Tải bản đầy đủ (.pdf) (29 trang)

LUẬN VĂN: Vai trò kinh tế của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (437.79 KB, 29 trang )














LUẬN VĂN:

Vai trò kinh tế của Nhà nước trong nền
kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay











Lời mở đầu

Sự chuyển đổi nền kinh tế thị trường (KTTT) theo cơ chế thị trường có sự quản lý của


Nhà nước là xu hướng tất yếu của mọi xã hội. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay khi mà nền
kinh tế các nước phát triển trên thế giới đã đạt tới đỉnh cao và xu hướng vận động phát triển
của thế giới đang tiến vào thế kỷ văn minh trí tuệ thì sự chuyển đổi KTTT theo cơ chế thị
trường có sự quản lý của Nhà nước là tất yếu khách quan của bất kỳ một quốc gia nào muốn
vươn tới và hoà nhập với xu hướng phát triển chung của nhân loại.

Về mặt kinh tế hiện nay Việt Nam vẫn là một trong những quốc gia kém phát triển. Để
có thể vươn lên đạt trình độ phát triển ngang hàng với các quốc gia khác, Việt Nam cần phải
tìm cho mình con đường phát triển phù hợp với tình hình kinh tế xã hội trong nước vừa đảm
bảo xu thế phát triển chung của thế giới. Đó chính là việc chuyển đổi nền kinh tế kế hoạch
hoá tập trung quan liêu bao cấp sang nền KTTT định hướng XHCN có sự quản lý của Nhà
nước.

Từ giữa những năm 80 khi bắt đầu sự nghiệp đổi mới, chúng ta đã nhận rõ vai trò động
lực to lớn của Nhà nước tới nền KTTT. Nhà nước không những là chủ thể mà còn là khách
thể. Nhà nước tham gia vào các loại quan hệ khác nhau trong nền kinh tế. Vì vậy vấn đề đặt
ra là phải làm rõ được vai trò kinh tế của Nhà nước và sử dụng nó một cách có hiệu quả để
thúc đẩy quá trình vận động nền KTTT theo định hướng XHCN theo hướng có lợi nhất vừa
phát huy tác dụng tích cực và hạn chế được nhiều khiếm khuyết của nền KTTT vừa đảm
bảo được sự tăng trưởng kinh tế, đảm bảo công bằng xã hội.

Chính vì những điều đó, “Vai trò kinh tế của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường
ở nước ta hiện nay” là rất quan trọng. Đây là một vấn đề lớn muốn giải quyết được đòi hỏi
phải có thời gian công sức nghiên cứu không dễ gì giải quyết trọn vẹn trong bài viết ngắn.



Nội dung



I. Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở việt nam.

1. Kinh tế thị trường:

Cơ chế thị trường là tổng thể những mối quan hệ kinh tế, các phạm trù kinh tế và qui
luật kinh tế có quan hệ hữu cơ với nhau cùng tác động để điều tiết cung - cầu giá cả cùng
những hành vi của người tham gia thị trường nhằm giải quyết 3 vấn đề cơ bản: Sản xuất cái
gì, sản xuất như thế nào, sản xuất cho ai?

Các mối quan hệ trong cơ chế thị trường chịu sự tác động của các qui luật kinh tế
khách quan như qui luật giá trị, qui luật cung cầu, qui luật lưu thông tiền tệ. Động lực của
các mối quan hệ này là lợi nhuận trong môi trường cạnh tranh. Cơ chế thị trường là cơ chế
có rất nhiều ưu điểm:

- Cơ chế thị trường là cơ chế năng động nhạy cảm có khả năng tự động điều tiết nền
sản xuất xã hội tức là sự phân bổ sản xuất vào các khu vực các ngành kinh tế hay sản xuất
cái gì như thế nào đều do thị trường quyết định mà không cần bất cứ sự điều khiển nào.

- Cơ chế thị trường đáp ứng được những nhu cầu đa dạng phức tạp của người tiêu
dùng, tự động kích thích sự phát triển của sản xuất, tăng cường chuyên môn hoá sản xuất.

- Cơ chế thị trường mang tính hiệu quả cao: Các doanh nghiệp muốn thu được lợi
nhuận cao thì đòi hỏi phải tiết kiệm chi phí sản xuất, kích thích tiến bộ của KHKTCN.

- Cơ chế thị trường thúc đẩy sự cạnh tranh làm cho sản phẩm hàng hoá có chất lượng
cao hơn, giá thành các sản phẩm giảm.



Bên cạnh những mặt tích cực trên cơ chế thị trường còn rất nhiều khuyết tật và mâu

thuẫn như sau:

- Cơ chế thị trường là cơ chế tự điều tiết chạy theo lợi nhuận, các nhà sản xuất, sản
xuất quá nhiều một loại sản phẩm hàng hoá vào đó gây ra ế thừa dẫn đến sự khủng hoảng
lãng phí.

- Cơ chế thị trường gây mất cân bằng xã hội. Tính cạnh tranh của cơ chế thị trường
làm xã hội phân hoá giàu nghèo, giai cấp.

- Cơ chế thị trường gây mất ổn định, mất cân đối trong sản xuất xã hội. Thực tế cho
thấy cơ chế thị trường là nguyên nhân của các vấn đề lạm phát và thất nghiệp.

- Cơ chế thị trường gây ra các phế thải làm ô nhiễm môi trường.

- Các doanh nghiệp chạy theo lợi nhuận bất chấp tất cả làm hàng giả lậu thuế

2. Tính tất yếu khách quan của việc chuyển đổi sang KTTT có sự quản lý của Nhà nước.

Trước kia nền kinh tế nước ta là nền kinh tế kế hoạch hoá quan liêu bao cấp. Trên thực
tế Nhà nước chỉ thừa nhận một thành phần kinh tế XHCN với 2 loại hình sở hữu là toàn dân
và tập thể. Các thành phần kinh tế khác bị hạn chế một cách tối đã thậm chí bị triệt tiêu,
kinh tế tư nhân không được phép tồn tại và hoạt động. Nhà nước thể hiện quản lý kinh tế
thông qua hệ thống chỉ tiêu pháp lệnh chi tiết với chế độ cấp phát và giao nộp theo quan hệ
hiện vật là chủ yếu. Nhà nước bao cấp toàn bộ và can thiệp quá sâu vào các hoạt động kinh
doanh của các doanh nghiệp, các HTX, các tổ sản xuất. Nhà nước thành lập ra ủy ban vật
giá để quyết định giá cả sản phẩm nhưng Nhà nước lại không chịu trách nhiệm gì về vật
chất với các quyết định của mình. Các doanh nghiệp thì không có quyền tự chủ về tài chính


và cũng không bị ràng buộc trách nhiệm với kết quả kinh doanh. Cơ quan hành chính Nhà

nước lại can thiệp quá sâu vào nền kinh tế. Bộ máy quản lý kinh tế được tổ chức cồng kềnh
nhưng lại tỏ ra kém hiệu quả. Mọi quyết định quan trọng đều xuất phát từ Trung ương, biên
chế của bộ máy quản lý kinh tế ngày càng phình to nhưng năng lực lại yếu kém phong cách
quản lý quan liêu cửa quyền. Cán bộ quản lý kém năng lực, trình độ chuyên môn thấp họ
chủ yếu xuất phát từ những người có công với cách mạng. Trong phân phối chủ yếu phân
phối theo chủ nghĩa bình quân nên người lao động không năng động sáng tạo, không nhiệt
tình làm việc, không quan tâm tới tiết kiệm đầu tư nên năng suất lao động thấp kém và
ngày càng giảm xuống, chi phí thì tăng lên dẫn tới sự thua lỗ của các doanh nghiệp, các
HTX và các tổ sản xuất Hiệu quả kinh tế trong thời kỳ này rất thấp do chỉ đầu tư và sản
xuất theo kế hoạch mà không tính tới nhu cầu của nền kinh tế và xã hội, sản xuất không phù
hợp với tiêu dùng gây ra một sự lãng phí lớn. Do không có cạnh tranh nên công nghệ,
KHKT chậm đổi mới chất lượng sản phẩm ngày càng thấp, giá cả ngày càng cao do chi phí
sản xuất quá lớn. Hàng hóa trên thị trường thiếu hụt nghiêm trọng kinh tế chậm phát triển,
thời kỳ này do nước ta chú ý trông chờ vào các viện trợ vốn và hàng hóa từ nước ngoài.
Khi nguồn viện trợ từ nước ngoài giảm và chấm dứt, nền kinh tế không theo kịp đã rơi vào
khủng hoảng sản xuất trì trệ đình đốn, hàng hóa khan hiếm, giá cả cao dẫn đến lạm phát có
thời kỳ lạm phát vượt mức 700% đời sống người lao động ngày càng khó khăn hơn.

Mặt khác, cũng trong thời kỳ này nền kinh tế của các quốc gia trong khu vực đang
phát triển mạnh. Nền kinh tế ở các nước công nghiệp mới phát triển, nghiên cứu chủ yếu là
thành phần kinh tế tư bản tư nhân và Nhà nước chỉ đóng vai trò hướng dẫn nền kinh tế phát
triển thông qua các kế hoạch trung hạn và dài hạn. Nhà nước không can thiệp trực tiếp mà
tạo điều kiện để các doanh nghiệp cạnh tranh tự do trên thị trường. Chính vì vậy tốc độ tăng
trưởng kinh tế ở các nước này là rất cao, đời sống nhân dân nâng lên rõ rệt.

Trước sự suy thoái kinh tế nghiêm trọng, trước xu hướng phát triển liên tục của các
nước trong khu vực và trên thế giới đặt nền kinh tế nước ta tới sự bức bách phải đổi mới.




Từ đại hội VI, của Đảng ta đã chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần và
thực hiện chuyển đổi cơ chế kế hoạch hóa sang cơ chế thị trường định hướng XHCN. Đến
đại hội VII, Đảng ta xác định rõ việc chuyển đổi nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang
nền KTTT định hướng XHCN có sự quản lý của Nhà nước. Xem xét dưới góc độ khoa học,
việc chuyển đổi này là hoàn toàn đúng đắn phù hợp với thực tế của nước ta, phù hợp với các
quy luật kinh tế ,với xu thế của thời đại.

Chuyển nền kinh tế hoạt động theo cơ chế kế hoạch hóa tập trung hành chính quan liêu
bao cấp sang phát triển nền kinh tế nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý
của Nhà nước theo định hướng XHCN là nội dung bản chất và đặc điểm khái quát nhất của
nước ta trong giai đoạn hiện nay và cả tương lai.

3. Thực trạng nền KTTT nước ta hiện nay:

Từ những năm đổi mới trở lại đây nền KTTT nước ta đang từng bước chuyển từ nền
kinh tế tập trung sang cơ chế thị trường có sự điều tiết vĩ mô của Nhà nước. Cơ chế này thực
sự đã phát huy được vai trò tự điều tiết của thị trường bước đầu hình thành thị trường cạnh
tranh làm cho hàng hóa được lưu thông, giá cả ổn định nền kinh tế thoát khỏi tình trạng
khủng hoảng thiếu.

Nền kinh tế một thành phần kinh tế trước kia đang chuyển sang nền kinh tế 5 thành
phần với các hình thức sở hữu khác nhau nhưng sự hoạt động này chưa đồng đều và chưa
có đủ điều kiện để phát triển.

Cơ chế tài chính, tiền tệ, tín dụng, giá cả, tỷ giá từng bước được hình thành và đổi mới.

Tuy nhiên cơ chế thị trường ở nước ta hiện nay còn thiếu đồng bộ mang tính tự phát.




Nền kinh tế chủ yếu là sản xuất nhỏ, sự quản lý tỏ ra yếu kém và không có hiệu quả.
Tình trạng quan liêu thiếu hiểu biết thậm chí trì trệ bảo thủ cửa quyền vẫn tồn tại trước sự
đổi mới nền kinh tế. Sự hình thành và vận động của KTTT mang những yếu tố tự phát, cơ
chế vận hành thô sơ tạo điều kiện cho kiểu làm ăn bất chính, tệ tham nhũng và các mặt tiêu
cực của thị trường có cơ hội phát sinh và phát triển.

Mặc dù nền kinh tế thị trường nước ta còn rất nhiều thiếu sót và yếu kém nhất là trong
điều hành vĩ mô "Nạn tham nhũng phổ biến trong bộ máy quản lý Nhà nước các cấp nhưng
nhìn chung tính ổn định của nền kinh tế là nhân tố đảm bảo cho những thành công kế tiếp.

Tuy vậy, Đảng và Nhà nước ta cần phải nâng cao vai trò của mình hơn nữa trong nền
KTTT cần phải chuyển từ tác phong chỉ huy mệnh lệnh sang tác phong hỗ trợ tạo môi
trường và điều kiện cho thị trường phát triển, xử lý hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế với cân
bằng ổn định, giữa phát triển kinh tế với việc thể hiện các chính sách xã hội.

Nền kinh tế nước ta là nền kinh tế hỗn hợp nhiều thành phần nhưng nền kinh tế Nhà
nước phải đóng vai trò chủ đạo. Sự quản lý điều tiết định hướng phát triển nền KTTT của
Nhà nước là thông qua các công cụ chính sách kinh tế vĩ mô và vai trò chủ đạo của khu vực
kinh tế Nhà nước. Kinh tế Nhà nước phải nắm vị trí quan trọng trong một số lĩnh vực then
chốt có nghĩa là "mạch máu" của nền kinh tế chi phối các thành phần kinh tế khác. Nhưng
cùng với việc nhấn mạnh vai trò chủ đạo của KTNN thì cần coi trọng khu vực kinh tế tư
nhân và kinh tế hỗn hợp đặt chúng trong mối quan hệ hữu cơ gắn bó thống nhất không tách
rời biệt lập.

Nhà nước phải khuyến khích các thành phần kinh tế phát triển đó là khu vực tư nhân
nhằm thu hút đầu tư vốn từ khu vực này. Kinh nghiệm của Nhật Bản, các con rồng Châu á
và các nước trong nhóm nghiên cứu cho thấy sự thành công của họ là nhờ công lao to lớn
của khu vực tư nhân.




Nhà nước dựa trên cơ sở ổn định chính trị lấy chính trị làm tiền đề và điều kiện cải
cách kinh tế đổi mới quản lý cho phù hợp với điều kiện của KTTT đưa cải cách tiến lên
những bước phát triển mới.

Nhà nước mở rộng tự do buôn bán với nước ngoài. Mở cửa hội nhập nền kinh tế trong
nước với nền kinh tế thế giới trên cơ sở giữ vững độc lập tự chủ toàn vẹn lãnh thổ. Sự mở
cửa hội nhập thể hiện với tự do hóa thương mại, đầu tư và chuyển giao khoa học công nghệ
trên cơ sở phát huy lợi thế và không ngừng nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế. Xu
hướng quốc tế hóa đời sống kinh tế với khu vực hóa và toàn cầu hóa ngày càng phát triển và
trở thành xu thế tất yếu của thời đại của cuộc cách mạng KHCN hiện nay. Để tránh nguy cơ
tụt hậu và những thành tựu KHCN mới nhất thì không còn cách nào khác ngoài việc mở
cửa, mở rộng quan hệ buôn bán nước ngoài.

II. Vai trò kinh tế của Nhà nước ở nước ta hiện nay.

Trong quan hệ phát triển của lịch sử nhân loại đã tồn tại nhiều loại hình kinh tế khác
nhau. Nhưng ngày nay trên thực tế hầu hết các nước đều tồn tại nền KTTT có sự quản lý
của Nhà nước. Tùy theo mô hình tổ chức cụ thể ở mỗi nước mà phạm vi và mức độ can
thiệp của Nhà nước vào nền kinh tế là khác nhau.

Mọi nền kinh tế hiện đại kể cả kinh tế TBCN và XHCN đều đứng trước một vấn đề
nan giải của kinh tế vĩ mô đó là không có một nước nào trong thời gian dài lại duy trì được
tỷ lệ lạm phát thấp mà người lao động có đầy đủ việc làm trong điều kiện tự do cạnh tranh
vấn đề lạm phát và thất nghiệp là khuyết tật của cơ chế thị trường do vậy cần phải có sự can
thiệp của Nhà nước vào nền kinh tế để kìm chế lạm phát và thất nghiệp ở tỷ lệ thích hợp tạo
môi trường ổn định cho việc tăng trưởng kinh tế một cách bền vững.

Đối với nước ta khi chuyển nền kinh tế sang nền kinh tế nhiều thành phần vận động
theo cơ chế thị trường là hoàn toàn cần thiết để khai thác và phát huy tiềm năng sản xuất



trong xã hội - song thực tiễn cho thấy, cùng với việc kích thích sản xuất phát triển nền
KTTT còn rất nhiều khuyết tật, nó là môi trường thuận lợi cho việc nảy sinh và phát triển
của nhiều tệ nạn xã hội. Nhằm phát huy mặt tích cực và hạn chế những mặt tiêu cực của
KTTT giữ cho công cuộc đổi mới đi đúng hướng, Nhà nước cần thực hiện đầy đủ vai trò
của mình trong quản lý kinh tế. Sự quản lý của Nhà nước nhằm hướng sự phát triển kinh tế
theo những mục tiêu phương hướng nhất định hạn chế mặt tiêu cực và điều tiết vĩ mô nền
kinh tế.

Sự can thiệp của Nhà nước vào nền kinh tế thị trường thông qua việc xây dựng các
hình thức sở hữu Nhà nước các chương trình khuyến khích đầu tư và tiêu dùng cùng với
việc sử dụng các công cụ kinh tế như tài chính tín dụng tiền tệ để điều tiết nền kinh tế. Sự
phối hợp giữa Chính phủ và thị trường trong một nền kinh tế hỗn hợp nhằm bảo đảm sự
phát triển có hiệu quả với mức tăng trưởng kinh tế nhanh.

Mặt khác nếu để nền KTTT tự do hoạt động không có sự kiểm soát của Nhà nước thì
sẽ dẫn đến rất nhiều hậu quả. Nguy cơ khủng hoảng kinh tế là khôn lường. Thị trường tự do
hoạt động, giá cả theo thị trường leo thang, sản xuất tràn lan gây nên một sự lãng phí rất lớn
các nhà sản xuất chạy theo những ngành mang lại lợi nhuận cao như ma túy, buôn lậu làm
hàng giả, kinh doanh văn hóa đồi trụy. Đó là chưa kể tới tình trạng lạm phát và thất nghiệp
cũng từ đó mà gia tăng không cách gì kiềm chế được. Thị trường tự do hoạt động chính là
quan điểm kinh tế của trường phái cổ điển nhưng quan điểm này là hoàn toàn sai lầm và đã
gây ra những biến động lớn tiêu cực tới nền kinh tế các nước trong thời kỳ đó. Thực tế trong
những thập kỷ gần đây cho thấy nền KTTT luôn luôn trải qua các giai đoạn phồn vinh và
đình trệ. Gần đây nhất kinh tế Thái Lan đã bị khủng hoảng nặng. Cuộc khủng hoảng này đã
lây sang các nước Inđônêsia, Hàn Quốc và đã kéo nền kinh tế nước này chậm xuống 30
năm. Tác hại của khủng hoảng kinh tế là rất lớn, nó cuốn trôi tất cả thành tựu kinh tế trong
30 năm của Inđônêsia làm cho sản xuất bị đình trệ, thất nghiệp tăng cao, đồng tiền trong
nước bị mất giá nghiêm trọng. Đứng trước vấn đề khó khăn đó các nhà kinh tế đều khẳng



định rằng muốn khắc phục các hiện tượng trên thì Nhà nước cần phải can thiệp sâu hơn vào
nền kinh tế. Thiếu vai trò kinh tế của Nhà nước, nền kinh tế không tài nào phát triển được.

Sự can thiệp của Nhà nước vào nền kinh tế đem lại hiệu quả rất lớn: Nhà nước điều
chỉnh quá trình sản xuất, phân phối lại trao đổi và tiêu dùng, hình thành các thị trường nhỏ,
điều tiết quá trình kinh doanh thu hút vốn đầu tư. Đồng thời Nhà nước kịp thời đảm bảo tính
ổn định phát huy mọi nguồn lực thúc đẩy nền kinh tế phát triển.

Nhà nước có vai trò to lớn như vậy nhưng thực tế vai trò kinh tế của Nhà nước mới chỉ
được thừa nhận cách đây gần 60 năm kể từ sau cuộc đại suy thoái 1929 - 1933. Đối với
nước ta nhìn nhận kinh nghiệm của thế giới và các kinh nghiệm trong khu vực từ đó mà
phát triển tạo ra hướng đi đúng đắn nhất. Kinh nghiệm các nước láng giềng - các nước công
nghệ mới phát triển nghiên cứu cho thấy mặc dù nòng cốt của nền kinh tế hàng hóa ở các
quốc gia đó chủ yếu là các xí nghiệp tư nhân của người bản xứ và người nước ngoài nhưng
vai trò can thiệp của Nhà nước vào nền kinh tế rất được chú trọng và đóng vai trò trong việc
hướng dẫn nền kinh tế phát triển thông qua các kế hoạch trung hạn và dài hạn. ở Nam Triều
Tiên, Đài Loan, Singapore Nhà nước thể hiện hướng dẫn đầu tư bằng việc trợ cấp cho khu
vực các nền kinh tế mũi nhọn và chú trọng nền kinh tế quốc doanh. Nhà nước tạo điều kiện
cho các xí nghiệp này được tự do cạnh tranh trên thị trường. Vai trò kinh tế của mỗi quốc
gia được thể hiện là khác nhau nhưng tựu chung lại đó chính là nguồn gốc của sự phát triển
kinh tế và là động lực để thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng nhanh chóng.

Vai trò kinh tế của nhà nước được thể hiện qua các chức năng kinh tế của nó.

1. Chức năng kinh tế của nhà nước:

- Nhà nước điều tiết nền kinh tế ở tầm vĩ mô, Nhà nước tác động tới tổng cung và tổng
cầu của nền kinh tế tạo nên sự cân bằng giữa cung - cầu đảm bảo môi trường kinh tế thuận



lợi và ổn định nhằm thúc đẩy sự tăng trưởng và phát triển kinh tế trong từng xí nghiệp và
trên phạm vi toàn xã hội.

- Nhà nước đảm bảo ổn định chính trị, lấy ổn định chính trị để phát triển kinh tế. Nhà
nước thiết lập khuôn khổ luật pháp đặc biệt là hệ thống pháp luật kinh tế, hệ thống các chính
sách kinh tế xã hội mà trước hết là các chính sách về tài chính tín dụng ngân hàng tạo điều
kiện cần thiết cho các hoạt động kinh tế. Một đất nước có ổn định chính trị, có những
chính sách kinh tế phù hợp mới tạo ra được những thuận lợi để các doanh nghiệp sản xuất.
Mặt khác có như vậy mới thu hút được vốn đầu tư của nước ngoài và tư nhân và họ tin vào
sự ổn định đó để tiếp tục và mở rộng sản xuất, phát triển sản xuất. Như vậy thông qua các
chính sách Nhà nước đã gián tiếp thúc đẩy nền kinh tế.

Nhà nước có chức năng tạo ra môi trường và điều kiện cho việc tiến hành các hoạt
động sản xuất kinh doanh theo cơ chế thị trường bằng cách: duy trì pháp luật, trật tự an toàn
xã hội, thi hành nhất quán các chính sách và thể chế theo hướng đổi mới, ổn định môi
truờng kinh tế thi hành nhất quán các chính sách và thể chế theo hướng đổi mới, ổn định
môi trường kinh tế vĩ mô kìm chế lạm phát, điều tiết thị trường ngăn ngừa và xử lý kịp thời
những "cơn sốt" về giá cả. Nhà nước đề ra luật pháp bảo vệ quyền lợi của các doanh nghiệp
và các nhà đầu tư.

- Nhà nước ngăn ngừa các tác động bên ngoài, ngăn ngừa những âm mưu phá hoại nền
kinh tế của các thế lực thù địch để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh.

- Nhà nước có vai trò rất lớn trong việc mở rộng quan hệ ngoại giao, buôn bán với
nước ngoài.

- Thông qua hệ thống pháp luật, Nhà nước đảm bảo cạnh tranh lành mạnh giữa các
doanh nghiệp, các nhà sản xuất kinh doanh. Trong nền KTTT mục đích của các nhà sản

xuất kinh doanh là lợi nhuận vì vậy họ bằng mọi cách và tìm mọi cách để thu lợi nhuận cao


có thể là thủ tiêu đối thủ cạnh tranh của mình vì vậy Nhà nước cần phải có sự can thiệp để
điều chỉnh những hành vi của họ vào những việc làm có lợi như nâng cao chất lượng sản
phẩm đa dạng phong phú mẫu mã cạnh tranh về giá cả. Đồng thời Nhà nước còn có chức
năng chống độc quyền của các doanh nghiệp. Độc quyền trong nền KTTT đồng nghĩa với
sự mất cân đối giữa cung - cầu, giữa tiêu dùng và sản xuất, đồng nghĩa với sự leo thang của
giá cả vì vậy đầy có thể là nguyên nhân dẫn đến lạm phát.

- Nhà nước dẫn dắt và hỗ trợ những nỗ lực phát triển của các thành phần kinh tế.
Thông qua kế hoạch và chính sách kinh tế sử dụng có trọng điểm và hiệu quả các năng lực
tập trung và lực lượng dự trữ. Nhà nước kiểm soát và phân phối các nguồn tài nguyên của
đất nước để nâng cao hiệu quả sử dụng và bảo vệ môi trường sinh thái. Quản lý và kiểm
soát tài sản quốc gia tại các doanh nghiệp Nhà nước nhằm bảo tồn và phát triển và duy trì sự
hoạt động liên tục.

- Nhà nước chịu trách nhiệm xây dựng cơ sở hạ tầng đảm bảo cho hoạt động kinh tế
bao gồm: cơ sở hạ tầng kỹ thuật (giao thông, phương tiện vận chuyển, thông tin liên lạc, dự
trữ quốc gia ) cơ sở hạ tầng văn hóa xã hội như giáo dục, nghiên cứu khoa học, bảo vệ môi
trường nhằm tạo tiền đề cho sự phát triển kinh tế.

- Nhà nước kiểm soát các hoạt động kinh tế thông qua hệ thống ngân hàng tương
đương và ngân hàng thương mại. Trong đó ngân hàng trung ương làm chức năng dự trữ vừa
làm chức năng điều tiết và kiểm soát lượng tiền được cung ứng thông qua hệ thống ngân
hàng thương mại điều khiển nền kinh tế có thể tránh được khủng hoảng thất nghiệp và lạm
phát.

- Mặt khác Nhà nước thông qua các chính sách ưu đãi thể hiện một số hình thức hỗ trợ
cho các lĩnh vực mà Nhà nước muốn ưu tiên phát triển. Nhà nước có chức năng phân phối

lại thu nhập bằng các khoản thu từ thuế, phân phối lại của cải xã hội.



- Nhà nước đưa ra những đề tài nghiên cứu khoa học, nhập những tiến bộ của
KHKTCN vào sản xuất nhằm đưa nền kinh tế phát triển nhanh hơn.

- Nhà nước có vai trò điều chỉnh các quan hệ kinh tế, tác động tới quan hệ lao động và
thị trường lao động giới hạn thất nghiệp, sử dụng các khoản chi của chính phủ để phát triển
y tế, giáo dục, lập các quỹ phúc lợi, phân công lại lao động giữa các ngành nghề và giữa các
vùng.

Với tư cách là người đầu tư kinh doanh, Nhà nước trực tiếp tham gia vào việc kinh
doanh trong một số lĩnh vực.
- Nhà nước với tư cách là chủ sở hữu toàn dân về tư liệu sản xuất, Nhà nước là người
sở hữu đại biểu và quản lý các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế quốc doanh.

- Các doanh nghiệp Nhà nước giữ vai trò chủ đạo của nền kinh tế quốc dân ngoài yêu
cầu đảm bảo nền kinh tế phát triển đúng định hướng XHCN còn do thành phần kinh tế này
gắn với loại hình sở hữu cao nhất là sở hữu Nhà nước. KTNN phát triển dựa trên một trình
độ lực lượng sản xuất phát triển cao trình độ quản lý và phân phối sản phẩm gần với mục
tiêu của CNXH thời kỳ quá độ.

- Kinh tế Nhà nước đóng vai trò là mạch máu lưu thông, bao gồm những ngành nghề
lĩnh vực trọng yếu như kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội, hệ thống tài chính, ngân sách bảo
hiểm , những cơ sở thương mại, dịch vụ quan trọng với quy mô lớn và vừa, công nghệ tiến
bộ.

- Kinh tế Nhà nước thể hiện đầy đủ tính ưu việt của CNCS đảm bảo sự thống nhất tăng
trưởng kinh tế với công bằng xã hội và bảo vệ môi trường sinh thái, thống nhất chính sách

kinh tế với chính sách xã hội.



- Kinh tế nhà nước chiếm vị trí then chốt có liên quan tới hoạt động của toàn nền kinh
tế, chi phối hoạt động của các thành phần kinh tế khác.

- Kinh tế Nhà nước mang lại nguồn thu lớn cho ngân sách và là đòn bẩy đẩy nhanh
tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội. Kinh tế Nhà nước mở đường hướng dẫn hỗ trợ các
thành phần kinh tế khác cùng phát triển.

- Kinh tế Nhà nước thể hiện chức năng điều tiết và quản lý vĩ mô nền kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định
hướng XHCN.

Ngoài ra chức năng kinh tế Nhà nước thể hiện ở vai trò điều tiết kiểm kê kiểm soát của
Nhà nước đối với khu vực tư nhân.

- Một mặt Nhà nước có chính sách khuyến khích đầu tư phát triển sản xuất không giới
hạn quy mô nhưng mặt khác Nhà nước cũng cần phải tăng cường công tác kiểm soát nhằm
hạn chế những nhược điểm của nền kinh tế tư nhân và phát huy tính độc lập tự chủ. Nhà
nước có thể kiểm soát kinh tế tư nhân bằng lãi suất của các ngân hàng thương mại và sử
dụng thuế khóa đối với các doanh nghiệp tư nhân. Trong những trường hợp quan trọng và
thật sự cần thiết Nhà nước có thể đặt ra giá cho các sản phẩm quan trọng, kiểm soát việc
mua và bán ngoại tệ.

Với tư cách là người lập kế hoạch, Nhà nước tác động một cách trực tiếp vào phương
hướng đầu tư và phát triển kinh tế.

- Nhà nước xác lập những cân đối chung cơ bản trong quá trình phát triển kinh tế hàng

hóa nhiều thành phần theo định hướng XHCN. Thông qua hệ thống các phương hướng
nhiệm vụ mục tiêu và chỉ tiêu được vạch ra trong các chiến lược kế hoạch các chương trình
phát triển kinh tế xã hội. Việc định hướng trước tạo điều kiện cho nền kinh tế quốc dân phát


triển cân đối nhịp nhàng với tốc độ và hiệu quả cao. Nhà nước đưa ra các kế hoạch và trên
thực tế đã tạo ra những điều kiện thuận lợi để các doanh nghiệp dự đoán được xu hướng
biến đổi của thị trường mà hành động một cách có lợi nhuận nhất trong khuôn khổ của thể
chế thị trường.

Việc hoạch định và thể hiện các chính sách xã hội, các chương trình điều tiết thu nhập
đảm bảo sự thống nhất hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội. Việc hoạch
định, xác lập kế hoạch hóa của Nhà nước trong nền kinh tế có những tác dụng sau:

- Đề ra mục tiêu và những trật tự cho các chính sách kinh tế.

- Phát hiện ra những vấn đề còn tồn tại cần khắc phục sửa chữa đảm bảo cho nền kinh
tế hoạt động một cách thông suốt.

- Định hướng cho các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh có hiệu quả.

Nói tóm lại, Nhà nước có chức năng kinh tế rất lớn, điều hành quản lý ở tầm vĩ mô
nhưng đối với từng nước thì các chức năng đó thể hiện công dụng một cách khác nhau tùy
thuộc vào chế độ kinh tế của từng nước, tùy thuộc sự phát triển kinh tế của nước đó ra sao
mà sử dụng cho phù hợp.

2. Chính sách kinh tế:

Để thể hiện một cách triệt để các chức năng của Nhà nước thì đòi hỏi Nhà nước phải
có các chính sách kinh tế (chính sách tài chính, chính sách tiền tệ, chính sách tài khóa, chính

sách tín dụng ) và các kế hoạch nhằm thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng và phát triển có
hiệu quả.



Hệ thống các chính sách kinh tế giúp cho Nhà nước có thể điều khiển hoạt động của
các doanh nghiệp. Mỗi chính sách kinh tế là một hành lang hướng dẫn hoạt động đầu tư mở
rộng sản xuất phát triển, hướng dẫn các doanh nghiệp hành động một cách phù hợp đối với
lợi ích của toàn xã hội. Mỗi chính sách kinh tế đều có thể tác động về cả hai phía cung và
cầu:

* Chính sách tài chính: trong cơ chế thị trường việc phân phối tài chính được thể hiện
trên thị trường theo các các qui luật của thị trường thậm chí còn tồn tại thị trường tài chính
mà ở đó diễn ra hoạt động trao đổi mua bán đáp ứng quan hệ cung - cầu về nguồn lực tài
chính. Hoạt động tài chính càng trở nên phong phú đa dạng tác động tới mọi mặt của đời
sống xã hội. Nhà nước sử dụng chính sách tài chính như là một bộ phận quan trọng của
chính sách kinh tế. Chính sách tài chính là một trong những công cụ quản lý vĩ mô chủ yếu
của Nhà nước có vai trò cực kỳ quan trọng trong quá trình thể hiện đường lối phát triển
kinh tế xã hội của Đảng.

- Nhà nước sử dụng chính sách tài chính nhằm thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế
hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Phát triển
kinh tế hàng hoá nhiều thành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước là một định
hướng cơ bản để xác định nền tài chính quốc gia lành mạnh vững chắc. Kinh nghiệm thực
tiễn chứng tỏ một nền kinh tế kém phát triển tất yếu sẽ kéo theo một nền tài chính ốm yếu
ngân sách thâm hụt. Sự cân bằng ngân sách Nhà nước chủ yếu dựa vào tăng trưởng kinh tế
vì vậy để nguồn tài chính không bị thâm hụt thì Nhà nước phải tăng cường quản lý bằng
pháp luật, kế hoạch và chính sách.

- Chính sách tài chính có tác dụng đẩy mạnh quá trình CNH -HĐH đất nước: để tiến

hành CNH - HĐH thì đòi hỏi phải có đầu tư. Muốn vậy phải có một nền tài chính thặng dư
mới giải quyết được nhu cầu vốn. Để tăng mức vốn phải giải quyết mối quan hệ giữa tích
luỹ và tiêu dùng theo hướng tiết kiệm. Điều này cũng giải quyết phần nào yêu cầu KTTT.



- Chính sách tài chính góp phần tích cực ổn định kinh tế vĩ mô: Để ổn định kinh tế, đòi
hỏi phải có một ngân sách Nhà nước lành mạnh mà các khoản chi được trang trải từ thuế. Vì
vậy Nhà nước đã sử dụng công cụ tài chính để kích thích sản xuất hàng hoá phát triển đồng
thời kết hợp với các công cụ quản lý vĩ mô khác để kiểm soát và đẩy lùi lạm phát tạo môi
trường thuận lợi cho nền kinh tế phát triển trong trạng thái ổn định với hiệu quả cao.

* Chính sách tiền tệ: chính sách tiền tệ là một trong những chính sách lớn của Nhà
nước, là công cụ sắc bén để quản lý nền kinh tế thị trường, vai trò quan trọng của chính sách
tiền tệ được thể hiện.

- Nhà nước sử dụng chính sách tiền tệ để điều tiết khối lượng tiền tệ trong lưu thông
cho phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế xã hội. Ngân hàng Nhà nước có thể áp dụng
nhiều biện pháp để cho khối lượng tiền tệ tăng lên hoặc giảm xuống nhằm duy trì mối quan
hệ cân đối số hàng hoá với lượng tiền.

- Nhà nước sử dụng chính sách tiền tệ kết hợp chính sách tài chính thể hiện các mục
tiêu phát triển kinh tế xã hội tức là đẩy lùi lạm phát kìm chế lạm phát, ổn định tỷ giá hối
đoái giá trị tiền trong nước tạo môi trường ổn định cho tăng trưởng kinh tế với nhịp độ cao
về bền vững. Thông qua sự phối hợp hoạt động giữa ngân hàng Nhà nước và ngân hàng
thương mại để thu hút nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội để đưa vào sản xuất kinh doanh tạo
ra việc làm, giảm tỷ lệ người thất nghiệp.

- Nhà nước sử dụng chính sách tài chính tiền tệ để điều tiết các hoạt động sản xuất
kinh doanh nhằm đẩy mạnh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế góp phần chuyển đổi cơ

cấu nông nghiệp - công nghiệp - dịch vụ sang cơ cấu “công nghiệp - nông nghiệp - dịch vụ".
Nhà nước phát triển thị trường tiền tệ ở nông thôn đáp ứng nhu cầu phát triển của nông dân
đưa nông nghiệp thành ngành sản xuất hàng hoá theo cơ chế thị trường thể hiện chương
trình xoá đói giảm nghèo của Đảng và Nhà nước đồng thời thông qua chính sách phát triển
nhằm nâng cao đời sống nhân dân ỏ nông thôn rút ngắn khoảng cách giữa thành thị và nông


thôn. Thông qua hoạt động của thị trường tiền tệ cho vay với lãi suất ổn định nhằm thúc đẩy
các doanh nghiệp chuyển sang hoạt động theo cơ chế thị trường nâng cao tính tự chủ về tài
chính của doanh nghiệp để doanh nghiệp có điều kiện đổi mới thiết bị công nghệ nâng cao
hiệu quả sản xuất kinh doanh thúc đẩy cạnh tranh lành mạnh.

* Chính sách tín dụng, chính sách ngoại hối cũng là một trong những công cụ quản lý
của Nhà nước. Nhà nước sử dụng chính sách ngoại hối nhằm thể hiện các nghiệp vụ hối
đoái, tổ chức và điều tiết thị trường hối đoái trong nước theo dõi diễn biến của cán cân
thanh toán quốc tế nhằm tìm kiếm nguồn tài trợ, nguồn vốn từ nước ngoài và thu hút kiều
hối, ổn định tỷ giá hối đoái nhằm kìm chế lạm phát ổn định giá cả trong nước, tổ chức quản
lý chặt chẽ nợ nước ngoài.

Về chính sách tín dụng, thông qua các ngân hàng trung ương, xuất phát từ nhu cầu của
thị trường và các nhà doanh nghiệp vay vốn để đầu tư sản xuất. Nhà nước sử dụng chính
sách tín dụng nhằm thể hiện mục tiêu của chính sách tiền tệ đồng thời tăng cường vai trò
quản lý của Nhà nước đối với các tổ chức tín dụng.

Chính sách tài chính đối ngoại.

Nhà nước sử dụng chính sách đối ngoại nhằm tiếp nhận viện trợ hoặc vay vốn từ nước
ngoài, tiếp nhận vốn liên doanh, chuyển giao công nghệ giữa trong nước với nước ngoài. Sử
dụng chính sách tài chính đối ngoại nhằm thực hiện các quan hệ quốc tế, các hoạt động
kinh tế liên quan tới nhập khẩu và xuất khẩu. Nhà nước thông qua đó điều chỉnh sao cho

hợp lý nhằm thúc đẩy nền kinh tế trong nước phát triển.

III. Mục tiêu và các giải pháp đổi mới nâng cao vai trò kinh tế của Nhà nước ta.

Khác với một số nước trên thế giới, chúng ta tiến lên CNXH từ một nước nông
nghiệp nghèo nàn và lạc hậu mà bỏ qua giai đoạn phát triển lên chủ nghĩa tư bản. Bởi vậy


chúng ta gặp rất nhiều khó khăn trong việc xây dựng và phát triển nền kinh tế đó là do
chúng ta chưa chuẩn bị được cơ sở vật chất kỹ thuật để tiến lên CNXH. Mặt khác nền kinh
tế của nước ta trước đây dập khuôn theo mô hình kinh tế của Liên xô với chế độ xã hội công
hữu về tư liệu sản xuất dưới hai hình thức là sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể trong đó sở
hữu toàn dân đóng vai trò chủ đạo. Xuất phát từ quan niệm nền kinh tế XHCN là nền kinh tế
phát triển có kế hoạch, quy luật phát triển có kế hoạch là quy luật điều tiết mọi hoạt động
của nền kinh tế nên Nhà nước ta lấy kế hoạch hoá làm công cụ chủ yếu để quản lý kinh tế.
Việc lãnh đạo phát triển kinh tế quốc dân có kế hoạch là một vấn đề cơ bản nhất trong
nhiệm vụ quản lý kinh tế của Nhà nước XHCN.

Công cụ đổi mới nền kinh tế của nước ta bắt đầu từ Đại hội VI của Đảng. Đó là điểm
mốc cho sự phát triển nền kinh tế của đất nước. Từ đại hội 6 Nhà nước ta mới thấy rõ lợi ích
của việc chuyển đổi nền kinh tế và đó là thời điểm Đảng ta xác định phải chuyển dần nền
kinh tế tự nhiên tự cung tự cấp, nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp đang
tồn tại sang nền kinh tế thị trường phát triển theo cơ chế thị trường định hướng XHCN có sự
quản lý của Nhà nước. Sau 15 năm đổi mới đất nước ta đã phải đối phó với rất nhiều khó
khăn, nhưng Đảng và Nhà nước ta đã đề ra được một số một tiêu và giải pháp nhằm khắc
phục những khó khăn đó.

1. Mục tiêu.

Xu hướng vận động nền kinh tế các quốc gia trên thế giới cho thấy không một đất

nước nào có nền kinh tế phát triển lại không nhấn mạnh vai trò kinh tế của Nhà nước. ở các
nước đang phát triển trong suốt nhiều thập kỷ qua người ta vẫn nhận thấy có một xu hướng
đó là cùng với qúa trình tự do hoá giá cả và các hoạt động sản xuất kinh doanh thì vai trò
quản lý của Nhà nước vẫn được tăng cường. Tuy nhiên sự quản lý của Nhà nước không phải
lúc nào cũng có lợi vì vậy Nhà nước nên thận trọng tránh các can thiệp trực tiếp, chỉ can
thiệp trực tiếp trong những trường hợp thật sự cần thiết. Đối các nước khác nhau thì vai trò
của Nhà nước được thể hiện khác nhau nhưng về nguyên tắc Nhà nước có thể và cần phải


can thiệp vào thị trường. Trên thế giới không có mô hình nào chung áp dụng cho tất cả các
nước mà phải căn cứ vào điều kiện hoàn cảnh lịch sử cụ thể, các nước phải
tìm ra cho mình một vị trí tiếp cận với nền kinh tế, một cách thức riêng của mình để can
thiệp vào thị trường định hướng nền kinh tế đến các mục tiêu mong muốn trên cơ sở tôn
trọng các quy luật khách quan của thị trường.

Xuất phát từ lí luận chung đó, Việt Nam cũng không nằm ngoài ngoại lệ. Đặc điểm
của Nhà nước quản lý nền kinh tế thị trường theo định hướg XHCN ở nước ta là Nhà nước
pháp quyền XHCN, là Nhà nước của dân do dân vì dân, Nhà nước công nông đặt dưới sự
lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam. Chính vì vậy đảm bảo giữ vững định hướng XHCN
trong việc phát triển nền kinh tế thị trường hiện đại ở nước ta. Sự khác biệt về bản chất Nhà
nước là một nội dung và là điều kiện, tiền đề cho sự khác biệt mô hình kinh tế thị trường ở
nước ta so với các nước khác.

Bằng việc định hướng sự phát triển của nền kinh tế, Nhà nước quản lý và can thiệp vào
nền kinh tế với mục tiêu làm giàu cho đất nước thúc đẩy sự phát triển của nèen kinh tế quốc
dân. Mục tiêu của Nhà nước là thống nhất các lợi ích khác nhau, quy tụ các lợi ích khác
nhau về một lợi ích sao cho trong khi mỗi cá nhân theo đuổi lợi ích riêng thì gián tiếp đóng
góp vào lợi ích chung.

Cụ thể mục tiêu của Nhà nước quản lý kinh tế là:


- Phát triển thị trường trong nước và quốc tế, mở rộng giao lưu hàng hoá trên tất cả các
vùng đẩy mạnh xuất khẩu nhằm đáp úng nhu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại
hoá. Thông qua việc tổ chức tốt thị trường và lưu thông hàng hoá làm cho thương nghiệp
thực sự là đòn bẩy thúc đẩy sản xuất, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phân công lại
lao động xã hội, ổn định giá cả kiềm chế lạm phát, hàng hoá phân phối và phân phối lại thu
nhập quốc dân một cách hợp lý, tăng tích luỹ cho ngân sách Nhà nước , cải thiện đời sống
nhân dân.



- Hoạt động của các doanh nghiệp thiệt là doanh nghiệp Nhà nước phải hướng vào
phục vụ các mục tiêu kinh tế - xã hội của đất nước, coi trọng hiệu quả kinh tế và xã hội.

- Xây dựng nền kinh tế phát triển lành mạnh trong trật tự kỷ cương, kinh doanh theo
đúng pháp luật, thực hiện các văn minh kinh tế từng bước tiến dến hiện đại theo định hướng
XHCN hội nhập với thị trường khu vực và thế giới.

- Mục tiêu của Nhà nước là phát huy và sử dụng tốt khả năng tích cực của các thành
phần kinh tế, mở rộng thị trường ngoài nước gắn với việc phát triển ổn định thị trường trong
nước lấy thị trường trong nước làm cơ sở.

- Mục tiêu tiếp theo là Nhà nước quản lý kinh tế nhằm phát huy mặt tích cực hạn chế
mặt tiêu cực của cơ chế thị trường đảm bảo tăng trưởng kinh tế đi đôi với tiến bộ và công
bằng xã hội.

2. Các giải pháp đổi mới nâng cao vai trò kinh tế của Nhà nước.

Từ thực trạng nền kinh tế nước ta trong giai đoạn hiện nay còn nhiều hạn chế chưa
phát huy hết các nguồn lực hiện có. Để cho nền kinh tế nước ta vươn lên phát triển sánh

cùng với sự phát triển của các nước trong khu vực và trên thế giới thì Nhà nước ta cần thiết
phải tìm mọi cách để nâng cao vai trò kinh tế của mình hơn nữa trong việc quản lý điều
hành, điều tiết nền kinh tế ở tầm vĩ mô.

a. Nhà nước tiếp tục đa dạng hóa các loại hình sở hữu, đổi mới phương thức hoạt động của
các doanh nghiệp đặc biệt là doanh nghiệp Nhà nước cho phù hợp với cơ chế thị trường.

ở nước ta hiện nay đang tồn tại 3 loại hình sở hữu chính là sở hữu Nhà nước, sở hữu tư
nhân và sở hữu tư bản Nhà nước. Các loại hình thức này có mối quan hệ vừa cạnh tranh vừa


hợp tác lẫn nhau tạo nên cơ sở của kinh tế thị trường trong sự vận động của cơ chế thị
trường. Song cả 3 loại hình thức sở hữu này chưa có sự cân đối. Sở hữu tư nhân còn quá hạn
chế trong khi đó sở hữu Nhà nước lại quá nhiều thậm chí trong một số ngành, lĩnh vực cần
thiết. Vì vậy cần thu hẹp sở hữu Nhà nước ở những ngành kinh tế không cần thiết và đẩy
mạnh phát triển hình thức sở hữu tư nhân và tư bản Nhà nước. Nhà nước cần có chính sách
thiết thực nhằm thúc đẩy sở hữu tư nhân phát triển vì đây là động lực cho sự phát triển của
xã hội vì nó cho phép mọi người dân có điều kiện đầu tư phát huy tối đa nguồn lực hướng
tới sự phát triển. Mặt khác Nhà nước cũng cần phải xóa bỏ tư tưởng e ngại sự phát triển của
khu vực kinh tế tư nhân sẽ lấn át khu vực kinh tế quốc doanh.

Về phương thức hoạt động của các doanh nghiệp chưa thực sự phù hợp với cơ chế thị
trường , chưa có sự thống nhất từ trên xuống dưới, cơ chế quản lý cồng kềnh kém hiệu quả
dẫn đến nhiều xí nghiệp làm ăn thua lỗ, Nhà nước ta cần có chính sách để tự do các doanh
nghiệp hoạt động nhưng phải có chế độ kiểm soát chặt chẽ trong lĩnh vực tài chính phải có
những chính sách buộc công bố công khai kết quả kinh doanh. Hơn nữa trong các doanh
nghiệp Nhà nước không nhất thiết Nhà nước phải bỏ vốn 100% mà có thể hình thành dưới
dạng cổ phần để nâng cao tinh thần trách nhiệm của các doanh nhân đối với doanh nghiệp
và huy động nguồn vốn tiết kiệm nhàn rỗi không nhỏ chưa được khai thác trong tầng lớp
dân cư.


Nhà nước nên có những chủ trương sắp xếp lại các đơn vị thương nghiệp Nhà nước
trên từng địa bàn xác lập các cân đối vĩ mô để tiếp tục hình thành các tổng công ty, các tập
đoàn kinh tế nhằm tăng nhanh khả năng tích tụ và tập trung vốn để đổi mới thiết bị và công
nghệ, mở rộng thị trường và nâng cao hiệu quả kinh tế.

b. Nhà nước tăng cường công tác kiểm kê kiểm soát đối với hoạt đồng của các doanh
nghiệp.



Hiện nay công tác này còn quá lỏng lẻo và sơ hở thiếu sự chặt chẽ thống nhất và đồng
bộ từ cấp trung ương đến địa phương . Đây là nguyên nhân cho các hoạt động sản xuất kinh
doanh phi pháp, trốn thuế, cho các hoạt động cạnh tranh thiếu lành mạnh có điều kiện phát
triển. Để hạn chế những mặt đó Nhà nước cần phải:

- Tạo hành lang pháp lý cho các doanh nghiệp tự do kinh doanh trên cơ sở pháp luật
cho phép.

- Thành lập các công ty kiểm toán tư nhân và Nhà nước đặt dưới sự quản lý của Nhà
nước.

- Thực hiện chế độ nghiêm ngặt trong hệ thống kế toán.

c. Nhà nước tăng cường công tác kế hoạch hóa xây dựng các chiến lược phát triển lâu dài.

Vai trò chủ yếu của kế hoạch hóa ở tầm vĩ mô là thúc đẩy sự hình thành cơ cấu hợp lý
thông qua các chỉ tiêu. Kế hoạch hướng dẫn các hoạt động sản xuất kinh doanh của các
doanh nghiệp đi theo hướng có lợi, hướng dẫn sự phát triển kinh tế.


Trong công tác kế hoạch hóa thương mại trong nền kinh tế thị trường Nhà nước phải
thực hiện tốt những nhiệm vụ sau:

- Nhà nước phải xây dựng chiến lược thị trường và quy hoạch sự phát triển thương mại
đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế hàng hóa.

- Nhà nước phải xác định các cân đối trên thị trường: cân đối giữa cung - cầu, cân đối
giữa tiền và hàng



- Nhà nước phải xây dựng chiến lược phát triển kinh tế xã hội chung cho các ngành,
vùng, lĩnh vực. Định hướng cho các ngành các cấp đơn vị xác định phương hướng phát triển
phương hướng đầu tư một cách lâu dài.

- Đổi mới phương pháp xây dựng kế hoạch 5 năm, 10 năm các kế hoạch ngắn hạn hay
dài hạn đảm bảo tính thống nhất trong cân đối các nguồn lực xã hội.

d. Nhà nước phải thường xuyên đổi mới cơ chế hoạt động của nền kinh tế, sử dụng các
chính sách kinh tế một cách đồng bộ theo yêu cầu của cơ chế thị trường.

Không phải trong giai đoạn nào thời kỳ nào nền kinh tế thị trường cũng có những ưu
điểm và khuyết tật giống nhau. Tùy vào từng thời kỳ từng giai đoạn phát triển khác nhau
của nền kinh tế, những khuyết tật của nền kinh tế thị trường sẽ biểu hiện khác nhau và
không phải lúc nào cũng thuận lợi. thị trường luôn luôn vận động và không chịu áp đặt theo
xu hướng vận động nào vì vậy để cho nền kinh tế không bị tụt hậu, phát triển theo sự phát
triển của cơ chế thị trường thì Nhà nước phải thường xuyên đổi mới cơ chế hoạt động của
nền kinh tế. Thông qua việc tự do hóa giá cả trên thị trường, tự do cạnh tranh Nhà nước
cần phải hướng thị trường vốn thị trường đầu tư, thị trường hàng hóa theo sự phát triển ổn
định.


Nhà nước phải thường xuyên đổi mới và hoàn thiện các công cụ tài chính tiền tệ tín
dụng để điều tiết thị trường và định hướng các hoạt động của doanh nghiệp. Hoạt động kinh
tế của Nhà nước phải thông qua chính sách tiền tệ để khống chế sao cho khối lượng cung
ứng tiền tệ cân đối với số lượng hàng hóa trên thị trường. Đồng thời tăng cường hiện đại
hóa hệ thống ngân hàng.

Ngân hàng trung ương phải đưa ra các giải pháp duy trì sự cân đối cung cầu. Mặt khác
phải thường xuyên theo dõi giám sát các hoạt động kinh tế, biến động về giá cả và tỷ giá hối
đoái trên thị trường nhằm điều chỉnh kịp thời việc cung ứng tiền tệ. Thông qua chính sách


tín dụng, NHTW phải tính tới hoạt động sao cho khống chế được lạm phát và nới lỏng điều
kiện cho vay nhưng vẫn đảm bảo công tác kiểm soát chặt chẽ tạo điều kiện cho các nhà sản
xuất vay vốn đầu tư sản xuất như giảm nhẹ lãi suất, điều chỉnh và ổn định tỷ giá hối đoái
của đồng tiền trong nước. Nhà nước phải tăng cường vai trò cho các ngân hàng Nhà nước.
Mọi hoạt động của ngân hàng cần thiết phải đổi mới cho phù hợp với cơ chế tránh rườm rà
trong việc kịp thời chi trả đầy đủ theo yêu cầu của khách hàng của tổ chức tín dụng. Tổ
chức đổi mới lại hệ thống ngân hàng tạo nên sự thống nhất từ ngân hàng TW đến ngân hàng
địa phương

Nhà nước tiếp tục cải cách hệ thống thuế khóa chặt chẽ hơn tránh thất thu. Nhà nước
ban hành những luật thuế sao cho phù hợp . Nhà nước đổi mới công nghệ thanh toán hoàn
thiện cơ chế bình ổn giá, sử dụng quỹ bình ổn giá, quản lý tốt dự trữ quốc gia và sử dụng tốt
nguồn dự trữ này.

Nhà nước tăng cường công tác đối ngoại mở rộng ngoại giao hợp tác buôn bán với
Nhà nước trên hướng mở rộng thị trường cạnh tranh. Tăng cường công tác quản lý các hoạt
động xuất nhập khẩu, về hoạt động tiếp nhận viện trợ hay vay vốn từ nước ngoài, chuyển
giao công nghệ quốc tế.


e. Một trong những giải pháp quan trọng để nâng cao vai trò kinh tế của Nhà nước ta là đổi
mới quản lý kinh tế vĩ mô.

Thứ nhất, công cụ để quản lý kinh tế hiệu quả nhất đó chính là hệ thống pháp luật. Hệ
thống pháp luật nước ta hiện nay còn rất nhiều điều cần nói tới. Đó chính là sự thiếu đồng
bộ còn nhiều thiếu sót. Theo cơ chế thị trường nền kinh tế đang vận động phát triển đi lên
nảy sinh nhiều hiện tượng cần được pháp luật bảo vệ nhưng trên thực tế hệ thống pháp luật
của ta còn thiếu trầm trọng . Vì vậy Nhà nước cần phải.

- Đổi mới và hoàn thiện hệ thống luật pháp mà đặc biệt là luật kinh tế.

×