Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

LUẬN VĂN: Nội dung cơ bản của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (493.49 KB, 27 trang )















LUẬN VĂN:

Nội dung cơ bản của sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa












A_Đặt vấn đề:




Việt Nam vẫn đang trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội mà xuất phát từ
một nước nông nghiệp lạc hậu. Cái thiếu nhất của đất nước ta là thiếu một lực lượng
sản xuất phát triển. Đất nước ta chưa có một cơ sở vật chất- kỹ thuật phù hợp với chủ
nghĩa xã hội. Quá trình xây dựng cơ sở vật chất- kỹ thuật ấy ở nước ta chính là quá
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế quốc dân.

Nội dung chủ yếu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã được xác định và khái
quát: “Phát triển nông- lâm- ngư nghiệp gắn với công nghiệp chế biến là nhiệm vụ
quan trọng hàng đầu để ổn định tình hình kinh tế- xã hội đồng thời tăng tốc độ và tỷ
trọng của công nghiệp, mở rộng kinh tế dịch vụ theo hướng huy động triệt để các khả
năng sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu; đẩy mạnh thăm dò, khai thác chế biến
dầu khí và một số loại khoáng sản, phát triển có chọn lựa một số ngành trong công
nghiệp tư liệu sản xuất khác và các cơ sở thuộc kết cấu hạ tầng, trong đó ưu tiên phát
triển điện giao thông, thủy lợi và thông tin liên lạc”.

Đó chính là con đường tạo ra lực lượng sản xuất mới nhằm khai thác và phát
huy tốt nhất các nguồn lực bên trong và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực bên ngoài.
Mỗi bước tiến của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa là một bước tăng cường cơ
sở vật chất- kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, đồng thời cũng là một bước củng cố và hoàn
thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, làm cho nền sản xuất xã hội không ngừng phát
triển, đời sống vật chất, văn hóa, tinh thần của nhân dân không ngừng được nâng cao.

Chính vì vậy, thành công của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh
tế quốc dân là nhân tố quyết định sự thắng lợi của con đường xã hội chủ nghĩa mà
Đảng và nhân dân đã lựa chọn. Do đó, trước hết phải hiểu rõ và nắm vững nội dung cụ
thể của công nghiệp hóa, hiện đại hóa là hết sức cần thiết, để chúng ta có những bước




đi đúng đắn, góp phần nào có thể được vào sự nghiệp xây dựng, phát triển và bảo vệ
đất nước.

Bởi vậy, nghiên cứu nội dung cơ bản của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa là nhiệm vụ quan trọng đối với mỗi sinh viên chúng ta, và có thể coi đó là hành
trang cùng với những kiến thức đã được giảng dạy để bước vào cuộc sống.






B_ Nội dung:


1. Công nghiệp hóa và những quan điểm mới về Công nghiệp hóa:

1.1Khái niệm Công nghiệp hóa:

Kết hợp quan niệm truyền thống với quan niệm hiện đại và vận dụng vào
điều kiện cụ thể của Việt Nam,Hội nghị lần thứ VII ban chấp hành TW Đảng khóa VII
đã đưa ra quan niệm mới về CNH,HĐH và đây cũng chính là quan niệm được sử dụng
một cách phổ biến ở nước ta hiện nay.Theo tư tưởng này,công nghiệp hóa,hiện đại
hóa(CNH,HĐH) là quá trình chuyển đổi căn bản toàn diện các hoạt động sản xuất,kinh
doanh,dịch vụ và quản lý kinh tế-xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử
dụng một cách phổ biến sức lao cùng với công nghệ,phương tiện và phương pháp tiên
tiến hiện đại, dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học-công nghệ, tạo
ra năng suất xã hội cao.


1.2 Những quan điểm mới về CNH:

1.2.1Giữ vững độc lập tự chủ đi đôi với mở rộng hợp tác quốc tế,đa
phương hóa,đa dạng hóa quan hệ đối ngoại:

Dựa vào nguồn lực trong nước là chính đi đôi với tranh thủ tối đa nguồn
lực bên ngoài. Xây dựng nền kinh tế mở ,hội nhập với khu vực và thế giới, hướng
mạnh về xuất khẩu, đồng thời thay thế nhập khẩu bằng những sản phẩm trong nước có
hiệu quả.
Công nghiệp hóa,hiện đại hóa theo quan điểm trên mới bảo đảm kết hợp
tăng trưởng kinh tế với bảo vệ vững chắc độc lập tự chủ của đất nước, kết hợp sức
mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại và phù hợp với đặc điểm của thời đại,phù hợp với



xu hướng quốc tế hóa,khu vực hóa kinh tế; khai thác những ưu thế về vốn, công nghệ,
thị trường của thế giới và đẩy nhanh sự tăng trưởng của kinh tế và hiện đại hóa đất
nước.

1.2.2 Công nghiệp hóa,hiện đại hóa là sự nghiệp toàn dân, của mọi thành
phần kinh tế, trong đó kinh tế Nhà nước đóng vai trò chủ đạo.

Quan điểm này xuất phát từ nguyên lý: “Cách mạng là sự nghiệp của quần
chúng”. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là sự nghiệp cách mạng trọng đại của nhân dân
ta,đất nước ta, nhằm mục đích “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh”. Vì
vậy, nó không phải là công việc riêng của một bộ phận,một giai cấp mà là sự nghiệp
của toàn dân, do nhân dân thực hiện. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đòi hỏi phải huy
động cao độ sức mạnh của toàn dân về mọi mặt : sức lao động, tiền vốn, trí tuệ, tài
năng,kinh nghiệm, kỹ thuật Cũng như các sự nghiệp cách mạng khác, nhân dân là
người quyết định sự thành công của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước được thực hiện trong điều kiện nền
kinh tế hàng hóa nhiều thành phần. Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần cho phép khai thác
và sử dụng có hiệu quả các yếu tố sản xuất, các tiềm năng và nguồn lực của đất nước,
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhanh,góp phần vào sự nghiệp công nghiệp hóa,hiện đại
hóa. Trong cơ cấu kinh tế nhiều thành phần, mỗi thành phần kinh tế có lợi thế so sánh
riêng về kỹ thuật, vốn, lực lượng lao động,kinh nghiệm quản lý trong đó kinh tế Nhà
nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế Nhà nước “làm đòn bẩy đẩy nhanh tăng trưởng kinh
tế và tạo nền tảng cho chế độ xã hội mới”. Kinh tế Nhà nước nắm giữ các ngành, các
lĩnh vực, các khâu quan trọng nhất của nền kinh tế được trang bị bằng kỹ thuật và công
nghệ hiện đại đủ sức chủ đạo và đinh hướng phát triển các thành phần kinh tế khác.

1.2.3 Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế lấy việc phát huy nguồn
lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự nghiệp phát triển nhanh và bền vững.




Động viên toàn dân cần kiệm xây dựng đất nước, không ngừng tăng tích
lũy cho đầu tư phát triển. Tăng trưởng kinh tế gắn liền với cải thiện đời sống nhân dân,
phát triển văn hóa, giáo dục, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường.
Con người vừa là mục đích vừa là động lực của sự phát triển kinh tế-xã hội
nhanh và bền vững.Nguồn nhân lực là yếu tố quyết định để tạo ra công nghệ hiện đại
và sử dụng chúng để tạo ra của cải cho xã hội, là yếu tố quyết định để thực hiện
chuyển giao công nghệ trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Nguồn nhân lực phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa
trước hết là đội ngũ cán bộ khoa học- kỹ thuật, chuyên gia kinh tế,những nhà quản lý
kinh tế- xã hội, đội ngũ công nhân lành nghề. Có thể coi nguồn lực con người trong sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa là nguồn lực của mọi nguồn lực khác. Lấy việc
phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững.
Đòi hỏi phải có những chính sách kinh tế- xã hội phù hợp về văn hóa, giáo dục, y tế,

thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường, coi đầu tư cho giáo dục, đào
tạo là đầu tư chiều sâu cho sự phát triển kinh tế- xã hội và giáo dục, đào tạo cùng với
khoa học, công nghệ phải thực sự là “Quốc sách hàng đầu”.

1.2.4 Khoa học công nghệ là động lực của công nghiệp hóa, hiện đại hóa,
kết hợp công nghệ truyền thống với công nghệ hiện đại; tranh thủ đi nhanh vào hiện
đại ở những khâu quyết định.

Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa phải coi khoa học và công nghệ là
động lực; coi năng lực nội sinh về khoa học- công nghệ là nền tảng của công nghiệp
hóa, hiện đại hóa. Xây dựng năng lực nội sinh về khoa học- công nghệ để đủ sức lựa
chọn, làm chủ, thích nghi với công nghệ nhập; cải tiến, biến công nghệ nhập thành
công nghệ của mình tiến tới tự tạo ra công nghệ. Năng lực nội sinh về khoa học và
công nghệ, nâng cao năng lực nội sinh để thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa, nắm bắt các thành tựu khoa học, công nghệ thế giới, lựa chọn và làm chủ công
nghệ chuyển giao vào Việt Nam. Quan điểm chỉ đạo về nội dung công nghiệp hóa, hiện



đại hóa nền kinh tế là cơ khí hóa, hóa học hóa, tự động hóa. Bước đầu phát triển một số
lĩnh vực công nghệ cao về điện tử, thông tin, sinh học, vật liệu mới và tự động hóa.
Quan điểm trên đòi hỏi phải xây dựng đội ngũ cán bộ khoa học và công
nghệ vững mạnh; phát hiện, bồi dưỡng và trọng dụng nhân tài trong các lĩnh vực khoa
học- công nghệ, văn hóa- nghệ thuật, quản lý kinh tế- xã hội
Trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta, đòi hỏi phải kết
hợp công nghệ truyền thống với công nghệ hiện đại; phải tranh thủ đi nhanh vào công
nghệ hiện đại ở những khâu quyết định. Điều đó cho phép kết hợp tuần tự với nhảy vọt,
khai thác có hiệu quả các công nghệ cổ truyền vừa nhanh chóng hiện đại hóa ở các
khâu quyết định. Sự kết hợp đó là phù hợp với điều kiện cụ thể của đất nước và cho
phép thực hiện công nghiệp hóa “rút ngắn”, đồng thời chống lại tư tưởng bảo thủ trì trệ

và nóng vội, phiêu lưu trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

1.2.5 Lấy hiệu quả kinh tế – xã hội làm tiêu chuẩn cơ bản để xác định
phương án phát triển, lựa chọn dự án đầu tư và công nghệ.

Đầu tư chiều sâu để khai thác tối đa năng lực sản xuất hiện có. Trong đó
phát triển mới, ưu tiên quy mô vừa và nhỏ, công nghệ tiên tiến, tạo nhiều việc làm, thu
hồi vốn nhanh; đồng thời xây dựng một số công trình lớn thật cần thiết và có hiệu quả.
Tạo ra những mũi nhọn trong từng bước phát triển. Tập trung thích đáng nguồn lực cho
các lĩnh vực, các địa bàn trọng điểm. Đồng thời quan tâm đáp ứng nhu cầu thiết yếu
của mọi vùng trong nước, có chính sách hỗ trợ những vùng khó khăn, tạo điều kiện cho
các vùng đều phát triển.
Quan điểm mới về công nghiệp hóa, hiện đại hóa đòi hỏi khi xác định các
phương án phát triển, lựa chọn dự án đầu tư và công nghệ, xác định quy mô, bố trí và
phân phối các nguồn lực ở các địa bàn phải lấy hiệu quả kinh tế- xã hội làm tiêu
chuẩn cơ bản để xem xét.Tư tưởng chỉ đạo là phải đầu tư chiều sâu để khai thác tối đa
năng lực sản xuất hiện có. Trong phát triển mới, ưu tiên quy mô vừa và nhỏ, công nghệ
tiên tiến, tạo nhiều việc làm, thu hồi vốn nhanh; đồng thời xây dựng một số công trình



thật cần thiết và có hiệu quả, tạo ra các mũi nhọn trong từng bước phát triển. Trong
việc bố trí nguồn lực cần tập trung thích đáng cho các lĩnh vực, các địa bàn trọng điểm,
đồng thời đáp ứng nhu cầu thiết yếu của mọi vùng trong nước, hỗ trợ các vùng khó
khăn, tạo điều kiện cho các vùng đều phát triển .

1.2.6 Kết hợp kinh tế với quốc phòng- an ninh

Xây dựng và bảo vệ Tổ quốc luôn luôn là hai nhiệm vụ chiến lược có sự
tác động lẫn nhau. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa kinh tế là cơ sở tăng cường khả năng

quốc phòng an ninh, ngược lại bảo vệ vững chắc Tổ quốc giữ vững an ninh, chính trị,
kinh tế là điều kiện để phát triển kinh tế. Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa kinh
tế cũng là quá trình tăng cường khả năng quốc phòng –an ninh của đất nước. Quan
điểm trên đòi hỏi trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa phải gắn chặt hai
nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong từng bước phát triển, trong
việc lựa chọn các phương án, xác định các địa bàn, xây dựng các công trình Đều
phải xem xét tới cả hai lĩnh vực trên. Đồng thời, công nghiệp quốc phòng cần được coi
trọng và phát triển trong sự phát triển chung của nền kinh tế. Phải đẩy mạnh sự liên kết
giữa công nghiệp quốc phòng với công nghiệp dân dụng để phục vụ có hiệu quả nhất
cho cả nhu cầu quốc phòng và dân dụng.

Những quan điểm đó là một thể thống nhất và quan hệ chặt chẽ với nhau biểu
hiện rõ trong việc xác định mục tiêu, nhiệm vụ của công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước; ở việc xác định rõ nguồn lực; động lực của tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại
hóa; ở việc xác định phương hướng, biện pháp cơ bản của công nghiệp hóa, hiện đại
hóa ở nước ta; và biểu hiện ở tiêu chuẩn để xác định các phương án, đánh giá kết quả
khi tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa.


2. Nội dung chủ yếu của Công nghiệp hóa- Hiện đại hóa ở nước ta:




2.1 Điều kiện để thực hiện Công nghiệp hóa- Hiện đại hóa ở nước ta.

2.1.1 Những thuận lợi

Bước vào thời kỳ đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đất nước ta có nhiều
thuận lợi

Trên thế giới, cách mạng khoa học- công nghệ đang phát triển nhanh với trình
độ ngày càng cao, thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế thế giới, quốc tế hóa
nền kinh tế, và đời sống xã hội. Đây là một thời cơ thuận lợi cho phép chúng ta có thể
khai thác được những yếu tố, nguồn lực bên ngoài (vốn, công nghệ, thị trường ) và
những nguồn lực bên trong của đất nước có hiệu quả, thực hiện công nghiệp hóa, hiện
đại hóa rút ngắn, kết hợp các bước đi tuần tự với nhảy vọt, vừa tăng tốc, vừa chạy
trước, đón đầu.
Là nước tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa đi sau, chúng ta có lợi thế của
người đi sau. Không những có thể tiếp nhận được những công nghệ hiện đại mà còn rút
được nhiều bài học của các nước đi trước đăc biệt của các “con rồng”, “con hổ” trên
lĩnh vực (như kinh nghiệm chuyển giao công nghệ, thu hút vốn đầu tư, bảo vệ môi
trường, giữ gìn bản sắc văn hóa truyền thống ). Cả kinh nghiệm thành công và không
thành công đều là bổ ích đối với chúng ta. Việt Nam lại nằm ở Đông Nam á- khu vực
đang phát triển năng động và tốc độ cao, lại chịu ảnh hưởng của quy luật “lây lan” đó
cũng là điều kiện thuận lợi.
Đất nước sau 10 năm đổi mới, đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế- xã hội, nhiều
tiền đề cần thiết cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã được tạo ra, chúng ta đã và đang
có những thế và lực mới, cả ở bên trong và bên ngoài để bước vào một thời kỳ phát
triển mới.
Tài nguyên thiên nhiên của đất nước ta đa dạng, phong phú, tuy không phải là
loại giàu nếu xét theo bình quân đầu người, song có thể phát triển một nền kinh tế đa
dạng, tạo thuận lợi cho giai đoạn đầu của quá trình phát triển. Nếu xét về mặt này thì



phần nào nước ta có lợi thế hơn so với các NIEs ở giai đoạn bắt đầu công nghiệp hóa.
Tuy nhiên, không thể coi tài nguyên thiên nhiên là nguồn lực chủ chốt cho quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Nước ta có 3260 km bờ biển. Các vùng biển và thềm lục địa thuộc chủ quyền tài
phán quốc gia rộng gấp ba lần diện tích đất liền, đây là một tiềm năng to lớn và đa

dạng. Nằm ở cửa ngõ giao lưu quốc tế, có thể phát triển các loại hình vận tải quá cảnh,
viễn dương, dịch vụ hàng hải, viễn thông quốc tế. Thực tế cho thấy NIEs đều là những
quốc gia – lãnh thổ hải đảo, bán đảo với các ngành kinh tế biển đóng vai trò mũi nhọn
trong phát triển.
Về tài nguyên con người- nguồn lực quan trọng nhất, là “ điểm tựa” cho quá
trình phát triển cả trước mắt và lâu dài. ở các NIEs, nhân tố con người cũng là yếu tố
quyết định cho sự thành công của quá trình công nghiệp hóa. Nước ta có đội ngũ lao
động có học vấn tương đối khá, có khả năng tiếp thu kiến thức, kỹ năng nghề nghiệp,
kể cả ngành nghề mới. Đặc biệt là lực lượng lao động có trình độ chuyên môn, nghiệp
vụ được đào tạo tương đối lớn (Hiện tại nước ta có khoảng 9000 tiến sĩ và phó tiến sĩ,
trên 800.000 người có trình độ đại học, cao đẳng và trên 2 triệu công nhân kỹ thuật).
Lực lượng này có khả năng làm chủ, tiếp thu và thích nghi với các công nghệ nhập từ
nước ngoài, kể cả công nghệ cao. Nước ta cũng có một lực lượng tương đối lớn người
Việt Nam sống ở nước ngoài( chủ yếu là châu Âu, Oxtrâylia) ,trong đó có trên 300.000
người có trình độ cao về chuyên môn. Đây là một nguồn quan trọng góp phần phát
triển đất nước, là cầu nối Việt Nam với thế giới về chuyển giao trí thức, công nghệ, các
quan hệ quốc tế.

Với các tiềm năng trên thêm với đường lối, chính sách đúng đắn chúng ta có thể
tranh thủ được thời cơ thuận lợi và vượt qua những thử thách, thực hiện thắng lợi công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đưa đất nước thành một nước công nghiệp vào năm
2020.

2.1.2 Những khó khăn:




Bên cạnh những thuận lợi, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa của đất
nước cũng gặp phải không ít những khó khăn.

Bối cảnh quốc tế và khu vực vừa tạo ra thời cơ thuận lợi, vừa đặt ra những thử
thách, nguy cơ. Đặc biệt là “nguy cơ tụt hậu” xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong
khu vực vẫn là thử thách to lớn và gay gắt do điểm xuất phát của ta quá thấp, lại phải đi
lên trong môi trường cạnh tranh quyết liệt. Nước ta lại nằm trong khu vực Châu á-
Thái Bình Dương và Biển Đông, nơi đang còn những diễn biến phức tạp, nơi đang
“tiềm ẩn một số nhân tố có thể gây mất ổn định”
Dấu ấn của cơ chế quản lý cũ- cơ chế kế hoạch tập trung quan liêu- bao cấp
chưa được xóa bỏ hết; cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước còn đang trong
quá trình hình thành. Quản lý kinh tế- xã hội còn nhiều yếu kém, thủ tục hành chính
rườm rà, bộ máy hành chính cồng kềnh kém hiệu quả có ảnh hưởng không nhỏ đến
tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đến việc thu hút đầu tư, chuyển giao công
nghệ Đặc biệt tệ quan liêu, tham nhũng và suy thoái về phẩm chất, đạo đức của một
bộ phận cán bộ, Đảng viên làm cho các chủ trương và chính sách của Đảng và Nhà
nước bị thi hành sai lệch dẫn tới chệch hướng, đó cũng là mảnh đất thuận lợi cho diễn
biến hòa bình
Từ một điểm xuất phát quá thấp bước vào công nghiệp hóa, hiện đại hóa, khả
năng huy động vốn cho quá trình này rất bị hạn chế, mà vốn là chìa khóa, là điều kiện
hàng đầu để thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Hiện nay, trong tổng số vốn dùng
để đầu tư xây dựng cơ bản của Nhà nước thì vốn trong nước chỉ có 25% còn 75% là
vay nước ngoài. Quản lý và sử dụng kém hiệu quả cùng với tham nhũng sẽ là nguy cơ
gánh nặng nợ nần lớn lên và khả năng trả nợ khó khăn.
Bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa từ một cơ cấu kinh tế
mất cân đối và kết cấu hạ tầng kém phát triển là những khó khăn, cản trở đáng kể, đòi
hỏi phải có sự chuyển biến nhanh chóng mới tạo điều kiện để tiến trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước có hiệu quả. Vì vậy, trong kế hoạch 5 năm (1996-2000) Nhà
nước đặc biệt chú ý tới chương trình phát triển công nghiệp và kết cấu hạ tầng. Kinh



nghiệm của các NIEs và các nước ASEAN đều cho thấy, ở đâu hệ thống năng lượng,

giao thông vận tải và liên lạc được xây dựng và hiện đại thì ở đó kinh tế, dịch vụ phát
triển nhanh, có hiệu quả; đặc biệt là ở các điểm nút mở ra với thị trường thế giới và gắn
với các trung tâm phát triển kinh tế hướng ngoại.

Nhìn chung những khó khăn ban đầu và phát sinh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
ở nước ta là rất lớn, song mặt thuận lợi vẫn là cơ bản. Với đường lối công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đúng đắn, chắc chắn sự nghiệp vĩ đại, nhiệm vụ trọng tâm trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội này ở nước ta nhất định giành được thắng lợi.

2.2 Trang bị kỹ thuật và công nghệ hiện đại cho nền kinh tế quốc dân:

Thế giới đã trải qua 2 cuộc cách mạng kỹ thuật: cuộc cách mạng kỹ thuật mà nội
dung chủ yếu của nó là cơ khí hóa xuất hiện đầu tiên ở nước Anh vào 30 năm cuối thế
kỷ XVIII và hoàn thành vào những năm 50 đầu thế kỷ XIX. Đến khoảng giữa thế kỷ
XX xuất hiện cuộc cách mạng khoa học- công nghệ hiện đại. Mấy thập niên đã qua,
nhất là thập niên gần đây loài người đang chứng kiến những thay đổi rất to lớn, trên
nhiều lĩnh vực của đời sống kinh tế, chính trị và xã hội. Cuộc cách mạng này có nhiều
nội dung, song có năm nội dung chủ yếu sau:
-Về tự động hóa: Máy tự động quá trình, máy công cụ điều khiển bằng số; rôbốt.
-Về năng lượng: Ngoài những dạng năng lượng truyền thống (nhiệt điện, thủy điện)
ngày nay đã và đang chuyển sang lấy dạng năng lượng điện nguyên tử là chủ yếu.
-Về vật liệu mới: chỉ trong khoảng chưa đầy 40 năm lại đây các vật liệu mới đã xuất
hiện với chủng loại rất phong phú và có nhiều tính chất đặc biệt mà vật liệu tự nhiên
không có được. Thí dụ: vật liệu tổ hợp hay còn gọi là composit với các tính chất mong
muốn; gốm zin côn hoặc các- bua- si- lic chịu nhiệt cao .
-Về công nghệ sinh học: công nghệ vi sinh, kỹ thuật cuzin; kỹ thuật gen và nuôi cấy tế
bào được ứng dụng ngày càng nhiều trong công nghiệp, nông nghiệp, y tế, hóa chất,
bảo vệ môi trường .




Vào giữa những năm 80, cuộc cách mạng khoa học- kỹ thuật(hay công nghệ) hiện đại
chuyển sang giai đoạn thứ ba- giai đoạn có nhiều quan điểm khác nhau đặt tên gọi cho
nó. Có người cho rằng đó là giai đoạn vi điện tử; có nhiều ý kiến cho là giai đoạn tin
học hóa; các nhà tương lai học gọi là giai đoạn văn minh trí tuệ- theo họ văn minh này
diễn ra sau văn minh nông nghiệp và văn minh công nghiệp. Tương ứng với giai đoạn
thứ ba cuộc cách mạng này còn có một nội dung mới: điện tử và tin học.
-Về điện tử và tin học: một lĩnh vực vô cùng rộng lớn và hấp dẫn, nhất là lĩnh vực máy
tính, diễn ra theo 4 hướng nhanh(siêu máy tính);nhỏ(vi tính);máy tính có xử lý kiến
thức(trí tuệ nhân tạo); máy tính nói từ xa(viễn tin học).
Từ nội dung cuộc cách mạng khoa học- kỹ thuật, mặc dù có thể còn có ý kiến
nào đó khác nhau, song nhiều ý kiến nhất trí cho vằng cuộc cách mạng này có hai đặc
trưng chủ yếu:
Một là,khoa học đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp,tức là nó bao gồm cả
khoa học tự nhiên- kỹ thuật lẫn khoa học- xã hội, nhất là khoa học kinh tế; nó do con
người tạo ra thông qua con người- nhân tố trung tâm- nhân tố chủ thể- đến lực lượng
sản xuất. Nó đòi hỏi phải có chính sách đầu tư đúng đắn cho khoa học- kỹ thuật. Ngày
nay, bất cứ một sự tiến bộ nào của kỹ thuật( công nghệ) sản xuất đều phải dựa trên
những thành tựu của khoa học làm cơ sở lý thuyết cho nó.
Hai là, thời gian cho một phát minh mới của khoa học ra đời thay thế cho phát
minh cũ có xu hướng rút ngắn lại và phạm vi ứng dụng của một thành tựu khoa học
vào sản xuất và đời sống ngày càng mở rộng. Đặc trưng này làm cho tài sản cố định
trong quá trình sử dụng, thậm chí vừa mới xây dựng xong không chỉ bị hao mòn hữu
hình mà còn bị hao mòn vô hình nhanh chóng hơn trước; không chỉ liên quan đến sự
tích lũy vốn mà còn liên quan đến sự biến động của giá thành sản phẩm và liên quan
đến tốc độ thay đổi nhanh chóng của các ngành có công nghệ mũi nhọn. Nó đòi hỏi cần
được kết hợp chặt chẽ giữa chiến lược khoa học- kỹ thuật(công nghệ) với chiến lược
kinh tế xã hội.
Nước ta, một nước bỏ qua chế độ TBCN đi lên CNXH, công nghiệp hóa, hiện
đại hóa được tiến hành trong điều kiện thế giới đã trải qua hai cuộc cách mạng khoa




học kỹ thuật diễn ra trong xu hướng toàn cầu hóa, khu vực hóa. Trong hoàn cảnh đó
cuộc cách mạng khoa học- kỹ thuật ở nước ta phải bao gồm cả cơ khí hóa và hiện đại
hóa, coi nó là “then chốt” và coi khoa học- công nghệ là “ động lực” cho sự tăng
trưởng và phát triển bền vững.

2.3 Xác định cơ cấu kinh tế hợp lý và phân công lại lao động xã hội:

2.3.1 Xác định cơ cấu hợp lý:

Việc xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý bao giờ cũng phải dựa trên tiền đề là phân
công lại lao động xã hội.
Từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn XHCN không qua giai đoạn phát triển tư bản
chủ nghĩa trong quá trình công nghiệp hóa tất yếu phải phân công lại lao động xã hội.
Phân công lao động xã hội là sự chuyên môn hóa lao động, tức là sự chuyên môn hóa
sản xuất giữa các ngành trong nội bộ từng ngành và giữa các vùng trong nền kinh tế
quốc dân. Phân công lao động có tác dụng to lớn: nó là đòn bẩy của sự phát triển công
nghệ và năng suất lao động;cùng với cách mạng khoa học- kỹ thuật nó góp phần hình
thành và phát triển có cấu kinh tế hợp lý. Sự phân công lại lao động xã hội trong quá
trình công nghiệp hóa tuân thủ các quá trình có tính quy luật sau:
-Tỷ trọng và số tuyệt đối lao động nông nghiệp giảm dần; tỷ trọng và số tuyệt đối lao
động công nghiệp ngày một tăng lên.
-Tỷ trọng lao động trí tuệ ngày một tăng và chiếm ưu thế so với lao động giản đơn
trong tổng lao động xã hội.
-Tốc độ tăng lao động trong các ngành phi sản xuất vật chất (dịch vụ) tăng nhanh hơn
tốc độ tăng lao động trong các ngành sản xuất vật chất.
Nước ta, phương hướng phân công lại lao động xã hội hiện nay cần triển khai
trên cả hai địa bàn: tại chỗ và nơi khác để phát triển về chiều rộng kết hợp với phát

triển theo chiều sâu.



Trong hai địa bàn này, cần ưu tiên địa bàn tại chỗ; nếu cần chuyển sang địa bàn
khác (đi vùng kinh tế mới) phải có sự chuẩn bị chu đáo.
Như trên đã nói vấn đề phân công lao động xã hội có liên quan chặt chẽ với việc
xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý.
Cơ cấu kinh tế hiểu theo nghĩa rộng bao gồm: cơ cấu ngành và lĩnh vực kinh tế,
cơ cấu thành phần kinh tế và hướng phát triển trên các vùng kinh tế.
Cơ cấu kinh tế hiểu theo nghĩa hẹp là tổng thể các quan hệ kinh tế giữa các
ngành, các lĩnh vực kinh tế, giữa các vùng kinh tế .trong đó, quan hệ giữa công
nghiệp, nông nghiêp và dịch vụ là ba bộ phận có tầm quan trọng- “bộ xương” của cơ
cấu kinh tế. Các quan hệ này được xem xét dưới các khía cạnh: trình độ công nghệ, quy
mô, nhịp điệu phát triển giữa chúng.
Xây dựng cơ cấu kinh tế là yêu cầu cần thiết khách quan của mỗi nước trong
thời kỳ công nghiệp hóa. Vấn đề quan trọng là tạo ra một cơ cấu kinh tế tối ưu (hợp lý).
Xây dựng một cơ cấu kinh tế được gọi là tối ưu khi nó đáp ứng được các yêu cầu:
-Phản ánh được và đúng các quy luật khách quan, nhất định là các quy luật kinh tế
-Phù hợp với xu hướng của sự tiến bộ của khoa học và công nghệ đã và đang diễn ra
như vũ bão trên thế giới.
-Cho phép khai thác tối đa mọi tiềm năng của đất nước, ngành, xí nghiệp, cả về chiều
rộng lẫn chiều sâu.
-Thực hiện sự phân công và hợp tác quốc tế theo xu hướng sản xuất và đời sống ngày
càng được quốc tế hóa, do vậy , cơ cấu kinh tế được tạo dựng phải là “cơ cấu mở”.
-Xây dựng cơ cấu kinh tế là một quá trình, trải qua những chặng đường nhất định, do
vậy xây dựng cơ cấu kinh tế của chặng đường trước phải sao cho tạo được đà cho
chặng đường sau.
Nước ta qua hàng chục năm xây dựng cơ cấu kinh tế đã đem lại những thành
công nhất định, tạo dựng được một bộ phận cơ sở vật chất, công nghệ nhất định. Song

trong việc bố trí cơ cấu kinh tế có những sai lầm không nhỏ về cơ cấu ngành, chạy theo
công nghiệp nặng, công nghiệp cơ khí quá nhiều, xem nhẹ nông nghiệp và kết cấu hạ
tầng; chạy theo quy mô lớn; công nghệ lạc hậu .Qua nhiều lần đại hội, nhưng kể từ



Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đến nay, dưới ánh sáng của sự đổi mới nói chung,
trong đó có đổi mới việc xây dựng cơ cấu kinh tế, đến nay đã đưa lại chuyển động
bước đầu quan trọng: tỷ trọng công nghiệp và xây dựng trong GDP từ 22,7% năm 1990
tăng lên 30,1% năm1995; tỷ trọng các ngành dịch vụ từ 38,6% năm 1990 tăng lên
42,4% năm 1995. Nước ta đã chuyển sang một thời kỳ mới – thời kỳ đẩy mạnh
CNH,HĐH phát triển và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH,HĐH để đến
năm 2000 về cơ bản nước ta trở thành một nước công nghiệp.
Thông qua cách mạng khoa hoc- kỹ thuật và phân công lại lao động với những
tính quy luật vốn có của nó, thích ứng với điều kiện nước ta, Đảng ta đã xác định một
cơ cấu kinh tế hợp lý, mà “bộ xương” của nó là:” Cơ cấu kinh tế công- nông nghiệp-
dịch vụ gắn với phân công và hợp tác quốc tế sâu rộng, và khi hình thành về cơ cấu
kinh tế đó, sẽ cho phép nước ta kết thúc thời kỳ quá độ lên CNXH”
Phương hướng phát triển của các ngành trong cơ cấu ấy phải đáp ứng được yêu
cầu của mô hình chiến lược cụ thể là:
Thứ nhất, khai thác có hiệu quả tiềm năng đa dạng về nông- lâm- ngư nghiệp,
thúc đẩy nhanh việc hình thành các vùng tập trung, chuyên canh, đưa công nghệ sinh
học và các phương pháp canh tác tiên tiến vào nông nghiệp, thúc đẩy quá trình CNH
nông nghiệp và nông thôn, bảo đảm thỏa mãn các nhu cầu lương thực, thực phẩm trong
nước, tạo nguồn nguyên liệu vững chắc cho công nghiệp chế biến, tăng nguồn hàng
xuất khẩu, tạo công ăn việc làm, phân công lại lao động xã hội, mở rộng thị trường
trong nước cho công nghiệp và dịch vụ.
Thứ hai, kết hợp phát triển nông- lâm- ngư nghiệp với phát triển công nghiệp
chế biến nông lâm thủy sản: phát triển công nghiệp chế biến lúa gạo có chất lượng
ngày càng cao đáp ứng nhu cầu trong nước, nâng cao hiệu quả xuất khẩu; chế biến thực

phẩm có chất lượng dinh dưỡng cao, bảo đảm vệ sinh, đa dạng hóa mặt hàng, kiểu cách
và nhãn hiệu để phục vụ nhu cầu trong nước và đẩy mạnh xuất khẩu,tăng nhanh năng
lực và nâng cao trình độ công nghệ chế biến các loại cây công nghiệp dài ngày, lâm sản
và thủy sản.



Thứ ba, phát triển mạnh mẽ sản xuất hàng tiêu dùng thông thường để thỏa mãn
những nhu cầu tiêu dùng cơ bản, thiết yếu và phổ thông của dân cư, hạn chế tối đa việc
nhập khẩu hàng hóa,nhằm tiết kiệm ngoại tệ, vừa tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển
trong nước.Mở rộng sản xuất hàng lâu bền, cao cấp để thỏa mãn nhu cầu ngày càng
tăng của dân cư, giảm dần tiến tới thay thế nhập khẩu loại hàng hóa này bằng hàng hóa
sản xuất trong nước.Cần chú ý tới đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng, đa dạng
hóa mặt hàng, cải tiến bao bì, giảm giá thành . để nâng cao khả năng cạnh tranh của
hàng hóa sản xuất trong nước. Phát huy lợi thế nhân công và truyền thống sản xuất đẩy
mạnh sản xuất hàng tiêu dùng phục vụ xuất khẩu, tập trung chủ yếu vào các sản phẩm
may mặc, dệt, da,hàng điện tử, đồ điện gia dụng
Thứ tư, xây dựng, cải tạo và nâng cấp hệ thống kết cấu hạ tầng phục vụ phát
triển các ngành kinh tế, cải thiện đời sống nhân dân và thu hút vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài, trước hết ưu tiên cho những khâu ách tắc và yếu kém nhất đang cản trở sự
phát triển.
Thứ năm, xây dựng có chọn lọc một số cơ sở công nghiệp nặng trọng yếu và hết
sức cấp thiết, có điều kiện về vốn, công nghệ, thị trường, để phát huy nhanh và có hiệu
quả cao.Cụ thể: ngành cơ khí hướng mạnh vào sản xuất công cụ, thiết bị phục vụ công
nghiệp chế biến nông lâm thủy sản và sản xuất hàng tiêu dùng; sản xuất phụ tùng, lắp
ráp một số loại sản phẩm phức tạp, có trình độ kỹ thuật cao; phát triển công nghiệp
điện lực phục vụ quá trình điện khí hóa nước; phát triển một số ngành sản xuất nguyên
liệu vật liệu: dầu khí và lọc dầu, xi măng, luyện cán thép, khai thác khoáng sản .
Thứ sáu, phát triển dịch vụ du lịch, khai thác có hiệu quả lợi thế về tự nhiên,
truyền thống lịch sử văn hóa dân tộc, phục vụ phát triển kinh tế và cải thiện đời sống

nhân dân .
Ngoài ra, trong cấu trúc của cơ cấu kinh tế còn có:
Cơ cấu vùng kinh tế: Phải tạo điều kiện cho tất cả các vùng đều phát triển trên cơ sở
khai thác thế mạnh và tiềm năng của mỗi vùng, liên kết giữa các vùng, làm cho mỗi
vùng đều có một cơ cấu kinh tế hợp lý và đều chuyển biến tiến bộ, góp phần vào sự



phát triển kinh tế- xã hội.Thực hiện đầu tư trọng điểm vào 3 vùng kinh tế Bắc,Trung
,Nam.
Cơ cấu giữa thị tứ, thị xã, thị trấn,thành phố và đô thị:Tùy theo điều kiện từng nơi, tất
cả các thị xã, thị trấn đều phải được phát triển trên cơ sở đẩy mạnh công nghiệp dịch vụ
mang ý nghĩa tiểu vùng. Hình thành các thị tứ làm trung tâm kinh tế, văn hóa cho mỗi
xã hoặc cụm xã.
Phát triển các đô thị vệ tinh xung quanh các thành phố lớn để dãn bớt côngnghiệp và
dân cư, tránh sự tập trung quá mức vào Hà Nội,thành phố Hồ Chí Minh.Tạo điều kiện
cần thiết để thu hút công nghiệp và phát triển đô thị mới lên vùng đồi trung du, tránh sử
dụng nhiều diện tích đất lúa. Hạn chế mở rộng quy mô các thành phố lớn,sớm quy
hoạch mạng lưới đô thị,đồng thời phải chú ý đền việc phải xây dựng đồng bộ và quản
lý các công trình điện, cấp thoát nước, cây xanh
Coi trọng việc kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế văn hóa, giữ gìn bản sắc và
truyền thống văn hóa dân tộc với tiến lên hiện đại trong phát triển đô thị
Cơ cấu thành phần kinh tế: Lấy việc giải phóng sức sản xuất, động viên tối đa mọi
nguồn lực bên trong và bên ngoài cho việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng
CNH,HĐH.Phát huy vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước,tạo điều kiện thuận lợi về
kinh tế và pháp lý để các chủ doanh nghiệp tư nhân yên tâm đầu tư chuyển dịch cơ cấu
kinh tế. Mở rộng hình thức liên doanh, liên kết, áp dụng rộng rãi các hình thức kinh tế
tư bản Nhà nước.

2.3.2 Đẩy mạnh cách mạng khoa học kỹ thuật và chuyển giao công nghệ từ nước

ngoài.

Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ thế giới đã và đang đóng vai trò rất to
lớn đối với sự nghiệp CNH,HĐH trong tất cả các nước, nhất là những nước có nền
kinh tế kém phát triển. Tuy nhiên, cách thức tiến hành ở các nước lại không giống
nhau, có nước tiến hành bằng cách tự nghiên cứu, tự trang bị công nghệ mới cho các
ngành kinh tế trong nước, có nước tiến hành thông qua chuyển giao công nghệ,cũng có



nước tiến hành bằng cách kết hợp giữa tự nghiên cứu với chuyển giao. Theo kinh
nghiệm của Nhật Bản và các nước NIEs ở thời kỳ công nghiệp hóa, xây dựng và
chuyển dịch cơ cấu kinh tế đã chứng minh rằng chuyển giao công nghệ là cách làm rẻ
nhất, có hiệu quả nhất để có được công nghệ hiện đại.
Việt Nam, sau một thời gian dài áp dụng không thành công mô hình CNH theo
kiểu Liên Xô(cũ), mà thực chất là mô hình CNH hướng nội, nhờ đường lối đổi mới
kinh tế, Đảng ta đã nhanh chóng vận dụng những bài học thành công về CNH của các
nước khu vực để chuyển sang mô hình CNH hướng ngoại. Điều này đã tạo thuận lợi
cho Việt Nam tham gia vào quá trình chuyển giao công nghệ với các nước trên thế giới
và trong khu vực. Hiện nay trình độ công nghệ của Việt Nam còn rất thấp kém so với
các nước láng giềng, chậm so với Trung Quốc khoảng 10 năm, và so với Đài Loan
khoảng 20-30 năm ở vào thời điểm bắt đầu CNH. Vì vậy, tiếp nhận chuyển giao công
nghệ từ nước ngoài là cần thiết.Tuy nhiên trong quá trình tiếp nhân chuyển giao công
nghệ phải tỉnh táo để tránh nhập công nghệ lỗi thời do các nước thải ra,tránh không để
cho Việt Nam trở thành “bãi thải công nghệ” của các nước phát triển.
Song song với quá trình tiếp nhận chuyển giao công nghệ, Việt Nam còn phải xây
dựng cho mình chiến lược phát triển khoa học và công nghệ quốc gia mang tính tổng
thể lâu dài, bao gồm cả nghiên cứu, chuyển giao, thử nghiệm và ứng dụng. Đại hội
Đảng lần thứ VIII đã khẳng định vai trò quan trọng của khoa học và công nghệ: “Phát
triển khoa học và công nghệ, nâng cao năng lực nội sinh, coi đó là nhân tố quan trọng

để thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa”
Xuất phát từ điều kiện lịch sử cụ thể của Việt Nam, việc chuyển giao và phát
triển khoa học, công nghệ sẽ theo phương hướng chung và giải pháp cụ thể sau đây:
Phương hướng chung: hình thành cơ cấu kỹ thuật và công nghệ nhiều tầng, kết
hợp nhiều trình độ, nhiều quy mô,tranh thủ tối đa công nghệ tiên tiến, cải tiến công
nghệ truyền thống, ưu tiên công trình quy mô vừa và nhỏ nhưng không loại trừ cơ sở
quy mô lớn hoặc tương đối lớn nếu có hiệu quả và điều kiện cho phép. Trong những
năm trước mắt, coi trọng loại công nghệ có suất đầu tư thấp, thu hồi vốn nhanh, tạo
thêm việc làm cho người lao động.



Các giải pháp cụ thể là:
Thứ nhất, chọn giải pháp kỹ thuật, công nghệ phù hợp để đầu tư chiều sâu,tận dụng có
hiệu quả các cơ sở hiện có sau những năm xây dựng trước đay
Thứ hai, cải tiến, nâng cấp,hiện đại hóa các kỹ thuật và công nghệ truyền thống phục
vụ phát triển kinh tế nông thôn, thực hiện công nghiệp hóa nông nghiệp và kinh tế
nông thôn.
Thứ ba,tranh thủ công nghiệp tiên tiến, đặc biệt là đối với các dự án đầu tư nước
ngoài.Thực hiện giám định nghiêm ngặt việc nhập công nghệ và thiết bị.
Thứ tư, cần đặt ra một cách nghiêm túc ngay từ đầu vấn đề bảo vệ môi trường trong
quá trình CNH,HĐH để tránh những hậu quả xấu phải trả giá đắt.Đầu tư nước ngoài
bắt buộc phải tuân thủ tiêu chuẩn quốc tế và bảo vệ môi trường,nên bố trí các cụm
công nghiệp phân tán ở nhiều địa bàn vừa là một biện pháp đỡ tốn kém vừa để hạn chế
ô nhiễm.
Thứ năm,gấp rút nâng cao năng lực khoa học và công nghệ quốc gia nhằm đổi mới và
làm chủ công nghệ nhập và sáng tạo công nghệ mới.Ưu tiên nghiên cứu ứng dụng tập
trung cho các lĩnh vực công nghệ điện tử và tin học,công nghệ sinh học,công nghệ chế
tạo và gia công vật liệu nhất là nguồn vật liệu trong nước.Chú trọng đúng mức các hoạt
động nghiên cứu khoa học cơ bản.

Cuối cùng là, tăng đầu tư bằng nhiều nguồn vốn cho việc nghiên cứu khoa học, bồi
dưỡng đội ngũ cán bộ khoa học, phát triển giáo dục và đào tạo, có cơ chế bồi dưỡng và
bảo vệ nhân tài, được coi như “một kế sách bền sâu” để tiến hành CNH,HĐH trên cơ
sở tận dụng thế mạnh của dân tộc và con người của cộng đồng Việt Nam.

3. Phân tích các điều kiện để thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở
nước ta hiện nay:

3.1 Tạo nguồn vốn và sử dụng vốn có hiệu quả




Thực tiễn cách mạng Việt Nam cho thấy nhân tố hàng đầu của công nghiệp hóa,
hiện đại hóa cũng như của sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế lớn là phải có vốn
lớn.Vốn nhiều hay ít tùy thuộc vào năng lực của cơ chế huy động, quản lý và sử dụng
vốn có hiệu quả hay không.Muốn cho sự nghiệp CNH-HĐH được tiến hành với tốc độ
nhanh cần phải có cơ chế, chính sách và biện pháp huy động được nguồn vốn nhiều
nhất, quản lý và sử dụng vốn có hiệu quả nhất.
Vấn đề huy động vốn có ý nghĩa quan trọng đối với nền kinh tế nước ta. Trước hết, là
huy động nguồn vốn từ nội bộ nền kinh tế trong nước. Đây là nguồn vốn có tính quyết
định, là nhân tố nội lực. Nhờ tăng năng suất lao động xã hội một cách mạnh mẽ và liên
tục mà tạo ra nguồn vốn tự có. Nguồn vốn nội bộ còn được tạo ra từ sự liên doanh liên
kết giữa các ngành, các lĩnh vực, các miền, các vùng của nền kinh tế trong nước.
Nguồn vốn còn được tạo ra thông qua sự phát triển mạnh mẽ của các Công ty cổ phần;
thông qua việc huy động các khoản tiền nhàn rỗi của dân cư, của các cơ sở kinh tế, các
tổ chức đoàn thể; thông qua các khoản thuế nộp ngân sách Nhà nước
Nguồn vốn nội bộ của nền kinh tế có tính quyết định cho quá trình CNH- HĐH
nhưng vẫn còn hạn hẹp. Các quốc gia trên thế giới cũng như nước ta đều phải dùng
mọi biện pháp để thu hút vốn đầu tư nước ngoài thông qua các hình thức: liên doanh,

hợp tác kinh doanh, vay lãi suất thấp, vốn viện trợ. Trong điều kiện nền kinh tế tích lũy
nội bộ còn thấp thì thu hút được nhiều vốn đầu tư nước ngoài là quan trọng. Từ nguồn
vốn bên ngoài, biến thành nguồn vốn trong nước, tạo điều kiện đẩy nhanh quá trình
CNH- HĐH tăng trưởng và phát triển. Để với việc huy động vốn đầu tư nước ngoài cần
có cơ chế chính sách thỏa đáng để thu hút ngày càng nhiều và tranh thủ cùng với công
nghệ tiên tiến. Tuy nhiên, nguồn vốn nước ngoài cũng chỉ có hạn và thường kèm theo,
những ràng buộc nhất định, số nước và cá nhân có vốn đầu tư không tương đương với
số nơi có nhu cầu nhận đầu tư, từ đó nảy sinh cạnh tranh. Cuộc cạnh tranh này đưa các
nước kém phát triển hơn vào thế bất lợi. Muốn tiếp nhận đầu tư từ nước ngoài thì cần
phải có một lượng vốn tương ứng ở trong nước. Còn việc vay vốn thì phải đảm bảo đến
khả năng trả nợ, và các yếu tố như độc lập, chủ quyền, kinh tế, chính trị.



Chính vì lẽ đó mà vốn nội bộ có ý nghĩa quyết định. Vì vậy, để khắc phục nguy
cơ tụt hậu,không có cách nào khác là phải ra sức cần kiệm trong sản xuất, tiết kiệm
trong tiêu dùng cá nhân, dồn vốn cho đầu tư, phát triển. Đầu tư Nhà nước chủ yếu tập
trung xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội, xây dựng một số cơ sở công nghiệp then
chốt, và phát triển nông thôn. Nhà nước phải tạo điều kiện cho từng địa phương, từng
cơ sở phát triển mạnh mẽ sản xuất nhằm huy động nguồn vốn nhàn rỗi trong dân phục
vụ có hiệu quả cho sự nghiệp CNH- HĐH.
Song song với việc huy động các nguồn vốn, vấn đề sử dụng, bảo toàn và phát
triển vốn cũng có ý nghĩa cực kỳ quan trọng.Sự cần thiết của chế độ bảo toàn và phát
triển vốn trước hết xuất phát từ yêu cầu của cơ chế quản lý kinh tế mới, phải hạch toán
kinh tế kinh doanh, xuất phát từ yêu cầu của sự nghiệp CNH- HĐH là đảm bảo tính
hiệu quả kinh tế cao.Vì vậy, để quá trình CNH- HĐH và sản xuất kinh doanh đạt hiệu
quả kinh tế cao, tất yếu phải bảo toàn và phát triển vốn, phải nâng cao hiệu quả sử dụng
vốn.

3.2 ứng dụng khoa học công nghệ:


Khoa học được coi là một hệ thống trí thức của loài người đã hình thành trong
lịch sử và không ngừng phát triển cả về tự nhiên, xã hội và tư duy, cả về các quy luật
vận động phát triển khách quan của chúng,trên cơ sở thực tiễn. Do đó, có thể nói khoa
học là sự phản ánh lý thuyết của thực tiễn.
Sự nghiệp CNH- HĐH nói riêng và phát triển kinh tế- xã hội nói chung ở nước ta
hiện nay “phải thật sự dựa vào khoa học và công nghệ”. Khoa học ở đây bao gồm cả
khoa học xã hội, khoa học tự nhiên,khoa học kỹ thuật và công nghệ; và cùng với chức
năng văn hóa, nó phải đảm bảo cơ sở khoa học cho các quyết định quan trọng của các
cấp quản lý, thực sự là công cụ chủ yếu để nâng cao năng suất lao động; chất lượng và
hiệu quả của mọi hoạt động kinh tế- xã hội. Chính vì vậy, phải đẩy mạnh việc nghiên
cứu,ứng dụng khoa học tự nhiên và khoa học kỹ thuật theo hướng trọng tâm là cải tạo,



đổi mới và nâng cao trình độ công nghệ của các cơ sở sản xuất hiện có, tận dụng có
hiệu quả công suất thiết bị, đa dạng hóa và nâng cao chất lượng sản phẩm và dịch vụ.
Cải tiến, hiện đại hóa công nghệ truyền thống, đồng thời hình thành có trọng điểm
một số hướng công nghệ hiện đại như: điện tử và tin học; công nghệ vật liệu mới; công
nghệ sinh học, cũng như một số ngành công nghiệp và dịch vụ có hàm lượng công
nghệ cao tạo cơ sở cho việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong bước phát triển tiếp sau.
Tuy nhiên, do nền kinh tế vận động theo cơ chế thị trường, nên ngân sách Nhà
nước chủ yếu chỉ có thể đảm bảo cho việc xây dựng các cơ sở nghiên cứu khoa học và
triển khai các nhiệm vụ nghiên cứu quan trọng có ý nghĩa quốc gia, hoạt động chủ yếu
theo phương thức ký kết hợp đồng nghiên cứu trực tiếp với các cơ sở sản xuất kinh
doanh thuộc các thành phần kinh tế. Đồng thời mở rộng, đa dạng hóa và nâng cao hiệu
quả hợp tác quốc tế và khoa học công nghệ, tranh thủ sự hợp tác và tài trợ của nước
ngoài, của các tổ chức quốc tế, các nhà khoa học cũng như trí thức Việt kiều.
Mặt khác, thực tiễn thế giới hiện đại đã cho thấy trong điều kiện hiện nay, nước ta
có nhịp độ phát triển nhanh không nhất thiết phải là nước có tiềm năng nghiên cứu để

ứng dụng lớn và cải tiến nhanh những quy trình công nghệ, các phát minh, sáng chế kỹ
thuật của thế giới, cho thích ứng với điều kiện cụ thể của nước mình. Chính vì vậy,
phải” đẩy mạnh phong trào toàn dân học tập, tiếp thu, ứng dụng, làm chủ các tiến bộ
khoa học và công nghệ; phát huy sáng kiến để không ngừng nâng cao năng suất, chất
lượng và hiệu quả trong mọi hoạt động kinh tế xã hội.

3.3 Làm tốt công tác điều tra cơ bản, thăm dò địa chất:

Đây là một tiền đề hết sức quan trọng đối với việc quyết định phương hướng,chủ
trương,kế hoạch,biện pháp thực hiện công nghiệp hóa.
Việc điều tra cơ bản, thăm dò địa chất để nắm vững các loại tài nguyên và tình
hình kinh tế xã hội phải đi trước; đồng thời phải tiếp tục điều tra để phát hiện những tài
nguyên chưa tìm thấy và nắm chắc sự biến động về các mặt của tình hình kinh tế xã



hội. Chính vì vậy, việc điều tra thăm dò phải đảm bảo chất lượng cao, chính xác, cụ thể
và kịp thời.
Sẽ không thể đẩy mạnh việc khai thác, chế biến dầu khí, một số khoáng sản, xây
dựng các công trình thuỷ điện lớn, nhỏ .nếu không có bản đồ địa chất, công trình,luận
chứng kinh tế, xã hội. Thiếu nó sẽ không thể phân bổ xí nghiệp, xác định quy mô,trình
độ kỹ thuật, và hiệu quả của việc khai thác.
Tất nhiên,việc điều tra thăm dò phải được kết hợp giữa phương pháp khoa học
và kỹ thuật hiện đại, với việc phát động quần chúng rộng rãi tham gia.
Việc điều tra thăm dò không chỉ là tiền đề không thể thiếu được cho công
nghiệp hóa,mà còn cho phép khai thức lợi thế so sánh về tài nguyên giữa các nước, nếu
khai thức kịp thời.Sẽ bị mất lợi thế nếu khai thức chậm trước sự bùng nổ của vật liệu
mới do sự tác động mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật hiện đại đang tạo
ra khả năng thay thế nguyên vật liệu tự nhiên. Ví dụ:quặng bôxit sẽ bị mất giá trị khi
kỹ thuật luyện nhôm từ đất sét thường trở thành phổ biến của thế giới;cát có độ silic

cao sẽ bị mất giá khi kỹ thuật tổng hợp silic tinh chất được hoàn thiện;than dầu sẽ bị
mất giá khi kỹ thuật năng lượng mặt trời, gió năng lượng nguyên tử được sử dụng .

3.4 Đào tạo đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật

Công nghiệp hóa đất nước là sự nghiệp của toàn xã hội, trong đó đội ngũ cán bộ
khoa học kỹ thuật, khoa học quản lý và công nhân lành nghề có ý nghĩa cực kỳ quan
trọng. Để có được đội ngũ đó phải đẩy mạnh việc đào tạo, Đảng ta đã xác định” Đẩy
mạnh hơn nữa sự nghiệp giáo dục,đào tạo khoa học và công nghệ coi đó là quốc sách
hàng đầu để phát huy nhân tố con người, động lực trực tiếp của sự phát triển.Trước
mắt, phải phổ cập cấp I, nâng cao dân trí, đào tạo nghề cho phần lớn thanh niên, tăng
nhanh số công nhân lành nghề, đào tạo cán bộ nhiều trình độ, đặc biệt là cán bộ quản
lý,nhà kinh doanh, chuyên gia khoa học và công nghệ”
Sự nghiệp đào tạo hiện nay ở nước ta đòi hỏi phải nhanh chóng đổi mới cơ chế
quản lý giáo dục đào tạo,khoa học công nghệ,cho phù hợp với nền kinh tế thị trường



nhiều thành phần theo định hướng XHCN.Phải gắn chặt lĩnh vực này với sản xuất và
các mục tiêu kinh tế xã hội. Muốn vậy,một mặt nhà nước phải tăng đầu tư,mặt khác
phải có chính sách,các hình thức,biện pháp để động viên thúc đẩy toàn dân,các thành
phần kinh tế cùng tham gia đóng góp để đẩy mạnh sự nghiệp quan trọng này,chỉ có vậy
mới nhanh chóng xây dựng được một đội ngũ lao động có trí tuệ thích ứng với sự phát
triển khoa học và công nghệ hiện đại của thế giới.


×