Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

Tiểu luận hoàn chỉnh cao cấp lý luận chính trị “lý luận của lênin về chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước và những biểu hiện mới trong chủ nghĩa tư bản ngày nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (139.88 KB, 17 trang )

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
VIỆN KINH TẾ CHÍNH TRỊ HỌC

BÀI THU HOẠCH
HỌC PHẦN: KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC - LÊNIN
Đề tài:
HỌC THUYẾT GIÁ TRỊ THẶNG DƯ CỦA C.MÁC VÀ Ý NGHĨA ĐỐI
VỚI VIỆT NAM TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI

Học viên

:

Mã số học viên :
Lớp

:

HÀ NỘI – 2022


MỤC LỤC


BÀI THU HOẠCH KẾT THÚC HỌC PHẦN
HỆ ĐÀO TẠO CAO CẤP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
Mơn học:
Tên chủ
đề/vấn đề bài

KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC - LÊNIN


HỌC THUYẾT GIÁ TRỊ THẶNG DƯ CỦA C.MÁC
VÀ Ý NGHĨA ĐỐI VỚI VIỆT NAM TRONG THỜI
KỲ ĐỔI MỚI

thu hoạch:

Ngày chấm:
SỐ PHÁCH

ĐIỂM

Giảng viên chấm 1

Giảng viên chấm 2

(Ký, ghi rõ họ, tên)

(Ký, ghi rõ họ, tên)

Bằng số:
Bằng chữ:


Mơn học:
Tên chủ
đề/vấn đề bài

KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC - LÊNIN
HỌC THUYẾT GIÁ TRỊ THẶNG DƯ CỦA C.MÁC
VÀ Ý NGHĨA ĐỐI VỚI VIỆT NAM TRONG THỜI

KỲ ĐỔI MỚI

thu hoạch:
SỐ PHÁCH

Họ và tên học
viên
Mã số học viên
Lớp
Ngày nộp


4
MỞ ĐẦU
Tiếp theo giai đoạn cạnh tranh tự do, chủ nghĩa tư bản phát triển lên
giai đoạn cao hơn là giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc quyền và sau đó là chủ
nghĩa tư bản độc quyền nhà nước. Thực chất, đây là những nấc thang mới
trong quá trình phát triển và điều chỉnh của chủ nghĩa tư bản về cả lực lượng
sản xuất và quan hệ sản xuất để thích ứng với những biến động mới trong tình
hình kinh tế -chính trị thế giới cuối thế kỉ XIX và đầu thế kỉ XX cho đến nay.
Đầu thế kỉ XX, V.I Lênin đã chỉ rõ “ Chủ nghĩa tư bản độc quyền
chuyển thành chủ nghĩa tư bản độc quyền Nhà nước là khuynh hướng tất
yếu”. Cơ sở cho sự chuyển biến này chính là sự dung hợp giữa tư bản độc
quyền với Nhà nước. Trong chủ nghĩa tư bản hiện đại, nhiều chủ thể tham gia
vào quá trình sản xuất do đó sự tương quan lợi ích giữa nhà tư bản và người
lao động là cơ bản và chủ yếu để thực hiện bản chất xã hội của phương thức
tư bản chủ nghĩa. Tuy nhiên, trong lòng chủ nghĩa tư bản vẫn chứa đựng
những xung đột lợi ích gay gắt, đòi hỏi Nhà nước phải trực tiếp tham gia vào
quá trình phân phối lợi ích. Chính vì vậy, vai trị của Nhà nước chuyển từ các
yếu tố bên ngoài, yếu tố tạo môi trường, thành yếu tố bên trong của quá trình

tái sản xuất tư bản chủ nghĩa và trở thành một trong các yếu tố quan trọng
nhất quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội. Chính vì vậy chủ nghĩa tư
bản độc quyền nhà nước có nhiều biểu hiện mới và những vai trò lịch sử nhất
định trong việc điều chỉnh, thích nghi với những điều kiện mới và chính sự
phát triển của nó sẽ tạo ra điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội của sự ra đời một
xã hội tương lai, xã hội cộng sản chủ nghĩa. Với hy vọng tìm hiểu sâu hơn về
vấn đề này nên em đã chọn đề tài “Lý luận của Lênin về chủ nghĩa tư bản
độc quyền nhà nước và những biểu hiện mới trong chủ nghĩa tư bản ngày
nay” để làm đề tài nghiên cứu cho môn học của mình.


5
NỘI DUNG

I.

Cơ sở lý luận của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước

I.1.

Lý luận của V.I.Lênin về chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước?
Xây dựng học thuyết về chủ nghĩa đế quốc, V.I.Lênin không những chỉ
rõ bản chất kinh tế, bản chất chính trị và địa vị lịch sử của chủ nghĩa tư bản
độc quyền, mà còn dự báo sự hình thành, bản chất của chủ nghĩa tư bản độc
quyền nhà nước: V.I.Lênin vạch rõ tính qui luật của việc chuyển từ chủ nghĩa
tư bản độc quyền chuyển thành chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước.
Quá trình tích tụ tập trung tư bản phát triển cao độ phát sinh những cơ cấu
kinh tế quy có mơ lớn địi hỏi phải có sự điều tiết xã hội đối với sản xuất và phân
phối từ một trung tâm. Hơn nữa, với sự phát triển cao của lực lượng sản xuất,
mà trước hết là phân công lao động xã hội đã làm xuất hiện những ngành mà

các tổ chức độc quyền tư nhân không thể hoặc không muốn tham gia. Bên cạnh
đó, sự mở rộng các quan hệ kinh tế quốc tế tạo điều kiện cho các tổ chức độc
quyền bành trướng ra thế giới, do đó địi hỏi nhà nước phải đứng ra làm đại
diện, tạo môi trường quốc tế thuận lợi nhằm hỗ trợ tư bản tư nhân.
V.I. Lênin cho rằng, sự xuất hiện chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước
trở thành hiện thực từ trước chiến tranh thế giới thứ nhất. Biểu hiện:
- Chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước là sự dung hợp sức mạnh của các
tổ chức độc quyền với sức mạnh của nhà nước tư sản thành một cơ cấu thống
nhất.
- Chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước là sự can thiệp trực tiếp của các
nhà nước đế quốc vào các quá trình kinh tế nhằm đảm bảo lợi nhuận độc
quyền cao cho các tổ chức độc quyền và cứu nguy sự sụp đổ của chủ nghĩa tư
bản, là sự kết hợp giữa các tổ chức độc quyền và bộ máy nhà nước tư sản, tạo
ra một tổ chức bộ máy mới có thế lực vạn năng.


6
- Các tổ chức độc quyền sử dụng nhà nước như là công cụ nhằm tăng
cường sự thống trị về kinh tế, chính trị, xã hội; thực hiện quân sự hoá nền
kinh tế tiến hành chiến tranh phân chia lãnh thổ.
- Nhà nước tư sản ngồi chức năng cơng quyền còn trở thành một chủ
sở hữu tư bản khổng lồ: vừa là nhà sản xuất kinh doanh, vừa là người tiêu
dùng; vừa là chủ nợ, vừa là con nợ. Nhà nước tư sản phụ thuộc vào các tổ
chức độc quyền và bảo vệ lợi ích của các tổ chức độc quyền.
I.2.

Nguyên nhân hình thành của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước
Dựa vào tư tưởng của V.I. Lê Nin, có thể chỉ ra được ngun nhân đãn
đến sự hình thành của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước là do:
- Thứ nhất, tích tụ và tập trung tư bản càng lớn thì tích tụ và tập trung

tư bản càng cao, do đó đẻ ra những cơ cấu kinh tế to lớn đòi hỏi một sự điều
tiết xã hội đối với sản xuất và phân phối, một sự kế hoạch hóa tập trung từ
một trung tâm. Nói cách khác sự phát triển hơn nữa của trình độ xã hội lực
lượng sản xuất đã đến yêu cầu khách quan là nhà nước phải đại biểu cho toàn
bộ xã hội quản lý nền kinh tế.
- Thứ hai, sự phát triển của phân công lao động xã hội đã làm xuất hiện
một số ngành mà các tổ chức độc quyền tư bản khơng thể hoặc khơng muốn
kinh doanh đầu tư vì vốn đầu tư lớn, thu hồi vốn chậm, ít lợi nhuận, nhất là
các ngành thuộc kết cấu hạ tầng, GTVT…
- Thứ ba, sự thống trị của độc quyền đã làm sâu sắc thêm sự đối kháng
giữa giai cấp tư sản với gia cấp vô sản và nhân dân lao động. Nhà nước phải
có những chính sách xoa dịu những mâu thuẫn đó, như trợ cấp thất nghiệp,
điều tiết thu nhập quốc dân, phát triển phúc lợi xã hội…..
- Thứ tư, cùng với xu thế quốc tế hóa đời sống kinh tế, sự bành trướng
của các liên minh độc quyền quốc tế vẫn vấp phải những hàng rào quốc gia
dân tộc và xung đốt lợi ích với các đối thủ trên thị trường. Tình hình đó địi


7
hỏi phải có sự điều tiết các quan hệ chính trị và quan hệ kinh tế; nhà nước tư
sản có vai trò quan trọng trong việc giải quyết các quan hệ đó.
Như vậy, chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước nảy sinh như một tất
yếu kinh tế, phần nào đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa xã hội
hóa cao độ trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc quyền, nhưng vẫn không giải
quyết được những mâu thuẫn của chủ nghĩa tư bản.
1.3. Bản chất của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước
Chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước là sư kết hợp sức mạnh của các
tổ chức độc quyền tư nhân với sức mạnh của nhà nước tư sản thành một thiết
chế và thể chế thống nhất, trong đó nhà nước tư sản bị phụ thuộc vào các tổ
chức độc quyền và can thiệp vào các quá trình kinh tế nhằm bảo vệ lợi ích của

các tổ chức độc quyền và cứu nguy cho chủ nghĩa tư bản. Tính theo thời gian,
chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước có nguồn gốc từ chiến tranh thế giới thứ
I, phát triển nhanh chóng trong thời kỳ chiến tranh thế giới thứ II, và sau đó
trở nên phổ biến. Chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước là sự kết hợp sức
mạnh của các tổ chức độc quyền tư nhân với sức mạnh của các nhà nước tư
bản thành một thiết chế và thể chế thống nhát nhằm phục vụ lợi ích của các tổ
chức độc quyền và cứu nguy cho chủ nghĩa tư bản. Hơn nữa, nó cịn là nấc
thang phát triển mới của chủ nghĩa tư bản, là một hình thức vận động mới, là
một quan hệ chính trị kinh tế xã hội mới của chủ nghĩa tư bản, làm cho chủ
nghĩa tư bản thích nghi với điều kiện lịch sử mới. Bản chất của chủ nghĩa tư
bản độc quyền được biểu hiện như sau:
- Chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước là hình thức vận động mới của
quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa hay nói cách khác là chủ nghĩa tư bản được
điều chỉnh để thích ứng với lực lượng sản xuất xã hội hóa.


8
- Chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước là sự kết hợp giữa các tổ chức
độc quyền với nhà nước tư bản thành một tổ chức thống nhất trong đó nhà
nước phụ thuộc vào độc quyền, phục vụ mục đích cho các tổ chức độc quyền
- Chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước là một hệ thống các quan hệ
kinh tế chính trị biểu hiện thành đường lối, các chính sách đối nội, đối ngoại,
chính sách kinh tế xã hội
- Chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước là sự can thiệp trực tiếp của các
nhà nước đế quốc vào các quá trình kinh tế nhằm đảm bảo lợi nhuận độc
quyền cao cho các tổ chức độc quyền và cứu nguy sự sụp đổ của chủ nghĩa tư
bản, là sự kết hợp giữa các tổ chức độc quyền và bộ máy nhà nước tư sản, tạo
ra một tổ chức bộ máy mới có thế lực vạn năng.
- Các tổ chức độc quyền sử dụng nhà nước như là công cụ nhằm tăng
cường sự thống trị về kinh tế, chính trị, xã hội; thực hiện qn sự hố nền

kinh tế tiến hành chiến tranh phân chia lãnh thổ.
- Nhà nước tư sản ngồi chức năng cơng quyền cịn trở thành một chủ
sở hữu tư bản khổng lồ: vừa là nhà sản xuất kinh doanh, vừa là người tiêu
dùng; vừa là chủ nợ, vừa là con nợ. Nhà nước tư sản phụ thuộc vào các tổ
chức độc quyền và bảo vệ lợi ích của các tổ chức độc quyền.
Theo V.I. Lênin, chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước có nhiều biểu hiện
mới và những vai trò lịch sử nhất định trong việc điều chỉnh, thích nghi với
những điều kiện mới và chính sự phát triển của nó sẽ tạo ra điều kiện kinh tế,
chính trị, xã hội của sự ra đời một xã hội tương lai, xã hội cộng sản chủ nghĩa.
II. Những biểu hiện chủ yếu của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà
nước
2.1. Sự kết hợp về nhân sự giữa tổ chức độc quyền và nhà nước
Các tổ chức độc quyền đưa người vào nắm lấy hoạt động của bọ máy
tư sản từ địa phương đến trung ương để chi phối nhà nước tư sản và mang lại


9
lợi ích, quyền lợi cho các tập đồn. Sự kết hợp về nhân sự được thực hiện
thông qua các hội chủ xí nghiệp mang những tên khác nhau, thí dụ như: Liên
đồn cơng nghiệp Italia, Tổ chức liên hợp cơng nghiệp Đức, lien đồn cơng
thương Anh… Các hội chủ này hoạt động như các cơ quan tham mưu cho nhà
nước, chi phối đường lối kinh tế, đường lối chính trị của nhà nước tư sản
nhằm “lái” hoạt động của nhà nước theo hướng có lợi cho tầng lớp độc quyền,
có vai trị rất lớn, đến mức được coi như chính phủ đằng sau chính phủ, một
quyền lực thực tế đằng sau quyền lực của chính quyền. Thơng qua các hội
chủ, một mặt các đại biểu của các tổ chức độc quyền tham gia vào bộ máy
nhà nước với những cương vị khác nhau, mặt khác, các quan chức và nhân
viên chính phủ được cài vào các ban quản trị của các tổ chức độc quyền, giữ
vững các chức vụ trọng yếu chính thức hoặc danh dự, hoặc trở thành những
người đỡ đầu các tổ chức độc quyền. Trong những năm gần đây, đối với các

công ty độc quyền được nhà nước thành lập thì mục tiêu cơ bản là hồn thành
nhiệm vụ cơng ích thay mặt cho Nhà nước. Nói cụ thể hơn, là đảm bảo cung
cấp dịch vụ, hàng hóa thiết yếu để duy trì mức sống tối thiểu của người dân và
hoạt động của toàn xã hội. Đây chính là điểm khác biệt về bản chất giữa một
cơng ty độc quyền Nhà nước với một doanh nghiệp bình thường. Vậy tại sao
và cơ sở pháp lý nào cho phép Nhà nước độc quyền làm việc đó? Đặc điểm
của kinh tế thị trường là quyền tự do kinh doanh luôn được bảo đảm. Thế
nhưng, không phải bất cứ lĩnh vực, ngành nghề kinh doanh nào cũng có thể
thu hút tư nhân tham gia. Họ khơng muốn đầu tư vì khả năng sinh lời thấp.
Như vậy, thị trường tự do không đáp ứng nổi nhu cầu cơ bản của người dân,
thị trường bất lực trước các nhu cầu xã hội. Do vậy, Nhà nước phải can thiệp
ở nơi và khi thị trường bất lực, cho nên Nhà nước phải thiết lập các công ty
độc quyền. Ở Anh, Pháp, Đức... hiện nay Nhà nước vẫn nắm độc quyền kinh
doanh một số lĩnh vực như điện, nước, khí đốt, giao thơng cơng cộng.


10
Ví dụ ở Đức, giá vé xe buýt mấy chục năm nay hầu như không thay
đổi dù xuất hiện nhiều “cơn sốt” xăng dầu trên thế giới, vì mỗi năm, Nhà
nước phải bù lỗ hàng tỷ euro cho hoạt động giao thông công cộng. Các công
ty độc quyền ở các nước không bao giờ được phép tùy tiện tăng giá, kể cả khi
giá cả thế giới tăng hay viện cớ công ty bị thua lỗ, giảm nguồn thu ngân sách.
Nếu có tăng thì chỉ được phép tăng với điều kiện phải phù hợp với khả năng
và sức mua tăng của người dân. Cần lưu ý là, hoạt động của công ty độc
quyền phải được xem như một hình thức hoạt động quản lý Nhà nước. Để
ngăn ngừa hoạt động tiêu cực, các công ty độc quyền phải được đặt trong sự
kiểm soát chặt chẽ. Ở nước ta, hoạt động của các cơng ty độc quyền Nhà nước
cịn nhiều vấn đề gây tranh cãi, cần phải xem xét lại. Theo ý kiến của một số
chuyên gia kinh tế và luật gia, không thể buộc người dân chịu thiệt khi phải
trả thêm tiền để các cơng ty độc quyền ln có lãi, trong khi họ vừa được độc

quyền kinh doanh, vừa được Nhà nước bảo đảm không bị thua lỗ.
2.2. Sự hình thành và phát triển sở hữu nhà nước
Sở hữu độc quyền nhà nước là sở hữu tập thể của giai cấp tư sản độc
quyền có nhiệm vụ ủng hộ và phục vụ lợi ích của tư bản độc quyền nhằm duy
trì sự tồn tại của chủ nghĩa tư bản. Được biểu hiện đó là sở hữu nhà nước tăng
lên và sự tăng cường mối quan hệ giữa sở hữu nhà nước và sở hữu độc quyền
tư nhân, hai loại sở hữu này gắn kết với nhau trong quá trình tuần hoàn của
tổng tư bản xã hội. Sở hữu nhà nước được hình thành dưới nhiều hình thức
khác nhau: xây dựng xí nghiệp nhà nước bằng vốn của ngân sách, quốc hữu
hóa các xí nghiệp tư nhân bằng cách mua lại, nhà nước mua cổ phần của các
xí nghiệp tư nhân, mở rộng xí nghiệp nhà nước bằng vốn tích lũy của các xí
nghiệp tư nhân…Sở hữu nhà nước thự hiện các chức năng quan trọng sau:
Một là, mở rộng sản xuất tư bản chủ nghĩa đảm bảo địa bàn rộng lớn
cho sự phát triển chủ nghĩa tư bản.


11
Hai là, giải phóng tư bản của tổ chức độc quyền từ những ngành ít lãi
để đưa vào những ngành kinh doanh có hiệu quả hơn.
Ba là, làm chỗ dựa về kinh tế cho nhà nước để nhà nước điều tiết một
số q trình kinh tế phục vụ lợi ích của tầng lớp tư bản độc quyền.
Ví dụ về sở hữu nhà nước ở nước ta hiện nay: Kinh tế nhà nước dựa
trên sở hữu nhà nước về tư liệu sản xuất, về vốn…Ở nước ta hiện nay sở hữu
nhà nước được hiểu là sở hữu toàn dân mà Nhà nước là đại diện. Sở hữu nhà
nước là trình độ thấp hơn của sở hữu toàn dân. Trong thời kỳ quá độ lên
CNXH và trong giai đoạn XHCN chỉ mới có sở hữu nhà nước. Nhà nước đại
diện cho tồn dân sở hữu những tài nguyên thiên nhiên, của cải, tài sản, tư
liệu sản xuất, vốn, ngân sách nhà nước…, của tồn dân, của tồn xã hội. Nhà
nước khơng những sở hữu mà cịn nhân danh tồn dân, tồn xã hội tổ chức
quản lý, sử dụng và phân phối những sản phẩm được tạo ra từ những tài sản,

tư liệu sản xuất, vốn, ngân sách nhà nước… Nhưng muốn thực hiện được điều
đó phải thực hiện được lợi ích kinh tế của sở hữu nhà nước. Nếu khơng có lợi
ích kinh tế thì sở hữu nhà nước chỉ là danh nghĩa. Điều đó địi hỏi phải có cơ
chế giải quyết tốt mối quan hệ giữa quyền sở hữu của Nhà nước đối với
những tài nguyên, tài sản, tư liệu sản xuất, vốn, ngân sách nhà nước… của
chung, của toàn dân, của toàn xã hội với quyền sử dụng chúng của các doanh
nghiệp được giao quyền sử dụng và việc phân phối sản phẩm, giá trị mới
được tạo ra nhờ những tài nguyên, tài sản, tư liệu sản xuất, vốn, ngân sách
nhà nước… thuộc sở hữu nhà nước giao cho các doanh nghiệp sử dụng. Trong
nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, cơ chế ấy phải chăng là tỷ lệ phân
chia sản phẩm, giá trị mới đó giữa Nhà nước và doanh nghiệp thông qua việc
doanh nghiệp nộp thuế cho Nhà nước. Chỉ có thu được một phần lợi nhuận
dưới hình thức thuế theo một tỷ lệ thích hợp từ các doanh nghiệp được giao
quyền sử dụng những tài sản, vốn… chung của tồn xã hội, thì mới thực hiện


12
được lợi ích kinh tế của sở hữu nhà nước. Đồng thời, doanh nghiệp mới có
động lực để phấn đấu sản xuất – kinh doanh có hiệu quả nhằm thu được lợi
nhuận cao hơn phần thuế phải nộp cho Nhà nước, thì doanh nghiệp mới có
thu nhập. Phần lợi nhuận cao hơn ấy càng lớn thì thu nhập của doanh nghiệp
càng cao
2.3. Sự điều tiết kinh tế của nhà nước tư bản
Nhà nước tư bản độc quyền điều tiết các q trình kinh tế thơng qua
các biện pháp sau. Đó là thơng qua việc hoạch định các chính sách, chiến
lược, kế hoạch phát triển kinh tế quốc gia. Thông qua hoạt động của hệ thống
pháp luật của chủ nghĩa tư bản độc quyền, xây dựng pháp luật, thực thi pháp
luật. Thông qua các công cụ điều tiết vĩ mô khác như tài chính, tiền tệ, lãi
xuất, giá cả… Các chính sách kinh tế của nhà nước tư sản là sự thể hiện rõ nét
nhất sự điều tiết kinh tế của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước trong giai

đoạn hiện nay. Chúng bao gồm nhiều kĩnh vực như: chính sách chống khủng
hoảng chu kỳ, chống lạm phát, chính sách tăng trưởng kinh tế, chính sách xã
hội, chính sách kinh tế đối ngoại. Các công cụ chủ yếu dùng để điều tiết kinh
tế đó là: ngân sách, thuế, hệ thống tiền tệ- tín dụng, các doanh nghiệp nhà
nước, kế hoạch hóa hay chương trình hóa kinh tế và các cơng cụ hành chính,
pháp lý. Hoạt động điều chỉnh được thực hiện bằng những tổ chức hành pháp
mà những tổ chức này được chia làm hai loại đó là: Cơ quan hành pháp của
chính phủ, vừa làm chức năng hành chính vừa làm chức năng điều chỉnh kinh
tế ở tầm tổng thể. Hai là những cơ quan điều chỉnh kinh tế do luật định,
chuyên trách thanh tra, kiểm soát, uốn nắn hành vi kinh tế của tất cả các chủ
thể hoạt động sản cuất kinh doanh theo luật. Trong kết cấu của bộ máy hành
pháp ở các nước tư bản phát triển, ta cịn thấy sự xuất hiện nhanh chóng của
các cơ quan điều tiết kinh tế. Kinh phí hoạt động do chính phủ cung cấp
nhưng kiểm sốt việc sử dụng kinh phí lại do quốc hội tiến hành.


13
III. Những biểu hiện mới trong chủ nghĩa tư bản ngày nay
3.1. Sự phát triển chưa từng có và rộng khắp của chủ nghĩa tư bản
độc quyền nhà nước.
Biểu hiện chủ yếu là:
- Tỷ trọng của kinh tế nhà nước trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa tăng
lên rõ rệt.
- Sự kết hợp giữa kinh tế nhà nước và kinh tế tư nhân cũng tăng lên
nhanh chóng.
- Chi tiêu tài chính của các nhà nước tư bản phát triển dùng để điều tiết
quá trình tái sản xuất xã hội tăng.
Sở dĩ như vậy là do:
- Sự phát triển của lực lượng sản xuất và trình độ xã hội hố cao đã đặt
ra một loạt vấn đề mới đòi hỏi phải có sự giải quyết của nhà nước.

- Cạnh tranh trên thị trường trong nước và ngoài nước gay gắt đòi hỏi
nhà nước phải đứng ra mở cửa thị trường.
3.2. Sự điều tiết kinh tế của nhà nước tư bản cũng
có những biểu hiện mới:
- Vai trị kinh tế và phương thức điều tiết nền kinh tế thị trường hiện đại
của nhà nước tư bản độc quyền lại có những nét độc đáo và là đặc điểm cơ
bản của chủ nghĩa tư bản ngày nay.
- Mục tiêu của sự điều tiết kinh tế là nhằm khắc phục những khuyết tật
của kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa, định hướng cho sự phát triển kinh tế xã hội nhằm tăng trưởng kinh tế, đảm bảo sự tồn tại và phát triển của chủ
nghĩa tư bản.
- Để điều tiết nền kinh tế, nhà nước tư bản độc quyền đã tổ chức bộ
máy điều tiết gồm cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp và về mặt nhân sự có
sự tham gia của những đại biểu của tập đoàn lớn và các quan chức nhà nước.


14
Đồng thời bên cạnh bộ máy này cịn có hàng loạt các tiểu ban được tổ chức
dưới những hình thức khác nhau.
- Cơ chế điều tiết kinh tế của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước là:
cơ chế kết hợp thị trường tự do cạnh tranh với tính năng động của tư bản độc
quyền tư nhân.
- Phương thức điều tiết của nhà nước linh hoạt, mềm dẻo hơn, phạm vi
rộng hơn.


15

KẾT LUẬN
Qua thực tiễn cho thấy, dù có điều chỉnh thích nghi nhưng chủ nghĩa tư
bản ngày nay vẫn khơng thể vượt qua khỏi mâu thuẫn vốn có của nó. Những

mâu thuẫn đó bản thân nó khơng thể giải quyết triệt để trong khuôn khổ, trật
tự tư bản chủ nghĩa, đó chính là“mâu thuẫn giữa tính chất xã hội hố ngày
càng cao của lực lượng sản xuất với chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ
nghĩa”, mà theo đánh giá của Đảng ta “Những mâu thuẫn cơ bản vốn có của
chủ nghĩa tư bản, nhất là mâu thuẫn giữa tính chất xã hội hố ngày càng cao
của lực lượng sản xuất với chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa, chẳng
những không giải quyết được mà ngày càng trở nên sâu sắc”[5]. Mâu thuẫn
đó được biểu biện cụ thể ra là mâu thuẫn giữa sản xuất có khả năng vơ hạn và
tiêu dùng có khả năng thanh toán bị hạn chế, giữa tư bản và người lao động
làm thuê, giữa tư bản và tư bản, trong một nước và trên phạm vi quốc tế, giữa
các nước tư bản với nhau, giữa các nước tư bản với các nước đang phát triển.
Bên cạnh đó, các mâu thuẫn mới cũng ngày càng thể hiện rõ nét đó là mâu
thuẫn giữa sức sản xuất có khả năng phát triển vơ hạn với sự giới hạn của các
nguồn tài nguyên và mơi trường, giữa nhu cầu nhất thể hóa và tồn cầu hóa
với lợi ích của từng quốc gia và của toàn bộ cộng đồng các nước, giữa cái tiến
bộ và cái lạc hậu khi chuyển đổi cơ sở vật chất kỹ thuật của nền kinh tế. Tính
gay gắt của các mâu thuẫn hiện nay thể hiện nổi bật ở những giới hạn mà chủ
nghĩa tư bản đang vấp phải trong cùng một lúc chưa từng thấy. Đó là, tài
nguyên hạn chế trong khi lực lượng sản xuất có khả năng phát triển vơ hạn;
guồng máy sản xuất có khả năng mở rộng khơng ngừng trong khi khả năng
thanh tốn vẫn còn bị hạn chế; tốc độ tăng năng suất lao động và tăng trưởng
nói chung khơng thể cao và vẫn cịn nguy cơ thấp; bất bình đẳng xã hội gia


16
tăng trên phạm vi quốc gia và quốc tế với nguy cơ ngày càng trầm trọng;
khủng hoảng kinh tế và tính khơng ổn định trên nhiều lĩnh vực; những mặt
trái trên các lĩnh vực văn hóa, đạo đức chính trị, tình trạng bạo lực, tội phạm,
xung đột sắc tộc tơn giáo có nguy cơ phát triển trầm trọng, khó lường.
Qua tất cả những biểu hiện trên của chủ nghĩa tư bản độc quyền Nhà

nước trong những năm gần đây, cho ta một lần nữa khẳng định được rằng, bản
chất của chủ nghĩa tư bản độc quyền Nhà nước vẫn là chủ nghĩa tư bản. Tuy
vậy trong sự vận động của nó, ta khơng thể phủ nhận giá trị tích cực của chủ
nghĩa tư bản độc quyền Nhà nước mang lại đối với quá trình sản xuất: Một
mặt là thực hiện xã hội hóa sản xuất, một mặt là chuyển sản xuất nhỏ thành
sản xuất lớn. Từ đó làm cho lực lượng sản xuất phát triển, năng suất lao động
được tăng lên.
Với những nhìn nhận từ góc độ tích cực đó của chủ nghĩa tư bản độc
quyền Nhà nước, thì đây là một bài học cho sự nhận định về phát triển kinh tế
của mỗi quốc gia. Về cách thức phát triển nền kinh tế, sự điều tiết kinh tế ở
tầm vĩ mơ của nhà nước và quản lí nền kinh tế, đưa kinh tế phát triển theo xu
hướng hội nhập và tồn cầu hóa.


17
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1.

TS. Ngô Văn lương - TS. Đồng Văn Phường (Đồng chủ biên)
Lịch sử các học thuyết kinh tế năm 2012

2. Phân viện Báo chí và Tuyên truyền-Lịch sử các học thuyết kinh tế,
NXBCTQG 2003

3. PGS.TS. Mai Ngọc Cường-GT Lịch sử các học thuyết kinh tế, NXB
Thống Kê 2001.

4. TS. An Như Hải-Tìm hiểu mơn học Lịch sử các học thuyết kinh tế,
NXBLLCT 2006.


5. GS. I.Đ.Uđanxôp -Lịch sử tư tưởng kinh tế (phần thứ nhất, Tập 3),
NXB Khoa học xã hội Hà Nội 1974.



×