Tải bản đầy đủ (.doc) (45 trang)

Mô hình liên kết ngân hàng thương mại với tập đoàn kinh tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (393.45 KB, 45 trang )

Chương 1 – Mô hình liên kết ngân hàng thương mại với tập đoàn kinh
tế
1.1 Khái quát về tập đoàn kinh tế
1.1.1- Khái niệm
Cùng với sự phát triển của kinh tế xã hội, các tổ chức kinh tế ra đời và phát
triển qua nhiều giai đoạn. Bắt đầu là các xưởng sản xuất nhỏ lẻ, chúng dần lớn
mạnh và ra đời các khái niệm công ty, doanh nghiệp và sự phát triển cao hơn là các
tập đoàn kinh tế. Có thể hiểu Tập đoàn kinh tế: là một thực thể pháp lý (một pháp
nhân) bao gồm nhiều các công ty con là các pháp nhân độc lập.
Theo bách khoa toàn thư Wikipedia tiếng Anh thì tập đoàn kinh tế được
định nghĩa là:
"Tập đoàn kinh tế là một thực thể pháp lí, mà trong khi được sở hữu chung
bởi một số người tự nhiên hoặc những thực thể pháp lí khác có thể tồn tại hoàn toàn
độc lập khỏi chúng. Sự tồn tại độc lập này cho tập đoàn những quyền riêng mà
những thực thể pháp lí khác không có. Qui mô và phạm vi về khả năng và tình trạng
của tập đoàn có thể được chỉ rõ bởi luật pháp nơi sát nhập."
Theo Viện nghiên cứu Quản lí Kinh tế Trung ương CIEM thì:
"Khái niệm tập đoàn kinh tế được hiểu là một tổ hợp lớn các doanh nghiệp có
tư cách pháp nhân hoạt động trong một hay nhiều ngành khác nhau, có quan hệ về
vốn, tài chính, công nghệ, thông tin, đào tạo, nghiên cứu và các liên kết khác xuất
phát từ lợi ích của các bên tham gia. Trong mô hình này, "công ty mẹ" nắm quyền
lãnh đạo, chi phối hoạt động của "công ty con" về tài chính và chiến lược phát
triển."
1
1
Từ định nghĩa trên, có thể rút ra nhận xét:
- Tập đoàn kinh tế bao gồm nhiều công ty con hoạt động xung quanh một
thực thể pháp lý pháp lí trung tâm – công ty mẹ.
- Mối liên kết xuất phát từ những lợi ích chung của các bên.
1.1.2 Sự hình thành tập đoàn kinh tế
Trên đây, chúng ta đã nghiên cứu khái niệm về tập đoàn kinh tế. Quá trình


hình thành các tập đoàn kinh tế là sự phát triển của nền kinh tế, của quá trình tích
tụ và tập trung tư bản chủ nghĩa. Sau đây bài viết xin được trình bày những nguyên
nhân dẫn tới sự hình thành các tập đoàn kinh tế.
- Do tác động của khoa học kĩ thuật, qui mô sản xuất ngày càng được mở
rộng, quá trình tích tụ và tập trung tư bản được đẩy mạnh. Quá trình này làm thay
đổi cơ cấu kinh tế, các xí nghiệp quy mô lớn được hình thành.
- Cạnh tranh khốc liệt buộc các xí nghiệp phải tăng qui mô sản xuất, liên kết
với nhau để tồn tại. Trong quá trình cạnh tranh, các xí nghiệp nhỏ bị phá sản, chỉ
các xí nghiệp có năng lực cạnh tranh mới tồn tại và phát triển. Đặc biệt trong thời
kì khủng hoảng, yêu cầu tăng cường năng lực cạnh tranh càng trở nên bức thiết.
- Trong bối cảnh hiện nay, hệ thống tín dụng đã trở thành đòn bẩy mạnh mẽ
thúc đẩy quá trình tập trung sản xuất. Ngân hàng là một trung gian tài chính đặc
biệt hữu ích đối với các doanh nghiệp. Do đó sự xâm nhập của các doanh nghiệp
vào hoạt động của ngân hàng ngày một gia tăng.
Từ ba lí do trên, ta thấy rằng việc hình thành các tập đoàn kinh tế là hiện
tượng tất yếu và cần thiết cho phát triển kinh tế. Và bối cảnh khủng hoảng kinh tế
là một yếu tố thúc đẩy quá trình hình thành các tập đoàn kinh tế nhanh hơn.
Để hình thành các tập đoàn kinh tế, có hai phương thức liên kết:
2
2
- Liên kết ngang: là sự liên kết giữa các doanh nghiệp theo cùng một ngành.
Ví dụ: tập đoàn Than – Khoáng sản Việt Nam, tập đoàn Bảo Việt…
- Liên kết dọc: là sự liên kết giữa các doanh nghiệp ở các ngành khác nhau.
Ví dụ: tập đoàn Dầu khí ...
Để hình thành nên các tập đoàn kinh tế, các doanh nghiệp có thể sử dụng các
biện pháp: thành lập mới một công ty nằm trong quyền kiểm soát của mình, sáp
nhập – mua lại – hợp nhất với một doanh nghiệp khác. Trong các biện pháp trên,
biện pháp thành lập mới ít được sử dụng hơn do chi phí thành lập cao, đòi hỏi
doanh nghiệp phải có sử chuẩn bị đầy đủ về nguồn nhân lực, tìm hiểu thông tin thị
trường. Và khi thâm nhập vào một lĩnh vực kinh doanh mới hoàn toàn thì việc

thành lập sẽ là vô cùng khó khăn. Việc sáp nhập, mua lại hay hợp nhất các doanh
nghiệp sẽ giúp cho doanh nghiệp mới tận dụng được nguồn nhân lực, vốn cũng
như thị phần của doanh nghiệp cũ.
Quá trình liên kết giữa các doanh nghiệp để tạo ra một tổ hợp kinh tế có sức
mạnh chi phối nền kinh tế diễn ra ở hầu hết các nền kinh tế. Ta có thể tham khảo
mô hình liên kết này ở một số quốc gia:
- Nhật Bản với mô hình Keiretsu: xuất hiện trong thời kì phát triển “thần kì
Nhật Bản”.
Mỗi Keiretsu lớn thường lấy một ngân hàng làm trung tâm, ngân hàng này
cung cấp tín dụng cho các công ty thành viên của Keiretsu và nắm giữ vị thế về
vốn trong các công ty. Mỗi một Ngân hàng trung tâm có vai trò kiểm soát rất lớn
đối với các công ty trong Keiretsu và hành động với tư cách là một tổ chức giám
sát và hỗ trợ tài chính trong các trường hợp khẩn cấp.
Có hai loại Keiretsu: Keiretsu liên kết dọc và Keiretsu liên kết ngang. Trong
khi Keiretsu liên kết dọc là điển hình của tổ chức và mối quan hệ như trong một
3
3
công ty (từ khâu sản xuất, cung ứng nguyên vật liệu đến tiêu thụ sản phẩm trong
một ngành nghề nhất định), thì Keiretsu liên kết ngang thể hiện mối quan hệ giữa
các thực thể, thông thường xoay quanh một ngân hàng và một công ty thương mại
(thường gồm nhiều doanh nghiệp hoạt động trong các ngành nghề khác nhau).
- Trung Quốc với mô hình Jituan Gongsi: xuất hiện trong quá trình mở cửa
nền kinh tế của Trung Quốc. Sự hình thành của nó bắt nguồn từ chủ
trương tư nhân hóa các xí nghiệp nhà nước có quy mô nhỏ đồng thời tập
trung phát triển các tổng công ty nhà nước có quy mô lớn, sau khi các
tổng công ty này đã có quy mô hoạt động ở mức nhất định, nhà nước sẽ
tiến hành tư nhân hóa các tổng công ty và tiến hành thu hút vốn đầu tư.
- Một số quốc gia châu Âu với sự phát triển qua nhiều mô hình : carten,
xanhdica, tơrơt, conxocxiom, conglomerat. Các hình thức này hình thành
do các thỏa thuận về giá cả, quy mô sản lượng, thị trường tiêu thụ…, là

mối liên kết giữa các xí nghiệp trong cùng một ngành hay từ nhiều ngành
tạo ra những liên minh phức tạp. Có thể hiểu Tập đoàn kinh tế ở các nước
châu Âu là hình thức một công ty sở hữu số cổ phiếu có quyền biểu quyết
đủ để nắm quyền kiểm soát và quản lý hoạt động của một doanh nghiệp
khác thông qua việc gián tiếp tác động hoặc trực tiếp bầu ra hội đồng
quản trị của công ty đó.
1.1.3- Đặc điểm của tập đoàn kinh tế
Tập đoàn kinh tế là hình thức liên kết sản xuất có những đặc trưng cơ bản
sau:
Thứ nhất, là tổ chức có tính chất độc quyền cao. Do sự sản xuất với quy mô
lớn, kĩ thuật cao nên cạnh tranh vô cùng gay gắt, khó đánh bại nhau dẫn đến
khuynh hướng thỏa hiệp với nhau. Mặt khác, các doanh nghiệp sản xuất lớn có lợi
thế về quy mô và ứng dụng khoa học kĩ thuật làm tăng năng suất lao động, giảm
4
4
chi phí sản xuất và quá trình cạnh tranh dẫn đến chỉ một số ít doanh nghiệp còn tồn
tại nên sự thỏa hiệp trở nên dễ dàng hơn. Chính vì vậy các tập đoàn kinh tế có sức
mạnh chi phối thị trường, hay có thể nói là có tính chất độc quyền.
Thứ hai, là có sự xâm nhập giữa ngân hàng và các doanh nghiệp sản xuất
kinh doanh khác. Chính đặc điểm này đã tạo nên mối liên kết giữa ngân hàng và
doanh nghiệp. Các doanh nghiệp đều muốn tận dụng vai trò của ngân hàng trong
việc huy động vốn để đáp ứng nhu cầu sản xuất kinh doanh của mình. Mặt khác,
qui mô sản xuất ngày càng mở rộng dẫn đến chỉ các ngân hàng lớn có đủ tiềm lực
và có uy tín mới có thể tồn tại, do đó các ngân hàng chấp nhận sự tham gia góp
vốn của doanh nghiệp để nâng cao năng lực cạnh tranh, tận dụng lợi thế về vốn và
uy tín của doanh nghiệp.
Theo những phân tích trên đây, sự liên kết giữa các doanh nghiệp và đặc biệt
là sự liên kết giữa các ngân hàng và doanh nghiệp sẽ tạo ra những tập đoàn kinh tế
có vai trò chi phối, gây lũng đoạn nền kinh tế.chính vì sự lớn mạnh này, các tập
đoàn kinh tế thường có phạm vi hoạt động lớn, hoạt động đa ngành nghề.

Do có qui mô sản xuất lớn, dồi dào về vốn và nhân lực, vai trò chi phối thị
trường nên các tập đoàn kinh tế thường có phạm vi hoạt động lớn ở một hay nhiều
quốc gia và có nhiều loại hàng hóa nhưng trong đó bao giờ cũng có một mặt hàng
kinh doanh chủ đạo.
Có cơ cấu tổ chức phức tạp, đa dạng về sở hữu trong đó bao giờ cũng có một
chủ thể có vai trò chi phối. Đặc điểm này là do có nhiều cách thức hình thành một
tập đoàn kinh tế. Các doanh nghiệp có thể nắm giữ một phần và tham gia quản lí
doanh nghiệp khác hoặc không tùy thuộc vào mức độ nắm giữ cổ phần của doanh
nghiệp.
5
5
1.2 Mô hình liên kết ngân hàng thương mại với các tập đoàn kinh tế
Theo quan hệ ràng buộc giữa NHTM và các TĐKT thì mô hình liên kết
giữa NHTM và các TĐKT được chia thành hai mô hình liên kết chính : mô hình
các TĐKT tham gia góp vốn, thành lập các NHTM và mô hình TĐKT xoay xung
quanh NHTM.
1.2.1. Các tập đoàn kinh tế tham gia góp vốn, thành lập các NHTM
1.2.1.1.Đặc điểm của mô hình này :
Các NHTM được thành lập dựa trên sự tham gia góp vốn của các
TĐKT và các công ty khác hoặc các TĐKT đầu tư vào cổ phiếu của các NHTM và
nắm giữ cổ phần chi phối của các NHTM này. Như vậy, các NHTM có thể được
thành lập mới hoàn toàn với số vốn góp từ tập đoàn kinh tế và các công ty khác
trong nền kinh tế hoặc các TĐKT sẽ tiến hành đầu tư một khoản tiền vào cổ phiếu
của NHTM để trở thành một trong số những cổ đông lớn nhất của nó . Tuỳ theo
quy định của mỗi quốc gia, chiến lược kinh doanh của các tập đoàn mà tỷ lệ góp
vốn của các tập đoàn kinh tế vào các NHTM cũng khác nhau. Tuy nhiên , hầu hết
các quốc gia đều hạn chế tỷ lệ này ở một mức độ an toàn nhất định.
Các NHTM hoạt động một cách độc lập với các TĐKT. Mặc dù được
góp vốn, thành lập bởi các TĐKT nhưng NHTM vẫn thực hiện đúng và đầy đủ các
chức năng trung gian tài chính như các NHTM khác.Các TĐKT nắm giữ cổ phần

chi phối của các NHTM nhưng các NHTM này không được coi là công ty con của
tập đoàn mà đây chỉ là một lĩnh vực kinh doanh của TĐKT nhằm đa dạng hóa các
hoạt động kinh doanh của mình . Các NHTM vẫn là những thực thể kinh doanh
độc lập, có giấy phép thành lập , có điều lệ …. Sự độc lập đối với các TĐKT còn
thể hiện ở chỗ, các TĐKT tham gia góp vốn, thành lập vào NHTM với tư cách là
các cổ đông, thực hiện vai trò và được hưởng các quyền lợi của các cổ đông như
quyền biểu quyết, quyền phân chia cổ tức…
6
6
1.2.1.2. Ưu điểm của mô hình TĐKT tham gia góp vốn, thành lập các
NHTM
a. Về phía NHTM :
Thứ nhất, các NHTM được thành lập bởi các tập đoàn hay có cổ đông
chiến lược là các tập đoàn sẽ có thể tận dụng được uy tín của các tập đoàn đó. Uy
tín này xuất phát từ các mối quan hệ giữa tập đòan kinh tế và các chủ thể khác
trong xã hội. Khi các chủ thể khác trong nền kinh tế tin tưởng vào uy tín, kinh
nghiệm quản lý cũng như các kết quả kinh doanh của TĐKT thì họ cũng tin tưởng
vào các dự án, lĩnh vực đầu tư của tập đoàn đó. Và ngân hàng đóng vai trò như một
lĩnh vực kinh doanh của tập đoàn sẽ có thể thu hút được nguồn vốn đầu tư hay tiền
gửi của các cá nhân, chủ thế khác trong nền kinh tế. Ví dụ như bạn hàng lâu năm
luôn cung cấp nguồn đầu vào cho các công ty con của tập đoàn, có mối quan hệ
thân thiết đối với tập đoàn thì cũng sẽ trở thành khách hàng lớn của ngân hàng nếu
ngân hàng biết cách phát huy lợi thế này.
Thứ hai, các NHTM tiếp cận được lượng vốn lớn từ các khách hàng
trung thành là các công ty con thuộc tập đoàn. Đối với ngân hàng, tiền gửi của các
chủ thể trong nền kinh tế có vị trí rất quan trọng và là nguồn vốn chiếm tỷ trọng
lớn nhất trong tổng nguồn vốn của các NHTM. Nếu các công ty con thuộc tập đoàn
có nhu cầu gửi tiền để có thêm một khỏan thu nhập từ số tiền tạm thời nhàn rồi của
mình hoặc có nhu cầu sử dụng các dịch vụ thanh toán qua ngân hàng thì đây sẽ là
….

b. Đối với TĐKT
Thứ nhất, việc tham gia góp vốn, thành lập NHTM sẽ giúp cho các
TĐKT đa dạng hóa hoạt động kinh doanh. Việc nắm giữ cổ phần chi phối của các
NHTM đồng nghĩa với việc các TĐKT là các cổ đông chiến lược của ngân hàng và
sẽ được hưởng các quyền lợi như các cổ đông khác, như quyền phân chia cổ tức, từ
7
7
đó sẽ tăng thêm khỏan thu nhập lớn cho tập đòan từ việc góp cổ phần vào các
NHTM
Thứ hai, mối liên kết này còn giúp TĐKT giảm được chi phí thông tin.
Thông tin là một trong những sản phẩm đặc thù của ngành ngân hàng. Thông tin từ
một sản phẩmn cùng voiứ khách hàng gắn với nó, sẽ được sử dụng trong quá trình
bán một sản phẩm khác. Chẳng hạn như, thông tin từ khách hàng vay mua nhà thế
chấp có thể được sử dụng để bán sản phẩm bảo hiểm cho căn nhà đã được thế chấp
đó. Tập đòan với tư cáchlà một trong những cổ đông lớn nhất của ngân hàng có
quyền nắm được thôngtin về các khách hàng của ngân hàng, hiểu được nhu cầu
của họ và từ đó cung cấp các dịch vụ, sản phẩm họ cần, nâng cao doanh thu từ hoạt
động sản xuất kinh doanh của các công ty con.
Thứ ba, sự liên kết này còn giúp cho TĐKT có được sự ưu tiên về các khỏan
vay tài trợ cho các dự án của các công ty con thuộc tập đòan. Ngân hàng phải đảm
bảo chức năng là một trung gian tài chính và là một thực thể hoạt động một cách
độc lập. Ngân hàng chỉ cho vay đối với các dự án sau khi đã thẩm định về tính khả
thi và các điều kiện khác của các dự án, tuy nhiên, nếu so sánh giữa dự án của tập
đoàn tham gia góp vốn, thành lập ngân hàng và dự án của một côngty khác có cùng
tính khả thi và các điều kiện khác được thỏa mãn, tuy nhiên, ngân hàng chỉ có thể
cho vay một trong hai dự án do quy đinh jvề hạn mức thì dự án của tập đoàn sẽ
được ưu tiên nhờ có mối quan hệ rành buộc với nhau này.
c.Đối với nền kinh tế và các chủ thể khác
Thứ nhất, mối liên kết này sẽ giúp giảm được thông tin không cân
xứng và rủi ro đạo đức. Thông tin không cân xứng là sự không cân bằng về thông

tin mà mỗi bên đi vay (cho vay) có được về bên kia khi thực hiện các quyết định
của mình. Trong nền kinh tế luôn tồn tại những người thừa vốn là các cá nhân, hộ
gia đình, tổ chức… tạm thời có số vốn nhàn rỗi chưa sử dụng đến và có những
8
8
người tạm thời thiếu vốn như cụ thể ở đây là các công ty trong tập đoàn. Tuy
nhiên, không phải lúc nào những người thừa vốn tạm thời cũng biết đầy đủ thông
tin về đối tượng mình cho vay nên có thể dẫn đến việc khoản tiền của mình đến tay
của người không thực sự cần tới nó hoặc người đi vay sẽ không có khả năng trả lại
số tiền đó cho mình. Do đó, với chức năng truyền dẫn vốn từ những người thừa
vốn tạm thời tới những người thiếu vốn tạm thời ( là các công ty thuộc tập đoàn),
ngân hàng tập đoàn sẽ giảm được lựa chọn đối nghịch và rủi ro đạo đức do thông
tin không cân xứng mang lại, từ đó đảm bảo hoàn trả lại số tiền cho những người
thừa vốn kèm theo một khoản lãi đồng thời đảm bảo cung cấp đủ số vốn cần thiết
cho các công ty con thực hiện các dự án kinh doanh của mình, tạo ra sự hiệu quả
trong sử dụng vốn.
Thứ hai, dỡ bỏ các rào cản nhập cuộc, tức là làm thông thoáng hơn môi
trường cạnh tranh. Ưu điểm này của việc các TĐKT tham gia góp vốn, thành lập
ngân hàng được thể hiện trên hai phương diện. Thứ nhất, nó sẽ làm suy yếu quyền
lực của hệ thống ngân hàng hiện tại. Thứ hai, nó sẽ giúp phát triển các sản phẩm
dịch vụ đa dạng và phong phú hơn, phục vụ khách hàng tốt hơn về các tiện ích và
chính sách giá cả. Khách hàng sẽ có nhiều sự lựa chọn hơn, trong khi đó, các ngân
hàng phải chịu áp lực gia tăng hiệu quả họat động
Thứ ba, tận dụng triệt để và sử dụng hiẹu quả các nguồn lực trong nền kinh
tế. Từ việc giảm được chi phí giao dịch và các rủi ro liên quan đến việc thông tin
không cân xứng, rủi ro đạo đức thì nguồn vốn được các ngân hàng thương mại huy
động được sẽ tới được tay những người thực sự cần vốn. Vói năng lực phân tích tài
chính và khả năng, kinh nghiệm đánh giá tính hiệu quả của các dự án, số vốn đó sẽ
được đầu tư vào những dự án có hiệu quả, tránh lãng phí nguồn lực của nền kinh
tế, tạo điều kiện thuận lợi cho tăng trưởng chung của cả nền kinh tế

1.2.1.3.Nhược điểm của mô hình:
9
9
Việc đầu tư vào lĩnh vực ngân hàng là lĩnh vực không chuyên của tập
đoàn sẽ tiềm ẩn rất nhiều rủi ro và gây lãng phí nguồn lực. Hoạt động chính của
các TĐKT là hoạt động sản xuất kinh doanh, hầu hết nhân viên trong tập đòan đều
thành thạo lĩnh vực mà mình được đào tạo và phụ trách, tuy nhiên, không phải
những chuyên gia, giám đốc tài chính, giám đốc kinh doanh….của TĐKT đều có
sự am hiểu sâu sắc và đầy đủ về lĩnh vực tài chính, ngân hàng – một lĩnh vực được
đánh giá là nhạy cảm nhất của nền kinh tế.Mặc dù các TĐKT có thể thuê các
chuyên gia trong lĩnh vực ngân hàng tài chính để tư vấn cho mình, tuy nhiên,
quyền quyết định cuối cùng vẫn thuộc về TĐKT và vì là lĩnh vực rất nhạy cảm nên
ý kiến của các chuyên gia cũng không phải bao giờ cũng chính xác. Chính từ sự
không am hiểu về lĩnh vực này khiến cho việc nắm giữ cổ phần chi phối và trở
thành một trong số cổ đông lớn nhất của ngân hàng, tham gia vào việc quyết định
các chính sách ảnh hưởng đến sự hoạt động của ngân hàng sẽ gây bất lợi cho cả
NHTM và TĐKT. Trong khi lĩnh vực sản xuất kinh doanh chính của mình cần rất
nhiều vốn để thực hiện thì các TĐKT lại đầu tư góp vốn vào các NHTM mà mình
không có đủ trình độ để có thể hiểu sâu sắc sẽ gây lãng phí nguồn lực rất lớn, giảm
doanh thu và lợi nhuận từ hoạt động sản xuất chính. Các quyết định sai lầm từ
những người không có trình độ và kinh nghiệm trong lĩnh vực ngân hàng còn gây
hậu quả nghiêm trọng cho các NHTM, có thể dẫn tới sự sụp đổ.
Mối liên hệ ràng buộc sâu sắc giữa NHTM và TĐKT còn tăng nguy cơ
xuất hiện những tập đoàn tư bản tài chính lớn làm lũng đoạn thị trường. Các tập
đòan kinh tế giữ một vai trò vô cùng quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế
của các quốc gia, có thể nói, các tập đoàn này là những đầu tàu cho sự phát triển và
khẳng định vị thế của quốc gia đó về mặt kinh tế mà xa hơn là cả về mặt chính trị,
văn hóa. Vì vậy, các quốc gia luôn chú trọng và tạo điều kiện cho các tập đoàn này
phát triển. Ngân hàng cũng giữ vai trò quan trọng trong nền kinh tế. Nếu ví các tập
đoàn kinh tế, các doanh nghiệp, các chủ thể trong nền kinh tế là các cơ quan bộ

phận thì hệ thống ngân hàng tài chính như là hệ tuần hoàn, luân chuyển máu tới
10
10
các bộ phận nằm duy trì sự sống cho chúng. Nếu NHTM và TĐKT liên kết với
nhau thì sẽ tạo ra một sức mạnh rất lớn, chi phối tòan bộ nền kinh tế, chức năng
điều tiết nền kinh tế của Nhà Nước cũng bị ảnh hưởng. Vì vậy, hiện nay, để tránh
hiện tượng NHTM và TĐKT liên kết với nhau gây lũng đoạn thị trường thì chính
phủ các nước để quy định một tỷ lệ tham gia góp vốn của các TĐKT đối với các
NHTM.
1.2.2.Mô hình các TĐKT quay quanh NHTM
1.2.2.1. Đặc điểm của mô hình:
Các tập đoàn thường xoay xung quanh 1 ngân hàng được gọi là “main bank”
(ngân hàng chính, ngân hàng trung tâm) . Ngân hàng này là 1 tổ chức tài
chính cung cấp vốn cho các công ty thuộc tập đoàn. Ngân hàng cầm đầu không chỉ
giữ vài trò đơn giản như là nhà cung cấp các khoản vay cho tập đoàn mà còn là
trung tâm xử lý thông tin cho các công ty thuộc tập đoàn và các đối tác. Ngân hàng
giám sát thành quả của tập đoàn, nắm giữ vốn trong nhiều công ty chủ chốt và
cung cấp nhân viên quản lý khi các công ty đó cần. Trong trường hợp xấu nhất,
nếu 1 trong các công ty của tập đoàn gặp vấn đề trầm trọng, ngân hàng sẽ can
thiệp, cùng với cả nhân viên tài chính và người quản lý mới (được chọn ra từ
những người điều hành của ngân hàng) để giải quyết khó khăn.
Các tập đoàn kinh tế và ngân hàng nắm giữ cổ phần chéo của nhau.
Không chỉ các tập đoàn nắm giữ cổ phần của các ngân hàng mà ở mô hình này,
ngân hàng cũng nắm giữ cổ phần chi phối và trở thành cổ đông chiến lược của các
công ty con thuộc tập đoàn.
Như vậy, trong mô hình này, ảnh hưởng của ngân hàng đối với TĐKT là
rất lớn. Nó như là cơ quan lãnh đạo, điều hành, quản lý của tất cả các công ty con
thuộc tập đoàn.
11
11

1.2.2.2 Ưu điểm và nhược điểm của mô hình TĐKT xoay xung quanh
NHTM
Ngoài những ưu điểm đối với cả ba chủ thể NHTM, TĐKT, nền kinh tế và
các chủ thể khác như đã phân tích ở trong mô hình thứ nhất thì ở mô hình thứ hai
này, chúng tôi sẽ tập trung nghiên cứu về các ưu, nhược điểm như sau:
* Ưu điểm của mô hình TĐKT xoay xung quanh NHTM
Ngân hàng không chủ là người cung cấp vốn cho các dự án của các công
ty thuộc tập đoàn mà còn là các cổ đông chính của các công ty này. Việc nắm giữ
cổ phần chi phối tại các công ty con sẽ giúp cho ngân hàng có thể hiểu rõ và sâu
sắc về tình hình tài chính của chúng, để từ đó có thể điều hành hoặc có những can
thiệp cần thiết khi các công ty con gặp vấn đề khó khăn.
Ngân hàng với thế mạnh về kiến thức tài chính sẽ hỗ trợ cho TĐKT
trong việc phân tích tài chính, tính hiệu quả cho các dự án, cung cấp các vị trí giám
đốc tài chính, giám đốc điều hành cho các công ty con thuộc tập đoàn. Các TĐKT
sẽ được tư vấn và sử dụng những phương thức thanh toán tốt
Các TĐKT sẽ có được sự hẫu thuẫn về vốn rất lớn từ các NHTM. Vốn là
điều kiện cần thiết và tối quan trọng cho bất kỳ dự án nào của TĐK. Ngân hàng
trung tâm với tư cách là người cung cấp tài chính cho TĐKT sẽ đáp ứng được điều
đó bằng cách huy động tiền gửi của nhân dân, tổ chức, các chủ thể trong nền kinh
tế với cam kết trả gốc đúng thời hạn kèm theo một khoản lãi và sau đó mang số
tiền đó tài trợ cho các dự án của TĐKT. Các dự án của những tập đòan lớn dễ được
thực hiện, tạo môi trường kinh tế thúc đẩy đầu tư tăng
Mối liên kết đan xen và chặt chẽ giữa TĐKT và NHTM được thể hiện thông qua
việc nắm giữ cổ phần chéo của nhau. Các TĐKT nắm giữ cổ phần của NHTM và
ngược lại, NHTM cũng là một trong số các cổ đông lớn nhất của các công ty con
thuộc TĐKT. Có nhiều cách hiểu khác nhau về mô hình liên kết này, có thể hiểu
12
12
thực chất của mô hình liên kết này là ngân hàng là một trong số các công ty con
của tập đoàn hoặc ngân hàng là công ty mẹ của các công ty con của tập đoàn. Tuy

nhiên, vai trò của ngân hàng trong tập đòan này là rất lớn, và chính vì lẽ đó mà nó
được gọi là ngân hàng chính, ngân hàng trung tâm ( main bank)
* Nhược điểm của mô hình TĐKT quay xung quanh NHTM
Mối liên kết này sẽ làm suy yếu chức năng trung gian tài chính của các
NHTM truyền thông, trong việc phân bổ sai lệch nguồn tài nguyên tín dụng cho
khu vực sản xuất thực của nền kinh tế, và từ đó làm xói mòn tính cạnh tranh giữa
các chủ thể khác nhau trong nền kinh tế.
Các ngân hàng trung tâm này sẽ phải thường xuyên đối phó với các áp lực
ưu đã tín dụng có lợi cho những mối quan hệ mang tính cách nội bộ. NHTM là nhà
cung cấp tài chính cho các dự án của các công ty con thuộc tập đoàn, vì vậy, sẽ có
những trường hợp, dự án của các công ty con không thực sự hiệu quả trong khi các
dự án của các doanh nghiệp khác rất có triển vọng thì với với sự thỏa thuận, liên
kết chặt chẽ trên, ngân hàng vẫn phải ưu đãi cho các công ty thuộc tập đoàn. Một
khi đã có sự ưu đãi thì nguồn tài nguyên tín dụng đã bị phân bổ một cách sai lệch.
Nguồn vốn đáng lẽ ra phải chảy theo những kênh có khả năng sử dụng nó một cách
có hiệu quả nhất đã chuyển sang các kênh nội bộ mà theo các chuyên viên phân
tích tín dụng rất có thể sẽ bị bẻ cong theo các ý dồ của cấp lãnh đạo
Ưu đãi và phân bổ sai lệnh tài nguyên tín dụng chính là căn nguyên dẫn đến
việc xói mòn tính cạnh tranh. Việc xói mòn tính cạnh tranh có thể được biểu hiện
dưới nhiều hình thức khác nhau nhưng chung quy lại , đó mà các điều hiện tiếp cận
tín dụng dễ dàng cho các công ty con, từ chối cung cấp tín dụng cho các doanh
nghiệp khác có dự án đầu tư hiệu quả hơn. Ngược lại, các công ty con của tập đoàn
có thể đàm phán, ký thác, tín dụng, thanh toán tốt hơn với một ngân hàng bên
ngoài so với phải quan hệ với ngân hàng trung tâm của chúng tập đoàn mình, họ
13
13
phải đánh đổi giữa việc hy sinh tính cạnh tranh để phục vụ lợi ích chung của cả tập
đoàn nhưng hệ quả tất yếu của sự lựa chọn này là những tác động tieue cực làm
giảm sút hiệu năng của nền kinh tế.
Bên cạnh đó, vấn đề bảo mật thông tin cũng bị xâm phạm. Ngân hàng là

một tổ chức sản xuất thông tin, nhưng chức năng đó của ngân hàng bắt buộc họ
phải bảo mật thông tin cho khách hàng, tuy nhiên, ngân hàng tranh tâm khó có thể
từ chối cung cấp cho các công ty thành viên tập đoàn thông tin mật mà nó nắm giữ
về các đối thủ cạnh tranh của chính các công ty nội bộ đó.
Việc phân bổ nguồn vốn không hợp lý có nguy cơ tăng các khoản nợ xấu
cho ngân hàng, từ đó tăng nguy cơ phá sản của ngân hàng do không đáp ứng được
kịp thời nhu cầu thanh khoản và có thể dẫn đến khủng hoảng tài chính, gây hậu
quả nghiêm trọng cho nền kinh tế.
1.3 Điều kiện liên kết ngân hàng thương mại với các tập đoàn kinh tế
1.3.1- Điều kiện vĩ mô
- Điều kiện về sự hậu thuẫn của Chính Phủ
Mối liên kết giữa NHTM và TĐKT thường được sự hậu thuẫn lớn về phía
chính phủ. Theo định hướng phát triển của các quốc gia, sự phát triển của các
TĐKT là tất yếu của quá trình hợp tác phát triển các loại hình doanh nghiệp, các
mối quan hệ hợp tác đầu tư trên cơ sở nhu cầu phát triển thị trường và hội nhập
kinh tế quốc tế. TĐKT huy động được các nguồn lực vật chất, lao động và vốn
trong xã hội vào quá trinh sản xuất kinh doanh, tạo ra sự hỗ trợ trong việc cải tổ cơ
cấu sản xuất, hình thành những công ty hiện đại. Viẹc hình thành TĐKT cho phép
phát huy lợi thế kinh tế có quy mô lớn, khai thái triệt để thương hiêu, hệ thống dịch
vụ đầu vào, đầu ra, và nhiều loại hình dịch vụ. Từ vai trò quan trọng trong nền kinh
tế đó của TĐKT mà chính phủ các nước đã có những biện pháp hỗ trợ cho các
14
14
TĐKT phát triển. Một trong số những sự hậu thuẫn từ phía chính phủ cho phép
mối liên kết này đó là cho phép các TĐKT được tham gia góp vốn vào các NHTM.
Tuy nhiên, để ngăn ngừa nguy cơ gây lũng đoạn nền kinh tế và sự thâu tóm quyền
lực vào tay các TĐKT, Chính phủ của các nước thường quy định một tỷ lệ góp vốn
nhất định
Bên cạnh đó, Các chính sách vĩ mô thuận lợi của Chính phủ các nước
cũng là điều kiện cho sự liên kết này. Chẳng hạn như Chính phủ có thể hỗ trợ cho

mối liên kết này bằng cách khi sử dụng các gói kích cầu hay cho vay hỗ trợ lãi suất
cho các TĐKT thông qua các ngân hàng mà các TĐKT này nắm giữ cổ phần
-
- Điều kiện về pháp lý
Hệ thống hành lang pháp lý thông thoáng với những quy định rõ ràng cụ
thể về tỷ lệ góp vốn, tỷ lệ cho vay trong nội bộ của NHTM và TĐKT cũng như
tính an tòan bảo mật thông tin của các NHTM sẽ giúp cho mối quan hệ này được
minh bạch , tránh được những hạn chế, tiêu cực của các mô hình liên kết và bảo
đảm an toàn hoạt động của hệ thống ngân hàng
1.3.2- Điều kiện vi mô:
Các tập đoàn kinh tế phải có tiềm lực mạnh. Điều này thể hiện ở chỗ, các
TĐKT phải có lượng vốn lớn để chủ động và tự chủ đầu tư cho các dự án thuộc
lĩnh vực sản xuất chính của tập đoàn.
Bên cạnh đó, các TĐKT có phải đáp ứng về trình độ, năng lực quản lý,
không chỉ ở lĩnh vực sản xuất kinh doanh chính của mình và còn ở lĩnh vực tài
chính ngân hàng mà TĐKT đầu tư góp vốn vào. Việc cổ đông lớn là các TĐKT có
hiểu biết sâu sắc về lĩnh vực tài chính sẽ giúp cho những quyết định về chiến lược
hoạt động kinh doanh của các NHTM sẽ chính xác và từ đó nâng cao được tính
hiệu quả của các quyết định
15
15
Các NHTM có các TĐKT nắm giữ cổ phần chi phối phải đảm bảo được
tính độc lập đối với các TĐKT. NHTM là trung gian tài chính của nền kinh tế. Các
quyết định đầu tư, cho vay đối với các dự án của các doanh nghiệp phải dựa trên
việc thẩm định khách quan về tính khả thi của dự án đó.
Chương 2 – Thực trạng liên kết ngân hàng thương mại với các tập đoàn
kinh tế ở Việt Nam
2.1 Khái quát về Tập đoàn kinh tế tại Việt Nam
2.1.1 Khái niệm
Tập đoàn kinh tế là bước phát triển tất yếu một khi nó hội tụ đủ các điều

kiện cần thiết về vốn, công nghệ cũng như khi thực tế đòi hỏi các công ty phải có
mối quan hệ mật thiết để giảm áp lực cạnh tranh, tập trung tiềm lực để phát triển
theo hướng đa lĩnh vực, xuyên quốc gia.Ở Việt Nam tuy có khá nhiều tập đoàn
được thành lập nhưng lai chưa có văn bản luật cụ thể nào quy định về loại hình này
. Chính vì thế khái niệm tập đoàn kinh tế vẫn chưa được hiểu đúng .
Văn bản luật đầu tiên có đề cập đến tập đoàn kinh tế là Luật Doanh
Nghiệp 2005.Theo khoản 2 , điều 146 : “ Nhóm công ty bao gồm các hình thức sau
đây: Công ty mẹ-Công ty con ;Tập đoàn kinh tế ; Các hình thức khác.” .Còn theo
điều 149 : “ Tập đoàn kinh tế là nhóm công ty có quy mô lớn.Chính phủ quy định
hướng dẫ tiêu chí , tổ chức quản lý và hoạt động của tập đoàn kinh tế.” Sau đó ,
nghị định số 139/2007/NĐ-CP ra đời có điều 26 hướng dẫn sửa đổi , bổ sung về
tập đoàn kinh tế. Khoản 1 có quy định : “Tập đoàn kinh tế bao gồm nhóm các công
ty có tư cách pháp nhân độc lập , được hình thành trên cơ sở tập hợp , liên kết
thông qua đầu tư , góp vốn , sát nhập , mua lại , tổ chức lại hoặc các hình thức liên
kết khác ; gắn bó lâu dài với nhau về lợi ích kinh tế , công nghệ , thị trường và các
dịch vụ kinh doanh khác tạo thành tổ hợp kinh doanh có từ hai cấp doanh nghiệp
trở lên dưới hình thức công ty mẹ - công ty con.”.Còn khoản 2 có quy định :” Tập
16
16
đoàn kinh tế không có tư cách pháp nhân , không phải đăng kí kinh doanh theo
Luật Doanh Nghiệp.Việc tổ chức hoạt động của tập đoàn do các công ty lập thành
tập đoàn tự thỏa thuận quyết định.”
Theo TS Phan Thảo Nguyên :”Tập đoàn kinh tế là tổ hợp các công ty
hoạt động trong một ngành hay những ngành khác nhau, ở phạm vi một
nước hay nhiều nước, trong đó có một công ty mẹ nắm quyền lãnh đạo, chi phối
hoạt động của các công ty con về mặt tài chính và chiến lược phát triển. Tập
đoàn kinh tế là một cơ cấu tổ chức vừa có chức năng kinh doanh, vừa có
chức năng liên kết kinh tế nhằm tăng cường tích tụ, tập trung, tăng khả năng cạnh
tranh và tối đa hoá lợi nhuận.”
Mặc dù chưa có khái niệm cụ thể về tập đoàn kinh tế nhưng ở Việt Nam

thì tập đoàn kinh tế vẫn có đặc trưng cơ bản tương tự của tập đoàn kinh tế thế giới:
+ Có phạm vi hoạt động lớn trong một hoặc nhiều quốc gia
Tập đoàn kinh tế Việt Nam mới được thành lập trong vòng 10 năm trở
lại đây nên chưa hình thành được tập đoàn kinh tế đa quốc gia. Phần lớn các tập
đoàn kinh tế ở nước ta chỉ hoạt động trong nước. Gần đây nhất chỉ có tập đoàn Hòa
Phát đặt Văn Phòng Đại Diện tại phòng 7, tầng 4 Vientiane Commercial Bank
Building , Phố Lanxang , Vientiane , nước Cộng hòa dân chủ Lào.
+ Có quy mô lớn về nguồn vốn , nhân lực và doanh số hoạt động.
Các tập đoàn thường thu hút một số lượng lớn lao động.Tính đến ngày
31/12/2008 , tập đoàn FPT có 12 công ty thành viên và 9027 nhân viên đang tham
gia làm việc tai đây.Còn tập đoàn dầu khí Việt Nam có tới 19 công ty thành
viên.Doanh số hoạt động của tập đoàn là do doanh số của các công ty thành viên
tạo ra.
17
17
+Có hình thức sở hữu hỗn hợp , trong đó có một chủ thể đóng vai trò chi
phối
Sở hữu vốn trong các tập đoàn kinh tế cũng rất đa dạng.Vốn của tập đoàn
là vốn do các công ty thành viên làm chủ sở hữu bao gồm vốn của tư nhân và có
thể có vốn của Nhà Nước.Quyền sở hữu vốn trong tập đoàn cũng tùy thuộc vào
mức độ phụ thuộc của các công ty thành viên vào công ty mẹ .Thông thường có 2
cấp độ thể hiện mối quan hệ này : Thứ nhất , ở cấp độ thấp hay còn gọi là liên kết
mềm, vốn của công ty “ mẹ ” , công ty “ con ” , công ty “cháu” … là của từng công
ty. Thứ hai , cấp độ cao hơn hay còn gọi là liên kết cứng , vốn của công ty “ mẹ ”
tham gia đầu tư vào công ty “ con” , công ty “cháu ” và biến chúng thành công ty
TNHH một thành viên do công ty “ mẹ ” làm chủ sở hữu hoặc công ty mẹ chiếm
trên 50% vốn điều lệ ( với công ty TNHH ) hoặc giữ cổ phần chi phối ( với công ty
cổ phần ).Trên thực tế rất hiếm tập đoàn kinh tế chỉ có một cấp độ quan hệ sở hữu
vốn mà luôn đan xen cả 2 cấp độ với nhau.
Tuy nhiên ở Việt Nam thông thường mối quan hệ về vốn ở cấp độ liên

kết cứng.Như tập đoàn Bảo Việt đã đầu tư : Tổng Công ty Bảo hiểm Bảo Việt do
Tập đoàn Bảo Việt đầu tư 100% vốn điều lệ;Tổng Công ty Bảo Việt Nhân thọ do
Tập đoàn Bảo Việt đầu tư 100% vốn điều lệ; Công ty Cổ phần Chứng khoán Bảo
Việt (BVSC) do Tập đoàn Bảo Việt đầu tư 60% vốn điều lệ;Ngân hàng Thương
mại Cổ phần Bảo Việt (BAOVIET BANK) do Tập đoàn Bảo Việt đầu tư 40% vốn
điều lệ;Công ty Cổ phần Đầu tư Bảo Việt do Tập đoàn Bảo Việt đầu tư 55% vốn
điều lệ…
+ Cơ cấu tổ chức phức tạp.
Thông thường thì tập đoàn không có chức danh tổng giám đốc tập đoàn.
Tuy nhiên ở Việt Nam thì vẫn còn tồn tại chức danh này.Ví dụ : Ông Trương Gia
Bình là Chủ tịch hội đồng quản trị kiêm Tổng giám đốc tập đoàn FPT.Còn với tập
18
18

×