Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

Luận văn tiền tệ ngân hàng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (299.13 KB, 25 trang )

Tiền tệ ngân hàng
LỜI NÓI ĐẦU
Trong thời gian qua, Việt Nam đã và đang đạt được những thành tựu to lớn
nhất là trong lĩnh vực kinh tế với chủ trương xây dựng nền kinh tế nhiều thành
phần theo định hướng XHCN.Trong sự phát triển đó, NHTW đóng vai trò cực
kỳ quan trọng trong việc định hướng nền kinh tế, điều tiết các mối quan hệ trong
nền kinh tế, chống lạm phát, thiểu phát và các nhược điểm phát sinh trong nền
kinh tế thị trường. Một trong những công cụ được NHTW sử dụng nhiều nhất để
thực hiện các chức năng của mình là công cụ lãi suất. Đây là một công cụ của
chính sách tiền tệ được nhiều nhà nghiên cứu kinh tế quan tâm và được nhiều
quốc gia sử dụng như một công cụ hữu hiệu để điều tiết nền kinh tế. Đồng thời,
đây cũng được coi là một công cụ nhạy cảm nhất và là vấn đề nóng bỏng thu hút
được nhiều sự quan tâm của các thành phần dân cư trong xã hội. Là một công cụ
có vai trò quan trọng như vậy, nên lãi suất là một trong những biến số được theo
dõi một cách chặt chẽ vì nó ảnh hưởng trực tiếp đến mỗi người dân và có những
ảnh hưởng rất to lớn tới nền kinh tế. Nó tác động mạnh đến quyết định tiết kiệm
hay chi tiêu dùng của người dân, đầu tư công nghệ hay giảm thiểu chi tiêu của
Doanh nghiệp... đồng thời có thể ảnh hưởng đến rất nhiều thị trường trong nền
kinh tế mà đặc biệt là thị trường chứng khoán. Trên thực tế, vào ngày
19-05-2008 Ngân hàng Nhà nước ra quyết định tăng lãi suất cơ bản đồng thời
huỷ bỏ mức lãi suất trần huy động vốn và khi quyết định này có hiệu lực thì thị
trường chứng khoán đã chao đảo mạnh vì các nhà đầu tư rút tiền khỏi thị trường
chứng khoán và gửi vào ngân hàng. Đây là một cú sốc mạnh và thị trường vẫn
chưa thể phục hồi tại thời điểm này. Trong từng thời kỳ nhất định, việc tìm ra và
thi hành một chính sách lãi suất phù hợp là vô cùng phức tạp mà vai trò quyết
định thuộc về ngân hàng nhà nước. Cùng với sự thay đổi và phát triển không
ngừng của nền kinh tế, chính sách lãi suất của Ngân hàng Trung ương cũng
thường xuyên được điều chỉnh cho phù hợp với các tình hình mới của nền kinh
tế, tạo điều kiện cho phát triển cho các ngân hàng thương mại và các tổ chức
kinh tế khác
1.TỔNG QUAN VỀ LÃI SUẤT


1.1.Khái niệm lãi suất
Lãi suất là một phạm trù kinh tế tổng hợp có liên quan chặt chẽ đến các
phạm trù kinh tế khác, phản ánh mối quan hệ giữa chủ thể sử dụng vốn (người
vay vốn) với chủ thể sở hữu vốn (người cho vay) theo nguyên tắc hoàn trả có kỳ
hạn kèm theo lãi ở thị trường vốn ở một thời điểm nhất định. Nói cách khác, lãi
suất là giá cả của quyền được sử dụng vốn trong một thời gian nhất định mà
người sử dụng trả cho người sở hữu nó. Lãi suất được sinh ra là bởi lẽ người đi
vay đã sử dụng vốn đó để phục vụ các nhu cầu sinh lợi của mình (trong hoạt
động sản xuất kinh doanh hay tiêu dùng) trong khi người cho vay đã hi sinh
quyền đó. Đánh đổi cho sự hi sinh quyền được sử dụng tiền tệ ngày hôm nay của
người cho vay chính là lãi suất.
1.2. Phân loại:
Trang 1
Tiền tệ ngân hàng
Căn cứ vào loại hình tín dụng, lãi suất được chia làm các loại sau:
1.2.1 Lãi suất thương mại: áp dụng khi các doanh nghiệp cho nhau vay
dưới hình thức mua bán chịu hàng hoá.
1.2.2Lãi suất tín dụng ngân hàng: áp dụng trong quan hệ giữa ngân hàng
với công chúng và doanh nghiệp trong việc thu hút tiền gửi và cho vay, trong
hoạt động tái cấp vốn của NHTW cho các ngân hàng với nhau trên thị trường
liên ngân hàng
Lãi suất tiền gửi: là lãi suất được trả cho các khoản tiền gửi của người đi
vay.
Lãi suất tiền vay: Là lãi suất người đi vay phải trả cho ngân hàng do việc sử
dụng vốn vay của ngân hàng.
Lãi suất chiết khấu: áp dụng khi ngân hàng co khách hàng vay dưới hình
thức chiết khấu thương phiếu hay các giấy tờ có giá trị khác chưa đến hạn thanh
toán của khách hàng. Nó được tính bằng tỉ lệ % trên mệnh giá của giấy tờ có giá
trị và được khấu trừ ngay khi ngân hàng phát tiền vay cho khách hàng.
Lãi suất tái triết khấu: áp dụng khi Ngân hàng trung ương tái cấp vốn cho

các ngân hàng dưới hình thức chiết khấu lại các thương phiếu hay các giấy tờ có
giá ngắn hạn chưa đến hạn thanh toán cho các ngân hàng. Nó được tính bằng tỉ
lệ % trên mệnh giá của giấy tờ có giá và cũng được khấu trừ ngay khi Ngân
hàng Trung ương cấp vốn tiền vay cho Ngân hàng.
Lãi suất liên ngân hàng: Là lãi suất mà các ngân hàng cho nhau vay trên thị
trường liên ngân hàng
Lãi suất cơ bản: Là lãi suất được các ngân hàng sử dụng làm cơ sở ổn định
mức lãi suất kinh doanh của mình. Lãi suất cơ bản có thể do NHTW ấn định
hoặc do bản thân các ngân hàng tự xác định căn cứ vào tình hình hoạt đọng của
ngân hàng mình
1.2.3 Lãi suất tín dụng Nhà nước: áp dụng khi Nhà nước đi vay của các
chủ thể kinh tế khác nhau trong xã hội dưới hình thức phát hành tín phiếu hay
trái phiếu. Mức lãi suất có thể do nhà nước ấn đinh căn cứ vào lãi suất tiền gửi
của ngân hàng, vào các yếu tố khác như: sự biến động của lạm phát, nhu cầu cấp
thiết về vốn của Nhà nước hoặc được hình thành thông qua hoạt động đấu thầu
tín phiếu, trái phiếu Nhà nước.
1.2.4. Lãi suất tính dụng doanh nghiệp: áp dụng khi doanh nghiệp đi vay
của các chủ thể kinh tế khác trong xã hội dưới hình thức phát hành trái phiếu
Căn cứ vào giá trị thực của lãi suất
 Lãi suất danh nghĩa
 Lãi suất thực tế
Căn cứ vào cách đo lường lãi suất :
 Lãi suất dơn
 Lãi suất kép
 Lãi suất hoàn vốn
1. 3. Vai trò của lãi suất trong nền kinh tế:
1.3.1.Là công cụ để khuyến khích tiết kiệm đầu tư
Trang 2
Tiền tệ ngân hàng
Lãi suất là công cụ khuyến khích lợi ích vật chất để thu hút các khoản tiết

kiệm của các chủ thể kinh tế tạo nên quỹ cho vay phục vụ cho nhu cầu của nền
kinh tế. Theo lý thuyết tài chính ta có phương trình về thu nhập như sau:
Thu Nhập = Tiết Kiệm + Tiêu dùng
Tuy nhiên, nâng lãi suất đến mức nào thì cần phải có sự tính toán lỹ lưỡng
nhằm đảm bảo sự phát triển hài hoà của nền kinh tế.
1.3.2. Ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của Doanh nghiệp
Chính sách lãi suất là một bộ phận trong chính sách tiền tệ của Nhà nước
nhằm điều tiết lưu thông tiền tệ, kích thích và hướng hoạt động sản xuất kinh
doanh của các đơn vị kinh tế. Lãi suất phải trả cho các khoản vay là chi phí của
doanh nghiệp. Do vậy, lãi suất thấp sẽ khuyến khích doanh nghiệp đẩy mạnh
vay vốn đầu tư mở rộng sản xuất và ngược lại lãi suất cao sẽ khiến doanh nghiệp
hạn chế vay vốn đầu tư. Lãi suất là công cụ của Nhà nước nhằm khuyến khích
các Doanh nghiệp đầu tư vào các ngành sản xuất các sản phẩm cần ưu tiên trong
chiến lược phát triển kinh tế thông qua các ưu đãi về lãi suất, về điều kiện cung
cấp tín dụng và thời hạn thanh toán...
1.3.3. Là công cụ điều tiết vĩ mô nền kinh tế
- Lãi suất thấp → kích thích đầu tư, kích thích tiêu dùng → tăng tổng cầu →
sản lượng tăng, giá tăng, thất nghiệp giảm → đồng nội tệ có xu hướng giảm giá
so với ngoại tệ.
- Lãi suất cao → giảm thiểu đầu tư, hạn chế tiêu dùng → giảm tổng cầu →
sản lượng giảm, giá giảm, thất nghiệp tăng → đồng nội tệ có xu hướng tăng so
với ngoại tệ
- Như vậy bằng cách giảm lãi suất, Ngân hàng Nhà nước có thể tạo điều kiện
cho các hoạt động kinh tế phát triển. Tương tự, Ngân hàng Nhà nước có thể tăng
lãi suất khi muốn thực hiện chính sách thắt chặt tiền tệ, giảm bớt lượng khối
lượng tiền cần thiết cho việc mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh và chi tiêu
của người tiêu dùng.
1.3.4. Là công cụ phân phối có hiệu quả nhằm khai thác và sử dụng
triệt để các nguồn lực của nền kinh tế.
Khi Nhà nước muốn khuyến khích phát triển một ngành nghề quan trọng

nào đó trong nền kinh tế, Nhà nước có thể thực hiện bằng cách ưu đãi về lãi suất
cho vay (như giảm lãi suất cho vay...), và ngược lại khi muốn hạn chế phát triển
của các ngành chưa cần thiết để dành nguồn lực cho các ngành khác thì Nhà
nước có thể tăng lãi suất cho vay của ngành đó. Do đó chính sách lãi suất là một
công cụ để phân phối cơ cấu của nền kinh tế nhằm sử dụng hiệu quả nhất các
nguồn lực.
1.3.5. Là công cụ đo lường nền kinh tế
Thực tế cho thấy, trong giai đoạn phát triển thì lãi suất thường có xu hướng
tăng do cung cầu quỹ cho vay đều tăng, trong đó tốc độ tăng của cầu quỹ cho
vay lớn hơn tốc độ tăng của cung quỹ cho vay. Ngược lại, trong giai đoạn suy
thoái lãi suất thường có xu hướng giảm. Do đó khi nhìn vào sự biến động của lãi
suất ta có thể thấy được tình trạng của nền kinh tế như tính sinh lời của các dự
án đầu tư, mức độ lạm phát, mức độ thiếu hụt ngân sách và qua đó còn có thể
dự báo được tình hình nền kinh tế trong tương lai
Trang 3
Tiền tệ ngân hàng
2.Chính sách điều hành lãi suất của một số nước trên thế giới
2.1.Chính sách điều hành lãi suất của NHTW các nước trong những
năm gần đây
Nhìn lại hoạt động điều hành chính sách tiền tệ của các nền kinh tế lớn trên
thế giới giai đoạn 2001 đến nay, có thể nhận thấy hoạt động điều hành chính
sách tiền tệ - trong đó chủ yếu là điều chỉnh chính sách lãi suất của các nền kinh
tế lớn - đặc biệt là Mỹ gắn liền với tăng trưởng kinh tế, thương mại và đầu tư
của các nước, đồng thời mang tính chu kỳ tương đối rõ nét.
Trong giai đoạn năm 2001 - 2003, hầu hết các nền kinh tế lớn trên thế giới
đều áp dụng chính sách tài chính và tiền tệ nới lỏng nhằm kích cầu trong nước
và ngăn chặn hiện tượng kinh tế suy giảm trên toàn cầu do tác động của khủng
hoảng tài chính - tiền tệ những năm trước đó. Trong giai đoạn này, tăng trưởng
của hầu hết các nước trên thế giới có xu hướng giảm sút so với trước đó - kể cả
khối các nước phát triển và khối các nước đang phát triển. Thương mại quốc tế

cũng có sự giảm sút mạnh mẽ. Đầu tư quốc tế trong giai đoạn này cũng có dấu
hiệu suy giảm. Theo Ngân hàng Thế giới, dòng FDI đã giảm từ 818 tỷ USD năm
2001 xuống còn 681 tỷ USD năm 2002 và 580 tỷ USD năm 2003.
Để khắc phục tình trạng tăng trưởng kinh tế suy giảm và thương mại, đầu tư
giảm sút, các nước, đặc biệt là các nước phát triển buộc phải lựa chọn giải pháp
nới lỏng chính sách tiền tệ nhằm thúc đẩy tăng trưởng. Đi đầu trong việc thực
hiện chính sách tài chính - tiền tệ nới lỏng giai đoạn 2001-2003 là Mỹ. Từ năm
2001 đến cuối năm 2003, để kích thích tăng trưởng, chống giảm phát, FED đã
13 lần cắt giảm lãi suất, đưa mức lãi suất cơ bản từ 6% năm 2001 xuống còn 1%
(mức thấp kỷ lục kể từ năm 1958) vào 25-6-2003.
Cũng theo chiều hướng này, từ 2001 đến tháng 6-2003, Ngân hàng Trung
ương Châu Âu (ECB) cũng đã 13 lần điều chỉnh chính sách lãi suất, đưa mức lãi
suất của khu vực này xuống còn 2% - mức thấp nhất kể từ sau Thế chiến II.
Việc Mỹ và EU cắt giảm lãi suất đã khiến hàng loạt các ngân hàng trung
ương khác phải cắt giảm lãi suất theo. Trung Quốc cũng đã phải giảm lãi suất
liên tục trong giai đoạn 1998-2003 nhằm kích cầu trong nước.
Chính sách tiền tệ nới lỏng của các nước trong giai đoạn này đã góp phần
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, hoạt động đầu tư và thương mại toàn cầu. Năm
2004, GDP thực tế toàn cầu đạt 5,3% -mức cao nhất trong vòng 20 năm trước
đó. Tốc độ tăng thương mại toàn cầu cũng đạt mức 10,8%, cao hơn so với mức
5,5% của năm 2003 và mức 0,2% của năm 2001. Năm 2004, lượng vốn FDI của
toàn thế giới đạt khoảng 612 tỷ USD, tăng 14% so với năm 2003. Đây là năm
đầu tiên FDI toàn cầu tăng so với năm trước sau khi đạt mức cao nhất vào năm
2000.
Trang 4
Tiền tệ ngân hàng
Sau khoảng gần 3 năm áp dụng chính sách tiền tệ nới lỏng, cùng với sự phục
hồi về kinh tế, đầu tư và thương mại, hầu hết các nước trên thế giới phải đối mặt
với lạm phát leo thang mà biểu hiện là giá cả nguyên nhiên vật liệu, giá cả hàng
tiêu dùng và lương thực thực phẩm đều tăng mạnh. Thêm vào đó, cuộc chiến

Iraq và khủng hoảng dầu mỏ cũng làm cho mặt bằng giá thế giới tăng cao.
Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) của các nước đặc biệt là Mỹ trong giai đoạn
2003-2005 có dấu hiệu tăng mạnh. Tốc độ tăng GDP thực tế của Mỹ năm 2005
là 3,1% trong khi CPI cùng năm lên tới 3,4%. Đứng trước nguy cơ lạm phát leo
thang, từ giữa năm 2004 đến năm 2006, Mỹ và các nền kinh tế lớn bắt buộc phải
chấm dứt chính sách tiền tệ nới lỏng và từng bước chuyển sang chu kỳ điều
hành chính sách tiền tệ theo hướng bắt buộc hơn. Từ giữa năm 2004 đến hết
năm 2006, FED đã liên tiếp 17 lần điều chỉnh tăng lãi suất cơ bản đồng USD,
đưa lãi suất cơ bản của đồng USD từ 1% lên 5,25% năm 2006 và tiếp tục duy trì
trong nửa đầu năm 2007, tạo nên một làn sóng tăng lãi suất mạnh mẽ ở hầu hết
các nước trên thế giới. Cùng với Mỹ, trong giai đoạn này, ECB cũng đã 3 lần
tăng lãi suất từ 2% lên 2,75%.
Tuy chậm hơn, song từ năm 2006, làn sóng tăng lãi suất cũng đã lan tới châu
Á với việc Ngân hàng Trung ương các nước Hàn Quốc, Thái Lan, Thổ Nhĩ Kỳ
liên tiếp tăng mạnh lãi suất vào năm 2006 nhằm kiềm chế lạm phát. Trong năm
2006, Ngân hàng Trung ương Hàn Quốc đã bất ngờ tăng lãi suất tiền gửi đồng
nội tệ của mình lên mức 4,25% - mức cao nhất trong vòng 3 năm qua nhằm bình
ổn giá cả. Ngân hàng Trung ương Thái Lan cũng quyết định tăng lãi suất tiền
gửi đồng nội tệ của mình thêm 0,25% lên mức 5%. Tăng mạnh nhất là Thổ Nhĩ
Kỳ, Ngân hàng Trung ương nước này đã tăng lãi suất tiền gửi đồng nội tệ của
mình từ mức 13,25% lên mức 15% nhằm bình ổn thị trường sau khi lạm phát ở
đây có dấu hiệu tăng mạnh và đồng Lira của Thổ Nhĩ Kỳ đang mất giá.
Ngay cả Nhật Bản, từ năm 2006 cũng đã hướng tới điều chỉnh chính sách
tiền tệ theo hướng thắt chặt khi tuyên bố từ bỏ chính sách lãi suất bằng 0 kéo dài
suốt giai đoạn 2001-2005.
Từ năm 2006, Trung Quốc cũng bắt đầu thực hiện chính sách tiền tệ thắt
chặt, cụ thể là, từ 10/4/2006 đến nay, Trung Quốc đã liên tục tăng lãi suất cơ bản
và nâng tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với các ngân hàng thương mại. Từ tháng
4/2006, lãi suất cơ bản cho vay bằng đồng USD kỳ hạn 1 năm đã được điều
chỉnh 3 lần, mỗi lần tăng 0,27% từ mức 5,13% lên mức 6,31%. Lãi suất tiền gửi

bằng đồng NDT sau đó cũng đã được điều chỉnh 2 lần, từ mức 1,98% lên mức
2,25%. Trong năm 2006, tỷ lệ dự trữ bắt buộc cũng đã liên tục được điều chỉnh
3 lần, nâng tỷ lệ dự trữ bắt buộc tăng lên 1,5% trong năm lên mức 9%. Năm
2007, Trung Quốc tiếp tục nâng tỷ lệ dự trữ bắt buộc lên 12,5%.
Trang 5
Tiền tệ ngân hàng
Chính sách tiền tệ thắt chặt được các nước áp dụng trong giai đoạn
2004-2006 đã khiến tăng trưởng, lạm phát của các nền kinh tế lớn như Mỹ, EU,
Nhật Bản có chiều hướng chứng lại sau khi đã tăng đỉnh điểm vào năm 2004.
Sau thời gian dài liên tục áp dụng chính sách tiền tệ thắt chặt nhằm ngăn
chặn tình trạng lạm phát leo thang, bước sang năm 2007, dường như mọi dự báo
của các tổ chức kinh tế quốc tế đều cho thấy, nền kinh tế thế giới có dấu hiệu
tăng trưởng khả quan và các hoạt động kinh tế tài chính vĩ mô tương đối ổn
định, lạm phát của các khối kinh tế lớn đã từng bước được kiểm soát. Tuy nhiên,
đến giữa năm 2007, dấu hiệu nguy cơ khủng hoảng tín dụng của các khối kinh tế
lớn bắt đầu xuất hiện. Đây được xem là một trong những hệ quả của việc tăng
lãi suất liên tục của FED trong giai đoạn 2004-2006.
Khởi đầu là tình trạng nợ xấu gia tăng trong lĩnh vực cho vay cầm cố ở Mỹ.
Để khuyến khích người dân vay tiền mua nhà, trong suốt một thời gian dài, các
tổ chức tín dụng đã áp dụng cơ chế cho vay linh hoạt mà không tính tới khả
năng chi trả của khách hàng. Cụ thể là, các công ty địa ốc của Mỹ đã đưa ra
những sản phẩm vay trả góp mới với lãi suất thả nổi. Rủi ro phát sinh khi FED
liên tục tăng lãi suất cơ bản của đồng USD trong thời gian dài làm cho lãi suất
cho vay cầm cố của Mỹ cũng tăng theo, dẫn đến người dân không thể trả nợ
ngân hàng. Tỷ lệ nợ xấu của hệ thống tín dụng tăng cao và lên tới 300 tỷ USD.
Nhiều tập đoàn, ngân hàng, quỹ đầu cơ, các nhà cho vay cầm cố lớn của Mỹ rơi
vào tình trạng khó khăn. Khủng hoảng cho vay thế chấp của Mỹ nhanh chóng
lan sang Anh và một số nước Châu Âu, ảnh hưởng sâu sắc tới thị trường tài
chính thế giới, buộc các ngân hàng trung ương lớn trên thế giới phải phối hợp để
ngăn chặn. Chính sách tiền tệ nới lỏng được xem là một trong những phương

thuốc hữu hiệu để ngăn chặn tình trạng này, với các biện pháp cụ thể sau:
Thứ nhất, hầu hết các ngân hàng trung ương lớn đã đều phải nhiều lần bơm
tiền vào hệ thống tín dụng nhằm cứu vãn thị trường tài chính trước cơn
bãokhủng hoảng thế chấp của Mỹ. Trong năm 2007. FED đã 3 lần bơm tiền
nhằm cứu vãn thị trường tiền tệ. Lần thứ nhất là 88 tỷ USD tiền mặt để hỗ trợ
các ngân hàng; lần thứ hai là 3,5 tỷ USD vào cuối tháng 8-2007; lần thứ ba là 20
tỷ USD vào tháng 12-2007.
Ngân hàng Trung ương Anh (ECB) cũng đã phải bơm tiếp 14,3 tỷ USD.
Trước tác động lan tỏa của khủng hoảng tín dụng Mỹ, ECB cũng ngay lập tức
quyết định rót 94,8 tỷ Euro vào Quỹ hỗ trợ khẩn cấp các thị trường và bơm tiếp
61,05 tỷ Euro vào hệ thống ngân hàng. Đến cuối tháng 12-2007, trước ảnh
hưởng lan rộng của khủng hoảng tín dụng ở Mỹ, ECB cũng đã tuyên bố sẽ chi
500 tỷ USD cho các ngân hàng khu vực với lãi suất ưu đãi thấp hơn lãi suất thị
trường. Theo thông báo của ECB, hiện đã có tới 390 ngân hàng yêu cầu vay
khoản vốn hỗ trợ từ ECB.
Trang 6
Tiền tệ ngân hàng
Ngân hàng Trung ương Nhật Bản cũng đã phải bơm 8,4 tỷ USD vào thị
trường tiền tệ khi mối lo về khủng hoảng vay thế chấp của Mỹ làm ảnh hưởng
tới thị trường chứng khoán nước này.
Ngân hàng Dự trữ Australia đã bơm 4,19 tỷ USD vào hệ thống tiền tệ trong
nước.
Thứ hai, hàng loạt ngân hàng trung ương các nước - đặc biệt là các nước phát
triển đồng loạt thực hiện chính sách cắt giảm lãi suất - mở ra một chu kỳ điều
hành lãi suất mới. Từ tháng 9-1997 đến hết tháng 1-2008, FED đã 5 lần cắt giảm
lãi suất, đưa mức lãi suất cơ bản từ 5,25% xuống còn 3%. Đồng thời với việc cắt
giảm lãi suất cơ bản, FED cũng tiến hành cắt giảm lãi suất chiết khấu từ mức
6,25% xuống còn 5,75%. Tiếp sau Mỹ, ngân hàng trung ương Canađa cũng thực
hiện cắt giảm lãi suất cơ bản 0,25% xuống còn 4,25% vào ngày 4/12/2007.
2.2.Chính sách điều hành lãi suất của NHTW mỹ

2.1.1.Hệ thống dự trữ liên bang Mỹ
Hệ thống dự trữ liên bang (viết tắt là FED – Federal Reserve System) là một
tổ chức nhà nước của Mỹ, chịu trách nhiệm về chính sách tiền tệ của nước này
trong quá trình cung ứng tiền tệ.
FED ra đời dựa trên Luật dự trữ liên bang năm 1913, nhằm điều tiết những
mục tiêu về tối đa việc làm, ổn định giá cả và điều chỉnh lãi suất dài hạn. Cấu
trúc chính thức của Hệ thống dự trữ liên bang là nhằm phân rộng quyền lực theo
vùng lãnh thổ, giữa khu vực tư nhân và nhà nước; giữa các ngân hàng, giới kinh
doanh và công chúng.
2.1.2.Qúa trình điều chỉnh lãi suất
Từ 2001 đến hết tháng 1-2008, Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED) đã 35 lần
điều chỉnh lãi suất, trong đó, mỗi đợt tăng giảm lãi suất cơ bản đều có quan hệ
chặt chẽ với những biến động của kinh tế toàn cầu và có ảnh hưởng lớn đến hoạt
động điều hành chính sách tiền tệ của các nước trên thế giới.
Qua Biểu đồ 1, ta thấy sự tăng/giảm của lãi suất chủ đạo mà FED điều chỉnh
tác động vào giá trị đồng đôla từ đó để thực thi chính sách điều hành nền kinh tế
của mình.
Trang 7
Tiền tệ ngân hàng
Nguồn: />Cùng với sự thăng trầm của lãi suất, diễn biến của đồng USD trong thời gian
qua vô cùng phức tạp. Từ năm 2001, lãi suất chủ đạo của nền kinh tế Mỹ bắt đầu
giảm mạnh và giữ mức 1-2% từ 6 tháng cuối năm 2001 đến cuối năm 2003.
Nguồn: />Cuối quý I.2005 sau khi FED tiếp tục nâng lãi suất đồng USD lên 0,25%, đạt
mức mới là 2,75% vào ngày 22.3.2005. Kết quả là đồng USD đã liên tiếp tăng
giá tới 4% so với đồng Euro, bảng Anh, đồng Yên Nhật.
Đầu năm 2005 với chính sách một đồng đôla mạnh, nổ lực tiếp tục thắt chặt
chính sách tiền tệ, thắt chặt ngân sách và việc tăng lãi suất. Chỉ trong vòng 6
tháng đầu năm 2005, đồng USD đã tăng giá tới 13% so với đồng Euro, 7,5% so
với đồng bảng Anh và đồng Yên Nhật. Lý do đầu tiên cho cuộc phục hồi này là
do FED liên tục tăng lãi suất. Đến thời điểm bây giờ, tổng cộng FED đã tiến

hành 17 lần tăng lãi suất chủ đạo.
Bảng 2: Diễn biến lãi suất chỉ đạo của FED trong năm 2004-2006
Trang 8
Tiền tệ ngân hàng
Nguồn: />3.Chính sách điều hành lãi suất của ngân hàng trung ương việt nam
3.1.Thực trạng lãi suất ở Việt Nam trong những năm gần đây
Lãi suất thị trường ổn định và tiếp tục xu hướng giảm dần:
- Thực trạng của nền kinh tế nước ta hiện nay đang phải đối mặt với áp lực
lạm phát và với sức phục hồi nền kinh tế còn thiếu vững chắc: Mặc dù tăng
trưởng kinh tế quí I/2010 đạt 5,83%, cao hơn nhiều mức tăng trưởng quí I/2009,
vốn đầu tư toàn xã hội tăng 26,23%, cao hơn rất nhiều mức tăng 9% của quý
I/2009, song nhập siêu vẫn ở mức đáng lo ngại (xuất khẩu đạt 14 tỷ USD, nhập
khẩu đạt 17,5 tỷ USD, nhập siêu đạt 3,5 tỷ USD), lạm phát tuy vẫn trong tầm
kiểm soát nhưng đang có xu hướng tăng trở lại.
- Cho đến thời điểm hiện nay, có thể thấy hệ thống ngân hàng Việt Nam đã
có sự phát triển vượt bậc về nhiều mặt, đặc biệt trong việc ứng dụng các công
nghệ ngân hàng mới. Tuy nhiên, năng lực tài chính, năng lực quản trị, khả năng
cạnh tranh của các thành viên trên thị trường tài chính không đồng đều, tính bền
vững trong phát triển chưa cao: Xét trong hệ thống các tổ chức tín dụng với 73
ngân hàng và 08 tổ chức tín dụng phi ngân hàng chỉ có một số ít các ngân hàng
thương mại có vốn điều lệ và tài sản có lớn. Riêng khối NHTM nhà nước (3
NHTM nhà nước, 2 NHTM mà trong đó Nhà nước chiếm cổ phần chi phối, 1
Ngân hàng Chính sách xã hội) vốn điều lệ đã chiếm 27,28% tổng vốn điều lệ
của cả khối, thị phần huy động vốn và cung cấp tín dụng khoảng 60%; mức
chênh lệch trong chiếm lĩnh thị phần của một ngân hàng lớn nhất với một ngân
hàng lớn kế tiếp là tương đối lớn. Mức độ lớn về vốn điều lệ và tài sản có quyết
định khả năng cạnh tranh của ngân hàng. Đối với những ngân hàng có vốn nhỏ
vẫn có sức mạnh trong cạnh tranh thị trường, song với một cấu trúc thị trường
Trang 9
Tiền tệ ngân hàng

có tồn tại nhiều các NHTM có vốn và thị phần thấp thường nảy sinh những hành
vi hạn chế cạnh tranh hay cạnh tranh không lành mạnh. Mặt khác, đối với nhóm
ngân hàng lớn, thông qua vị thế mạnh của mình trong hệ thống, những hành vi
chi phối thị trường của các ngân hàng này có thể gây ảnh hưởng tới tác động
tổng thể của chính sách NHNN nói chung và chính sách lãi suất nói riêng.
Tình trạng đua nhau tăng lãi suất cho vay và lãi suất huy động trong năm
2008 và những biểu hiện của thị trường những tháng đầu năm 2010 là sự biểu
hiện rõ nét của tình trạng cạnh tranh thiếu lành mạnh. Khi NHNN thực hiện cơ
chế lãi suất thỏa thuận đối với cho vay trung hạn, các NHTM đã đẩy mức lãi
suất cho vay rất cao, khoảng 18%. Mức lãi suất này đã hạn chế khả năng mở
rộng tín dụng của các NHTM (mức tăng trưởng tín dụng quí I chỉ đạt 3,34%).
Trong quí I/2010, tăng trưởng tín dụng không cao, nguồn vốn vay của các
NHTM từ NHNN để đáp ứng thanh khoản tăng lên, điều đó cho thấy vốn của
các NHTM là không khan hiếm. Do vậy, với mức lãi suất huy động mà NHNN
đã khuyến cáo các NHTM cần thực hiện theo thỏa thuận của Hiệp hội Ngân
hàng là 10,5% và lạm phát mục tiêu của Chính phủ là 7% thì đã đảm bảo một
mức lãi suất thực hợp lý cho người gửi tiền, nhưng phản ứng của các NHTM là
vẫn đua nhau tăng mức lãi suất huy động cao hơn dưới nhiều hình thức. Những
hiện tượng này biểu hiện sự bất cập lớn của thị trường, nếu không có những biện
pháp ngăn chặn sẽ gây ra những bất ổn của hệ thống ngân hàng, từ đó có thể gây
ra khủng hoảng ngân hàng.
Trong cấu trúc thị trường hiện nay, còn có một đặc điểm ảnh hưởng không
nhỏ đến tính hiệu quả của tự do hóa lãi suất, đó là thị phần tín dụng áp dụng
mức lãi suất chính sách là không nhỏ. Ngoài các khoản vay áp dụng cơ chế hỗ
trợ lãi suất trong thời gian qua, thì chúng ta cũng có không ít các dự án, các lĩnh
vực sản xuất được áp dụng lãi suất ưu đãi được thực hiện thông qua Ngân hàng
Phát triển, Ngân hàng Chính sách xã hội, các dự án đầu tư phát triển được sử
dụng các nguồn vốn ưu đãi ODA khác nữa... Các chính sách ưu đãi này là cần
thiết trong quá trình phát triển nền kinh tế hiện nay, nhưng ở chừng mực nào đó
nó làm giảm hiệu quả của chính sách tự do hóa lãi suất, vì khi đó lãi suất hình

thành trên thị trường chưa phản ánh đúng cung cầu vốn nên việc phân bổ nguồn
vốn qua công cụ lãi suất cũng bị méo mó.
- Các nhà đầu tư nắm bắt thông tin thị trường không đầy đủ, dẫn đến phản
ứng theo “bầy đàn” - là đặc điểm nổi bật của thị trường tài chính của Việt Nam
hiện nay. Đặc điểm này dễ gây nên những kỳ vọng về lạm phát trước bất cứ một
động thái chính sách kinh tế vĩ mô nào tạo tín hiệu áp lực lạm phát, nhất là chính
sách tiền tệ - một chính sách theo đuổi mục tiêu lạm phát là trụ cột.
- Về lý thuyết, khi cân nhắc lợi ích thu được từ các quyết định đầu tư, kinh
doanh, các chủ thể trong nền kinh tế thường sẽ quan tâm đến mức lãi suất thực
mà mình được nhận được là bao nhiêu. Nhìn vào thực tế của Việt Nam, hiện tại,
mức lãi suất thực mà người gửi tiền nhận được là mức lãi suất thực dương, trung
Trang 10

×