vọng kiên quyết tiến lên con đường chủ nghĩa xã
hội mà chưa có nền móng kinh tế của nó. Trong một nước như vậy theo Lê nin, cuộc cách
mạng XHCN chỉ có thể thắng lợi triệt để với hai điều kiện: Điều kiện thứ nhất là có sự ủng hộ
kịp thời của cách mạng XHCN ở một số nước tiên tiến. Điều kiện thứ hai: Là sự thoả thuận
giữa giai cấp vô sản đang thực hiện sự chuyên chính của mình hoạc đang nắm chính quyền nhà
nước với đại đa số nông dân. Lê nin khẳng định: chừng nào cách mạng chưa nổ ra ở các nước
khác thì chỉ có thoả thuận với nông dân mới có thể cứu vãn được cuộc cách mạng XHCN. Đó
là lý do phải quay về tư bản nhà nước.
Sự thoả thuận giữa hai giai cấp này sau khi kết thúc nội chiến đã trở nên không vững chắc
vì nông dân không hài lòng với hình thức quan hệ hiện có, không muốn có hình thức quan hệ
ấy nữa và không muốn tiết tục sống mãi như thế. Do đó phải thiết lập những mối quan hệ mới
thông qua các hoạt động kinh tế và phải thoả mãn được những yêu cầu của nông dân. về thực
chất có thể thoả mãn tiểu nông bằng hai việc: Phải có sự tự do trao đổi nhất định và phải kiếm
ra hàng hoá và lương thực.
Chính sách tự do trao đổi là nhằm “kiếm ra hàng hoá” căn cứ vào tâm lý của người tiêu
dùng. Nhờ chính sách tự do buôn bán mà kích thích người nông dân, vì lợi ích của bản thân mà
tạo ra nhiều nông sản, hàng hoá, chính sách tự do buôn bán là sự thoả thuận với nông dân một
cách thực tế, khéo léo, khôn ngoan và mềm dẻo. Cũng chính từ chính sách tự do trao đổi trong
nông dân và chính sách đó mà xuất hiện hai vấn đề dẫn đến CNTBNN.
Trước hết, tự do trao đổi là tự do buôn bán , mà tự do buôn bán tức là lùi lại CNTB. Lê
nin đã dự kiến trước như vậy nhưng không phải vì thế mà ta có thể ngăn cấm được. Từ đó thấy



được sự cần thiết phải “dung nạp” CNTB. ở đây diễn ra một điều mà chính Lê nin cũng phải
nói “ hình như là ngược đời: CNTB tư nhân lại đóng vai trò trợ thủ cho CNXH, có thể sử dụng
CNTB tư nhân để xúc tiến CNXH”. Muốn không để thay đổi bản chất của mình, nhà nước vô
sản chỉ có thể thừa nhận cho CNTB được phát triển trong một chừng mực nào đó và tư bản tư
nhân phải phục tùng sự điều tiết của nhà nước, phải tìm cách hướng chúng vào con đường của
CNTBNN bằng một tổ chức của nhà nước và những biện pháp có tính chất nhà nước từ bên
trên. Vậy, trong điều kiện nhà nước vô sản, tự do trao đổi, tự do buôn bán tất dẫn đến sự phục
hồi của CNTB dưới hình thức chủ yếu là CNTBNN.
Trong điều kiện một nước mà CNTB tư sản chiếm ưu thế, hàng hoá chỉ có thể có được từ
nông dân, từ nông nghiệp, như vậy, phạm vi trao đổi chỉ diễn ra trong phạm vi hàng hoá nông
sản điều đó sẽ kích thích nông dân, nông nghiệp phát triển .Do đó, phải có những hàng hoá mà
nông dân cần đó là những sản phẩm công nghiệp và thủ công nghiệp. Nhưng tình hình trong
nước không thể giải quyết ngay vấn đề này “nếu không có sự giúp đỡ của tư bản nước
ngoài ”. theo Lê nin cần phải “du nhập” CNTB từ bên ngoài bằng những hợp đồng buôn bán
với nước tư bản lớn, bằng chính sách tô nhượng tóm lại bằng những hình thức khác nhau của
CNTBNN.
2.2. Vai trò của CNTBNN trong nền kinh tế Nga.
Bản thân CNTBNN là sự “kết hợp, liên hợp, phối hợp Nhà nước Xô viết, nền chuyên
chính vô sản với CNTB”, là “ một khối với CNTB ở bên trên” và đương nhiên sẽ không có
CNTBNN, nếu không có những điều kiện cho họ, điều kiện ấy theo Lênin, chính là những
“cống vật”. Trong điều kiện trên thế giới chỉ có mình chính quyền Xô viết, xung quanh là cả 1
hệ thống các nước tư bản, muốn tồn tại, chính quyền Xô viết không thể bỏ qua sự thật ấy. Khi
thực hiện CNTBNN, nhà tư bản được lập lại, được “du nhập” “không phải vì lợi ích củng cố
chính quyền Xô viết, mà vì lợi ích của bản thân họ”. Chính Lênin còn dự kiến cả khả năng sự
phân chia lợi ích đó thoạt đầu có lợi nhiều cho các nhà tư bản dưới hình thức “trả giá” cho sự
lạc hậu, cho sự kém cỏi của mình. Vấn đề là không cần che giấu sự thật: phải nộp “cống vật”.
Nhưng đối với nhà nước vô sản thì sự dung nạp và du nhập CNTB sẽ mang lại nhứng lợi ích cơ
bản và lâu dài.



Sự phát triển của CNTB do nhà nước vô sản kiểm soát và điều tiết có thể đẩy nhanh sự
phát triển ngay tức khắc nền nông nghiệp. Nhờ việc tăng nhanh lực lượng sản xuất trong nông
nghiệp mà ổn định xã hội, thoát khỏi khủng hoảng, thoát khỏi tình cảnh giảm sút tín nhiệm của
nông dân đối với chính quyền Xô viết, khắc phục tình trạng trộm cắp của công
Bằng sự “du nhập” chủ nghĩa tư bản từ bên ngoài mà tăng nhanh lực lượng sản xuất, tăng
lên ngay hoặc trong một thời gian ngắn. Cải thiện đời sống công nhân và nông dân, nền đại
công nghiệp sẽ được phục hồi.
CNTBNN là công cụ để liên hợp nền sản xuất nhỏ lại, khắc phục tình trạng phân tán và
đấu tranh chống tính tự phát tiểu tư sản và TBCN. CNTBNN là một bước tiến lớn, nhờ nó mà
chiến thắng được tình trạng hỗn độn, tình trạng suy sụp về kinh tế, hiện tượng lỏng lẻo, nhứng
thói quen, địa vị kinh tế của giai cấp. Cũng chính vì thế mà CNTBNN sẽ đưa nước Nga lên
CNXH bằng con đường chắc chắn nhất.
CNTBNN là công cụ để khắc phục được “kẻ thù chính trong “nội bộ” đất nước, kẻ thù của
các biện pháp kinh tế” của chính quyền Xô viết. Đó là bọn đầu cơ, gian thương, bọn phá hoại
độc quyền của nhà nước. CNTBNN còn được xem là công cụ đấu tranh chống chủ nghĩa quan
liêu và những lệch lạc quan liêu chủ nghĩa.
Thông qua CNTB và CNTBNN mà giai cấp công nhân có thể học tập được cách quản lý
một nền sản xuất lớn, tổ chức một nền sản xuất lớn. CNTBNN thông qua sự “du nhập” của tư
bản từ bên ngoài là hình thức du nhập tiến bộ kỹ thuật hiện đại, qua đó có được trình độ trang
bị cao của CNTB.
CNTBNN thông qua sự phát triển của nó mà phục hồi được giai cấp công nhân. Nếu
CNTB được lợi thế thì sản xuất công nghiệp cũng sẽ tăng lên và giai cấp vô sản cũng theo đó
mà lớn mạnh lên.
2.3 Điều kiện cần có để vận dụng các hình thức kinh tế TBNN:
Để sử dụng CNTBNN: Để sử dụng CNTBNN cần có những giới hạn, điều kiện để sự phát
triển của các quan hệ thị trường và các quan hệ TBCN nói chung và các quan hệ CNTBNN nói
riêng không nguy hại cho định hướng XHCN cần có những giới hạn và điều kiện then chốt là:



Chính quyền nhà nước phải nằm trong tay giai cấp công nhân và nhà nước quy định
khuôn khổ cho sự phát triển của CNTBNN.
Nhà nước phải nắm các đỉnh cao kinh tế để điều tiết nền kinh tế. Chấp nhận điều kiện của
CNTB để tạo điều kiện cho CNTBNN phát triển và phát huy tác dụng. Sử dụng sức mạnh của
nền kinh tế nhiều thành phần từ đó vận dụng tất cả các hình thức kinh tế TBNN.
Kiên định về định hướng CNXH và độc lập kinh tế trong quan hệ với CNTB nước ngoài.
2.4 Các hình thức kinh tế TBNN vận dụng ở Nga:
2.4.1 Tô nhượng
Tô nhượng là một giao kèo, một sự liên kết, liên minh giữa chính quyền nhà nước Xô viết,
nghĩa là nhà nước vô sản với CNTBNN, chống lại thế lực tự phát tiểu tư hữu. Tô nhượng là
chính quyền Xô viết ký hợp đồng với nhà tư bản. Chính quyền XHCN giao cho nhà tư bản tư
liệu sản xuất của mình. Nhà tư bản tiến hành kinh doanh với tư cách là một bên ký kết, là người
thuê tư liệu sản xuất xã hội chủ nghĩa, và thu được lợi nhuận của tư bản mà mình bỏ ra, rồi nộp
cho nhà nước XHCN một phần sản phẩm ,tô nhượng là hình thức kinh tế mà hai bên cùng có
lợi. Nhà tư bản thu được lợi nhuận bất thường, siêu ngạch hoặc để có được loại nguyên liệu
không tìm được hoặc khó tìm được. Chính quyền Xô viết cũng có lợi: lực lượng sản xuất phát
triển, số lượng sản phẩm tăng lên.
Hình thức tô nhượng là sự “du nhập” chủ nghĩa tư bản từ bên ngoài vào. Tất cả khó khăn
trong nhiệm vụ này là phải suy nghĩ, phải cân nhắc hết mọi điều khi ký hợp đồng tô nhượng và
sau đó phải biết theo dõi việc chấp hành nó. Lê nin đã nêu ra những vấn đề cần chú ý:
- Để thực hành tô nhượng cần phải từ bỏ chủ nghiã ái quốc địa phương của một số người
cho rằng, tự mình có thể làm lấy, không chấp nhận trở lại chịu ách nô dịch của tư bản.
- Người nhận tô nhượng có trách nhiệm cải thiện đời sống công nhân trong xí nghiệp tô
nhượng sao cho đạt tới mức sống trung bình của nước ngoài. Ngoài ra, người nhận tô nhượng
phải bán thêm cho chính quyền Xô viết từ 50 -> 100 % số lượng sản phẩm tiều dùng (nếu được
yêu cầu để cải thiện đời sống công nhân khác).
- Vấn đề trả lương cho cống nhân ở các xí nghiệp tô nhượng sẽ được quy định riêng trong
từng hợp đồng. Điều kiện về thuê mướn, về sinh hoạt vật chất, về trả lương cho các công nhân



và nhân viên nước ngoài được quy định theo sự thoả thuận tự do giữa người nhận tô nhượng
với những loại công nhân viên nói trên. Công đoàn không có quyền đòi áp dụng các mức lương
của Nga, cũng như các luật lệ của Nga về thuê mướn nhân công đối với những công nhân đó.
- Đối với những công dân Nga, chuyên gia Nga có trình độ cao, nếu các xí nghiệp tô
nhượng muốn mời thì phải được sự đồng ý của các cơ quan chính quyền trung ương.
- Phải tôn trọng pháp luật của nước Nga.
- Phải nghiêm chỉnh tuân theo những quy tắc khoa học và kỹ thuật phù hợp với pháp luật
của nước Nga và của nước ngoài.
2.4.2. Các hợp tác xã.
Những xí nghiệp hợp tác xã được coi là một hình thức của CNTBNN. Đặc trưng của xí
nghiệp này là sự kết hợp của những xí nghiệp tư bản tư nhân với những xí nghiệp kiểu CNXH
chính cống. Những xí nghiệp hợp tác xã này là bước chuyển từ một hình thức đại sản xuất này
sang hình thức đại sản xuất khác. Hình thức này có thể là hình thức hợp doanh (công tư hợp
doanh) theo khái niệm thường ngày nay với cách diễn đạt của Lê nin.
2.4.3. Hình thức đại lý uỷ thác.
Theo hình thức này thì nhà nước lôi cuốn nhà tư bản với tư cách một nhà buôn, trả cho họ
một số tiền hoa hồng để họ bán sản phẩm của nhà nước và mua sản phẩm của người sản xuất
nhỏ.
2.4.4 Cho tư bản trong nước thuê xí nghiệp, vùng mỏ, rừng, đất. Cho nông dân thuê
những hầm mỏ nhỏ:
Cho tư bản trong nước thuê xí nghiệp giống hình thức tô nhượng, nhưng đối tượng tô
nhượng không phải là tư bản nước ngoài mà là tư bản trong nước.
Cho nông dân thuê những hầm mỏ là một hình thức nữa của CNTBNN. Chính ở những
hầm mỏ nhỏ cho nông dân thuê, sản xuất lại đặc biệt phát triển hơn là những xí nghiệp lớn nhất
trước kia là của tư bản. Những nông dân này hoạt động theo kiểu nộp tô cho nhà nước. Đây
cũng là kiểu cho thuê, nhưng đối tượng thuê là những tiểu tư bản.
2.5 Kết quả đạt được và ý nghĩa:
2.5.1 kết quả đạt được:



Sự thực hành chế độ CNTBNN ở thời Lê nin đã mang lại những kết quả to lớn. Đến tháng
11 năm 1922, Lê Nin đã trình bày khái quát nhũng thành tựu của chính sách kinh tế mới nói
chung, CNTBNN nói riêng:
Tình hình giai cấp nông dân, từ chỗ đói kém, một bộ phận rất lớn trong nông dân bất bình
đến chỗ trong vòng một năm, nông dân đã thoát khỏi được nạn đói và còn nộp được thuế lương
thực hàng trăm triệu rúp. Nông dân đã hài lòng với tình hình của họ.
Công nghiệp nhẹ đang có đà phát triển, đời sống của công nhân được cải thiện, tình trạng
bất mãn của công nhân không còn nữa.
Công nghiệp nặng tuy vẫn còn khó khăn nhưng đã có sự thay đổi nhất định.
Riêng về chính sách CNTBNN, nhìn chung đã mang lại cho nước Nga những tác dụng
tích cực nhất định, góp phần làm sống động nền kinh tế nước Nga đã bị suy sụp sau chiến
tranh. Nhờ tô nhượng với nước ngoài, nhiều ngành công nghiệp quan trọng đã phát triển, nhiều
kinh nghiệm tiên tiến với kỹ thuật, thiết bị hiện đại của nền sản xuất lớn TBCN đã được đưa
vào quá trình sản xuất, mang lại hiệu quả cao. Tô nhượng cùng các công ty hợp doanh đã góp
phần phát triển sản xuất hàng hoá, tăng thêm dự trữ ngoại tệ cho đất nước, mở rộng các quan hệ
liên doanh, liên kết kinh tế trong các lĩnh vực đầu tư sản xuất, chuyển giao công nghệ tiên tiến
và phát triển ngoại thương với các nước tư bản phương tây. Thông qua các hoạt động của công
ty hợp doanh, những người cộng sản Nga có thể thực sự học cách buôn bán, điều mà bấy giờ
Lê nin thường nói là nhiệm vụ quan trọng. Hoạt động của các xí nghiệp cho thuê, các xí nghiệp
hỗn hợp góp phần giúp nhà nước Xô viết duy trì hoạt động sản xuất bình thường ở các cơ sở
kinh tế, tăng thêm sản phẩm cho xã hội, việc làm cho người lao động. Hình thức đại lý thương
nghiệp và các hợp tác xã TBCN trong các lĩnh vực sản xuất, tín dụng đã góp phần quan trọng
trong việc hỗ trợ thương nghiệp XHCN đẩy nhanh qúa trình trao đổi và lưu thông hàng hoá tiền
tệ, làm sống động nền sản xuất hàng hoá nhỏ, qua đó cải biến những người tiểu nông, nối liền
quan hệ trao đổi công - nông nghiệp, thành thị - nông thôn.
Những kết quả ấy có ý nghĩa tích cực đối với nước Nga Xô viết. Nó góp phần không nhỏ
vào công cuộc phát triển nền kinh tế nước Nga sau chiến tranh. Tuy nhiên so với sự mong
muốn và mục tiêu đặt ra của Lê nin thì kết quả thực hành chế độ này vẫn còn rất thấp. Nguyên



nhân quan trọng nhất là CNTB đế quốc vẫn còn tìm cách bóp chết chính quyền Xô viết, vì thế
sự hợp tác, đầu tư của tư bản nước ngoài vào Liên Xô không đạt sự mong muốn.
Tuy nhiên, kết quả lớn nhất là bắt đầu hình thành một khái niệm mới, và CNTBNN đã
thực sự là một phần đặc trưng của chính sách kinh tế mới. Và nhờ chính sách kinh tế mới mà
chính quyền Xô viết đã giữ được những vị trí vững chắc trong nông nghiệp và công nghiệp ,có
khả năng tiến lên được. Nông dân vừa lòng, công nghiệp cũng như thương nghiệp đang hồi
sinh và phát triển. Đó là một thắng lợi của chính quyền Xô viết.
2.5.2. ý nghĩa của NEP và CNTBNN.
Chính sách kinh tế mới của Lê nin có ý nghĩa cực kỳ quan trọng, trước hết nó khôi phục
được nền kinh tế sau chiến tranh. Từ đó nó khắc phục khủng hoảng chính trị, củng cố lòng tin
cho nhân dân vào sự thắng lợi tất yếu và bản chất tốt đẹp của CNXH theo những nguyên lý mà
Lê nin vạch ra.
Chính sách kinh tế mới của Lê nin đánh dấu một bước phát triển mới về lý thuyết nền
kinh tế XHCN. Theo tư tưởng này, nền kinh tế nhiều thành phần, các hình thức kinh tế quá độ,
việc duy trì và phát triển quan hệ hàng hoá - tiền tệ, quan tâm tới lợi ích kinh tế cá nhân trước
hết là của nông dân là những vấn đề có tính nguyên tắc trong việc xây dựng mô hình kinh tế
XHCN.
Chính sách kinh tế mới có ý nghĩa quốc tế to lớn đối với các nước phát triển theo định
hướng XHCN, trong đó có Việt nam
II. Sự vận dụng lý luận của Lê nin về CNTBNN trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở
Việt nam
1.1. Cơ sở lý luận cho việc vận dụng lý luận về CNTBNN ở Việt nam; và quan điểm
của Đảng cộng sản Việt nam.
1.1.1. Tính tất yếu khách quan của việc vận dụng CNTBNN trong thời kỳ quá độ lên
CNXH ở Việt nam
Đặc trưng của thời đại ngày nay: loài người đã bước vào một thời đại phát triển mới,
chuyển từ nền văn minh máy móc, hoá chất và dầu lửa sang nền văn minh sinh học và thông
tin, nền kinh tế thế giới đang bước vào một nền kinh tế được gọi là kinh tế trí tuệ. Cuộc cách



mạng khoa học và công nghệ mới đang tạo ra một lực lượng sản xuất mới có tính chất và trình
độ cao hơn lực lượng sản xuất cũ và quốc tế hoá rất cao. Tính quốc tế cao của nền kinh tế đang
làm cho tất cả các nước trên thế giới ngày càng phụ thuộc và hợp tác chặt chẽ với nhau. Bất cứ
một nước nào muốn tách biệt khỏi nền kinh tế thế giới là một điều tự sát. Đấu tranh và hợp tác
giữa các nước là điều kiện tồn tại của tất cả các nước, của mỗi nước. Vì vậy, trong thời đại
ngày nay nước ta không thể tách rời khỏi nền kinh tế thế giới mà phải hoà nhập vào và muốn
như thế thì trong các thành phần kinh tế của nước ta phải có thành phần kinh tế TBNN để có
thể hợp tác kinh tế với tất cả các nước trên thế giới (phần đa là các nước tư bản hoặc trung lập).
Việt nam đang trong thời kỳ quá độ lên CNXH. Theo lý luận của Lê nin thì thời kỳ quá độ
bao gồm rất nhiều bước trung gian mà CNTBNN là một trong những trung gian quan trọng
nhất vì vậy để có thể tiến lên CNXH nước ta không thể nào bỏ qua các hình thức kinh tế
TBNN.
1.2. Quan điểm của Đảng cộng sản Việt nam về việc vận dụng CNTBNN ở Việt nam.
Mô hình kinh tế TBNN đã được báo cáo chính trị tại Đại hội Đảng lần thứ VIII xác định “
kinh tế TBNN bao gồm các hình thức hợp tác liên doanh giữa kinh tế nhà nước và tư bản nước
ngoài. Kinh tế tư bản nhà nước có vai trò quan trọng trong việc động viên tiềm năng to lớn về
vốn, công cuộc xây dựng và phát triển đất nước ”
Kinh tế TBNN trong thời kỳ quá độ ở nước ta là một thành phần kinh tế, một kiểu tổ chức
kinh tế gắn bó giữa một bên là nhà nước của dân, do dân, vì dân, đại biểu cho sự sở hữu toàn
dân đối với những tư liệu sản xuất chủ yếu và lợi ích xã hội, với một bên là nhà nước tư bản; là
hệ thống các quan hệ hợp đồng kinh tế giữa nhà nước của giai cấp công nhân và nhà tư bản. Do
đó, kinh tế TBNN ở nước ta hiện nay vừa là một thành phần kinh tế, vừa là con đường, hình
thức, phương tiện thu hút, liên kết các nguồn lực để phát triển đất nước. Chính vì vậy mà trong
các mục tiêu về quan hệ sản xuất ở nước ta, Đại hội VIII của Đảng đã xác định: đến năm 2020
bên cạnh kinh tế nhà nước cùng kinh tế hợp tác đóng vai trò nền tảng trong nền kinh tế, kinh tế
TBNN dưới các hình thức khác nhau tồn tại phổ biến.
Việc nghiên cứu và vận dụng TBNN đã được đặt ra ở Việt nam từ những năm 50 (ở miền
Bắc) và cả nước từ sau năm1975. Trong quá trình đổi mới chúng ta đặt kinh tế TBNN ở vị trí



thứ ba trong cơ cấu kinh tế nhiều thành phần, đánh dấu bước phát triển mới trong tư duy lý luận
của Đảng ta. Kinh tế TBNN không chỉ được coi như là một thành phần kinh tế cùng tồn tại
bình đẳng với các thành phần kinh tế khác, mà nó còn mang những ý nghĩa như những “nấc
thang trung gian cần thiết” để liên các thành phần kinh tế tư bản tư nhân trong nước, kể cả tầng
lớp tiểu tư sản hướng sự phát triển đó theo tay lái nhà nước XHCN.
2. Vận dụng CNTBNN trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt nam
2.1. Khả năng vận dụng các hình thức kinh tế TBNN ở nước ta
Đối với nước ta, sử dụng kinh tế TBNN sẽ là điều kiện cần thiết để khắc chế tính tự phát
trong sản xuất và chế độ sản xuất phân tán kém hiệu quả của kinh tế sản xuất nhỏ, nhằm khai
thác tối đa tiềm năng để tập trung cho các nguồn lực hướng về mục tiêu kinh tế - xã hội cao
nhất như công nghiệp hoá, hiện đại hoá và các chương trình kinh tế lớn khác. Sự nghiệp phát
triển kinh tế nói chung và việc thực hành đường lối CNTBNN nói riêng ở nước ta phải được
đặt trong cục diện chung của thế giới từ đó nhận thức được những thuận lợi và khó khăn.
Những nét đặc trưng mới của thời đại đã tạo ra những khó khăn, những thuận lợi mới
trong việc thực hành CNTBNN ở nước ta khác với thời Lê nin. Nét nổi bật nhất hiện nay là sự
tác động của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ. Cuộc cách mạng khoa học công nghệ ở
cuối thế kỷ XX đến nay đã mang đến những đảo lộn lớn lao trong mọi mặt của đời sống, kinh
tế - chính trị. Vì quá trình đang diễn ra, cho nên khó có thể khẳng định kết cục sẽ như thế nào,
song những biến đổi sâu sắc trên mọi lĩnh vực của đời sống, kể cả lĩnh vực tư duy là điều cần
khẳng định. Đó là một sức mạnh của thời đại. Sức mạnh này có thể đưa một nền kinh tế kém
phát triển cất cánh lên một cách nhẹ nhàng nếu nước đó biết nắm bắt thời cơ và biết đi đúng
hướng phát triển của thời đại. Trái lại sức mạnh đó cũng có thể trở thành cơn bão tố vùi lấp
thảm hại những cái gì đi ngược lại hoặc tự tách mình khỏi xu thế chung, không biết đến những
quy luật chung của nền kinh tế hiện nay. Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ ngày nay tạo
ra cho đất nước ta thời cơ lẫn thách thức.
Với xu thế đối thoại và hợp tác, trong cục diện vừa hợp tác vừa đấu tranh, đất nước ta có
được hoàn cảnh thuận lợi cho việc mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế trong đó có sự “du nhập”
CNTB từ bên ngoài, từ các nước tư bản phát triển. Mặc dù vậy chủ nghĩa đế quốc vẫn chưa từ



bỏ ý định xiết chặt vòng vây kinh tế, chưa từ bỏ mưu toan “diễn biến hoà bình” đối với nước ta
bằng mọi thủ đoạn.
Nước ta nằm ngay giữa khu vực phát triển năng động nhất của thế giới ngày nay, do vậy
chỉ cần có một chính sách hợp tác khu vực đúng đắn cùng với một chính sách quốc tế mền dẻo,
chúng ta có thể thu hút được vốn đầu tư nước ngoài từ những hình thức khác nhau của
CNTBNN.
Với sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất trong một nền sản xuất toàn cầu hoá,
trong một nền kinh tế thế giới đang chuyển hoá thành một thể thống nhất, tính phụ thuộc giữa
các quốc gia trên thế giới ngày càng tăng lên. Điều đó cũng tạo ra một số thuận lợi nhất định
cho chúng ta trong việc thu hút những kỹ thuật và các nguồn vốn gắn với kỹ thuật từ các nước
tư bản phát triển về công nghiệp. Nhưng đây chỉ là một cơ hội thuận lợi vì nếu việc nắm cơ hội
không đúng thì sẽ đưa đến một sự lạc hậu về kinh tế kỹ thuật hoặc một sự lệ thuộc mới, một
kiểu chủ nghĩa thực dân mới: sự phụ thuộc về kỹ thuật và công nghệ.
Đất nước ta có sức thu hút đối với tư bản nước ngoài. Nước ta có một số tài nguyên quý
giá, là một thị trường không nhỏ. Đặc biệt là sự ổn định chính trị là cái mà người nước ngoài có
thể tin cậy trong việc đầu tư lâu dài.
Đồng thời chúng ta cũng đang đứng trước những khó khăn hết sức to lớn: chỉ nguyên với
thực trạng một nước nghèo, kém phát triển, bên ngoài đang bị chính sách bao vây cấm vận đè
nặng chúng ta đang ở vị trí xuất phát không thuận lợi trong cuộc chạy đua kinh tế. Bên cạnh đó
hiện nay CNXH đang ở vào thế bất lợi trong cuộc đấu tranh với nội dung mới và hình thức mới
giữa CNTB và CNXH vì CNXH thế giới trước đây lạc hậu so với yêu cầu của sự phát triển. Đó
là sự lạc hậu về năng suất lao động, về chất lượng sản phẩm, về tiến bộ kỹ thuật.
Mặc dù nước ta đã chuyển sang nền kinh tế thị trường song sự chuyển biến ấy lại xuất
phát từ một nền kinh tế chủ yếu là tự nhiên, tự cung cấp, hiện vật do vậy chưa có thói quen
“làm ăn kiểu buôn bán”, thiếu tri thức và đội ngũ kinh doanh hiện đại. Mặc dù đất nước ta có
một số tài nguyên có sức hấp dẫn đối với người nước ngoài song trước sự tác động của cách
mạng khoa học thì các nước buộc phải lao vào ngành kỹ thuật cao do đó chúng ta vấp phải vấn
đề vốn và đội ngũ khoa học kỹ thuật không có hoặc yếu kém.



Một khó khăn nữa là sự chống phá con đường đi lên CNXH ở nước ta của các thế lực
phản động trong và ngoài nước. Những mặt trái của quá trình chuyển sang nền kinh tế thị
trương, thực hiện CNTBNN là những vấn đề xã hội hết sức phức tập, đến mức có thể gây ra sự
bất bình của một tầng lớp dân cư nào đó trước sự dung nạp, du nhập CNTB. Mặt trái của nó có
thể biểu hiện bởi sự xâm lăng của các tập đoàn tư bản nước ngoài đối với thị trường nội địa dẫn
tới co hẹp hoặc bóp nghẹt thị phần của sản xuất trong nước. Đó cũng có thể là một tâm lý phụ
thuộc kinh tế nước ngoài ngày càng gia tăng mà thường sẽ dẫn hậu quả khủng hoảng nếu nước
ngoài cắt các khoản đầu tư.
Nhìn chung lại, việc thực hành CNTBNN ở nước ta sẽ có cả thuận lợi và khó khăn.
Nhưng trước mắt khó khăn sẽ không nhỏ.
2.2. Các hình thức kinh tế TBNN vận dụng ở Việt nam
Xét về phương diện vật chất, kinh tế nước ta hiện nay, ở mức độ nhất định, cũng như nước
Nga thời NEP, chưa có điều kiện để trực tiếp xây dựng CNXH. Vì vậy, chúng ta cần suy nghĩ
thấu đáo quá trình đi lên CNXH thông qua CNTBNN. Từ quan điểm của Lê nin và căn cứ vào
thực tiễn của nước ta, trong bối cảnh hiện nay, có thể xác định các hình thức CNTBNN cần vận
dụng ở nước ta là:
2.2.2.Liên doanh, liên kết giữa nhà nước với các nhà tư bản trong nước
Trước đây, hình thức này được gọi là công tư hợp doanh nhưng chúng ta mới chỉ áp dụng
một cách hạn chế với chủ trương cốt để cải tạo XHCN nhằm sớm đi đến xoá bỏ kinh tế tư bản
tư nhân. Nay, trên cơ sở quan điểm thừa nhận các thành phần kinh tế còn tồn tại và phát triển
lâu dài trong thời kỳ quá độ lên CNXH, hình thức này cần được sử dụng và phát triển đa dạng
hơn.
Để phát huy sức mạnh của thành phần kinh tế này, bên cạnh việc tạo điều kiện cho kinh tế
tư bản tư nhân phát triển cần khuyến khích họ liên doanh, liên kết với kinh tế nhà nước qua đó
mà tăng vốn, đổi mới công nghệ, mở rộng quy mô sản xuất, tăng sức cạnh tranh và tăng khả
năng hợp tác với nước ngoài.


2.2.2. Tô nhượng và liên doanh giữa nhà nước với các tư bản và các tổ chức kinh tế nước

ngoài
Lê nin rất coi trọng việc sử dụng các chuyên gia tư sản nước ngoài vào phát triển kinh tế
trong thời kỳ quá độ lên CNXH. Hình thức tô nhượng được Lê nin coi là rành mạch và dễ hiểu
nhất để sử dụng các chuyên gia tư sản.
Ngày nay, theo kinh nghiệm các nước, việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài dưới hình
thức liên doanh và công ty 100% vốn nước ngoài (thực chất là một kiểu tô nhượng ) là hấp dẫn
và có hiệu quả hơn so với việc vay vốn và tiếp nhận viện trợ của các nước trong quá trình hiện
đại hoá nền kinh tế. Thông qua các hình thức này, nhà nước thu hút và cho phép các nhà tư bản
và công ty nước ngoài đầu tư vào trong nước để phát triển sản xuất kinh doanh. Hiện nay ở
nước ta, các hình thức này đang được triển khai tích cực.
2.2.3. Cho thuê kinh doanh
Thông qua đấu thầu một số cơ sơ vật chất của các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế nhà
nước, thực hiện các hợp đồng ký kết giữa nhà nước ta với các nhà tư bản trong và ngoài nước
để triển khai hình thức này. So với tô nhượng, hình thức này khác ở hai điểm: Thời gian hợp
đồng thường ngắn hơn, và đối tượng cho thuê kinh doanh không phải chủ yếu là quyền sử dụng
đất mà chủ yếu là hầm mỏ, rừng, cửa hàng Thông qua phát triển hình thức này mà mở rộng
một số ngành và lĩnh vực kinh tế, đồng thời nhà nước có điều kiện để tập trung vốn vào các
ngành, lĩnh vực trọng yếu, then chốt nhằm tăng cường vai trò chủ đạo trong nền kinh tế nhiều
thành phần.
2.2.4. Đại lý kinh danh
Hình thức này áp dụng ở các ngành kinh tế dịch vụ. Thông qua các đại lý mua bán và các
cơ sở dịch vụ, nhà nước, tư nhân hoặc các nhà tư bản trong và ngoài nước tiêu thụ, cung cấp
các yếu tố cần thiết cho phát triển sản xuất và các sản phẩm cho tiêu dùng xã hội.
2.2.3. Gia công đặt hàng
Hình thức này áp dụng ở các ngành sản xuất vật chất. Thông qua hình thức này, nhà nước
đặt hàng với các nhà tư bản trong và ngoài nước hoặc các doanh nghiệp nhà nước nhận gia
công cho các công ty nước ngoài. Trong điều kiện hiện nay, khi trình độ công nghệ của ta còn


thấp kém, chưa thể sản xuất hoàn chỉnh có hiệu quả một số loại sản phẩm, nhưng với lực lượng

lao động dồi dào, giá nhân công rẻ, vị trí địa lý thuận lợi, thị trường tiêu thụ lớn và hấp dẫn, ta
có thể nhận gia công cho các công ty nước ngoài các mặt hàng giầy da, may mặc, sản xuất các
mặt hàng tái xuất, lắp ráp các sản phẩm ô tô, xe máy, thiết bị điện tử
2.3. Kết quả đạt được
Trong mấy năm qua, nước ta đã áp dụng các phương thức góp vốn liên doanh giữa nhà
nước với các nhà tư bản để hình thành các công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn. Cho
đến tháng 9/1998 đã có 299 công ty cổ phần với 100 tỷ đồng vốn chiếm 0.1% tổng số vốn của
các doanh nghiệp và bằng 3% tổng số vốn của nhà nước tại các công ty cổ phần trong nước và
các công ty liên doanh với nước ngoài. Tuy nhiên, trong tổ chức vẫn còn những trở ngại để mở
rộng hình thức này, một mặt cần tiếp tục hoàn thiện cơ sở pháp lý tài chính, mặt khác, đẩy
mạnh hơn nữa cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước, phát triển các loại hình công ty cổ
phần, có quy chế tạo ra khả năng lưu hành rộng rãi cổ phiếu và các chứng khoán khác, ra đời và
phát triển thị trường chứng khoán, hoàn thiện các yếu tố của nền kinh tế thị trường.
Kinh tế TBNN với nước ngoài: tồn tại dưới hình thức công ty liên doanh và công ty 100%
vốn nước ngoài. Tính đến thàng 7/1997 tỷlệ đó là: 2397 dự án đầu tư được cấp giấy phép hoạt
động với số vốn đăng ký 32.8 tỷ USD và vốn thực hiện là 13 tỷ USD thu hút 700 hãng ở 50
quốc gia, lãnh thổ. Tuy nhiên, để đảy mạnh việc thu hút và thu hút có hiệu quả đầu tư nước
ngoài tránh đầu tư quá lớn vào một số ngành trong thời gian ngắn, dự án lỗ Cần mở rộng
hình thức liên doanh, trong đó cho phép nhà tư bản và công ty nước ngoài mua cổ phiếu của
công ty cổ phần, kể cả của một số doanh nghiệp nhà nước được cổ phần hoá, phát hành trái
phiếu chính ohủ, trái phiếu công trình ra nước ngoài. Nâng cao hơn nữa tính chủ động trong gọi
vốn đầu tư, tăng tỷ lệ vốn góp của phía Việt nam trong các công ty liên doanh với nước ngoài.
Bên cạnh những kết quả đạt được, việc vận dụng các hình thức kinh tế TBNN ở nước ta
còn một số hạn chế như: đầu tư quá lớn vào một số ngành trong một thời gian ngắn dẫn đến
cung lớn hơn cầu. Có những ngành trong nước có thể làm tốt thì lại gọi vốn đầu tư nước ngoài
ví dụ khai thác đá xây dựng, sản xuất đồ chơi trẻ em Có những ngành có khả năng thu hồi
vốn nhanh, tỷ suất lợi nhuận cao, sử dụng nhiều lao động thì lại 100% vốn nước ngoài ví dụ:


ngành đệt, da giầy Trong các liên doanh nước ngoài thường đưa thiết bị vào nhưng khai giá

cao:. Ví dụ: công ty ô tô Hoà Bình khai khống 27.5%, khách sạn Thanh Long Thành thành phố
Hồ Chí Minh khai khống 40.6% Số dự án lỗ tăng: 1994: 197 dự án, 1995: 317 dự án, 1996:
342 dự án.
2.4. Phương hướng phát triển và điều kiện vận dụng thành công CNTBNN ở Việt nam
2.4.1. Phương hướng phát triển
Một là, sự chung vốn, hợp vốn giữa nhà nước và tư nhân được tập trung vào một số hướng
ưu tiên sau:
- Phát triển các doanh nghiệp chế biến từ nguyên liệu nông, lâm, hải sản và các doanh
nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng với công nghệ thích hợp, thu hút nhiều lao động, thu hồi vốn
nhanh, có mức doanh lợi hấp dẫn phục vụ nhu cầu trong nước và xuất khẩu.
- Mở rộng sản xuất, hiện đại hoá công nghệ ở những doanh nghiệp nhà nước hiện có dưới
hình thức gọi vốn cổ phần của tư nhân trong và ngoài nước.
- Phát triển những ngành mũi nhọn, công nghệ hiện đại có sức cạnh tranh trên thị trường
thế giới và khu vực.
Hai là, về nguyên tắc, sự chung vốn, hợp vốn giữa nhà nước và tư nhân, đặc biệt là tư
nhân nước ngoài cần được tập trung vào các doanh nghiệp mà việc phát triển mới, cải tạo mở
rộng, hiện đại hoá nó đòi hỏi vốn lớn. Cần tăng cường sức mạnh về vốn của các đối tác phía
Việt nam và các nhà tư sản dân tộc để trở thành một đối tượng cần thiết với các nhà tư bản
nước ngoài.
Ba là, sự hợp tác, đầu tư dưới hình thức liên doanh, ký kết hợp đồng, hợp tác kinh doanh
giữa nhà nước với các nhà đầu tư nước ngoài được tiến hành nhằm tranh thủ vốn, công nghệ,
mở rộng thị trường và công nghệ quản lý tiên tiến. Để thu hút mạnh mẽ vốn đầu tư trực tiếp
(FDI) của tư bản nước ngoài cần áp dụng đồng thời và có hiệu quả ba hình thức: xí nghiệp liên
doanh, xí nghiệp đầu tư 100% vốn của nước ngoài và hợp đồng hợp tác kinh doanh ở tất cả các
lĩnh vực, ngành nghề của nền kinh tế (trừ những lĩnh vực ngành nghề liên quan đến quốc
phòng, an ninh ). Cần có chính sách thu hút mạnh mẽ hơn nữa sự hiện diện và đầu tư của các
công ty đa quốc gia vào khu vực công nghiệp tập trung, khu chế xuất dưới hình thứ 100% vốn


hoặc liên doanh với đối tác Việt nam dưới dạng công ty cổ phần. Mở rộng từng bước việc phát

hành trái phiếu chính phủ, cổ phiếu của công ty nhà nước trên thị trường vốn trong và ngoài
nước.
2.4.2. Điều kiện vận dụng thành công CNTBNN ở Việt nam
Phát triển và xây dựng một thị trường văn minh: để thực hành CNTBNN trong điều kiện
nước ta, trước hết cần phát triển mạnh kinh tế thị trường phù hợp với điểm xuất phát và theo
hướng một thị trường văn minh, nghĩa là phải có sự điều tiết chín chắn của nhà nước dựa vào
sự tham gia dân chủ của đông đảo quần chúng nhân dân.
Phát huy tiềm năng mạnh mẽ của các thành phần kinh tế, đặc biệt là thành phần kinh tế tư
nhân vì chính từ sự phát triển thành phần kinh tế này xuất hiện nhiều khả năng thực hành
CNTBNN.
Biết học tập CNTB: lý luận về CNTBNN của Lê nin chính là một biểu hiện sinh động của
sự cần thiết phải học tập CNTB. Cần phải biết quán triệt trong thực tiễn luận điểm của Lê nin
rằng không thể hình dung một thứ CNXH nào khác hơn là CNXH dựa trên cơ sở tất cả những
bài học mà nền văn minh lớn của CNTB đã thu được.
Xác định bước đi có hiệu quả: việc xác định bước đi cũng là một quan điểm chiến lược.
Bước đi đúng hay sai có quan hệ mật thiết đến hiệu quả ít hay nhiều của việc thực hành
CNTBNN. Chúng ta cần thực hiện theo ba bước đi chiến lược:
Bước 1: bước đi ban đầu được gọi là “ theo sau”: ở bước đi này, hầu hết các doanh nghiệp
đều tập trung vốn đầu tư vào công nghiệp chế tạo hàng tiêu dùng, quay vòng nhanh, vào những
sản phẩm có sức co giãn tốt, ít vốn, cần nhiều lao động, nhằm đẩy nhanh tiến độ tích luỹ. Tổ
chức sản xuất chủ yếu là quy mô nhỏ.
Bước 2: được gọi là “đuổi bắt: khi chấm dứt thời kỳ “theo sau”, nền sản xuất trong nước
đã trưởng thành ở mức độ nhất định. Từ chỗ đuổi kịp kỹ thuật trung bình, trên một số hàng tiêu
dùng, dần dà đã có thể nắm bắt một số kỹ thuật cao, tự nghiên cứu, triển khai một số công nghệ
mới thuộc nhiều ngành tiêu biểu cho cách mạng khoa học công nghệ.


Mục tiêu cuối cùng là vượt lên: mục tiêu này chỉ trở thành hiện thực khi đã san bằng được
hố ngăn cách về kỹ thuật, sản xuất, quản lý và hoạt động tiếp thị với các công ty xuyên quốc
gia.

Bên cạnh đó để thực hiện có hiệu quả các hình thức của CNTBNN cần thống nhất các
quan điểm:
+ Thu hút tối đa và phát huy hiệu quả các nguồn lực của các nhà tư bản trong và ngoài
nước vào hoạt động sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần.
+ Thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế, sớm khắcphục sự tụt hậu hiện nay về kinh tế
so với các nước trong khu vực và trên thế giới.
+ Đảm bảo các định hướng XHCN của các hoạt động kinh tế - xã hội.
- Về vai trò quản lý của nhà nước: Vai trò cốt tử để thực hiện thành công trên thực tế
đường lối xây dựng CNXH ở nước ta là sự tồn tại của một nhà nước XHCN mạnh dưới sự lãnh
đạo của Đảng Cộng sản Việt nam. Sức mạnh đó được thực hiện trên tất cả các khía cạnh kinh tế
- xã hội - chính trị và luật pháp. Nó bao gòm nhiều yếu tố cấu thành. Trong điều kiện của nước
ta sự tồn tại vững chắc của chính quyền là điều đã được khẳng định. Vấn đề trọng tâm là biện
pháp củng cố và tăng cường sức mạnh điều tiết kinh tế của nhà nước:
Nhà nước cần có quy định nghiêm ngạt về mặt luật pháp đối với hoạt động đầu tư của tất
cả các chủ thể kinh tế, sao cho đầu tư được thực hiện phù hợp với mục tiêu cơ cấu và tăng
trưởng đất nước. Nhà nước cần khống chế khối lượng, kiểm soát mục tiêu vay và tiến trình
thực hiện đối với hoạt động vay vốn nước ngoài.
Nâng cao năng lực điều tiết kinh tế vĩ mô của chính phủ sử dụng có hiệu quả các chính
sách tài chính, tiền tệ để điều tiết sự phát triển của bất cứ doanh nghiệp nào. Bộ máy nhà nước
cần được củng cố và đổi mới theo hướng đoạn tuyệt triệt để với các di sản cơ chế bao cấp, thay
thế bộ máy quan liêu bằng bộ máy quản lý hoạt động theo nguyên tắc công nghiệp và thị
trường.



Kết luận

Sau cách mạng tháng Mười Nga, trong giai đoạn thực hiện chính sách kinh tế mới: Lê
nin đã đề xướng việc sử dụng và phát triển CNTBNN, theo Lê nin, CNTBNN là một thành
phần trong thời kỳ quá độ lên CNXH. Sở dĩ tồn tại thành phần kinh tế này - theo Lê nin -là do

sau khi dành được chính quyền, nhà nước XHCN phải tiếp nhận các cơ sở kinh tế do lịch sử để
lại trong đó có kinh tế tư bản tư nhân. Mặt khác, để sản xuất và đời sống xã hội không bị gián
đoạn trong thời kỳ quá độ, cần duy trì và phát triển các cơ sở sản xuất của chế độ cũ để lại.
Chính quyền mới không thể đơn thuần dùng các sắc lệnh để xoá nó, cách tốt nhất là hướng nó
vào con đường CNTBNN.
CNTBNN là sự can thiệp một cách tích cực của nhà nước XHCN vào quá trình kinh tế
của các nhà tư bản. Nó khác hẳn CNTBNN trong thời kỳ còn tồn tại nhà nước tư sản. Tính chất
hoạt động của nó đã thay đổi: nó không chỉ chịu sự kiểm soát và chi phối cuả nhà nước XHCN
mà còn hợp tác với nhà nước XHCN để cùng sản xuất kinh doanh. Với tính chất đó, Lê nin cho
rằng, việc sử dụng CNTBNN là điều không đáng sợ, không những thế, Lê nin còn cho rằng, so
với kinh tế cá thể và kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế TBNN có trình độ cao hơn nhiều. Nó không
chỉ mạnh về vốn, trình độ kỹ thuật, công nghệ mà còn hơn hẳn về trình độ tổ chức quản lý kinh
doanh. Những ưu việt của nó thể hiện ở “tính tập trung, được kiểm soát và được xã hội hoá”
CNTBNN không chỉ là một thành phần kinh tế mà còn là “ một mắt xích trung gian giữa tiểu
sản xuất và CNXH”, là “phương tiện, con đường, phương pháp, phương thức để tăng lực lượng
sản xuất lên”, là bước đệm quan trọng để tiến lên CNXH.
Việc sử dụng và phát triển CNTBNN trong thời kỳ quá độ lên CNXH không phải là do ý
muốn chủ quan tuỳ tiện mà được bắt nguồn từ thực tế và yêu cầu khách quan do chính thời kỳ
quá độ quy định đồng thời việc sử dụng và phát triển CNTBNN nhằm mục đích thu hút các nhà
tư bản trong và ngoài nước vào công cuộc phát triển kinh tế, tăng cường lực lượng sản xuất để
rút ngắn thời kỳ quá độ lên CNXH.


Để đạt được mục đích trên, Lê nin yêu cầu phải thực hiện các hình thức CNTBNN.
Trong điều kiện nước Nga lúc bấy giờ, có các hình thức chủ yếu là: tô nhượng, CNTB hợp tác
xã, đại lý thương nghiệp và cho tư nhân thuê các xí nghiệp nhà nước. Các hình thức đó hoàn
toàn phù hợp với thực tế nước Nga thời đó.
Hiện nay, nước ta đang từng bước quá độ đi lên CNXH trong hoàn cảnh mới, có nhiều
thay đổi khác so với nước Nga đầu những năm 20. Để giữ vững định hướng phát triển CNXH,
chúng ta không thể xa rời các nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lê nin, nhưng cũng

không thể rào khuôn máy móc hay mô phỏng một cách giáo điều mô hình kinh tế của nước
ngoài càng không thể giới hạn ở các hình thức kinh tế kinh tế của nước Nga từ những năm 20.
Những tư tưởng mà Lê nin nêu ra là những cơ sở lý luận và phương pháp luận rất quan trọng,
cần được bổ sung và phát triển cho phù hợp với điều kiện mới. áp dụng máy móc hoặc xa rời
chủ nghĩa Mác - Lê nin trong tổ chức thực tiễn đều là sai lầm và không thể chấp nhận được.
Đảng và nhà nước ta đã và đang có những chính sách đúng đắn, phù hợp để tạo điều kiện cho
CNTB phát triển từ đó nhằm khai thác triệt để vai trò, tác dụng của các thành phần kinh tế này
trong việc phát triển kinh tế đất nước, xây dựng cơ sở vật chất tiến nhanh lên CNXH./.





×