Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Tiểu luận triết học :Tư Tưởng triết học Đạo gia và những giá trị , hạn chế của nó.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (173.28 KB, 20 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHỆ THÔNG TIN
Tiểu luận triết học :
Tư Tưởng triết học Đạo gia
và những giá trị , hạn chế của nó.
Người hướng dẫn: TS Bùi Văn Mưa
Người thực hiện : Đỗ Hữu Quốc Thắng
Học viên cao học K6/2011
Mã số : CH1101042
STT: 42 – Nhóm 3

Tp. Hồ Chí Minh-2012
2
Mục lục
Lời mở đầu
A. Nội dung
Chương I : Tư tưởng triết học Đạo gia
1. Nguồn gốc và sự ra đời
2. Người sáng lập và các đại diện tiêu biểu
3. Những quan điểm triết học cơ bản của Đạo gia
 Quan điểm về “Đạo” và “Đức”
 Quan điểm về thế giới – nhân sinh
 Quan điểm “Vô vi” về chính trị - xã hội
 Một số tư tưởng biện chứng
 Quan điểm trong phương châm xử thế
Chương II : Những giá trị và hạn chế của tư tưởng triết học Đạo gia
1. Giá trị tư tưởng
 Trong hoạt động nhận thức
 Trong hoạt động thực tiễn
2. Hạn chế
B. Kết luận


*Tài liệu tham khảo
1
Lời mở đầu
Nếu phương Đông là chiếc nôi lớn của nền văn minh nhân loại thì Ấn Độ và Trung Quốc là
những trung tâm văn hóa Triết học cổ xưa rực rỡ, phong phú nhất của nền văn minh ấy. Một
trong những tư tưởng triết học phương Đông thời đó mà ý nghĩa của nó vẫn còn giá trị cho đến
ngày nay là tư tưởng triết học Đạo gia .
Việc nghiên cứu nội dung tư tưởng và những giá trị, hạn chế của triết học Đạo gia giúp ta có
thể : hiểu sâu thêm về nội dung của các tư tưởng trong triết học, tiếp thu những tư tưởng tiến bộ
và vận dụng chúng vào thực tế .
Do kiến thức còn hạn hẹp, chắc chắn trong bài viết còn nhiều thiếu sót. Mong nhận được sự
góp ý của thầy.
Em xin cám ơn !
2
A. Nội dung
Chương I : Tư tưởng triết học Đạo gia
1.Nguồn gốc tư tưởng và sự ra đời:
Đạo gia là tên gọi với tư cách một trường phái triết học lớn, lấy tên của phạm trù “Đạo”, một
phạm trù trung tâm và nền tảng của nó. Nguồn gốc tư tưởng của Đạo gia xuất phát từ những
quan điểm về vũ trụ luận, thiên địa, ngũ hành, âm dương, Kinh Dịch…
Đạo gia ra đời và phát triển rực rỡ từ cuối thời Xuân Thu đến cuối thời Chiến Quốc và sau đó
có tác động ảnh hưởng to lớn đến nhiều lĩnh vực như chính trị, kinh tế, triết học, văn chương,
nghệ thuật, âm nhạc, y thuật, sinh học, hoá học, vũ thuật, địa lí… ở Trung Quốc và một số
nước châu Á khác.
2.Người sáng lập và các đại diện tiêu biểu:
Ngoài Lão Tử là người sáng lập, thì Đạo gia còn có hai người khác được thừa nhận và tôn vinh
muôn đời, đó là Dương Chu và Trang Tử. Trong đó vị trí của Trang Tử được sánh ngang với
Lão Tử, nên còn gọi là Đạo Lão – Trang.
Lão Tử (khoảng 580 – 500 TCN), sinh ra ở huyện Khổ, nước Sở, nay là Lộc Ấp, tỉnh Hà Nam.
Tiểu sử của ông còn gây nhiều tranh luận trong giới học thuật. Tương truyền, trước khi Lão Tử

cưỡi trâu qua nước Tần và biến mất, ông đã nghe lời Doãn Hy (người gác cửa ải phía tây Hàm
Cốc) viết lại "Đạo Đức Kinh", gồm 81 chương. Phần thứ nhất nói về Đạo, phần hai nói về Đức.
Các học giả hiện đại đánh giá, đó là một tập hợp những ngạn ngữ huyền bí, tối nghĩa, dường
như muốn người đọc phải tự lí giải. Chính vì vậy, về sau có hàng trăm bản dịch nghĩa cho bộ
sách này.
Dương Chu (khoảng 440 – 360 TCN) là một đạo sĩ ẩn danh và bí hiểm. Theo luận giải, ông
phải sinh trước Mạnh Tử (372 - 289 TCN) và sau Mặc Tử (478 - 392 TCN). Tư tưởng của ông
được diễn đạt lại thông qua các tác phẩm của cả những người ủng hộ lẫn những người chống
3
đối ông. Chủ thuyết của ông là quý sự sống, trọng bản thân. Ông thường mượn chuyện Bá
Thành Tử Cao không chịu mất một sợi lông để làm lợi cho thiên hạ, nhằm trình bày tư tưởng
của mình.
Trang Tử (365 – 290 TCN), tên thật là Trang Chu, tác giả bộ Nam Hoa kinh, là một trong hai
bộ kinh điển của Đạo gia. Bộ sách gồm ba phần, chứa 33 thiên. Trong đó, có nhiều điểm lấy từ
Đạo Đức kinh làm chủ đề, nhưng không phải bao giờ cũng đồng thuận. Một số nhà nghiên cứu
sau này cho rằng phần lớn nội dung tác phẩm Nam Hoa kinh là do các đệ tử của ông biên tập.
3.Những quan điểm triết học cơ bản của Đạo gia :
Từ thực tế cuộc sống, người Trung Quốc cổ đại cho rằng, bản thân vũ trụ, cũng như vạn vật
trong nó, được tạo thành nhờ vào sự tác động lẫn nhau của hai cái lực lượng đối lập nhau là âm
và dương. Và mọi tai họa trong vũ trụ sở dĩ xảy ra cũng là do sự không điều hòa được hai lực
lượng ấy. Mặt khác, tư tưởng triết học Trung Quốc thời kỳ này đều có mầm mống từ thần thoại
thời Tam Đại với các biểu tượng như đế, thượng đế, quỷ thần,…và các tư tưởng này đã hòa
quyện và chi phối mạnh đời sống tinh thần của người Trung Quốc, chúng không chỉ dùng để
bói toán mà còn để lý giải vũ trụ, xã hội và con người.
Quan điểm triết học của Đạo gia tuy hết sức phong phú, đa dạng, song tựu trung lại không đi
sâu vào giải quyết vấn đề cơ bản của triết học theo cách lý giải của truyền thống triết học
phương Tây, mà tập trung vào vấn đề con người trong mối tương quan và thống nhất với tự
nhiên, trực giác tâm linh và phi lý tính. Nó được thể hiện qua các tác phẩm “Đạo Đức kinh”
của Lão Tử, “Nam Hoa kinh” của Trang Tử và một số tư tưởng của Dương Du được ghi chép
tản mạn trong các sách “Mạnh Tử”, “Nam Hoa kinh”, “Hàn Phi Tử”, “Lã Thị Xuân Thu”, “Liệt

tử”…
Mặc dù cả Lão Tử, Dương Chu và Trang Tử đều có những luận điểm khác nhau, đặc biệt là
giữa Dương Chu và Trang Tử, song về cơ bản, những tư tưởng triết học chính yếu của phái
Đạo gia đều thống nhất trên nền tảng các quan điểm lý luận về Đạo và Đức.
4
 Quan điểm về “ĐẠO” và “ĐỨC”
“Đạo” là một danh từ triết học đã được người Trung Hoa dùng từ thời thượng cổ, nhưng chỉ
đạt được tầm quan trọng đặc biệt và trở nên phổ biến nhờ bộ Đạo Đức kinh của Lão Tử. Theo
tiếng Hán cổ, Đạo có nghĩa là "con đường", "phương tiện", "nguyên lý"…
Lão Tử cho rằng Đạo vừa dùng để chỉ bản nguyên vô hình, phi cảm tính, phi ngôn từ, sâu kín
và huyền diệu của vạn vật, vừa để chỉ con đường, quy luật chung của mọi sự sinh thành, biến
hóa xảy ra trong thế giới. Đạo sinh ra vạn vật, vạn vật nhờ Đạo mà được sinh ra và khi mất đi
là lúc vạn vật quay trở về với Đạo.
Còn “Đạo mà ta có thể nói đến được, không phải là Đạo thường còn. Danh mà ta có thể gọi
được, không phải là Danh thật sự. Vô danh là gốc của thiên địa, hữu danh là mẹ của vạn vật”
(Đạo khả đạo, phi thường Đạo. Danh khả danh, phi thường Danh. Vô danh thiên địa chi thuỷ,
hữu danh vạn vật chi mẫu – Đạo Đức kinh)”. Bởi vì: “Đạo chẳng có thể nghe được, nghe được
không còn phải là nó. Đạo cũng chẳng có thể thấy được, thấy được không còn phải là nó
nữa.Có thể nào lấy trí mà hiểu được cái hình dung của cái không hình dung được chăng? Vậy
thì không nên đặt tên cho đạo” (Nam Hoa kinh).
Khái niệm Đạo được xem là siêu việt, vượt lên trên mọi khái niệm, vì nó là cơ sở của tồn tại và
phi tồn tại, ta không thể luận đàm, định nghĩa được. Đạo sinh ra âm dương và nhờ sự chuyển
động của âm dương mà phát sinh thế giới thiên hình vạn trạng. “Vạn vật trong trời đất sanh từ
hữu, hữu sanh từ vô. Hữu vô đều từ thiên đạo” (Đạo Đức kinh).
Xét về mặt bản thể luận, “đạo” được trình bày dưới ba dạng thức: Thể, Tướng, Dụng. Nhưng
nó không đồng nhất với phạm trù “bản thể” của triết học phương Tây.
Thể của Đạo:
Chỉ nguồn gốc, nguyên lý tối sơ, tối hậu, cái tuyệt đối của vũ trụ vạn vật, cả tồn tại lẫn không
tồn tại, cả hữu hình lẫn vô hình, cả cái tĩnh lặng và cái biến đổi, cả cái đậm đặc và cái trống
rỗng. Nó là “đạo huyền”, “đại đạo”, “đạo thường”, “một”, “cốc thần”, “thái cực” và đồng nhất

5
với “đạo” nói chung, có sức sáng tạo vô lượng vô biên: “Đạo sinh một, một sinh hai, hai sinh
ba, ba sinh vạn vật”…
Thể của Đạo là vô thủy vô chung: “Ta không biết Đạo con ai mà hình hiện ra ngoài trước cả
tiên đế” (Lão Tử, Đạo Đức kinh). “Đạo tự bản tự căn, vốn tồn tại như xưa, khi chưa có trời đất,
làm thiêng liêng quỷ thần, Thượng đế, sinh ra trời đất, ở trước thái cực mà chẳng là cao, ở dưới
lục cực mà chẳng là sâu. Sinh trước trời đất mà chẳng là lâu, dài hơn thượng cổ mà chẳng là
già” (Nam Hoa kinh, Đại tông sư). Đạo sinh ra vạn vật, là “mẹ” của muôn loài, làm chủ trời đất
một cách tự nhiên, không ý chí, không mục đích, nên cũng không tự cho vạn vật là của mình.
Nhờ đó mà trời đất vạn vật phó mặc tự nhiên, cứ sinh sinh hóa hóa không ngừng…
Tướng của Đạo:
Nhằm ngụ ý đến hình dáng, trạng thái của Đạo. Nó không có một thuộc tính quy định nào
ngoài vẻ tự nhiên chất phác, sâu thẳm, mập mờ, thấp thoáng, trống rỗng, huyền diệu, nhìn
không thấy, nghe không được, không nắm được, không nếm được, không ngửi được, không
sáng, không tối… “Thoắt lặng không hình, biến hóa không thường ” (Trang Tử, Nam Hoa
kinh, Thiên hạ). Nói chung, Đạo không thể cảm giác, không thể diễn tả dưới bất cứ hình thức
nào.
Dụng của Đạo:
Nhằm nói đến công dụng và năng lực của Đạo. Đó là trạng thái vận động, biến đổi, sản sinh,
nuôi dưỡng và “huyền đồng”, làm cho vạn vật hiện ra muôn hình vạn trạn, vô cùng, vô tận…
theo trật tự của Đạo. Đạo làm cái không làm, không làm mà như đã làm, đã làm mà như không
làm…
“Đức” là phạm trù triết học dùng để thể hiện sức mạnh tiềm ẩn của Đạo, là cái hình thức mà
nhờ đó vạn vật được định hình và phân biệt với nhau, là cái lý sâu sắc để nhận biết vạn vật.
Theo Lão Tử, đạo sinh ra vạn vật, đức nuôi nấng, bảo tồn vạn vật. Vạn vật nhờ Đạo được sinh
ra, nhờ Đức để thể hiện và khi mất đi là lúc vạn vật quay trở về với đạo. Đạo sinh ra Một (khí
6
thống nhất), Một sinh ra Hai (âm, dương đối lập), Hai sinh ra Ba ( trời, đất, người ), Ba sinh ra
vạn vật.
Nói tóm lại, Đạo không chỉ là nguốn gốc, bản chất mà còn là quy luật của mọi cái đã, đang và

sẽ tồn tại trong thế giới. Điều này cho phép hiểu Đạo như nguyên lý thống nhất - vận hành của
vạn vật – nguyên lý Đạo pháp tự nhiên (Nhân pháp địa, địa pháp thiên, thiên pháp đạo, đạo
pháp tự nhiên). Đạo vừa mang tính khách quan (vô vi) vừa mang tính phổ biến. Vì vậy trong
thế giới, không đâu không có đạo, không ai không có đạo. Đạo gia đã đề cập đến Đạo một cách
phi thường, siêu việt, không đứng trên lập trường duy vật hay duy tâm thuần túy, mà ta chỉ
nhận biết được điều đó khi xem xét trong quá trình đề cập đến sự vận hành, tác động của nó.
 Quan điểm về thế giới và nhân sinh:
Đạo gia coi bản tính nhân loại đều có một tính gốc, tính gốc là khuynh hướng “vô vi”.
“Vô vi” là sống và hành động theo lẽ tự nhiên, thuần phác, không giả tạo, không gò ép trái với
bản tính của mình và ngược với bản tính của tự thiên. Do đó, “vô vi” là khuynh hướng trở về
nguồn gốc để sống với tự nhiên, tức hợp thể với Đạo.
Đạo là bản nguyên của vũ trụ, sáng tạo ra vạn vật, là phép tắc và quy luật biến hóa tự thân của
vạn vật. Đức được dùng để thể hiện sức mạnh tiềm ẩn của Đạo, là cái hình thức nhờ đó vạn vật
được định hình và phân biệt với nhau, là cái lý sâu sắc để nhận biết vạn vật.
Đạo gia coi con người là chủ thể của đối tượng nghiên cứu. Nội dung là tập trung chủ yếu vào
nghiên cứu xã hội và con người, coi trọng hành vi cá nhân, hướng tới sự thống nhất, hài hòa
giữa con người và xã hội. Đây không chỉ là đặc điểm riêng của Đạo giáo mà còn là đặc điểm
chung của tất cả các trường phái triết học, đặc biệt là triết học phương Đông. Triết học của Đạo
giáo là triết học “hướng nội”- hướng vào nội tâm - luôn cố gắng tìm tòi về bản thân con người
và mối quan hệ giữa con người và xã hội xung quanh, ít quan tâm đến khoa học tự nhiên. Đây
cũng chính là nguyên nhân dẫn đến sự kém phát triển về nhận thức luận, là nguyên nhân sâu xa
của sự kém phát triển về kinh tế, khoa học của phương Đông so với văn minh Phương Tây- nơi
có nền triết học “hướng ngoại”.
7
Một đặc điểm nữa của Đạo gia là hòa hợp và trọng truyền thống. Ý tưởng về sự hòa hợp tự
nhiên cùng tính tương liên của mọi sự vật và sự minh triết của con người đến từ sự thừa nhận
trạng thái đó, đồng thời sống hòa hợp dưới ánh sáng khôn ngoan của nó.
Nhìn từ viễn cảnh hiện đại, ta thấy Đạo gia đều có vẻ là tôn giáo, tuy nhiên chỉ được đề cập tới
một cách đơn giản là “giáo” với ý nghĩa giáo hóa, dạy bảo cách sống sao phải đạo làm người,
phù hợp với truyền thống đạo đức làm người. Tuy có triển khai các thành tố tôn giáo và siêu

hình nhưng rõ ràng chúng bắt nguồn và hấp thu từ các hệ thống triết học trước, được các tôn sư
và các cá nhân đi theo làm thành các học phái.
Về tư tưởng thực chứng luận, ít quan tâm đến vấn đề lý giải thế giới, nguồn gốc của vũ trụ. Tuy
nhiên để tìm chỗ dựa vững chắc cho lý luận đạo đức của mình, trong Đạo gia với quan niệm
của Lão Tử về Đạo: Đạo vừa mang tính khách quan (vô vi), vừa mang tính phổ biến. Một đặc
điểm nữa là đều theo chủ nghĩa duy tâm đề cao tư duy trừu tượng, coi khinh nghiên cứu sự vật
cụ thể. Lão tử cho rằng “Không cần ra cửa mà biết thiên hạ, không cần nhòm qua khe cửa mà
biết đạo trời”.
 Quan điểm “Vô vi” về chính trị - xã hội:
“Vô vi”, theo Đạo gia, không có nghĩa là không làm gì, không có hoạt động gì, mà là phải tiến
hành các hoạt động một cách tự nhiên, thuần phác; không làm trái với Đạo, không cố gắng hoạt
động mang tính giả tạo, gượng ép, thái quá, bất cập… Bởi vì “Đạo đức là cái luật tự nhiên,
không cần tranh mà thắng, không cần nói mà ứng nghiệm, không cần mời mà các vật vẫn theo
về, lờ mờ mà hay mưu tính”. Dương Chu giải thích thêm: “Các sinh vật khác không phải là của
ta, nhưng đã có chúng rồi thì không được diệt trừ chúng đi”.
Như vậy, “vô vi” nghĩa là không làm mất cái đức tự nhiên, thuần phác vốn có của sự vật. Nếu
để mất nó, tức là ham muốn, dục vọng… thì sẽ chuốc lấy tai họa. Cũng như: “Ngũ sắc làm cho
mắt mờ, ngũ âm làm cho tai điếc, ngũ vị làm cho miệng chán, cưỡi ngựa săn bắn làm cho lòng
phát cuồng, vật khó khiến cho lòng tà vậy” (Đạo đức kinh, chương 12). Những ai không biết
thuận theo bản tính tự nhiên thuần phác, theo Dương Chu, đó là những kẻ “ham sống lâu, ham
8
danh vọng, ham địa vị, tiền tài. Vì ham bốn cái đó nên sợ quỷ, sợ người, sợ kẻ có quyền uy, họ
sống hay chết thì số mệnh của họ cũng tùy thuộc vào ngoại vật” (Liệt Tử, chương VII).
Về mặt chính trị - xã hội, Đạo gia chủ trương đường lối trị quốc theo đạo “vô vi”, chống lại chủ
trương “hữu vi” cùng mọi chuẩn mực đạo đức và thể chế pháp luật, vì coi đó là sự áp đặt,
cưỡng chế, can thiệp vào bản tính tự nhiên của con người. Nó là nguyên nhân gây ra điều ác và
bất ổn: “Nước nào chính sự lờ mờ thì dân thuần thục, nước nào chính sự rành rọt thì dân lao
đao”; “Thiên hạ nhiều kỵ húy thì dân càng nghèo, dân nhiều khí giới nhà nước càng loạn,
người nhiều tài khéo vật xảo càng thêm, pháp luật càng tăng trộm cướp càng nhiều”.
Lão Tử lên án mạnh mẽ giai cấp thống trị đương thời và ông gọi giới quý tộc thống trị là bọn

ăn bám và đàn áp, gây ra mọi ham muốn và dục vọng nơi dân chúng. Bọn họ chẳng “vô vi”.
Ngược lại: “Ta vô vi mà dân tự hóa. Ta vô tình mà dân tự chính. Ta vô dự mà dân tự giàu. Ta
vô dục mà dân chất phác”. Do đó, cần phải xóa bỏ mọi lễ giáo, pháp luật, văn hóa, kỹ thuật,
nghệ thuật… Nói chung, bỏ tất cả những gì do con người sáng tạo ra trái với bản tính tự nhiên
thuần phác.
Tư tưởng “vô vi” chủ trương thực hiện triệt để chính sách ngu dân, “không làm cho dân sáng
mà làm cho dân ngu”; “Trí tuệ sinh thì có đại ngụy”. Bởi hiểu biết càng nhiều thì trí xảo càng
nhiều, trí xảo càng nhiều thì ham muốn càng nhiều, càng muốn tranh đoạt và xâm phạm lẫn
nhau, làm trái với đạo tự nhiên. Con người càng “theo học thì càng phiền phức, mà theo đạo thì
ngày càng bớt, bớt rồi thì lại bớt, bớt đến mức vô vi. Cũng như: “Không chuộng hiền khiến dân
không tranh, không trọng vật nên dân không trộm cướp, không thấy vật đáng ham khiến lòng
dân khỏi loạn. Cho nên lối trị dân của bậc thánh nhân là làm cho dân lòng trống, bụng no, ý chí
yếu, xương cốt mạnh, thường khiến dân không biết, không muốn”.
Bản thân Dương Chu, mặc dù có lúc trọng trí khôn, nhưng ông vẫn bảo: “Trời kia còn không
biết, huống chi là con người”. Hễ “cái gì không biết tại sao, thì gọi đó là mệnh trời”, “thuận
mệnh” tự nhiên.
9
Mẫu hình xã hội lý tưởng của Lão Tử là “nước nhỏ, dân ít. Dù khí cụ gấp trăm gấp chục sức
người cũng không dùng đến. Ai nấy đều coi sự chết là hệ trọng nên không đi đâu xa. Có xe
thuyền mà không ai ngồi. Có gươm giáo mà không bao giờ dùng. Bỏ văn tự, bắt người ta trở lại
dùng lối thắt dây ghi dấu thời thượng cổ. Ai nấy đều chăm chú vào việc ăn no, mặc ấm, ở yên,
vui với phong tục của mình. Ở nước này có thể nghe thấy gà gáy chó sủa của nước kia, nhân
dân trong những nước ấy đến già chết mà vẫn không qua lại lẫn nhau” (Đạo đức kinh, chương
80). Xã hội được cai trị bằng cách không cai trị, không cai trị mà coi như đã được cai trị… Con
người sống tự nhiên thuần phác, bỏ mọi ham muốn dục vọng, không cần đến cả tri thức, văn
hóa hay bất cứ sự tiến bộ xã hội nào…
Tư tưởng “vô vi” quan niệm về mẫu người lý tưởng như sau: “Bậc toàn thiện xưa tinh tế,
nhiệm màu, siêu huyền thông suốt, sâu chẳng khả dò… thận trọng dường qua sông lạnh, do dự
dường sợ mắt ngó bốn bên, nghiêm kính dường khách lạ, chảy ra đường băng tan, quê mùa
dường gỗ chưa đẽo gọt, trống không dường hang núi, phan lẫn dường như nước đục” (sđd,

chương 15). Trang Tử bảo họ “không ham sống, không gét chết, ra không vui, vào không sợ,
thản nhiên mà đến, thản nhiên mà đi” (Nam hoa kinh, Đại tông sư). Ấy là bậc “thánh nhân”,
“chân nhân”.
 Một số tư tưởng biện chứng:
Quan điểm biện chứng của Đạo gia được thể hiện ngay trong tư tưởng về Đạo, nơi cội nguồn
của mối liên hệ phổ biến và sự vận động biến đổi của vũ trụ vạn vật, mà nguồn gốc là do các
mối liên hệ, tác động, chuyển hóa giữa các mặt đối lập; cách thức là khi phát triển đến tột đỉnh
rồi sẽ trở thành cái đối lập, tương phản với chính nó; khuynh hướng của sự vận động biến đổi
là sự trở về với Đạo.
Đặc biệt, thông qua tư tưởng biện chứng đó, Đạo gia đã khái quát thành hai quy luật căn bản
chi phối toàn bộ vũ trụ vạn vật, đó là luật quân bình và luật phản phục.
Luật quân bình (luật bù trừ):
10
Bắt nguồn từ tư tưởng Dịch học (quẻ Thái), nói về thế cân bằng, trung dung trong trời đất; là
trạng thái trời đất giao hòa, muôn vật hanh thông, vũ trụ vạn vật vận động biến đổi theo một
trật tự điều hòa, tự nhiên, không có gì thái quá hay bất cập, “gãy thì liền, cong thì thẳng, trống
thì đầy, cũ thì mới, ít thì được, nhiều thì mất” (Lão Tử, Đạo đức kinh, chương 22); “Đạo của
trời bớt chỗ dư bù chỗ thiếu” (chương 42); “Một âm một dương”; “rắn thì nát, nhọn thì nhụt”
(Trang Tử, Nam Hoa kinh).
Thế quân bình của Đạo được ví như nước, mềm mại và linh hoạt, làm bằng phẳng tất cả. Nước
ở chỗ thấp, là nơi chỗ cao đổ về, là “nơi thiên hạ họp về”, như biển mênh mông rộng lớn,
không gì không thể chứa đựng. “Trong thiên hạ không có gì mềm yếu hơn nước, mà công phá
vật rắn mạnh thì không gì hơn được nó, không lấy gì thay thế được nó” (Lão Tử, Đạo đức kinh,
chương 78).
Nếu vi phạm luật quân bình, phá vỡ trạng thái vận động cân bằng của vũ trụ, thì vạn vật sẽ rối
loạn, trì trệ và có nguy cơ bị phá hoại, chẳng khác nào “nhón gót lên thì không đứng vững,
xoạc chân ra thì không bước được…”.
Luật phản phục:
Quan niệm cái gì phát triển đến tột đỉnh thì tất sẽ trở thành cái đối lập với chính nó; sự vật khi
phát triển đến cực điểm các tính chất của nó thì những tính chất ấy sẽ đi ngược lại để trở thành

tính chất tương phản. Điều đó cần phải hiểu theo hai nghĩa.
Nghĩa thứ nhất, phản phục là sự vận động, biến hóa có tính chất tuần hoàn, đều đặn, nhịp nhàng
và tự nhiên của vạn vật, như hết ngày đến đêm, hết đêm sang ngày, trăng tròn lại khuyết, trăng
khuyết lại tròn… Vạn vật cứ mập mờ, thấp thoáng, khi đầy khi vơi, lúc sinh lúc tử… Đó là
vòng biến đổi tuần hoàn bất tận.
Nghĩa thứ hai, phản phục là sự vận động trở về với Đạo (“phản giả đạo chi động”), “đến chỗ
cùng cực hư không là giữ vững được trong cái tĩnh. Vạn vật cùng đều sinh ra, ta lại thấy nó trở
về với gốc. Ôi! Mọi vật đều trùng trùng trở về với cội rễ của nó. Trở về với cội rễ gọi là tĩnh,
thế gọi là quay về với mạng” (Đạo đức kinh, chương 16). Sự trở về với Đạo của vạn vật chính
11
là sự trở về với trạng thái tự nhiên, nguyên sơ, tĩnh lặng, trống rỗng… Đó là tất yếu và không
thể cưỡng lại. “Đạo pháp tự nhiên” là vậy. Mọi sự can thiệp vào Đạo – luật tự nhiên – nhất định
sẽ thất bại.
 Quan điểm trong phương châm xử thế:
Theo trường phái triết học này, con người sống và hành động dựa trên các nguyên tắc cơ bản,
hợp với lòng người, theo một quan niệm nhân sinh vững chắc. Đều hướng con người đến cái
thiện, khuyên con người sống tốt để có gia đình ấm êm, hạnh phúc và góp phần cho xây dựng
một xã hội ổn định. Giáo huấn con người theo thuyết vô vi: sống và hành động theo lẽ tự nhiên,
không giả tạo, không gò ép trái với bản tính của mình và ngược với bản tính của tự nhiên, là từ
bỏ tính tham lam, vị kỷ để không làm mất đức. Từ thuyết vô vi, Lão Tử đã rút ra nghệ thuật
sống dành cho con người là từ ái, cần kiệm, khiêm nhường, khoan dung.
Mặt khác, đề cao và coi trọng người quân tử. Người quân tử là những người có phẩm chất tốt
đẹp, cao quý và đáng được tôn trọng và noi theo.
Chương II: Những giá trị và hạn chế của tư tưởng triết học Đạo gia
1. Giá trị tư tưởng
Những tư tưởng triết học cơ bản của Đạo gia tuy đã được xây dựng cách đây hơn hai ngàn
năm, và tất nhiên có không ít hạn chế, nhưng đến nay vẫn còn ý nghĩa thiết thực về mặt phương
pháp luận, gợi mở cho chúng ta nhiều điều cả trong hoạt động nhận thức lẫn trong hoạt động
thực tiễn.
 Trong hoạt động nhận thức:

Những quan điểm triết học cơ bản của Đạo gia nêu trên đã cung cấp cho chúng ta một số hạt
nhân hợp lý về sự tồn tại, vận động và biến đổi không ngừng của thế giới khách quan, độc lập
với ý thức con người. Thế giới ấy thống nhất trong đa dạng và phong phú, thể hiện ra muôn
hình vạn trạng, với các mặt đối lập và vô vàn các mối liên hệ. Thế giới ấy không do ai sáng tạo
12
ra hoặc chi phối nó dưới bất kỳ hình thức nào, mà tự sinh thành và hoạt động theo những quy
luật tự nhiên vốn có.
Do đó, trong hoạt động nhận thức, con người cần tránh lối tư duy gán ghép, máy móc, siêu
hình, áp đặt chủ quan đối với mọi sự vật hiện tượng tự nhiên… Mà phải nhận thức cái khách
quan, cái bản tính tự nhiên thuần phác, vốn có của nó.
Đồng thời, thông qua luật quân bình (bù trừ) và luật phản phục, Đạo gia đã cung cấp nhân sinh
quan và nghệ thuật sống mang tính nhân văn sâu sắc, có tác dụng an ủi con người hài lòng và
hạnh phúc với những gì mình có trong cuộc sống, không nên ham muốn, mơ tưởng hão huyền.
Mặc dù quan điểm “vô vi” về chính trị - xã hội của Đạo gia mong muốn quay ngược bánh xe
lịch sử trở về chế độ công xã nguyên thủy ở giai đoạn cuối, nhưng đã hé lộ cho chúng ta những
khát vọng chân chính về một xã hội công bằng, bình đẳng, xóa bỏ mọi bất công, áp bức, bóc
lột, không còn chế độ tư hữu và nhà nước, con người được sống tự do… Nó khiến chúng ta liên
tưởng tới và rất có thể là nguồn gốc lịch sử gián tiếp cho những tư tưởng xã hội chủ nghĩa
không tưởng ở Tây Âu sau này.
Với ý nghĩa đó, nếu chúng ta biết rút ra bài học từ những hạt nhân tư tưởng tích cực và tiến bộ,
thì nó sẽ cung cấp cho chúng ta những cơ sở quan trọng để xây dựng và phát triển quan điểm
duy vật biện chứng và duy vật lịch sử; chống lại chủ nghĩa duy tâm, quan điểm siêu hình…
Ngược lại, nếu nhìn về những mặt hạn chế, nó sẽ dẫn chúng ta đến với chủ nghĩa duy tâm thần
bí về “đạo”, tư tưởng biện chứng tuần hoàn thô thiển, chủ nghĩa khách quan tuyệt đối, thuyết
bất khả tri…
 Trong hoạt động thực tiễn:
Những quan điểm triết học cơ bản của Đạo gia đã góp phần chỉ ra cho chúng ta, trong hoạt
động thực tiễn, con người cần phải tôn trọng quy luật khách quan, nắm vững và vận dụng phù
hợp các quy luật tự nhiên vào cuộc sống, nếu không sẽ phải trả giá và chuốc lấy hậu quả khôn
lường, như Lão Tử cảnh báo: “Lưới trời lồng lộng, thưa mà khó lọt” (Đạo đức kinh, chương

73).
13
Đặc biệt, Đạo gia yêu cầu trong hoạt động thực tiễn, con người cần phải “thuận theo tự nhiên”,
không được làm trái quy luật tự nhiên, không được cải tạo tự nhiên theo những toan tính lợi ích
tầm thường của mình. Điều này có tính thời sự đặc biệt và sâu sắc trong bối cảnh biến đổi khí
hậu toàn cầu hiện nay, với thiên tai và dịch bệnh luôn đe dọa nghiêm trọng, cộng thêm những
bất ổn về chính trị - xã hội, một hệ lụy trực tiếp từ quá trình con người “nhân tạo hóa thiên
nhiên”, tạo dựng một nền “văn minh” không tương thích với bản tính tự nhiên của vũ trụ vạn
vật.
Đồng thời, trong hoạt động thực tiễn, con người cần phải biết quý trọng mọi sự sống nói chung,
gắn với quý trọng môi trường tự nhiên, không được tàn sát sinh vật và hủy hoại môi trường một
cách tùy tiện.
Bên cạnh đó, với việc chỉ ra luật quân bình (bù trừ) và luật phản phục, Đạo gia đòi hỏi con
người cần tránh mọi cực đoan, thái quá, nóng vội, chủ quan duy ý chí… Mà phải luôn luôn tạo
dựng sự cân bằng, hợp lý, tự nhiên; khách quan nhưng không ỷ lại, thụ động trước các điều
kiện khách quan, không nên “cầm đèn chạy trước ô tô”…
Đạo gia còn dạy con người phải biết sống khiêm tốn, giản dị, mà vẫn ung dung, tự tại, không lo
sợ, không đau buồn… trước mọi biến động xảy ra trong đời; không tham lam, vụ lợi, giả dối;
không đấu tranh, giành giật; không đua đòi, bon chen, đố kỵ… Mà cần phải sống hòa nhã,
trung dung, ngay thẳng, tự nhiên thuần phác, “thản nhiên mà đến, thản nhiên mà đi”…
Tuy nhiên, nếu xét ngược lại, với những mặt tiêu cực và hạn chế, thì Đạo gia chủ trương con
người không nên tăng cường các hoạt động sáng tạo, không cần mở mang trí tuệ, chấm dứt cải
tạo tự nhiên và cải tạo xã hội, mà quay về sống như thời nguyên thủy, đúng với bản tính tự
nhiên thuần phác của một loài động vật bậc cao được sinh ra từ “đạo”… phủ nhận mọi hoạt
động thực tiễn của con người.
Sự thâm nhập và phát triển của đạo giáo ở việt nam, cũng giống như ở Trung Hoa, Đạo giáo đã
được người dân sử dụng làm vũ khí chống lại kẻ thống trị. Ngay khi thâm nhập nó đã là vũ khí
chống lại phong kiến phương Bắc. Phong trào nông dân khởi nghĩa ở các tỉnh Nam Trung Hoa
14
vào thế kỷ II đều có liên hệ với các cuộc khởi nghĩa nông dân hai quận Giao Chỉ, Cửu Chân.

Vào thời kỳ phong kiến dân tộc ở Việt Nam, Đạo giáo thường được dùng để thu hút nông dân
tham gia vào các cuộc bạo động chống lại cường hào ác bá địa phương và quan lại trung ương.
Không chỉ dạy con người trở về với gốc Đạo, hòa hợp với vũ trụ, nó còn đóng góp rất nhiều
cho nền văn minh Trung Quốc. Rất nhiều sinh hoạt độc đáo của người Trung Quốc đã lan
truyền khắp thế giới như :
+ Khuynh hướng hội họa của dòng tranh “Thủy mặc” hay “tranh sơn thủy” thể hiện sự cân
bắng tuyệt hảo giữa Âm – Dương.
+ Thuật phong thủy chỉ rõ cách chọn hướng, cách thiết kế môi trường xây dựng theo một hệ
thống phối hợp các yếu tố quan trọng của không gian và thời gian nhằm mang lại sự hài hòa tối
đa trong tương tác giữa con người và thiên nhiên.
+ Trong võ thuật cũng được áp dụng triệt để, với nguyên tắc “mềm như nước” nhưng hết sức
hiệu quả, giúp cho con người giải tỏa những tắt nghẽn sinh lực, đưa thân thể trở về trạng thái
cân bắng, vừa hải hòa về thể lý lẫn tinh thần. Và môn võ đặc trưng đó là môn Thái Cực Quyền.
+ Về y học: phương pháp châm cứu và bấm huyệt được xem là cách trị bệnh rất hiệu quả.
2. Hạn chế của tư tưởng
Về bản thể luận: Đạo gia đã trình bày một yếu tố duy nhất sinh thành và chi phối mọi hoạt
động của vũ trụ vạn vật, đó là “đạo”, tồn tại độc lập với ý thức con người, vừa là thực thể vật
chất vừa là thực thể tinh thần. Nhìn chung, Đạo gia đi từ quan điểm duy vật đến quan điểm nhị
nguyên và cuối cùng là duy tâm khách quan về thế giới, với sự siêu nhiên hóa và thần bí hóa về
“thể”, “tướng” và “dụng” của Đạo.
Về tư tưởng biện chứng: Đạo gia đã đề cập đến nguồn gốc, cách thức và khuynh hướng của sự
vận động biến đổi, nhưng còn hết sức đơn giản, tuần tự khép kín, chuyển hóa hình thức, không
có sự thâm nhập và phủ định biện chứng. Rõ hơn, mâu thuẫn trong xã hội được thủ tiêu bằng
15
cách đẩy mạnh một trong hai mặt đối lập để tạo ra sự chuyển hóa theo quy luật phản phục
(quay trở lại cái ban đầu), hay cắt bỏ một trong hai mặt đối lập để làm cho mặt đối lập kia tự
mất đi theo quy luật bình quân (cân bằng nhau). Với quan niệm này, ông cho rằng, trong đời
sống xã hội, nếu dẹp bỏ trí tuệ thì dân sẽ chất phác; nếu không coi trọng người hiền thì dân
không tranh nhau; nếu không coi trọng của cải quý báu thì dân không có trộm cắp.Tư tưởng
biện chứng đó tuy đã vẽ lên bức tranh muôn hình vạn trạng, đa dạng và phong phú về vũ trụ

vạn vật, với các mặt đối lập, các mối liên hệ phổ biến và sự vận hành thống nhất của Đạo,
nhưng về cơ bản nó vẫn còn chất phác, ngây thơ, trực quan cảm tính, tiên nghiệm. Nó chưa có
sơ sở để vạch ra cái bản chất, tất yếu bên trong của sự vật hiện tượng. Vạn vật chỉ vận động
tuần hoàn, lặp đi lặp lại một cách buồn tẻ mà không có sự ra đời của cái mới, nghĩa là không có
sự phát triển.Tất nhiên, những hạn chế đó là điều không thể tránh khỏi bởi tính quy định của
lịch sử.
Tư tưởng “vô vi”: Đạo gia chủ trương xây dựng một xã hội phi thể chế, phi nhà nước, phi giáo
dục, phi khoa học – kỹ thuật, chẳng cần văn hóa với văn minh; một cộng đồng ít dân ngu đần
ấu trĩ, sống bằng săn bắn hái lượm gắn với trồng trọt và chăn nuôi tự cấp tự túc, khép kín hoàn
toàn, không trao đổi qua lại với bên ngoài. Đây là tư tưởng lạc hậu và thụt lùi về quan điểm
chính trị - xã hội.
Tư tưởng của Trang tử cho rằng, không cần phân biệt cái này với cái kia, đúng – sai, trên –
dưới, sang – hèn, bần – tiện … đều là như nhau; mà nếu chúng là như nhau thì cần loại bỏ
chúng ra một bên để tiến vào vương quốc tiêu dao, coi sống chết bằng nhau, quên vật quên ta,
trời đất với ta là một. Trang tử chủ trương phải toàn sinh và vị ngã, nghĩa là phải yên theo thời
gian mà ở thuận, vì cái tự nhiên nào cũng hợp lý cả; không khen chê phải – trái, tốt – xấu làm
gì, phải lánh nạn để bảo toàn sinh mạng…, bởi vì, một người quân tử chết vì nghĩa và một kẻ
tiểu nhân chết vì của cải, thì hai cái chết đó như nhau. Những tư tưởng này khiến con người
không có động lực phấn đấu, dửng dưng trước thời thế.
B. Kết luận
16
So với các trường phái triết học đương thời thì, về mặt “triết học tự nhiên”, Đạo gia đã đạt
được nhiều thành tựu lớn, vượt lên hàng đầu ; ngược lại, về mặt “triết học xã hội”, Đạo gia
không đạt được thành tựu đáng kể bằng.
Mặt dù tư tưởng triết học cơ bản của Đạo gia về nhận thức luận và nhân sinh quan muốn ngăn
cản tính năng động, sáng tạo của ý thức con người cả trong quá trình hoạt động nhận thức lẫn
trong hoạt động thực tiễn. Song với tinh thần cầu thị và tôn trọng lịch sử, chúng ta vẫn có thể
rút ra rất nhiều bài học có giá trị cả trong nhận thức lẫn trong thực tiễn trước bối cảnh toàn cầu
hóa và cách mạng khoa học công nghệ đương đại. Trong đó có các quan điểm về phát triển bền
vững, phát triển hài hòa, bảo vệ môi trường, cân bằng đời sống vật chất và tinh thần, cân bằng

giữa tự nhiên và xã hội, mối quan hệ giữa cái toàn thể và cái cục bộ, cũng như quan điểm trong
việc giải quyết các vấn đề (mặt) đối lập mà thực tiễn đặt ra…
Thông qua hoạt động nhận thức và thực tiễn của con người, Đạo gia còn cung cấp cho chúng ta
nghệ thuật sống vô cùng phong phú, tinh tế và đáng vận dụng như: Lấy mềm thắng cứng, lấy
tĩnh chế động, lấy mặt đối lập để khống chế mặt đối lập, tôn trọng sự khác biệt… Đặc biệt là
luật bù trừ và luật phản phục. Từ đó, ông cha ta đã đúc kết nên những thành ngữ và phương
châm ứng xử trong hoạt động thực tiễn, như: Lạt mềm buộc chặt, lấy nhu thắng cương, lấy ít
địch nhiều, lấy độc trị độc, dĩ bất biến ứng vạn biến, không ai giàu ba họ không ai khó ba đời,
lá rụng về cội…
Ngày nay, mặc dù tồn tại xã hội và ý thức xã hội đã thay đổi vượt bậc, song những tư tưởng
triết học của Đạo gia vẫn có sức sống và tác động đáng kể đối với đời sống con người, đặc biệt
ở những nước vốn chịu sự ảnh hưởng truyền thống của nó.
*Tài liệu tham khảo
17
 Sách, Tài liệu in, ấn phẩm:
• Bộ Giáo dục và Đào tạo, Giáo trình Triết học (dùng cho học viên cao học và nghiên
cứu sinh không thuộc chuyên ngành triết học), Nhà xuất bản Lý luận chính trị, Hà
Nội, 2006.
• Tiểu ban Triết học, Triết học (Phần I & II, dùng cho học viên cao học và nghiên cứu
sinh không thuộc chuyên ngành triết học), LHNB Trường ĐH Kinh tế TPHCM,
2011.
• Khoa Triết học trường ĐH Kinh tế TPHCM, Giáo trình Đại cương lịch sử Triết học,
Nhà xuất bản Tổng hợp TPHCM, 2003.
 Các trang web :



18

×