Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC ĐẠO GIA & NHỮNG GIÁ TRỊ HẠN CHẾ CỦA NÓ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (167.74 KB, 13 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHỆ THÔNG TIN
TIỂU LUẬN
MÔN TRIẾT HỌC
TÊN ĐỀ TÀI:
TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC ĐẠO GIA
& NHỮNG GIÁ TRỊ HẠN CHẾ CỦA NÓ
GVHD: TS. BÙI VĂN MƯA
Học viên: HUỲNH THANH PHỤNG
Mã học viên: CH1101029
Khóa học: K6 - 2011
Nhóm: 3
STT: 29
TP.HCM – Tháng 12/2011
 MỤC LỤC:
MỤC LỤC: 2
1. Tư tưởng triết học Đạo gia 3
1.1. Lý luận đạo và đức 3
1.1.2. Quan niệm về đức 4
1.2. Thế giới quan - Nhân sinh quan 4
1.2.1. Thế giới quan 4
1.2.2. Nhân sinh quan 4
1.3. Tư tưởng biện chứng 5
1.3.1. Luật quân bình (luật bù trừ) 5
1.3.2. Luật phản phục 6
1.4. Quan điểm về chính trị xã hội 6
1.5. Quan điểm trong phương châm xử thế 7
2. Những giá trị, hạn chế của đạo gia 7
2.1. Giá trị 7
2.1.1. Trong hoạt động nhận thức 7
2.1.2. Trong hoạt động thực tiễn 8
2.2. Hạn chế 10


2.2.1. Trong hoạt động nhận thức 10
2.2.2. Trong hoạt động thực tiễn 11
3. Kết Luận 12
Quan điểm về phép biện chứng và học thuyết vô vi của Lão Tử là hết sức sâu sắc và độc
đáo, đã đạt đến trình độ tư duy lý luận, trừu tượng rất cao, đóng góp lớn cho sự phát triển
nền triết học Phương Đông, trong cái lờ mờ hỗn độn gợi mở của Lão Tử làm người đời sau
kinh ngạc về tư duy trừu tượng và tôn vinh ông là Thái thượng Lão Quân tuy nhiên do sự
hạn chế điều kiện lịch sử, khi giải quyết vấn đề nhận thức luận, bản thể luận vẫn còn hạn
chế nhưng đứng trên phương diện lịch sử thì chúng ta phải ghi nhận lại những di sản tài hoa
mà Lão Tử đã để lại 12
PHẦN MỞ ĐẦU
Đạo gia là trường phái triết học lớn, được hình thành và phát triển trong thời
Xuân Thu - Chiến Quốc, vào thế kỷ II sau Công nguyên, cơ sở lý luận của Đạo gia triết
thuyết do Lão Tử sáng lập, họ là Lý, tên là Nhĩ, người nước Sở, ông tiếp nhận tư tưởng
của Dương Chu, của Âm Dương Ngũ hành và phép biện chứng của Kinh Dịch để sáng
lập nên Đạo gia. Tư liệu tư tưởng là cuốn Đạo Đức Kinh có khoảng 5000 câu. Bản này
được chia làm hai thiện với tổng cộng là 81 chương. Cụ thể như sau:
- Thượng thiên gồm 37 thiên, gọi là Đạo kinh
- Hạ thiên gồm 44 thiên, gọi là Đức kinh
Ngoại trừ hai vấn đề chính là Đạo và Đức, sách còn trình bày kiến thức sơ lược về
binh pháp, thiên văn, dưỡng sinh Có người cho rằng mục đích của Lão Tử là truyền
thông điệp trị quốc, một loại triết lý chính trị. Có người lại nhấn mạnh tới phẩm chất
tâm linh đạo học của nó
Sự ra đời của sách Lão Tử tức là Đạo Đức kinh đã dẫn tới sự xuất hiện của Đạo
học - một trong những đại học phái lớn của Trung Quốc cổ đại, để lại dấu ấn khá lâu
dài, ảnh hưởng lớn đến thế giới quan của Triết học sau này, không những của người
Trung Hoa mà cả những nước chịu ảnh hưởng của nền Triết học Trung Hoa, trong đó
có Việt Nam.
Trang Tử (khoảng 396 - 286 tr. CN) họ Trang, tên Chu, là một ẩn sĩ. Ông đã phát
triển học thuyết Lão Tử xây dựng một hệ thống tư tưởng sâu sắc thể hiện trong cuốn

Nam Hoa Kinh.
Những tư tưởng triết học cơ bản của trường phái Đạo gia được thể hiện chủ yếu
trong lý luận về đạo và đức. Lý luận này thể hiện quan niệm biện chứng về thế giới và
là cơ sở để Lão Tử xây dựng thuyết vô vi nhằm giải quyết những vấn đề do thời đại đặt
ra.
PHẦN NỘI DUNG
1. Tư tưởng triết học Đạo gia
1.1. Lý luận đạo và đức
1.1.1. Quan niệm về đạo
"Đạo" là sự khái quát cao nhất của triết học Lão – Trang, đạo là bản nguyên của
vũ trụ, nó là cơ sở tối sơ là nguồn gốc đầu tiên của vạn vật, sinh ra vạn vật. Vạn vật
nhờ có đạo mà sinh ra, sự sinh sản ra vạn vật theo trình tự "đạo sinh một, một sinh hai,
hai sinh ba, ba sinh ra vạn vật". Đạo còn là chúa tể vạn vật, phép tắc của vạn vật và khi
mất đi là lúc vạn vật quay trở về với đạo. Đạo gia xem đạo không chỉ là nguồn gốc, bản
chất mà còn là quy luật của mọi cái đã, đang và sẽ tồn tại trong thế giới. Điều này cho
phép hiểu đạo như nguyên lý thống nhất - vận hành của vạn vật – Nguyên lý đạo pháp
tự nhiên. Cho thấy quan niệm về đạo, đức của trường phái Đạo gia thể hiện một trình
độ khái quát cao của tư duy biện chứng khi giải quyết vấn đề bản nguyên thế giới.
1.1.2. Quan niệm về đức
“Đức” là biểu hiện cụ thể của Đạo trong từng sự vật, đạo sinh ra vạn vật nhưng
làm cho vật nào hình thành ra vật ấy và tồn tại được trong vũ trụ là do Đức. Đạo vốn
không tên, đến đức mới bắt đầu có tên, vạn vật do đức chứa mà lớn nhỏ, dài ngắn…
khác nhau.
Mọi vật muốn tồn tại được đều phải có đức, nhưng đức nhờ đạo mà sinh ra, đức
nuôi lớn và bảo tồn mọi vật, nhưng lại luôn theo sự tồn tại của đạo, đạo mất thì đức
cũng không còn.
Nếu Đạo là cái Tĩnh vô hình thì Đức là cái Động hữu hình của Đạo. Nếu Đạo là
bản chất của vũ trụ thì Đức là sự cấu tạo và tồn tại của vũ trụ. Đạo đức của Đạo gia là
một phạm trù vũ trụ quan. Khi giải thích bản thể của vũ trụ, Lão Tử sáng tạo ra phạm
trù Hữu và Vô, trở thành những phạm trù cơ bản của lịch sử triết học Trung Hoa.

1.2. Thế giới quan - Nhân sinh quan
1.2.1. Thế giới quan
Trong triết học của Lão Tử quan niệm biện chứng về thế giới gắn với quan niệm
về đạo- đức. Nhờ đức mà đạo nằm trong vạn vật luôn biến hóa. Đạo là cái vô. Cái vô
sinh ra cái hữu, cái hữu sinh ra vạn vật, được thể hiện qua thuyết “Vô vi”.
Lão tử cho rằng bất cứ sự vật nào cũng đều là thể thống nhất của hai mặt đối lập
chúng ràng buộc, bao hàm lẫn nhau. Trong vạn vật, các mặt đối lập không chỉ thống
nhất mà chúng còn xung đột, đấu tranh, chuyển hóa lẫn nhau tạo ra sự thay đổi, biến
hóa không ngừng của vạn vật trong vũ trụ. Đây là một tư tưởng đi trước thời đại gắn
với những ngành khoa học hiện đại ngày nay đã chứng thực: vật lý, khoa học vũ trụ,
phép biện chứng về mâu thuẫn của triết học. Tuy nhiên, theo Lão Tử, sự đấu tranh
chuyển hóa của các mặt đối lập này không làm xuất hiện cái mới, mà là theo vòng tuần
hoàn khép kín.
1.2.2. Nhân sinh quan
Xuất phát từ nguyên lý Đạo pháp tự nhiên và mở rộng quan niệm về đạo vào lĩnh
vực đời sống xã hội, Lão Tử xây dựng thuyết “Vô vi” đề trình bày quan điểm của mình
về các vấn đề nhân sinh và chính trị- xã hội.
“Vô vi” là sống và hành động theo lẽ tự nhiên, thuần phác, không giả tạo, không
gò ép trái với bản tính của mình và ngược với bản tính của tự nhiên; là từ bỏ tính tham
lam, vị kỷ để không làm mất đức. chỉ khi nào từ bỏ tư lợi thì mới nhận thấy đạo; và chỉ
khi nhận thấy đạo mới có thể vô vi được. Vô vi không có nghĩa là hoàn toàn không làm
gì, mà là hòa nhập với tự nhiên, đừng làm gì thái quá. Vì làm thái quá thì theo luật âm
dương “vật cực tắc phản”, kết quả thu được còn tệ hại hơn là hoàn toàn không làm gì.
“Đạo đức là cái luật tự nhiên, không cần tranh mà thắng, không cần nói mà ứng
nghiệm, không cần mời mà các vật vẫn theo về, lờ mờ mà hay mưu tính” (sđd, Chương
42). Dương Chu giải thích thêm: “Các sinh vật khác không phải là của ta, nhưng đã có
chúng rồi thì không được diệt trừ chúng đi” (Liệt Tử, chương VII).
Quan điểm nhân sinh quan của Lão tử thể hiện trong học thuyết vô vi nhìn chung
còn mang nhiều cảm tính, phủ nhận vai trò của con người trong việc cải tạo tự nhiên,
cải tạo xã hôi, phủ nhận vái trò của luật pháp và chính quyền trong việc " bình thiên

hạ", thể hiện một sự bất mãn cao với hiện thực xã hội đương thời.
1.3. Tư tưởng biện chứng
Đạo đức kinh của Lão Tử thể hiện tư tưởng biện chứng chất phác, ông cho rằng
sự tồn tại của sự vật là không cô lập, mà có mối liên hệ qua lại với nhau, theo Lão Tử
thế giới vận động trong một quy luật duy nhất đó là “Đạo”. Nơi cội nguồn của mối liên
hệ phổ biến và sự vận động biến đổi của vũ trụ vạn vật, mà nguồn gốc là do các mối
liên hệ, tác động, chuyển hóa giữa các mặt đối lập; cách thức là khi phát triển đến tột
đỉnh rồi sẽ trở thành cái đối lập, tương phản với chính nó; khuynh hướng của sự vận
động biến đổi là sự trở về với Đạo. Thông qua tư tưởng biện chứng đó, Đạo gia đã khái
quát thành hai quy luật căn bản chi phối toàn bộ vũ trụ vạn vật, đó là luật quân bình và
luật phản phục:
1.3.1. Luật quân bình (luật bù trừ)
Luật bình quân Lão Tử cho rằng mọi vật đều sinh luôn có hai mặt thống nhất với
nhau, vận động và chuyển hóa lẫn nhau. Lão tử nói: “Ngăn là ta biết nó ngắn bởi có vật
dài” hay “Phúc là chỗ tự của họa, họa là chỗ náo của phúc”.
Nhờ luật bình quân mà vạn vật biến đổi theo một quy luật nhất định, chuyển hóa
lẫn nhau giữa các mặt đối lập một cách tự nhiên. Ông cho rằng “cái gì vơi ắt sẽ được
đầy cái gì cũ ắt sẽ được mới”.
Được chi phối bởi luật bình quân mọi vật tồn tại trên trời đất theo một lẽ tự nhiên
rất hợp lý, công bằng và chu đáo, đó chính là “đạo của trời”.
1.3.2. Luật phản phục
Ngoài luật bình quân vạn vật trong vũ trụ còn tuân theo luật phản phục, theo luật
phản phục thì cái gì phát triển đến đỉnh cao sẽ trở thành cái đối lập với chính nó. Như
hết ngày lại đến đêm, hết mưa thì tới nắng, dao sắc rồi lại cùn…
Luật phản phục làm cho mọi vật vận động biến hóa một cách nhịp nhàng, tự
nhiên. Nhờ có luật phản phục mà vạn vật trong tự nhiên biến đổi một cách tuần hoàn
bất tận như trăng khuyết rồi lại tròn, tròn rồi lại khuyết.
Phản phục còn là sự trở về với đạo của vạn vật “phản giả đạo chi động”, “đến chỗ
cùng cực hư không là giữ vững được trong cái tĩnh”. Vạn vật cùng đều sinh ra, ta lại
thấy nó trở về với gốc

1.4. Quan điểm về chính trị xã hội
Mẫu hình xã hội lý tưởng của Đạo gia là “Nước nhỏ, dân ít”. Lão tử cho rằng “Dù
khí cụ gấp trăm gấp chục sức người cũng không dùng đến. Ai nấy đều coi sự chết là hệ
trọng nên không đi đâu xa. Có xe thuyền mà không ai ngồi. Có gươm giáo mà không
bao giờ dùng. Bỏ văn tự, bắt người ta trở lại dùng lối thắt dây ghi dấu thời thượng cổ.
Ai nấy đều chăm chú vào việc ăn no, mặc ấm, ở yên, vui với phong tục của mình. Ở
nước này có thể nghe thấy gà gáy chó sủa của nước kia, nhân dân trong những nước ấy
đến già chết mà vẫn không qua lại lẫn nhau” (Đạo đức kinh, chương 80). Xã hội được
cai trị bằng cách không cai trị, không cai trị mà coi như đã được cai trị… Con người
sống tự nhiên thuần phác, bỏ mọi ham muốn dục vọng, không cần đến cả tri thức, văn
hóa hay bất cứ sự tiến bộ xã hội nào…
Đạo gia chủ trương đường lối trị quốc theo đạo “vô vi”, chống lại chủ trương
“hữu vi” cùng mọi chuẩn mực đạo đức và thể chế pháp luật, vì coi đó là sự áp đặt,
cưỡng chế, can thiệp vào bản tính tự nhiên của con người. Nó là nguyên nhân gây ra
điều ác và bất ổn: “Nước nào chính sự lờ mờ thì dân thuần thục, nước nào chính sự
rành rọt thì dân lao đao”; “Thiên hạ nhiều kỵ húy thì dân càng nghèo, dân nhiều khí
giới nhà nước càng loạn, người nhiều tài khéo vật xảo càng thêm, pháp luật càng tăng
trộm cướp càng nhiều” (Đạo đức kinh, chương 57).
Tư tưởng “vô vi” của Đạo gia chủ trương thực hiện triệt để chính sách ngu dân,
“không làm cho dân sáng mà làm cho dân ngu” (sđd, chương 65); “Trí tuệ sinh thì có
đại ngụy” (sđd, chương 18). Bởi hiểu biết càng nhiều thì trí xảo càng nhiều, trí xảo
càng nhiều thì ham muốn càng nhiều, càng muốn tranh đoạt và xâm phạm lẫn nhau,
làm trái với đạo tự nhiên. Con người càng “theo học thì càng phiền phức, mà theo đạo
thì ngày càng bớt, bớt rồi thì lại bớt, bớt đến mức vô vi” (sđd, chương 48).
1.5. Quan điểm trong phương châm xử thế
Phép xử thế: Xây dựng xã hội bình đẳng, không phân biệt người với ta, không
xích mích với ai, không làm thiệt hại ai.
Con người cần có 3 đức: Từ - Kiệm - Khiêm
 Khiêm: khiêm tốn, khiêm nhu, nhường nhịn, bất tranh (không tranh
giành với ai), ở đời phải khiêm tốn nhún nhường.

 Từ: nhân từ là ăn ở hiền lành, rộng thương kẻ khác, thương yêu, xem mọi
người như mình, không phân biệt người lành kẻ dữ, nên không bao giờ
có kẻ thù.
 Kiệm: Tiết kiệm, chi tiêu dè xẻn đúng mực, không xa hoa, phung phí,
không khêu gợi lòng tham dục của con người, làm gì luôn luôn cũng có
mực độ, lòng dạ quảng đại quang minh. “Từ cố năng dũng, Kiệm cố năng
quảng”.
2. Những giá trị, hạn chế của đạo gia
2.1. Giá trị
2.1.1. Trong hoạt động nhận thức
Một là, Những quan điểm triết học cơ bản của Đạo gia nêu trên đã cung cấp cho
chúng ta một số hạt nhân hợp lý về sự tồn tại, vận động và biến đổi không ngừng của
thế giới khách quan, độc lập với ý thức con người. Thế giới thống nhất trong đa dạng
và phong phú, thể hiện muôn hình vạn trạng, vô vàn các mối liên hệ, là sự chuyển hoá,
dung hoà của 2 mặt đối lập, nó luôn có sự chuyển hoá và bài trừ lẫn nhau và trong bản
thân từng sự vật. Thế giới không do ai sáng tạo ra hoặc chi phối nó dưới bất kỳ hình
thức nào, mà tự sinh thành và hoạt động theo những quy luật tự nhiên vốn có. Với ý
nghĩa đó, nếu chúng ta rút ra bài học tư tưởng tích cực và tiến bộ, đồng thời là cơ sở
quan trọng để xây dựng và phát triển quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử;
chống lại chủ nghĩa duy tâm, quan điểm siêu hình.
Hai là, Thuyết vô vi giúp con người sống và hành động theo lẽ tự nhiên, thuần
phác, không giả tạo, không gò ép trái với bản tính của mình ngược lại với bản tính của
tự nhiên; là từ bỏ tính tham lam, vị kỷ để không làm mất đức. Triết lý vô vi áp dụng
vào đời sống cá nhân là “chỉ vì không tranh nên thiên hạ không ai tranh nổi với mình”.
Từ thuyết này Lão Tử đã rút ra nghệ thuật sống dành cho con người là từ ái, cần kiệm,
khiêm nhường và khoan dung, không tham lam, vụ lợi, giả dối; không đấu tranh, giành
giật; không đua đòi, bon chen, đố kỵ
Ba là, Về chính trị - xã hội Lão Tử không tán thành lối cai trị cưỡng chế, áp đặt
đương thời, phê phán sự áp bức bóc lột của giai cấp địa chủ phong kiến, lên án sự lộng
hành và tàn bạo của vua chúa, quyền lực của nhà vua và những đạo luật nhằm mục

đích cướp bóc người lao động. Ông cho rằng: sự xa hoa của bọn giàu có là kết quả của
việc cướp bóc người lao động, làm sao để xóa bỏ những tranh chấp trong xã hội, làm
thế nào để cuộc sống con người được an ổn hạnh phúc. Mong muốn trở về chế độ công
xã nguyên thủy ở giai đoạn cuối, cho chúng ta thấy những khát vọng chân chính về một
xã hội công bằng, bình đẳng, xóa bỏ mọi bất công, áp bức, bóc lột, không còn chế độ
tư hữu và nhà nước, con người được sống tự do.
Bốn là, Ngoài ra trong hoạt động nhận thức, con người cần tránh lối tư duy gán
ghép, máy móc, siêu hình, áp đặt chủ quan đối với mọi sự vật hiện tượng tự nhiên. Phải
nhận thức cái khách quan, cái bản tính tự nhiên thuần phác, vốn có của nó. Đồng thời,
thông qua luật quân bình và luật phản phục, đạo gia đã cung cấp nhân sinh quan và
nghệ thuật sống mang tính nhân văn sâu sắc, có tác dụng giúp con người hướng thiện,
hướng đến tự nhiên, dung hoà với tự nhiên, tĩnh tâm và tự tại, tránh những ham muốn
đua chen của dục vọng, biết hài lòng và hạnh phúc với những gì mình có trong cuộc
sống, không nên ham muốn và mơ tưởng hão huyền.
2.1.2. Trong hoạt động thực tiễn
Một là, Đạo gia hướng con người về với tự nhiên, giúp con người điều chỉnh
hành vi của mình cho phù hợp với tự nhiên và cuộc sống, tôn trọng quy luật khách
quan, nắm vững và vận dụng phù hợp các quy luật tự nhiên vào cuộc sống, con người
cần phải “thuận theo tự nhiên”, không được làm trái quy luật tự nhiên.
Hai là, Bảo vệ môi trường tự nhiên, không được cải tạo tự nhiên theo những toan
tính lợi ích tầm thường của mình, không được tàn sát sinh vật và hủy hoại môi trường
một cách tùy tiện. Điều này có tính thời sự đặc biệt và sâu sắc trong bối cảnh biến đổi
khí hậu toàn cầu hiện nay: ô nhiễm môi trường, tài nguyên cạn kiệt, sinh vật bị tiêu
diệt, biến đổi khí hậu, thiên tai và dịch bệnh luôn là những mối đe dọa nghiêm trọng
đối với nhân loại, thêm những bất ổn về chính trị - xã hội, một hệ lụy trực tiếp từ quá
trình con người “nhân tạo hóa thiên nhiên”, tạo dựng một nền “văn minh” không tương
thích với bản tính tự nhiên của vũ trụ vạn vật.
Ba là, Việc chỉ ra luật quân bình (bù trừ) và luật phản phục, đòi hỏi con người cần
tránh mọi cực đoan, thái quá, nóng vội, chủ quan duy ý chí… Mà phải luôn luôn tạo
dựng sự cân bằng, hợp lý, tự nhiên; khách quan nhưng không ỷ lại, thụ động trước các

điều kiện khách quan.
Bốn là, Đạo gia còn dạy con người phải biết sống khiêm tốn, giản dị, ung dung,
tự tại, không lo sợ, không đau buồn… trước mọi biến động xảy ra trong đời; không
tham lam, vụ lợi, giả dối; không đấu tranh, giành giật; không đua đòi, bon chen, đố
kỵ… Mà cần phải sống hòa nhã, trung dung, ngay thẳng, tự nhiên thuần phác, “thản
nhiên mà đến, thản nhiên mà đi”.
Năm là, Quốc gia lý tưởng theo ông là mong ước, hy vọng của con người và có lẽ
chỉ khi nào loài người bước vào giai đoạn CNCS thì những lý tưởng mà Lão Tử ấp ủ
mới hiện thực hoá. Tuy rằng những chủ trương của ông chỉ là lý tưởng (thậm chí có cả
tính không tưởng) nhưng vẫn đóng góp đáng kể vào sự phát triển của tư tưởng phương
Đông cũng như của Trung Quốc.
Sáu là, Sự thâm nhập và phát triển của đạo giáo ở việt nam, cũng giống như ở
Trung Hoa, Đạo giáo đã được người dân sử dụng làm vũ khí chống lại kẻ thống trị.
Ngay khi thâm nhập nó đã là vũ khí chống lại phong kiến phương Bắc. Phong trào
nông dân khởi nghĩa ở các tỉnh Nam Trung Hoa vào thế kỷ II đều có liên hệ với các
cuộc khởi nghĩa nông dân hai quận Giao Chỉ, Cửu Chân. Vào thời kỳ phong kiến dân
tộc ở Việt Nam, Đạo giáo thường được dùng để thu hút nông dân tham gia vào các
cuộc bạo động chống lại cường hào ác bá địa phương và quan lại trung ương.
Bảy là, Không chỉ dạy con người trở về với gốc Đạo, huyền đồng cùng vũ trụ, nó
còn đóng góp rất nhiều cho nền văn minh Trung Quốc. Rất nhiều sinh hoạt độc đáo của
người Trung Quốc đã lan truyền khắp thế giới như :
 Khuynh hướng hội họa của dòng tranh "Thủy mặc" hay "Tranh sơn thủy" thể
hiện sự cân bằng tuyệt hảo giữa Âm - Dương.
 Thuật Phong thủy chỉ rõ cách chọn hướng, cách thiết kế môi trường xây dựng
theo một hệ thống phối hợp các yếu tố quan trọng của không gian và thời gian
nhằm mang lại sự hài hòa tối đa trong mọi tương tác giữa con người và thiên
nhiên.
 Võ thuật với nguyên tắc "mềm như nước" nhưng hết sức hiệu quả, giúp cho con
người giải tỏa những tắt nghẽn sinh lực, đưa thân thể trở về trạng thái cân bằng,
vừa hài hòa thể lý lẫn tinh thần mà ngày nay rất phổ biến. Đó là môn Thái Cực

Quyền.
 Về y học, phương pháp châm cứu và bấm huyệt được xem là cách trị bệnh rất
hiệu quả. Ngày nay chúng ta gặp nhiều liệu pháp rèn luyện sức khỏe tại Việt
Nam từ việc ứng dụng các tư tưởng của Đạo Gia, đó là thuật dưỡng sinh và
luyện khí công
 Về tư tưởng, chủ trương bất tử, tức là quan niệm lúc chết, sự sống con người
được thay đổi chứ không bị mất đi, cho nên con người có một thái độ tích cực
đối với thân phận chính mình.
2.2. Hạn chế
2.2.1. Trong hoạt động nhận thức
Một là, Phép biện chứng chất phác của Lão Tử mới chỉ là những suy luận, phỏng
đoán của trực giác hay dựa trên kinh nghiệm đời thường mà chưa được chứng minh
bằng tri thức khoa học, mang tính chất máy móc, đơn giản, chưa có sơ sở để vạch ra
cái bản chất, tất yếu bên trong của sự vật hiện tượng. Vạn vật chỉ vận động tuần hoàn,
lặp đi lặp lại một cách buồn tẻ mà không có sự ra đời của cái mới, nghĩa là không có sự
phát triển.
Hai là, Về đường lối trị nước an dân, Đạo gia chủ trương đẩy lùi nhân, nghĩa; phế
truất danh lợi, hiếu ác, hiếu ố nhằm bảo tồn, giữ gìn bản tính tự nhiên, chất phác, giản
dị của con người. Con người cứ làm theo tự nhiên là được, không cần khổ công học
tập, lập nên công trạng hoặc để lại tiếng tăm danh giá làm gì. Không can thiệp đến việc
đời; nhưng nếu phải làm thì ta hãy làm cái không làm một cách kín đáo, khéo léo. Chủ
trương xóa bỏ hết mọi ràng buộc về đạo đức, pháp luật đối với con người. Lão Tử ước
mơ đưa xã hội trở về thời đại nguyên thủy chất phác, cô lập cá nhân với xã hội để hòa
tan con người về đạo. Cho thấy đạo gia nhìn cuộc đời và con người với tâm trạng đầy
bi quan, thụ động; bởi nó là tiếng nói của giai cấp quý tộc đang sa sút, đang mất dần
vai trò lịch sử. Họ hoang mang, dao động, sợ sệt trước mọi đổi thay của thời cuộc nên
Đạo gia chủ trương “vô vi, vô sự”, phủ nhận tất cả những gì do chủ quan của con
người mang lại. Quan niệm này biểu hiện tư tưởng duy tâm chủ quan của triết học Đạo
gia.
Ba là, Ngoài ra tư tưởng của Trang Tử cũng có điểm hạn chế. Trang tử cho rằng,

không cần phân biệt cái này với cái kia, đúng – sai, trên – dưới, sang – hèn, bần – tiện
… đều là như nhau; mà nếu chúng là như nhau thì cần loại bỏ chúng ra một bên để tiến
vào vương quốc tiêu dao, coi sống chết bằng nhau, quên vật quên ta, trời đất với ta là
một.
Chủ trương phải toàn sinh và vị ngã, nghĩa là phải yên theo thời gian mà ở thuận, cái tự
nhiên nào cũng hợp lý cả; không khen chê phải – trái, tốt – xấu làm gì, phải lánh nạn
để bảo toàn sinh mạng…, bởi vì, một người quân tử chết vì nghĩa và một kẻ tiểu nhân
chết vì của cải, thì hai cái chết đó như nhau. Những tư tưởng này khiến con người
không có động lực phấn đấu, dửng dưng trước thời thế.
Bốn là, Về tư tưởng văn nghệ, Chủ trương “diệt văn chương, tán ngũ thái” (dứt
văn chương, bỏ năm màu) (Trang Tử, Khư khiếp), vì bởi cho rằng “ngũ sắc linh nhân
mục manh, ngũ âm linh nhân nhĩ lung” (năm màu khiến người tối mắt, năm giọng
khiến người điếc tai) (Lão Tử, chương 12), chỉ có “tuyệt thánh khí trí” (dứt thánh bỏ
trí) mới có thể khiến cho “dân lợi bách bội” (dân lợi trăm phần) (Lão Tử, chương 19).
Trang Tử thậm chí còn cho rằng văn chương ngôn từ là vô dụng, sách vở thư tịch là
cặn bã, trực tiếp phủ nhận tác dụng biểu đạt của ngôn ngữ; nhưng tự mình lại trứ thư
lập thuyết, cật lực tuyên truyền tư tưởng Đạo gia, điều ấy làm lộ ra chỗ mâu thuẫn
trong tư tưởng của ông. Chính từ trong mâu thuẫn ấy, chúng ta mới có thể thấy được tư
tưởng văn nghệ của Đạo gia ẩn tàng sau “mậu du chi thuyết, hoang đường chi ngôn, vô
đoan nhai chi từ” (diễn những thuyết viển vông vô cứ, lời lẽ hư vô, không đầu đuôi).
2.2.2. Trong hoạt động thực tiễn
Một là, Đạo gia chủ trương con người không nên tăng cường các hoạt động sáng
tạo, không cần mở mang trí tuệ, chấm dứt cải tạo tự nhiên và cải tạo xã hội, mà quay
về sống như thời nguyên thủy, đúng với bản tính tự nhiên thuần phác của một loài
động vật bậc cao được sinh ra từ “đạo”… phủ nhận mọi hoạt động thực tiễn của con
người.
Hai là, Thuyết "vô vi" của Lão Tử dễ bị người ta mượn cớ trốn tránh trách nhiệm,
nhất là những người công chức ăn lương nhà nước, lại có tâm lý tiêu cực, họ bảo nhau:
"Ít làm ít lỗi, chẳng làm thì không có lỗi". Nếu không đánh giá đúng mức thì con người
dễ bị lối cuốn theo những tư tưởng không phân biệt thiện ác, sai đúng, khiến cho cuộc

sống sinh ra bừa bãi, vô trách nhiệm, hoặc lẫn lộn hưởng nhàn với hành lạc sa đoạ.
Ba là, Từ xa xưa người Việt Nam từ miền núi đến miền xuôi đã rất sùng bái ma
thuật, phù phép; họ tin rằng các lá bùa, những câu thần chú… có thể chữa bệnh, trị tà
ma, có thể làm tăng sức mạnh, gươm chém không đứt… Tương truyền Hùng Vương là
người giỏi pháp thuật nên có uy tín thu phục 15 bộ, lập nên nước Văn Lang. Ngay các
nhà sư cũng phải học các phép trị bệnh, trừ tà ma thì mới đưa Phật giáo thâm nhập vào
dân chúng vốn có tín ngưỡng ma thuật được. Vì vậy, dễ hiểu là tại sao Đạo giáo, trước
hết là Đạo giáo phù thủy, đã thâm nhập nhanh chóng và hòa quyện dễ dàng với tín
ngưỡng ma thuật cổ truyền tới mức không còn ranh giới. Do vậy mà tình hình Đạo giáo
ở Việt Nam rất phức tạp, khiến cho không ít nhà nghiên cứu đã quy hết mọi tín ngưỡng
cổ truyền Việt Nam cho Đạo giáo, và ngược lại, người Việt Nam sính đồng bóng, bùa
chú thì lại chẳng hề biết Đạo giáo là gì. Và hiện nay hiện tượng như đồng bóng, đội bát
nhang, bùa chú…đã gây ảnh hưởng không tốt đến đời sống tinh thần người Việt, làm
cho một bộ phận người bất lương lợi dụng điều này để chuộc lợi từ những người nhẹ
dạ, cả tin.
3. Kết Luận
Quan điểm về phép biện chứng và học thuyết vô vi của Lão Tử là hết sức sâu sắc
và độc đáo, đã đạt đến trình độ tư duy lý luận, trừu tượng rất cao, đóng góp lớn cho sự
phát triển nền triết học Phương Đông, trong cái lờ mờ hỗn độn gợi mở của Lão Tử làm
người đời sau kinh ngạc về tư duy trừu tượng và tôn vinh ông là Thái thượng Lão Quân
tuy nhiên do sự hạn chế điều kiện lịch sử, khi giải quyết vấn đề nhận thức luận, bản thể
luận vẫn còn hạn chế nhưng đứng trên phương diện lịch sử thì chúng ta phải ghi nhận
lại những di sản tài hoa mà Lão Tử đã để lại.
Thông qua hoạt động nhận thức và thực tiễn của con người, Đạo gia còn cung cấp
cho chúng ta nghệ thuật sống vô cùng phong phú, tinh tế và đáng vận dụng như: Lấy
mềm thắng cứng, lấy tĩnh chế động, lấy mặt đối lập để khống chế mặt đối lập, tôn trọng
sự khác biệt… Đặc biệt là luật bù trừ và luật phản phục. Từ đó, ông cha ta đã đúc kết
nên những thành ngữ và phương châm ứng xử trong hoạt động thực tiễn, như: Lạt mềm
buộc chặt, lấy nhu thắng cương, lấy ít địch nhiều, lấy độc trị độc, dĩ bất biến ứng vạn
biến, không ai giàu ba họ không ai khó ba đời, lá rụng về cội…

Ngày nay, mặc dù tồn tại xã hội và ý thức xã hội đã thay đổi vượt bậc, song
những tư tưởng triết học của Đạo gia vẫn có sức sống và tác động đáng kể đối với đời
sống con người, đặc biệt ở những nước vốn chịu sự ảnh hưởng truyền thống của nó.
Việc nghiên cứu đề tài này vô cùng ý nghĩa và hết sức cần thiết cho thời đại ngày
nay. Nó góp phần đẩy lùi những ô nhiễm xã hội do hiện đại hóa mang lại và góp phần
làm cân bằng trạng thái tinh thần của môi trường sống. Vận dụng những tinh hoa,
những giá trị cốt lỗi nhất vào đời sống hiện tại đồng thời nhận ra những điểm giá trị
hạn chế trong tư tưởng Đạo gia để rút kinh nghiệm cho mỗi chúng ta và cải thiện cho
phù hợp với thời đại.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Triết học Đại Cương về lịch sử triết học, phần I. TS. Bùi Văn Mưa. Nhà xuất
bản Kinh tế TPHCM.
2. Giáo trình triết học Mác - Lênin. GS,TS. Nguyễn Hữu Vui - GS,TS. Nguyễn
Ngọc Long và Tập thể tác giả. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002.
3. Đại cương lịch sử văn hóa Việt Nam, tập II. Nguyễn Khắc Thuần. Nhà xuất bản
giáo dục.
4. Các Website:








×