Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

2 tiểu luận môn triet hoc lớp hoàn chỉnh cao cấp lý luận chính trị nội dung nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (112.58 KB, 18 trang )

BÀI THU HOẠCH KẾT THÚC HỌC PHẦN
HỆ ĐÀO TẠO CAO CẤP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
Mơn học:
Tên
chủ
đề/vấn đề bài
thu hoạch:
Ngày chấm:
SỐ PHÁCH

ĐIỂM

Giảng viên chấm 1

Giảng viên chấm 2

(Ký, ghi rõ họ, tên)

(Ký, ghi rõ họ, tên)

Bằng số:
Bằng chữ:


Môn học:
Tên
chủ
đề/vấn đề bài
thu hoạch:
SỐ PHÁCH


Họ và tên học
viên
Mã số học viên
Lớp
Ngày nộp


1

MỞ ĐẦU
Qua hơn 30 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to
lớn, có ý nghĩa lịch sử trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ
Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Những thành tựu ấy có nhiều nguyên nhân, một
trong những nguyên nhân là Đảng ta luôn quán triệt tốt sự thống nhất giữa lý
luận và thực tiễn trong lãnh đạo sự nghiệp đổi mới. Bởi lẽ, trên cơ sở quán
triệt sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn đường lối, chủ trương của Đảng,
chính sách của Nhà nước khơng ngừng được bổ sung, hoàn thiện cho phù hợp
với thực tiễn Việt Nam; những căn bệnh giáo điều, kinh nghiệm, chủ quan
duy ý chí đã dần được khắc phục.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Thực tiễn khơng có lý luận hướng
dẫn thì thành thực tiễn mù quáng. Lý luận mà khơng có liên hệ với thực tiễn
là lý luận suông”. Thấm nhuần tinh thần ấy, Đảng Cộng sản Việt Nam trong
q trình lãnh đạo sự nghiệp đổi mới ln quán triệt sự thống nhất giữa lý
luận và thực tiễn. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng, Đảng
ta đã đánh giá "Công tác lý luận đã chủ động nghiên cứu nhiều vấn đề lý luận
và thực tiễn của công cuộc đổi mới, diễn biến mới của tình hình thế giới; giá
trị khoa học, cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh;
tập trung vào tổng kết và bổ sung, phát triển Cương lĩnh, xây dựng Chiến lược
phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020 và các văn kiện khác trình Đại hội XI
của Đảng".

Sau khi được nghiên cứu mơn Triết học, em xin phép được nghiên cứu,
viết bài thu hoạch về vấn đề "Nội dung nguyên tắc thống nhất giữa lý luận
và thực tiễn, ý nghĩa của nguyên tắc này trong việc chống bệnh kinh
nghiệm".


2

NỘI DUNG
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHẠM TRÙ THỰC TIỄN VÀ LÝ LUẬN

1.1. Phạm trù thực tiễn
* Khái niệm
Trước triết học Mác, vấn đề thực tiễn đã được đề cập dưới các quan
niệm khác nhau. Bêcơn nhà triết học duy vật Anh, người đặt nền móng cho sự
phát triển của chủ nghĩa duy vật siêu hình thế ký XVII – XVIII, cho rằng
nhận thức phải xuất phát từ giới tự nhiên và thực nghiệm để tìm ra mối quan
hệ nhân quá, phát hiện và kiểm tra chân lý. Ông được coi là người đầu tiên
thấy được vai trò của thực tiễn, của thực nghiệm khoa học trong quá trình
nhận thức và hình thành tri thức. Khi đề cao vai trị của tri thức, ơng nhấn
mạnh nhiệm vụ của triết học là tìm ra con đường nhận thức giới tự nhiên, phải
chống lại chủ nghĩa kinh nghiệm và chủ nghĩa kinh viện giáo điều.
Trong triết học cổ điển cuối thế kỷ XVIII, nửa đầu thế kỷ XIX,
Phoiơbách, nhà triết học duy vật đã đề cập đến thực tiễn, nhưng đối với ông
lại đặt lý luận cao hơn thực tiễn. Ngược lại, Hêghen, nhà triết học duy tâm
cho rằng, bằng thực tiễn, chủ thể (con người) tự “nhân đơi” mình, đối tượng
hố bản thân mình quan hệ với thế giới bên ngồi, nhưng ơng lại giới hạn
thực tiễn ở “ý niệm”, ở hoạt động tư tưởng. Đối với ông, thực tiễn là một “suy
lý lơgíc”.
Các nhà triết học duy vật trước Mác, về cơ bản cho rằng, quá trình hành

ý thức của con người mang tính thụ động. Do đó, lý luận nhận thức của họ
cịn hạn chế. Chính vì vậy, Mác đánh giá: “khuyết điểm chủ yếu của toàn bộ
chủ nghĩa duy vật từ trước đến nay – kể cả chủ nghĩa duy vật của Phoiơbách –
là sự vật, hiện thực, cái cảm giác được, chỉ nhận thức dưới hình thức khách
thể hay hình thức trực quan, chứ khơng được nhận thức là hoạt động cảm
giác của con người, là thực tiễn. Theo đánh giá của Lênin, C.Mác và


3

Ph.Ăngghen đã kế thừa và phát triển những yếu tố hợp lý, khắc phục những
hạn chế trong quan niệm về thực tiễn của các nhà triết học trước đó để đưa
phạm trù thực vào lý là một bước chuyển biến cách mạng trong lý luận nói
chung và trong lý luận nhận thức nói riêng. Vì vậy, Lênin nhận xét: “Quan
điểm về đời sống, về thực tiễn, phải là quan điểm thứ nhất và cơ bản của lý
luận nhận thức”.
Sự phát triển của khoa học thời cận đại, đặc biệt là khoa học thực
nghiệm, thực sự là một cách mạng trong nhận thức luận. Theo đó, mỗi chân lý
khoa học phải được chứng minh bằng thực nghiệm. Đây được coi là những
tiễn đề đặt nền tảng cho quan niệm thực tiễn của triết học Mác.
Theo triết học Mác – Lênin, thực tiễn là tồn bộ hoạt động vật chất có
tính chất lịch sử - xã hội của con người, nhằm cải tạo (biến đổi) tự nhiên, xã
hội và bản thân con người.
Hoạt động của con người bao gồm hoạt động vật chất và hoạt động tinh
thần. Thực tiễn là hoạt động vật chất. Đó là hoạt động mà con người sáng tạo
và sử dụng những công cụ, phương tiện vật chất tác động vào những đối
tượng vật chất nhất định để tạo ra những sản phẩm nhằm thoả những nhu cầu
nói chung của co người.
* Đặc trưng của thực tiễn
- Là hoạt động vật chất – cảm tính của con người, đó là những hoạt

động mà con người sử dụng cơng cụ, phương tiện vật chất để tác động vào thế
giới khách quan và các hoạt động đó con người có thể quan sát, có thể đong
đếm được.
- Thực tiễn là hoạt động mang tính lịch sử xã hội bởi vì đó là những
hoạt động diễn ra trong đời sống xã hội với sự tham gia đông đảo của nhiều
người và bị giới hạn bởi những điều kiện lịch sử cụ thể
- Thực tiễn là hoạt động có mục đích nhằm cải tạo tự nhiên và xã hội
phục vụ nhu cầu của con người.


4

* Các hình thức cơ bản của thực tiễn
- Hoạt động sản xuất vật chất
Là quá trình con người sáng tạo ra những công cụ lao động làm biến
đổi giới tự nhiên, xã hội và dưới dạng chung nhất là q trình con người sử
dụng cơng cụ lao động tác động vào tự nhiên, cải biến các dạng vật chất cần
thiết đáp ứng những nhu cầu của đời sống xã hội. Hoạt động sản xuất vật chất
là cơ sở cho sự tồn tại vận động và phát triển của xã hội.
Quan niệm biện chứng về lịch sử của Mác theo như sự đánh giá của
Ăngghen: Mác là người đầu tiên phát hiện ra những qui luật của sự phát triển
xã hội, tìm ra cái thật giản đơn, trước tiên con người phải ăn, uống, mặc và
ở… trước khi có thể lo đến chuyện làm chính trị, khoa học, nghệ thuật và tôn
giáo, v.v... Sản xuất vật chất là một yêu cầu khách quan của sự sinh tồn xã hội.
Mọi người trong xã hội đều có những nhu cầu và làm cách nào đó để thoả
mãn những nhu cầu thiết yếu trên thì tất nhiên con người phải sản xuất, vì sản
xuất là điều kiện cho tiêu dùng.
- Hoạt động chính trị - xã hội
Là hoạt động của con người tác động vào xã hội, cải biến các quan hệ
xã hội trên cơ sở qui luật vận động và phát triển của xã hội. Theo đó, hoạt

động này về cơ bản là hoạt động đấu tranh xã hội, để giải quyết các mâu
thuẫn xã hội làm xuất hiện các kiểu nhà nước, các hệ thống chính trị và các
thời đại khác nhau. Hoạt động chính trị - xã hội tác động đến sản xuất, phát
triển kinh tế - xã hội và thực nghiệm khoa học.
- Hoạt động thực nghiệm khoa học
Là một hình thức đặc biệt của hoạt động thực tiễn, bao gồm thực
nghiệm khoa học và thực nghiệm xã hội nhằm cải biến những đối tượng nhất
định, theo một mục đích nghiên cứu nhất định. Theo đó, hoạt động thực
nghiệm khoa học không đơn giản là chứng minh chân lý, mà quan trọng hơn


5

là định hướng cho sự vận dụng tri thức khoa học trong hoạt động vật chất của
con người, để tạo ra sản phẩm nhằm thoả mãn những nhu cầu của con người.
1.2. Phạm trù lý luận
Theo quan điểm duy vật biện chứng nhận thức là một quá trình biện
chứng từ nhận thức kinh nghiệm đến nhận thức lý luận. Trong đó, “Lý luận đã
được khái quát trong ý thức của con người, là toàn bộ tri thức về thế giới
khách quan, là hệ thống tương đối độc lập của các tri thức có tác dụng tái hiện
trong lơgíc của các khái niệm cái lơgíc khách quan của sự vật”.
Nói cách khác, lý luận là hệ thống những tri thức được khái quát từ
thực tiễn, phản ánh những mối liên hệ bản chất, những qui luật của sự vật hiện
tượng trong hiện thực. Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Lý luận là sự tổng kết những
kinh nghiệm của loài người, là tổng hợp những tri thức về tự nhiên và xã hội
tích trữ lại trong quá trình lịch sử”.
Quá trình hình thành lý luận, con người phải thông qua nhận thức kinh
nghiệm. Nhận thức kinh nghiệm là quá trình nhận thức bởi sự thu nhận từ quan
sát và thí nghiệm, nó tạo thành tri thức kinh nghiệm. Có hai loại tri thức kinh
nghiệm: tri thức kinh nghiệm thông thường (tiền khoa học) thu được từ những

quan sát hàng ngày và tri thức kinh nghiệm khoa học thu nhận được từ những
thí nghiệm khoa học. Tri thức kinh nghiệm giới hạn ở lĩnh vực các sự kiện,
miêu tả, phân loại các dữ kiện thu nhận được từ quan sát và thí nghiệm, nó vừa
là sự phản ánh trực tiếp, nhưng cũng có tính trừu tượng và khái quát nhất định.
Nhận thức lý luận, là sự phát triển tất yếu của quá trình nhận thức, nó là
trình độ cao hơn về chất so với nhận thức kinh nghiệm. Cho nên, nó là tri thức
lý luận là tri thức khái quát từ tri thức kinh nghiệm, nhưng nó khơng hình
thành một cách tự phát từ kinh nghiệm và không phải mọi lý luận đều trực
tiếp xuất phát từ kinh nghiệm. Do tính độc lập tương đối mà lý luận có thể
mang tính vượt trước những dữ kiện kinh nghiệm. Khác với kinh nghiệm, lý


6

luận mang tính trừu tượng và khái quát cao nên nó mang lại sự hiểu biết sâu
sắc về bản chất, về qui luật của các sự vật, hiện tượng. Đặc biệt một khi lý
luận xâm nhập vào thực tiễn hoạt động của quần chúng thì nó trở thành sức
mạnh vật chất.
Lý luận có những cấp độ khác nhau tùy theo đối tượng phản ánh và vai trò
phương pháp luận của nó. Có thể phân chia lý luận ngành và lý luận triết học.
Lý luận ngành là lý luận khái quát qui luật hình thành và phát triển của một
ngành. Nó là tri thức, phương pháp luận cho hoạt động nhận thức và thực tiễn của
ngành đó, như lý luận pháp quyền, chính trị, đạo đức, nghệ thuật, v.v…
Lý luận triết học là hệ thống tri thức chung nhất của con người về thế giới,
là thế giới quan và phương pháp luận nhận thức và thực tiễn của con người.
Vai trò của lý luận thể hiện qua hai chức năng cơ bản, - đó là chức năng
phản ánh và chức năng phương pháp luận cho hoạt động thực tiễn. Lý luận
phản ánh hiện thực, là phản ánh bản chất và qui luật của hiện thực dưới các
hình thức khác nhau để hình thành phương pháp luận nhận thức và biến biến
đội hiện thực bằng hoạt động thực tiễn,

II. NỘI DUNG NGUYÊN TẮC THỐNG NHẤT GIỮA LÝ LUẬN VÀ THỰC
TIỄN TRONG VIỆC PHÁT TRIỂN LÝ LUẬN Ở VIỆT NAM

2.1. Thực tiễn là cơ sở, động lực, mục đích và là tiêu chuẩn của lý
luận; lý luận hình thành, phát triển từ thực tiễn, đáp ứng yêu cầu thực tiễn
Nguyên tắc sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, trước hết, là khẳng
định thực tiễn là cơ sở, động lực, mục đích và là tiêu chuẩn của lý luận.
Thực tiễn là cơ sở lý luận. Thông qua thực tiễn được thể hiện ở hoạt
động sản xuất vật chất, chính trị - xã hội và thực nghiệm khoa học nhận thức
của con người được hình thành và phát triển. Đó cũng là q trình con người
tác động vào giới tự nhiên, xã hội làm giới tự nhiên, xã hội bộc lộ những
thuộc tính, những tính qui luật để cho con người nhận thức. Cố nhiên, ban đầu
con người chỉ thu nhận được những tài liệu cảm tính, sau đó tiến hành so


7

sánh, khái quát hoá, trừu tượng hoá… để phản ánh bản chất, qui luật của các
sự vật, hiện tượng, từ đó xây dựng thành các khoa học, lý luận. Theo đó, thực
tiễn là cơ sở của nhận thức của lý luận. Mọi tri thức dù trực tiếp hay gián tiếp
đối với các cá nhân và và cá thế hệ người, ở trình độ kinh nghiệm hay lý luận
xét đến cùng đều có nguồn gốc và bị quyết định bởi thực tiễn.
Thực tiễn là động lực của lý luận. Trong quá trình hoạt động thực tiễn
biến đổi thế giới con người cịn biến đổi bản thân mình, phát triển năng lực trí
tuệ của mình. Nhờ đó, con người ngày càng có khả năng nhận thức, khám phá
bí mật của thế giới, làm phong phú, sâu sắc hơn tri thức của mình về thế giới.
Cố nhiên, thực tiễn luôn đề ra nhu cầu nhiệm vụ và phương hướng phát triển
của nhận thức. Nhu cầu thực tiễn địi hỏi phải có tri thức mới, phải tổng kết
kinh nghiệm, khái quát lý luận, nó thúc đẩy sự ra đời và phát triển của các
ngành khoa học. Các ngành khoa học ra đời chính vì chúng cần thiết cho hoạt

động sản xuất vật chất, hoạt động chính trị - xã hội và thực nghiệm khoa học
của xã hội.
Thực tiễn là mục đích của lý luận. Nhận thức, lý luận không phải là sự
phản ánh thụ động, đơn giản là giải thích về thế giới về con người mà phải phục
vụ thực tiễn, chỉ đạo hoạt động thực tiễn. Sự ra đời của các ngành khoa học và
hệ thống lý luận của nó chỉ có ý nghĩa thật sự khi tri thức của khoa học được vận
dụng vào thực tiễn, biến đổi giới tự nhiên xã hội và bản thân con người.
Ngày nay, công cuộc đổi mới xã hội với ở Việt Nam đang đặt ra nhiều
vấn đề mới và phức tạp trong việc chủ trương đa dạng hoá các thành phần
kinh tế, vận động theo cơ chế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa đòi
hỏi lý luận phải đi sâu nghiên cứu những vấn đề đó. Theo đó, vấn đề xã hội
hố giáo dục, y tế, văn hoá và xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa hiện nay ở việt Nam cũng đòi hỏi lý luận phải đi sâu nghiên cứu, để


8

khẳng định tính tất yếu của q trình đó trên cơ sở phát triển kinh tế xã hội
hiện nay ở Việt Nam.
Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý của lý luận. Tính chân lý của lý
luận chính là sự phù hợp của lý luận với hiện thực khách quan và được thực
tiễn kiểm nghiệm. Do đó, mọi lý luận phải thơng qua thực tiễn để kiểm
nghiệm. Vì vậy, C.Mác đã khẳng định: “Vấn đề tìm hiểu xem tư duy của con
người có thể đạt đến chân lý khách quan hay khơng, hồn tồn khơng phải là
vân đề lý luận mà là vấn đề thực tiễn. Chính trong thực tiễn mà con người đã
chứng minh chân lý”. Thông qua thực tiễn, những lý luận đạt đến chân lý sẽ
được bổ sung vào kho tàng tri thức của nhân loại; những những lý luận nào
chưa phù hợp thực tiễn sẽ tiếp tục điều chỉnh, bổ sung hoặc nhận thức lại.
Cần phải hiểu thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý một cách biện chứng;
tiêu chuẩn này vừa có tính tuyệt đối và tương đối. Tiêu chuẩn thực tiễn có tính

tuyệt đối vì thực tiễn là tiêu chuẩn khách quan để kiểm nghiệm chân lý của lý
luận khi thực tiễn đạt đến tính tồn vẹn như một q trình thống nhất của các
giai đoạn của tính lịch sử cụ thể của nó. Tiêu chuẩn thực tiễn có tính tương
đối vì thực tiễn có nhiều giai đoạn, tính lịch sử cụ thế phát triển khác nhau.
Do đó, những lý luận mới chỉ khái quát một giai đoạn lịch sử cụ thể náo đó
của thực tiễn, thì lý luận đó có thể cơ bản là đúng những vẫn cịn những hạn
chế, thiếu sót nhất định nên cần phải bổ sung và phát triển thêm khi thực tiễn
đạt đến tính tồn vẹn của nó.
Ngun tắc sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn không chỉ khẳng định
thực tiễn là cơ sở, động lực, mục đích và là tiêu chuẩn của lý luận mà yêu cầu là
lý luận hình thành, phát triển từ thực tiễn, đáp ứng u cầu thực tiễn.
Phân tích vai trị của thực tiễn đối với lý luận yêu cầu chúng ta phải
quán triệt quan điểm thực tiễn. Quan điểm này yêu cầu việc nhận thức phải
xuất từ thực tiễn, dựa trên cơ sở thực thực tiễn đáp ứng những yêu cầu của


9

thực tiễn. Quá trình hình thành và phát triển của nhận thức tất yếu dẫn đến sự
hình thành và phát triển của lý luận. Đó khơng chỉ là là sự tổng kết khái quát
lịch sử nhận thức của con người mà còn từ nhu cầu của thực tiễn. Nhu cầu của
thực tiễn xét cho cùng là nhu cầu những tri thức mới và sự vận dụng nó trong
hoạt động sản xuất, hoạt động chính trị - xã hội và hoạt động thực nghiệm
khoa học làm biến đổi hiện thực khách quan nhằm thoả mãn nhu cầu nói
chung của con người.
2.2. Thực tiễn phải được chỉ đạo bởi lý luận, lý luận phải được vận
dụng vào thực tiễn, tiếp tục được bổ sung và phát triển trong thực tiễn
Nguyên tắc sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn không chỉ khẳng
định vai trò của thực tiễn đối với lý luận mà cịn thấy được vai trị của lý luận
có ý nghĩa chỉ đạo hoạt động thực tiễn.

Khi khẳng định tính thường lạc hậu hơn của ý thức xã hội so với sự vận
động phát triển của tồn tại xã hội, triết học Mác đồng thời thừa nhận rằng
trong những điều kiện khách quan nhất định, tư tưởng của con người, đặc biệt
là tư tưởng khoa học có thể vượt trước tồn tại xã hội. Theo đó, lý luận khơng
chỉ có khả năng định hướng mục tiêu, xác định lực lượng, biện pháp thực hiện
mà cịn có khả năng dự báo xu hướng phát triển, những thành công, những rủi
ro, những hạn chế có thể xảy ra trong q trình hoạt động của con người. Như
vậy, lý luận tác dụng tổ chức, chỉ đạo hoạt động thực tiễn của con người, hướng
hoạt động đó vào việc giải quyết những nhiệm vụ do sự phát triển chín muồi
của đời sống vật chất của xã hội đặt ra. Chính vì vậy, C.Mác đã cho rằng: “Vũ
khí phê phán cố nhiên khơng thể thay thế được sự phê phán của vũ khí, lực
lượng vật chất chỉ có thể đánh đổ bằng lực lượng vật chất; nhưng lý luận cũng
sẽ trở thành lực lượng vật chất, một khi nó xâm nhập vào quần chúng”.
Chủ nghĩa Mác – Lênin là hệ tư tưởng của giai cấp công nhân đã chỉ ra
những qui luật vận động tất yếu của xã hội lồi người nói chung, của xã hội tư


10

bản nói riêng và tính tất yếu của q trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, chủ
nghĩa cộng sản. Học thuyết đó trang bị cho giai cấp cơng nhân và chính đảng
cộng sản vũ khí lý luận sâu sắc để xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa
cộng sản. Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của Mác là cơ sở lý luận về thế
giới quan duy vật và phương pháp luận khoa học cho các ngành khoa học xã
hội nghiên cứu xã hội như là một quá trình lịch sử tự nhiên. Ngày nay, thực
tiễn của lịch sử và tri thức về lịch sử của nhân loại đã có nhiều bổ sung và
phát triển mới so với khi học thuyết hình thái kinh tế - xã hội ra đời.
Giá trị của chân lý của lý luận khơng chỉ mang tính tuyệt đối, tính
tương đối mà cịn có tính cụ thể. Do đó, khi vận dụng lý luận chúng ta cần
phân tích một cách cụ thể mỗi tình hình cụ thể. Nếu vận dụng máy móc, giáo

điều kinh viện chẳng những hiểu sai giá trị của lý luận mà còn làm phương
hại đến kết quả của hoạt động thực tiễn.
Sự hình thành và phát triển của lý luận là kết quả nhận thức lâu dài của
con người trên cơ sở thực tiễn. Mục đích của lý luận khơng chỉ là phương
pháp, mà cịn là định hướng mục tiêu, mơ hình và biện pháp giải quyết các
mối quan hệ của hoạt động thực tiễn. Hơn nữa, vận dụng lý luận vào thực tiễn
và thông qua thực tiễn để tiếp tục bổ sung và phát triển lý luận cho phù hợp
với thực tiễn. Chính vì vậy, tính năng động và sáng tạo của lý luận chính là
điều chỉnh cho phù hợp với thực tiễn. Về vấn đề này, Lênin đã nhận xét rằng:
“Thực tiễn cao hơn nhận thức (lý luận), vì nó có ưu điểm khơng những ở tính
phổ biến, mà cả ở tính hiện thực trực tiếp”.
2.3. Ý nghĩa của nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn
trong việc phát triển lý luận ở Việt Nam
Hơn hơn lúc nào hết, những người làm công tác nghiên cứu lý luận
chính trị Việt Nam giờ đây cần phải nhận thức sâu sắc và quán triệt tinh thần
của sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, với tư cách quy luật vận động,


11

phát triển của cách mạng và xã hội Việt Nam hiện nay vào trong hoạt động
nghiên cứu của mình. Sự vận động của thực tiễn đổi mới trong thời kỳ đẩy
mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước đang đặt ra những vấn đề cần
phải nghiên cứu và liên tục kiến giải nhằm làm rõ sự thống nhất giữa lý luận
và thực tiễn trong đời sống xã hội cũng như trong nghiên cứu lý luận chính trị
ở nước ta hiện nay đã và đang đặt ra một số vấn đề cần ưu tiên để tiếp cận, lý
giải và minh chứng:
Một là, cần nghiên cứu và định hình mơ hình phát triển riêng của xã hội
Việt Nam hiện nay.
Sự thay đổi mang tính bước ngoặt trên phạm vi tồn cầu, sự đúc rút

những bài học kinh nghiệm đầy giá trị trong phong trào xã hội chủ nghĩa hiện
thực trên thế giới cùng với thực tiễn công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội
trong những năm đổi mới ở Việt Nam đã đặt ra những vấn đề, những nội dung
khoa học mới địi hỏi phải có cách tiếp cận mới, cách nhìn mới với những
quan niệm mới trong cơng tác nghiên cứu lý luận chính trị ở nước ta. Đó là
việc phải xây dựng và củng cố Đảng cộng sản với tư cách Đảng cầm quyền
trên một nền tảng xã hội trong đó có hệ thống chính trị nhất ngun và nền
kinh tế nhiều thành phần; hơn thế, phải làm cho hệ thống chỉnh thể này có
mối quan hệ đồng thuận, tương hỗ lẫn nhau để đảm bảo vận động tốt, hướng
tới ổn định và phát triển. Xây dựng, điều hành và phát triển nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, một mơ hình phát triển chưa từng được
đề cập trong kinh điển mácxít và chưa được vận hành trong hiện thực, nhằm
mục đích xây dựng một nước Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh” cũng là một vấn đề lớn được đặt ra mà việc tìm lời
giải là khơng đơn giản, song lại mang tính chất sống cịn trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Tương tự như vậy, cần phải kiến tạo và thực
thi một Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân vừa


12

mang bản chất của giai cấp công nhân vừa là nhà nước bảo vệ quyền lợi cho
cả dân tộc; vừa là một thể chế quyền lực mạnh không can thiệp quá sâu vào
nền kinh tế, vừa đủ sức định hướng và chi phối nền kinh tế, nghĩa là chúng ta
phải xây dựng một Nhà nước vô sản kiểu mới, riêng có ở Việt Nam. Mặt
khác, chúng ta phải thực hiện một q trình cơng nghiệp hố gắn với hiện đại
hố để từng bước phát triển kinh tế tri thức, tức là thực hiện mơ hình cơng
nghiệp hố phi cổ điển rút ngắn mang đặc trưng thời đại và phù hợp với cuộc
cách mạng khoa học – công nghệ hiện đại... Đó chính là những vấn đề, những
nội dung vừa mang tính thực tiễn, vừa mang tính khoa học – lý luận chưa

từng có tiền lệ trong lịch sử nhân loại và cũng chưa từng có ở Việt Nam. Đó
cũng chính là những yêu cầu mới, cấp bách mà thực tiễn xã hội của Việt Nam
đang đặt ra và đòi hỏi cơng tác lý luận chính trị ở nước ta hiện nay cần phải lý
giải, làm sáng tỏ nếu muốn phát triển đúng hướng và theo kịp thời đại.
Hai là, kiên định và đặc biệt là phải vận dụng, phát triển sáng tạo lý
luận của chủ nghĩa Mác - Lênin cho sát hợp với thực tiễn và nhận thức mới về
chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Việt Nam cũng như trên thế giới trong hoàn cảnh
và điều kiện mới.
Thế giới đương đại những năm cuối thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI đang
có sự biến đổi nhanh chóng. Sự tác động, chế ước và đan xen lẫn nhau của ba
nhân tố nổi trội của thời đại: cách mạng khoa học – cơng nghệ hiện đại, kinh
tế tri thức và tồn cầu hoá đã dẫn đến sự thay đổi sâu sắc và đa diện trong đời
sống con người; thậm chí, dẫn tới hệ quả là có sự đảo lộn mang tính nghịch lý
trong xã hội. Như C.Mác đã từng nhận định, dường như lực lượng sản xuất
càng phát triển, năng suất lao động cá nhân và xã hội càng tăng lên, của cải xã
hội được sản xuất ra ngày càng nhiều thì một bộ phận khá đơng dân số lại
ngày càng nghèo đi. Sự tăng tiến, sự nở rộ và phát triển của văn minh nhân
loại được nhân lên gấp bội trong thế giới đương đại lại dẫn đến tình trạng có


13

sự “xung đột” về văn hoá; sự tiến bộ, dân chủ càng mở rộng, càng phát triển,
càng đi vào chiều sâu thì tình trạng bất bình đẳng cũng trở nên sâu sắc; những
tri thức khoa học – công nghệ mà con người tiếp thu được mỗi năm tăng lên
gấp đôi lại không thể ngăn cản sự gia tăng của niềm tin tơn giáo... Trước
nghịch lý ấy, đây đó trong giới nghiên cứu lý luận – tư tưởng mácxít trên thế
giới đã có người đặt lại, hồi nghi, thậm chí phủ nhận những nguyên lý,
những nội dung của chủ nghĩa cộng sản khoa học nói riêng và chủ nghĩa Mác
nói chung. Song, có rất nhiều nhà nghiên cứu lý luận mácxít chân chính đã

khơng rơi vào cách nghĩ và cách làm cực đoan đó.
Đối với các nhà lý luận chính trị Việt Nam, chủ nghĩa Mác – Lênin vẫn
luôn là một học thuyết khoa học, có giá trị phương pháp luận cho bất kỳ sự
nghiên cứu lý luận chính trị nào. Di sản lý luận mà các nhà kinh điển để lại có
giá trị và ý nghĩa cực kỳ quan trọng. Song, lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin
là một học thuyết mở, nên cũng cần phải xem nó như một hệ giá trị mở, một
hệ tiêu chí mở và giới nghiên cứu lý luận chính trị nước ta phải có trách
nhiệm nghiên cứu, vận dụng một cách sáng tạo nhằm bổ sung và phát triển.
Chỉ như vậy, chúng ta mới có thể làm cho chủ nghĩa Mác - Lênin ln mang
sức sống mới và đóng vai trị định hướng, dẫn đường cho xã hội Việt Nam
vận động, phát triển tương thích với điều kiện mới trong thế kỷ XXI. Làm
được như vậy, nghiên cứu lý luận chính trị ở Việt Nam sẽ có được sự thống
nhất giữa lý tưởng và hiện thực.
Ba là, sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn được biểu hiện thiết thực
nhất, sống động nhất và cụ thể nhất trong hoạt động lý luận chính trị hiện nay
chính là lý luận phải tham gia và góp phần tích cực, có hiệu quả vào việc thúc
đẩy sự phát triển và sự phồn thịnh của đời sống xã hội Việt Nam. Do đó, cơng
tác hoạt động nghiên cứu lý luận chính trị ở nước ta lúc này là cần và phải cổ
động, nêu gương, khuyến khích và chỉ dẫn cho mọi công dân biết làm giàu


14

chính đáng. Phải làm cho cả xã hội cảm nhận sâu sắc và phát huy hết khả
năng của mình để làm những gì mà pháp luật khơng cấm, nghĩa là có thể tiến
hành những cơng việc và hoạt động trong nhiều lĩnh vực, với nhiều phương
thức khác nhau, miễn là những cơng việc, hoạt động và phương thức đó mang
lại hiệu quả kinh tế - xã hội cao, đúng pháp luật và đúng định hướng xã hội
chủ nghĩa. Thêm vào đó, nghiên cứu lý luận chính trị phải tìm ra và xây dựng
được cơ sở lý luận cho việc kiến tạo và thực thi một môi trường thuận lợi cho

hoạt động sản xuất, kinh doanh; trong đó, mọi cá nhân, mọi chủ thể, mọi
thành phần kinh tế đều được bình đẳng như nhau. Đi liền với đó là phải định
hướng về mặt lý luận để mọi thành viên xã hội, mọi chủ thể, mọi thành phần
kinh tế phải tôn trọng và tuân thủ triệt để nguyên tắc hoạt động trong xã hội:
quyền và nghĩa vụ công dân phải gắn liền với nhau. Phải thấy được sự thống
nhất và tương hỗ lẫn nhau giữa chúng, nghĩa là trong hoạt động hiện thực phải
xem quyền là trách nhiệm của xã hội đối với cá nhân và nghĩa vụ là trách
nhiệm của cá nhân đối với xã hội. Đây là hai mặt của một hệ thống nhất quán,
hai yếu tố bắt buộc của hoạt động công dân trong một xã hội pháp quyền.
Thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta là một sự nghiệp rất mới
mẻ, đa diện và phức tạp; do đó việc nhận thức đúng bản chất, con đường và
bước đi của q trình này địi hỏi một sự khái quát lý luận làm cơ sở giúp
Đảng và Nhà nước vạch ra được chủ trương, đường lối để quản lý, điều tiết và
thực hành q trình đó. Hơn nữa, chúng ta đang đẩy mạnh cơng nghiệp hố,
hiện đại hố đất nước và q trình này sẽ làm xuất hiện trong xã hội nhiều vấn
đề mới, nhiều nội dung mới. Vì vậy, cần thiết phải có sự nhạy cảm, hiểu biết,
nắm bắt đúng và khái quát sâu sắc thực tiễn mới có thể đưa lại những giải
pháp hữu hiệu, khả thi nhằm phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của
q trình đó, đồng thời làm thúc đẩy lý luận phát triển. Đó là nội dung cơ bản,
xuyên suốt và đặc biệt quan trọng đối với hoạt động nghiên cứu lý luận chính


15

trị hiện nay ở nước ta. Thực tiễn hơn 20 năm đổi mới đất nước vừa qua đã cho
chúng ta những bài học hay, những kinh nghiệm quý, những cách tạo ra diện
mạo mới cho chủ nghĩa xã hội rất linh hoạt, sáng tạo và cần phải được đúc
rút, khái quát thành lý luận và triết lý phát triển của đất nước trong bối cảnh
mới chỉ bằng cách đó, mới tạo ra cơ sở lý luận khoa học cho việc định hướng
sự phát triển của đất nước trong tương lai.

Tóm lại, khái quát thực tiễn để phát triển lý luận và đến lượt nó, nghiên
cứu, phát triển lý luận để soi đường, định hướng cho thực tiễn là một tất yếu,
một đòi hỏi nội sinh của sự thống nhất giữa cái lý tưởng và cái hiện thực trong
hoạt động lý luận chính trị ở nước ta hiện nay.


16

KẾT LUẬN
Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam nói chung, sự
nghiệp đổi mới nói riêng, Đảng ta luôn quán triệt tốt sự thống nhất giữa lý
luận và thực tiễn. Điều này thể hiện ở chỗ, Đảng thường xuyên tổng kết thực
tiễn để bổ sung, hoàn thiện đường lối, chủ trương, chính sách cho phù hợp với
điều kiện, hoàn cảnh Việt Nam. Đồng thời, Đảng làm hết sức mình để nâng
cao trình độ lý luận cho cán bộ, đảng viên và nhân dân, để mỗi cán bộ, đảng
viên luôn nắm vững chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và biết
vận dụng những tư tưởng đó vào điều kiện nước ta. Khơng những thế, Đảng
cịn quan tâm tích cực chỉ đạo cuộc đấu tranh khơng khoan nhượng với những
kẻ thù về tư tưởng - lý luận, chỉ ra bản chất sai lầm, phản khoa học, những
mục đích sâu xa của chúng. Trên cơ sở đó, bảo vệ sự trong sáng của chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, bảo vệ sự đúng đắn trong đường lối của
mình. Chính vì vậy mà hơn 80 năm qua, Đảng ta ln hồn thành xuất sắc sứ
mệnh lãnh đạo cách mạng Việt Nam, đưa cách mạng nước ta đi từ thắng lợi
này đến thắng lợi khác, đặc biệt là những năm Đảng lãnh đạo sự nghiệp đổi
mới, Đảng luôn luôn quán triệt tốt nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực
tiễn trong lãnh đạo cách mạng.


17


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, X, XI, XII- Báo điện
tử Đảng Cộng sản Việt Nam
2. Đảng Cộng sản Việt Nam-80 năm xây dựng và phát triển (NXB
Chính trị Quốc gia-năm 2010)



×