Tải bản đầy đủ (.pdf) (61 trang)

TIỂU LUẬN: HIỆU QUẢ TỪ CÁC GÓI CHÍNH SÁCH CỦA VIỆT NAM TRONG NỖ LỰC VƯỢT QUA KHỦNG HOẢNG TOÀN CẦU pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.13 MB, 61 trang )







TÊN TIỂU LUẬN:
HIỆU QUẢ TỪ CÁC GÓI CHÍNH SÁCH
CỦA VIỆT NAM TRONG NỖ LỰC
VƯỢT QUA KHỦNG HOẢNG TOÀN CẦU

Nhóm SV thực hiện: G3-TCNH08A
Giảng viên hướng dẫn: Hồ Thị Khánh Linh


CAO LÃNH – 10/2009



ĐI HC ĐNG THÁP
KHOA KINH T
TIỂU LUẬN TÀI CHÍNH TIỀN TỆ

GVHD: H
 Th Khánh
Linh

G3.FB08A.DTHU
L
L



I
I


N
N
Ó
Ó
I
I


Đ
Đ


U
U


Có thể nhận định rằng, nền kinh tế Việt Nam đang chịu ảnh hưởng sâu sắc
bởi cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu manh nha từ nửa cuối năm 2007 cho đến
nay. Không chỉ riêng Việt Nam, mà hầu hết các nước trên Thế giới, đặc biệt là Hoa
Kỳ, Nhật Bản, EU và các cường quốc công nghiệp khác đang phải nỗ lực không
ngừng trong cuộc chiến chống lại một trong những cơn đại suy thoái khủng khiếp
nhất của mọi thời đại. Khủng hoảng, suy thoái, lạm phát, thất nghiệp, phá sản, … đó
là những cụm từ được nhắc đến nhiều nhất trên các phương tiện truyền thông đại
chúng trong năm nay.
Để đối phó với tình hình kinh tế đang ngày càng trở nên phức tạp hơn, Chính

phủ Việt Nam đã thực hiện nhiều gói chính sách nhằm đưa kinh tế của đất nước
thoát khỏi cơn bão khủng hoảng, trở lại với mức tăng trưởng khá như kế hoạch tầm
vĩ mô đã đề ra. Điều chỉnh về tài chính là việc làm cần thiết để tránh đặt toàn bộ
gánh nặng lên bình ổn tỉ giá. Tuy nhiên, nếu phụ thuộc quá nhiều vào chính sách
thắt chặt tiền tệ sẽ chỉ khiến cho thị trường tài sản suy yếu và gây rủi ro cho các
ngân hàng, đặc biệt là các ngân hàng cổ phần đã cho vay quá nhiều để đầu tư tài
chính và bất động sản. Trong thời điểm hiện nay, chênh lệch do lạm phát giữa Việt
Nam và các đối tác thương mại đã khiến cho tiền đồng tăng giá. Việc để mất khả
năng cạnh tranh của đồng tiền quốc gia là một động thái không hề mong đợi trong
thời điểm mức thâm hụt thương mại lên cao như vậy.
Vậy những nỗ lực và động thái của Chính phủ và các nhà hoạch định chính
sách trong việc cùng lúc giải quyết những vấn đề lớn của nền kinh tế ra sao? Và
chúng đã phát huy tác dụng như thế nào?
Trong khuôn khổ một bài tiểu luận kinh tế, chúng tôi xin được phép nêu ra
những vấn đề chung nhất, mang tính khái quát nhất xoay quanh 3 nội dung chính:
1. Khủng hoảng tài chính toàn cầu. Những tác động của nó đến nền kinh tế
Thế giới.
2. Khái quát tình hình kinh tế Việt Nam 2008-2009.
TIỂU LUẬN TÀI CHÍNH TIỀN TỆ

GVHD: H
 Th Khánh
Linh

G3.FB08A.DTHU
3. Các gói giải pháp của Chính phủ nhằm kiềm chế lạm phát, kích cầu và
bình ổn kinh tế giai đoạn 2008 – 2009. (Phần này chỉ đề cập đến hiệu quả các chính
sách tiền tệ của Chính phủ).
Trong quá trình thực hiện tiểu luận, nhóm đã được sự hướng dẫn, động viên
chân thành của cô Hồ Thị Khánh Linh - cao học kinh tế, giảng viên khoa Kinh tế,

hiện đang giảng dạy tín chỉ “Lý thuyết tài chính tiền tệ” cho lớp ĐHTCNH08A
chúng em.
Do hiểu biết còn hạn chế, cộng thêm điều kiện thời gian không cho phép,
chắc chắn bài tiểu luận sẽ không tránh khỏi những thiếu sót nhất định. Rất mong
nhận được sự góp ý từ quý thầy cô và các bạn.
TP. Cao Lãnh, ngày 23 tháng 10 năm 2009
Thay mặt nhóm 3 – ĐHTCNH08A
Nhóm trưởng

Lương Việt Hoàng








TIỂU LUẬN TÀI CHÍNH TIỀN TỆ

GVHD: H
 Th Khánh
Linh

G3.FB08A.DTHU
N
N
H
H



N
N
G
G


K
K
Í
Í


H
H
I
I


U
U


V
V
I
I


T

T


T
T


T
T


T
T
R
R
O
O
N
N
G
G


T
T
I
I


U

U


L
L
U
U


N
N


- TCTK : Tổng cục Thống kê
- NHNN : Ngân hàng Nhà nước
- NHTM : Ngân hàng thương mại
- NCQLKTTƯ : Viện Nghiên cứu quản lý Kinh tế Trung ương
- VIR : Vietnam Investment Review
- ADB : Asian Development Bank
- BMI : Business Monitor International Ltd.
- IMF : International Monetary Fund
- EIU : Economist Intelligence Unit
- WB : World Bank
- HA : Haver Analytics
- SIV : Structured Inverstment Vehicle
- FED : Federal Reserve System
- OECD : Organization for Economic Cooperation and Development












TIỂU LUẬN TÀI CHÍNH TIỀN TỆ

GVHD: H
 Th Khánh
Linh

G3.FB08A.DTHU
C
C
H
H
Ư
Ư
Ơ
Ơ
N
N
G
G


I

I


K
K
H
H


N
N
G
G


H
H
O
O


N
N
G
G


T
T
À

À
I
I


C
C
H
H
Í
Í
N
N
H
H


T
T
O
O
À
À
N
N


C
C



U
U


N
N
H
H


N
N
G
G


T
T
Á
Á
C
C


Đ
Đ


N

N
G
G


C
C


A
A


N
N
Ó
Ó


Đ
Đ


N
N


N
N



N
N


K
K
I
I
N
N
H
H


T
T




T
T
H
H




G

G
I
I


I
I


I. NGUỒN GỐC PHÁT SINH KHỦNG HOẢNG
Khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008 – 2009 là một cuộc khủng hoảng
bao gồm sự đổ vỡ hàng loạt hệ thống ngân hàng, tình trạng đói tín dụng, tình
trạng sụt giá chứng khoán và mất giá tiền tệ trên quy mô lớn ở nhiều nước trên
Thế giới, có nguồn gốc từ khủng hoảng tài chính ở Hoa Kỳ diễn ra từ năm 2007.
Ngòi nổ của cuộc khủng hoảng bắt nguồn từ khủng hoảng tín dụng thứ
cấp bất động sản tại Hoa Kỳ. Bong bóng nhà ở cùng với giám sát tài chính thiếu
hoàn thiện của Hoa Kỳ đã dẫn tới một cuộc khủng hoảng tài chính ở quốc gia
này từ năm 2007 và bùng phát mạnh từ cuối năm 2008. Thông qua quan hệ tài
chính nói riêng và kinh tế nói chung mật thiết giữa Hoa Kỳ với nhiều nước trên
Thế giới, dẫn tới những đổ vỡ tài chính, suy thoái kinh tế, làm suy giảm tốc độ
tăng trưởng kinh tế ở nhiều nước trên Thế giới.
Một trong những tác nhân chính gây nên tình trạng khủng hoảng hiện nay
là các ngân hàng thương mại (NHTM) và các tổ chức tài chính Mỹ thông qua hoạt
động cho vay dưới tiêu chuẩn và nghiệp vụ chứng khoán hoá mà nhiều chuyên
gia gọi là “Cỗ máy đầu tư cấu trúc” (Structured Investment Vehicle – SIV).
Phương thức kinh doanh của các SIV là huy động vốn ngắn hạn thông qua
việc phát hành thương phiếu (Commercial Paper) với lãi suất thấp để đầu tư vào
các loại chứng khoán được đảm bảo bằng tài sản (Asset-Backed Securities), đa
số trường hợp là bất động sản với lãi suất cao.
Như vậy, nhìn vào thực tế thì các NHTM đã huy động vốn ngắn hạn để

cho vay dài hạn vào một lĩnh vực khá nhạy cảm là bất động sản, mặc dù để đảm
bảo khả năng thu hồi nợ họ đã bán các khoản cho vay này cho các tổ chức tài
chính và đã để lại cho nền kinh tế, thị trường tài chính rủi ro rất lớn. Đó là rủi ro
vỡ nợ khi giá của các tài sản dài hạn là bất động sản xuống thấp hơn giá trị của
các khoản nợ ngắn hạn và rủi ro thanh khoản do việc đi vay ngắn hạn nhưng lại
TIỂU LUẬN TÀI CHÍNH TIỀN TỆ

GVHD: H
 Th Khánh
Linh

G3.FB08A.DTHU
cho vay dài hạn. Rủi ro này sẽ tăng lên gấp bội trong điều kiện thiếu sự kiểm
soát và giám sát của Chính phủ.
II. DIỄN BIẾN CUỘC KHỦNG HOÁNG TÀI CHÍNH HOA KỲ
Tháng 8 năm 2007, một số tổ chức tín dụng của Mỹ như New Century
Financial Corporation phải làm thủ tục xin phá sản. Một số khác thì rơi vào tình
trạng cổ phiếu của mình bị mất giá mạnh như Countrywide Financial
Corporation. Nhiều người gửi tiền ở các tổ chức tín dụng này đã lo sợ và đến rút
tiền, gây ra hiện tượng đột biến rút tiền gửi khiến cho các tổ chức đó càng thêm
khó khăn hơn. Nguy cơ khan hiếm tín dụng hình thành.
Từ Mỹ, rối loạn này lan sang các nước khác. Ở Anh quốc, ngân hàng
Northern Rock bị chao đảo vì người gửi tiền xếp hàng dàitrước trụ sở công ty
đòi rút tiền gửi của mình.
Trước tình hình đó, Cục dự trữ Liên bang Mỹ (Federal Reserve System –
FED) đã tiến hành các biện pháp nhằm tăng mức độ thanh khoản của thị trường
tín dụng như thực hiện nghiệp vụ thị trường mở mua vào các loại công trái Mỹ,
trái phiếu cơ quan Chính phủ Mỹ. Tháng 9/2007, Cục dự trữ Liên bang tiến
hành giảm lãi suất cho vay liên ngân hàng (Fed fund rates) từ 5,25% xuống còn
4,75%. Trong khí đó, Ngân hàng Trung ương Châu Âu đã bơm 205 tỷ dollar Mỹ

vào thị trường tín dụng để nâng cao mức thanh khoản.
Tháng 12/2007, cuộc khủng hoảng tiến sang nấc trầm trọng hơn khi
những báo cáo kinh tế cuối năm cho thấy sự điều chỉnh của thị trường bất động
sản diễn ra lâu hơn tự tính và quy mô của khủng hoảng cũng rộng hơn rất nhiều
lân so với ước đoán của các chuyên gia kinh tế. Tình trạng đói tín dụng trở nên
rõ ràng. Hệ thống dự trữ liên bang cố gắng giảm mạnh lãi suất liên ngân hàng
vào tháng 12/2007 và tháng 2/2008 nhưng không có hiệu quả như mong đợi.
Tháng 3/2008, Ngân hàng dự trữ liên bang New York cố cứu Bear Sterns
nhưng không nổi, và công ty này phải chấp nhận để JP Morgan Chase mua lại
với giá 10 dollar một cổ phiếu, nghĩa là thấp hơn rất nhiều lần so với giá 130,2
dollar một cổ phiếu trước khi khủng hoảng nổ ra. Việc Ngân hàng dự trữ Liên
bang New York cứu không nổi Bear Sterns và buộc lòng để công ty này bị bán
TIỂU LUẬN TÀI CHÍNH TIỀN TỆ

GVHD: H
 Th Khánh
Linh

G3.FB08A.DTHU
đi với mức giá quá rẻ đã
khiến cho sự lo ngại về
năng lực can thiệp của
Chính phủ cứu viện các tổ
chức tài chính gặp khó
khăn. Chính sự sụp đổ của
Baer Sterns đã đẩy cuộc
khủng hoảng lên nấc
thang trầm trọng hơn.
Tháng 8/2008, đến
lượt Lehman Brothers,

một tổ chức tài chính vào
loại lớn nhất và lâu đời
nhất của Mỹ bị phá sản.
Tiếp sau Lehman là chuỗi
một loạt các công ty khác.
Tháng 9/2008, Thượng
viện Hoa Kỳ thông qua
Đạo luật Ổn định kinh tế
khẩn cấp 2008 cho phép
bộ trưởng Bộ Tài chính
Hoa Kỳ chi tới 700 tỷ
USD để cứu nền tài chính
của nước này bằng cách
mua lại các khoản nợ xấu
của ngân hàng, đặc biệt là các chứng khoán đảm bảo bằng bất động sản.
Tính đến thời điểm này, tổng số ngân hàng bị giải thể ở Mỹ từ đầu năm
2009 đã lên tới con số 98 và đang tiến gần tới mốc 100, tức là gấp 4 lần so với
con số 25 ngân hàng phải đóng cửa trong năm 2008. Tính bình quân, mỗi tháng
trong năm 2009 đã có hơn 10 ngân hàng tại Mỹ lâm nạn, phần lớn là các ngân
Diễn biến kinh tế Quốc tế năm 2008
2/1: Giá dầu thô lần đầu tiên vượt 100 USD mỗi thùng.
16/3: Bear Stears tuyên bố phá sản, báo hiệu chuỗi đổ vỡ của các định chế
tài chính vào những tháng tiếp theo.
11/7: Giá dầu chạm mức lịch sử 147,27 USD mỗi thùng.
7/9: Mỹ chi 200 tỷ USD tiếp quản Freddie Mac và Fannie Mae.
14/9: Bank of America mua lại Merrill Lynch.
15/9: Lehman Brothers tuyên bố phá sản.
16/9: Mỹ giải cứu AIG.
21/9: Goldman Sachs và Morgan Stanley thay đổi mô hình hoạt động.
28/9: Ngân hàng Bradford & Bingley (Anh) sụp đổ.

29/9: Quốc hội Mỹ bác kế hoạch 700 tỷ USD, khiến Dow Jones có mức
sụt giảm lớn nhất lịch sử, gần 778 điểm, và phố Wall mất 1.200 tỷ USD.
3/10: Hạ viện Mỹ thông qua gói 700 tỷ USD.
7/10: Anh chi 88 tỷ USD cứu hệ thống ngân hàng.
8/10: Các ngân hàng trung ương đồng loạt hạ lãi suất.
12/10: Chính phủ Iceland có nguy cơ sụp đổ
27/10: IMF bơm tiền hỗ trợ hàng loạt nền kinh tế.
5/11: Ông Barack Obama đắc cử Tổng thống Mỹ, với đường lối kinh tế
được Thế giới kỳ vọng thay đổi hiện trạng kinh tế Mỹ và toàn cầu.
10/11: Trung Quốc chi gần 600 tỷ USD kích thích kinh tế.
14/11: 15 nước châu Âu thừa nhận lâm vào suy thoái.
17/11: Nhật thông báo đã suy thoái.
25/11: Mỹ chi thêm 800 tỷ USD hỗ trợ kinh tế.
1/12: Mỹ thừa nhận đã suy thoái từ cuối năm 2007.
11/12: Vụ lừa đảo 50 tỷ USD của Bernard Madoff vỡ lỡ, với hàng nghìn
n
ạn nhân.

TIỂU LUẬN TÀI CHÍNH TIỀN TỆ

GVHD: H
 Th Khánh
Linh

G3.FB08A.DTHU
hàng địa phương, quy mô nhỏ, không đủ sức chống chọi với những khoản thua lỗ
trong hoạt động cho vay tiêu dùng và nhà đất. Cũng ở thời điểm cuối quý 2, đã có
416 ngân hàng bị FDIC liệt vào danh sách những nhà băng có nguy cơ đổ vỡ.
III. ẢNH HƯỞNG CỦA KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH ĐẾN NỀN
KINH TẾ HOA KỲ VÀ KINH TẾ THẾ GIỚI

1. Đối với Hoa Kỳ:
Cuộc khủng hoảng này là nguyên nhân chính làm cho kinh tế Hoa Kỳ rơi
vào suy thoái từ tháng 12 năm 2007. Nhiều chuyên gia dự đoán đây sẽ là đợt suy
thoái nghiêm trọng nhất ở cường quốc kinh tế này kể từ sau Chiến tranh Thế
giới thứ hai. Bình quân mỗi tháng, từ tháng 1 tới tháng 9 năm 2009 có 84 nghìn
người lao động Hoa Kỳ bị mất việc làm.
Thất nghiệp gia tăng ảnh hưởng tiêu cực đến thu nhập và tiêu dùng của
các hộ gia đình lại càng làm cho các doanh nghiệp khó tiêu thụ được hàng hóa
của họ. Nhiều doanh nghiệp lớn bị phá sản hoặc có nguy cơ bị phá sản, trong đó
bao gồm cả ba nhà sản xuất ô tô hàng đầu Hoa Kỳ là General Motors, Ford
Motors và Chrysler LLC. Các nhà lãnh đạo 3 hãng ô tô này đã nỗ lực vận động
Quốc hội Hoa Kỳ cứu trợ, nhưng không thành công. 12/12/2008, GM (General
Motors) đã phải tuyên bố tạm thời đóng cửa 20 nhà máy của hãng hoạt động
không hiệu quả ở khu vực Bắc Mỹ. Tiêu dùng giảm, hàng hóa ế thừa đã dẫn đến
mức giá chung của nền kinh tế giảm liên tục, đẩy kinh tế Hoa Kỳ tới nguy cơ có
thể bị giảm phát.
Chỉ số bình quân công nghiệp Dow Jones lúc đóng cửa ngày 9 tháng 3
năm 2009 là 6.547,05 – mức thấp nhất kể từ tháng 4 năm 1997. Chỉ trong vòng
6 tuần lễ, chỉ số này sụt tới 20%.
Suy thoái kinh tế đã đẩy tỷ lệ dân số sống dưới mức nghèo của Mỹ lên
mức 13,2% trong năm 2008, từ mức 12,5% trong năm 2007. Đây là mức cao
nhất từ năm 1997 tới nay và có khả năng tiếp tục tăng cao hơn trong năm nay do
tỷ lệ thất nghiệp đang leo thang. Con số này đồng nghĩa với việc 39,8 triệu
người Mỹ sống với thu nhập dưới 22.025USD/năm cho một gia đình có 4 người
theo chuẩn nghèo của Mỹ. Nếu tính tới yếu tố lạm phát, thu nhập bình quân của
TIỂU LUẬN TÀI CHÍNH TIỀN TỆ

GVHD: H
 Th Khánh
Linh


G3.FB08A.DTHU
các hộ gia đình tại Mỹ năm 2008 thậm chí còn thấp hơn mức cách đây 1 thập kỷ.
Đây được xem là một bằng chứng nữa về tác động tiêu cực của suy thoái và tình
trạng lương bổng đình trệ kéo dài mà tầng lớp trung lưu ở Mỹ phải đối mặt.
Cuộc khủng hoảng còn làm cho dollar Mỹ lên giá. Do USD là phương tiện
thanh toán phổ biến nhất trên Thế giới hiện nay, nên các nhà đầu tư toàn cầu đã
mua dollar để nâng cao khả năng thanh toán của mình, đẩy đồng tiền này lên giá
nhanh chóng. Điều này khiến cho xuất khẩu của Hoa Kỳ bị thiệt hại nặng nề. Bộ
Tài chính Mỹ cũng vừa thông báo trong tháng 8/2009, ngân sách của nước này đã
thâm hụt thêm 111,4 tỉ USD, nâng mức thâm hụt ngân sách trong 11 tháng của tài
khóa hiện nay lên 1.378 tỉ USD. Tuy nhiên, mức thâm hụt ngân sách thực tế của
tháng 8 vẫn thấp hơn mức dự báo 152 tỉ USD mà các nhà phân tích đưa ra tháng
trước và cũng thấp hơn mức thâm hụt 111,91 tỉ USD cách đây một năm.
2. Đối với Thế giới:

Bảng 1: Dự báo sản lượng Thế giới 2009 - 2010
(Trích Dự báo triển vọng kinh tế toàn cầu - Nguồn: IMF)
TIỂU LUẬN TÀI CHÍNH TIỀN TỆ

GVHD: H
 Th Khánh
Linh

G3.FB08A.DTHU
Hoa Kỳ là thị trường nhập khẩu quan trọng của nhiều nước, do đó khi nền
kinh tế suy thoái, xuất khẩu của nhiều nước bị thiệt hại, nhất là những nước theo
hướng xuất khẩu ở Đông Á. Một số nền kinh tế ở đây như Nhật Bản, Đài Loan,
Singapore và Hong Kong rơi vào cơn suy thoái. Các nền kinh tế khác đa phần đều
tăng trưởng âm hoặc tăng trưởng chậm lại trong năm 2009 theo dự báo của IMF.

Theo bảng 1, ta nhận thấy hầu hết các quốc gia phát triển, có nền kinh tế
vững mạnh đều bị ảnh hưởng nghiêm trọng từ cuộc khủng hoảng tài chính toàn
cầu. Cụ thể là Hoa Kỳ, Đức, Pháp, Ý, Tây Ban Nha, Nhật Bản, Anh, Canada đều
được dự báo là sẽ tăng trưởng âm trong năm 2009, thậm chí là Đức tăng trưởng
âm tới 6,2%, Nhật Bản cũng không khá hơn với mức tăng trưởng – 6%.
Tình hình này sẽ còn tiếp diễn và gây tác động tiêu cực cho đến tận năm
2010 ở toàn thể các nước sử dụng đồng tiền chung Euro (khối EU). Nguyên
nhân của điều này là do các nước châu Âu vốn chịu quan hệ kinh tế mật thiết với
Hoa Kỳ nên khi khủng hoảng xảy ra, các nước này chịu tác động nghiêm trọng
cả về tài chính lẫn kinh tế. Nhiều tổ chức tài chính bị phá sản đến mức trở thành
khủng hoảng tài chính nội bộ ở một số nước như Iceland, Nga. Nói về Nga,
nước này được dự báo sẽ tăng trưởng âm 6.5% trong năm 2009 và đến 2010 mới
có thể khôi phục nền kinh tế. Các nền kinh tế lớn nhất khu vực là Đức và Ý đều
rơi vào suy thoái. Anh, Pháp, Tây Ban Nha cũng không nằm ngoài quy luật đó.
Các nền kinh tế Mỹ Latin cũng có quan hệ mật thiết với kinh tế Hoa Kỳ
nên cũng bị ảnh hưởng tiêu cực khi các dòng vốn ngắn hạn rút khỏi khu vực và
khi giá dầu giảm mạnh. Ecuador tiến đến bờ vực của một cuộc khủng hoảng nợ.
Đặc biệt, khối các nước công nghiệp mới Châu Á có mức tăng trưởng
bình quân dự kiến trong năm 2009 là – 5,2%, mức tăng trưởng thấp nhất kể từ
sau cơn khủng hoảng tài chính châu Á 1997.
Xét trên một khía cạnh khác ,sự bền vững của tài chính toàn cầu đang là
một mối lo chung của các nhà hoạch định chính sách. Rủi ro từ các thị trường mới
nổi đang gia tăng một cách nhanh chóng kể từ đầu tháng 10/2008. Rủi ro từ tín
dụng và kinh tế vĩ mô cũng ngày càng phình to ra. Gánh nặng tài chính đang lớn
dần lên là kết quả của những kế hoạch cứu vãn ngân hàng và các gói kích cầu của
TIỂU LUẬN TÀI CHÍNH TIỀN TỆ

GVHD: H
 Th Khánh
Linh


G3.FB08A.DTHU
Chính phủ. Rõ ràng, sự ổn định của nền tài chính Thế giới cần phải có nhiều thực
thi chính sách tích cực hơn nữa.

Hình 1: Bản đồ tình trạng bền vững của nền tài chính toàn cầu
(Nguồn: Financial Stability Report – IMF Staff Estimates)
Kinh tế các nước trên Thế giới đều tăng chậm lại hoặc có dấu hiệu suy
thoái khiến lượng cầu về dầu mỏ cho sản xuất và tiêu dùng giảm, do đó khiến
giá dầu giảm. Điều này làm cho các nước xuất khẩu dầu mỏ bị thiệt hại. Đồng
thời, do lo ngại bất ổn xảy ra làm cho nạn đầu cơ lương thực nổ ra, góp phần dẫn
tới giá lương thực tăng cao trong khoảng thời gian cuối năm 2007 đầu năm
2008, tạo thành cuộc khủng hoảng giá lương thực toàn cầu.
TIỂU LUẬN TÀI CHÍNH TIỀN TỆ

GVHD: H
 Th Khánh
Linh

G3.FB08A.DTHU

Bảng 2: Chỉ số giá hàng hóa Thế giới 6 tháng đầu năm 2008
(Nguồn: WB-2008)
Tuy nhiên, đến đầu năm 2009, mọi chuyện lại diễn biến theo chiều hướng
hoàn toàn ngược lại, chứng tỏ khủng hoảng kinh tế đã chính thức tác động sâu
rộng đến nền kinh tế toàn cầu.
Trong “Dự báo triển vọng kinh tế toàn cầu 2009-2010” của IMF, giá các
mặt hàng đều có biến động sâu sắc trong năm 2009.

Bảng 3: Dự báo giá nhiên liệu và tiêu dùng 2009 - 2010

(Trích Dự báo triển vọng kinh tế toàn cầu - Nguồn: IMF)
Bảng 3 cho thấy giá dầu và giá hàng hóa phi dầu đều giảm mạnh trong
năm 2009, giá dầu giảm 37,6%, các hàng hóa khác giảm 23,8%, đưa mức giá
của các hàng hóa này trở về thời điểm của 2 – 3 năm về trước. Giá tiêu dùng
trong năm nay, được dự báo tuy không tăng trưởng âm, nhưng mức giá chung
TIỂU LUẬN TÀI CHÍNH TIỀN TỆ

GVHD: H
 Th Khánh
Linh

G3.FB08A.DTHU
đều tăng chậm lại, đặc biệt là với các nước phát triển, chỉ dao động trong khoảng
xê dịch dưới 0,1%.
Tuy nhiên, theo những diễn biến mới nhất từ thị trường dầu thô Thế giới,
giá dầu trong tháng 9-10/2009 liên tiếp có những đợt tăng giá, tính đến thời
điểm ngày 22/10/2009, giá dầu đã vượt mức 81USD/thùng nhờ sự trượt giá
mạnh của đồng USD.
Áp lực lạm phát trở nên căng thẳng từ giữa năm 2007 kéo dài cho tới
khoảng cuối năm 2008. Các nền kinh tế mới nổi có giai đoạn lạm phát danh
nghĩa lên tới 9% (khoảng giữa năm 2008).

Hình 2: Biểu đồ tỉ lệ lạm phát toàn cầu
(Nguồn: BFM, HA & IMF)
Tuy nhiên kể từ đầu năm 2009, tình hình lạm phát gần như đã xoa dịu đi
mức độ suy yếu chung của nền kinh tế. Cụ thể là tỉ lệ lạm phát toàn cầu giữ ở
mức dưới 6% và có xu hướng giảm rõ rệt. Thậm chí các nền kinh tế phát triển
như Nhật Bản đang có chiều hướng giảm phát (tỉ lệ lạm phát dưới 0%) vì giá
dầu vẫn còn thấp hơn rất nhiều so với một năm về trước, mặc dù hiện tại chúng
đang nhích giá từng ngày. Tỉ lệ lạm phát cơ bản nói chung giữ ở mức trung bình,

TIỂU LUẬN TÀI CHÍNH TIỀN TỆ

GVHD: H
 Th Khánh
Linh

G3.FB08A.DTHU
nhưng không đồng đều ở tất cả các quốc gia. Tỉ lệ lạm phát giảm mạnh ở Trung
Quốc và khu vực Trung Đông.
IV. NHỮNG TÍN HIỆU LẠC QUAN CỦA NỀN KINH TẾ TOÀN CẦU
1. Hoa Kỳ - Sự trở lại của nền kinh tế số 1 Thế giới
Từ giữa năm 2009, những tín hiệu lạc quan cho sự trở lại của nền kinh tế
Mỹ đã dần được biểu hiện.
“Kinh tế Mỹ sẽ thoát khỏi suy thoái với mức tăng trưởng GDP 2% trong
quý 3 và quý 4 năm nay nhờ hoạt động sản xuất gia tăng của các doanh
nghiệp”. Đó là dự báo được đưa ra trong báo cáo UCLA Anderson Forecast do
Trường Quản lý thuộc Đại học California, Mỹ, thực hiện.
Theo báo cáo này, tăng trưởng GDP trong năm 2010 của Mỹ sẽ diễn ra
chậm chạp do tốc độ sản xuất của các doanh nghiệp chững lại so với thời điểm
làm đầy kho hàng hiện nay.
Bên cạnh đó, báo cáo cũng nhận định tỷ lệ thất nghiệp của Mỹ sẽ ở mức bình
quân 10% trong năm tới. Báo cáo UCLA Anderson Forecast được đưa ra chỉ một
ngày sau khi Chủ tịch Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED) dự báo suy thoái kinh tế Mỹ
có thể đã kết thúc, nhưng quá trình phục hồi và tạo việc làm sẽ diễn ra chậm chạp.
Các nhà nghiên cứu thực hiện bản báo cáo này dự báo, kinh tế Mỹ tăng
trưởng 2,1% trong quý 3 này, tăng 2,3% trong quý 4 tới, và tăng bình quân 2%
trong năm 2010. “Tới cuối năm 2010, tốc độ tăng trưởng kinh tế Mỹ có thể sẽ
được cải thiện đáng kể, lên mức 3%”, báo cáo viết. Tuy nhiên, có thể phải mất
4-5 năm nữa, Mỹ mới có thể hoàn toàn thoát khỏi ảnh hưởng của cuộc khủng
hoảng này, và điều đó sẽ khiến cho nền kinh tế số 1 Thế giới phải đối mặt với

thách thức từ những nền kinh tế mới nổi như Trung Quốc.
2. Nhật Bản – Suy thoái đã rời khỏi đất nước mặt trời mọc
Kinh tế Nhật Bản tăng trưởng dương trở lại trong quý 2 sau 5 quý liền
liên tục co cụm. Sự hồi phục của lĩnh vực xuất khẩu và chi tiêu của người dân đã
giúp nước này thoát khỏi cuộc suy thoái tồi tệ nhất thời hậu chiến tranh.
Số liệu thống kê do Văn phòng Nội các Nhật Bản công bố ngày 17/8 cho
thấy, GDP quý 2 của Nhật đã tăng 3,7% so với cùng kỳ năm ngoái, sau khi sụt
TIỂU LUẬN TÀI CHÍNH TIỀN TỆ

GVHD: H
 Th Khánh
Linh

G3.FB08A.DTHU
giảm tới 11,7% trong quý 1. Nếu so với quý 1, GDP quý 2 của Nhật tăng trưởng
0,9%. Đóng góp nhiều nhất vào tăng GDP quý 2 của Nhật là tăng trưởng xuất
khẩu của nước này. Thống kê cho thấy, xuất khẩu của Nhật trong quý 2 tăng
6,3% so với quý 1. Riêng xuất khẩu ròng đóng góp 1,6% vào mức tăng GDP
quý 2 của nước này so với quý 1.
Chi tiêu dùng cũng là một nhân tố quan trọng nữa giúp GDP của Nhật tăng
trưởng dương trở lại trong quý 2. Gói kích thích kinh tế trị giá 25.000 tỷ Yên
(tương đương 263 tỷ USD) của Thủ tướng Taro Aso đã thúc đẩy người dân tại
đất nước mặt trời mọc ít thắt lưng buộc bụng hơn, mạnh dạn chi tiêu trong sản
xuất và tiêu dùng. Do đó, chi tiêu dùng đã tăng 0,8% trong quý 2 và đóng góp
0,5% vào tăng trưởng GDP.
Tuy nhiên, tỷ lệ thất nghiệp vẫn còn ở mức cao. Tỷ lệ thất nghiệp tại Nhật
hiện tại là 5,4% và được dự báo có thể lên tới mức kỷ lục 5,8% vào năm sau,
nếu các doanh nghiệp còn duy trì hoạt động sản xuất ở mức thấp như hiện nay.
Thậm chí, nhiều chuyên gia còn dự báo, liệu Nhật Bản – sự thần kỳ của Châu Á
có trở thành một Thụy Sỹ thứ hai - một đất nước giàu có, nhưng không có tầm

quan trọng lớn trên trường Quốc tế, và cũng không giành được nhiều sự chú ý từ
phần còn lại của Thế giới.
3. Kinh tế Ấn Độ tăng tốc:
Cơ quan Thống kê Trung ương Ấn Độ (CSO) ngày 1/9/2009 cho biết,
GDP quý 2 của nước này đã tăng 6,1% so với cùng kỳ năm ngoái, so với mức
tăng 5,8% đạt được trong quý 1. Đây là lần đầu tiên GDP của Ấn Độ tăng tốc từ
năm 2007 tới nay.
Sự cải thiện tăng trưởng GDP trên cho thấy, những ảnh hưởng tồi tệ nhất
của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu đối với kinh tế Ấn Độ có thể đã kết
thúc. Việc ít phụ thuộc vào hoạt động xuất khẩu hơn so với nhiều nước khác đã
giúp Ấn Độ vượt qua cơn bão kinh tế này tốt hơn. Trong thời kỳ từ 2003-2008,
kinh tế Ấn Độ tăng bình quân 8,8% mỗi năm. Các chuyên gia dự báo, kinh tế
nước này có thể tăng trưởng 6% trong năm tài khóa hiện tại, nhưng cho rằng,
mục tiêu này có thể được vượt qua.
TIỂU LUẬN TÀI CHÍNH TIỀN TỆ

GVHD: H
 Th Khánh
Linh

G3.FB08A.DTHU
Ấn Độ và Trung Quốc đang được đánh giá là hai nền kinh tế Châu Á đang
có tốc độ phát triển cao, là lực đỡ chính cho suy giảm kinh tế toàn cầu.
4. Kinh tế Thế giới phục hồi nhanh hơn mong đợi:
Tổ chức hợp tác phát triển kinh tế - OECD cho biết tín hiệu phục hồi đã
khá rõ ràng ở Mỹ, GDP dự kiến tăng 1,6% trong quý III và đạt tốc độ 2,4% vào
3 tháng cuối năm. Tốc độ tăng trưởng khu vực đồng tiền chung châu Âu sẽ phục
hồi về mức 2% vào quý IV, đặc biệt là đà khởi sắc mạnh mẽ ở Pháp và Đức.
Kinh tế Nhật có phần khó khăn hơn, tăng trưởng 1,1% trong quý III và có thể
tiếp tục rơi về vùng âm (giảm 0,9%) trong quý cuối năm. Anh được dự báo đi

sau tất cả các thành viên trong khối, hiện chưa phát đi tín hiệu tăng trưởng nào
cho cả năm nay.
OECD là một tổ chức đã từ lâu được xem là “sân chơi” dành riêng cho các
đại gia kinh tế. Đóng góp của OECD vào kinh tế toàn cầu là rất đáng kể, tiêu
biểu có thể kể đến Mỹ, Nhật Bản, Ý, Pháp, Đức, Anh, Tây Ban Nha – các cường
quốc kinh tế của Thế giới. Do vậy, những dự báo lạc quan của OECD về sự
phục hồi của nền kinh tế đã tác động tích cực đến tâm lý chung của những nhà
hoạch định chính sách và dân chúng.

Bảng 4: Tỉ lệ đóng góp vào OECD của các nước thành viên
(Nguồn: OECD Annual Report)
Đánh giá của OECD về tăng trưởng của các nền kinh tế thành viên lạc
quan hơn rất nhiều so với cách đây vài tháng. Trong báo cáo công bố hồi tháng
TIỂU LUẬN TÀI CHÍNH TIỀN TỆ

GVHD: H
 Th Khánh
Linh

G3.FB08A.DTHU
6, tổ chức này dự báo GDP của Mỹ vẫn âm 1,9% trong quý III, thậm chí còn tệ
hơn vào quý IV (giảm 2,4%). Trong lĩnh vực thương mại Quốc tế, OECD dự
báo mọi khó khăn nhất có thể đã qua và tín hiệu phục hồi đã le lói.
Bất chấp cuộc khủng hoảng toàn cầu đang diễn ra mạnh mẽ và gay gắt,
những con số tăng trưởng lạc quan của các nền kinh tế mới nổi và các quốc gia
đang phát triển đã góp một phần đáng kể trong việc vực dậy nền kinh tế toàn
cầu. Trung Quốc – nền kinh tế mới nổi của Châu Á vẫn giữ tốc độ tăng trưởng
bình quân trên 7.5%, Ấn Độ 5,4%. Các nước đang phát triển của châu Á trung
bình sẽ tăng trưởng 5,5% trong năm 2009 và tiếp tục giữ đà tăng trưởng thần kỳ
này đến năm 2010, với dự báo mức tăng trưởng chung 7%.

Tốc độ tăng trưởng mạnh mẽ ở Trung Quốc (14% trong quý II) là lực đỡ
cho thương mại toàn cầu. Dựa trên tốc độ tăng trưởng hiện nay và những xu
hướng trên thị trường tiền tệ, các chuyên gia dự báo rằng, kinh tế Trung Quốc có
thể vượt Mỹ vào năm 2039. Và nếu Trung Quốc để đồng Nhân dân tệ của nước
này lên giá 2% mỗi năm, thì mục tiêu trên có thể đạt được vào năm 2026.
Trong khi đó, nguy cơ lạm phát quay trở lại hiện không còn quá lớn. Thậm
chí, thiểu phát là vấn đề đáng lưu tâm không chỉ đối với Nhật Bản. Vì thế, OECD
gợi ý sớm nhất vào giữa 2010 mới tiến hành các bước thắt chặt trở lại. Các Chính
phủ cần duy trì những biện pháp hỗ trợ nền kinh tế trong bối cảnh thất nghiệp tiếp
tục leo thang và thị trường nhà đất vẫn còn yếu ớt. OECD khuyến cáo rằng chính
sách lãi suất thấp ở mức phi lý như hiện nay vẫn cần được duy trì thêm một thời
gian nữa, cho đến khi nền kinh tế hoàn toàn phục hồi và đứng vững.
TIỂU LUẬN TÀI CHÍNH TIỀN TỆ

GVHD: H
 Th Khánh
Linh

G3.FB08A.DTHU

Hình 3: Tỉ lệ lạm phát của Hoa Kỳ, Nhật Bản và Eurozone
(Nguồn: BFM, HA & IMF)
Thời kỳ tồi tệ nhất của cơn đại khủng hoảng đã đi qua. Tuy nhiên để lạc
quan về viễn cảnh của nền kinh tế Thế giới là quá sớm. Trước mắt, các nhà hoạch
định chính sách cần phải vạch ra những mục tiêu cụ thể trong ngắn hạn để vượt qua
suy thoái, tiếp tục tăng trưởng nhanh, bền vững; đồng thời phải kết hợp với các mục
tiêu mang tầm vĩ mô, trung hạn và dài hạn, tránh để nền kinh tế quốc gia nói riêng
và nền kinh tế khu vực, toàn cầu phải gánh chịu một cuộc khủng hoảng tương tự
trong tương lai. Đây cũng là bài học kinh nghiệm quý báu dành cho các nước trong
quá trình đi lên, hội nhập và phát triển.









TIỂU LUẬN TÀI CHÍNH TIỀN TỆ

GVHD: H
 Th Khánh
Linh

G3.FB08A.DTHU









CHƯƠNG II
ẢNH HƯỞNG CỦA CUỘC KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH
TỚI NỀN KINH TẾ VIỆT NAM

I. TỔNG QUAN VỀ KINH TẾ VIỆT NAM 2008
0

2
4
6
8
10
12
14
16
84 85 86 87 88 89 90 91 92 93 94 95 96 97 98 99 00 01 02 03 04 05 06 07 08
Trung Quốc
Thế giới
Việt Nam

TIỂU LUẬN TÀI CHÍNH TIỀN TỆ

GVHD: H
 Th Khánh
Linh

G3.FB08A.DTHU
Hình 4: Chỉ số tăng trưởng kinh tế Thế giới, Việt Nam và Trung Quốc
(Nguồn: caohockinhte.info)
Tình hình phát triển kinh tế - xã hội nước ta trong năm 2008 đã chịu tác
động tương tác giữa quá trình hội nhập kinh tế Quốc tế với nhiều yếu tố khách
quan và chủ quan khác. Nền kinh tế toàn cầu biến động phức tạp: giá dầu tăng
mạnh và giá lương thực leo thang đến tháng 8/2008; khủng hoảng tài chính toàn
cầu bùng nổ vào tháng 9/2008 và nền kinh tế Thế giới lún sâu vào suy thoái.

Hình 5: Chỉ số giá tiêu dùng Việt Nam
(Nguồn: Tổng cục Thống kê – TCTK)

TIỂU LUẬN TÀI CHÍNH TIỀN TỆ

GVHD: H
 Th Khánh
Linh

G3.FB08A.DTHU

Hình 6: Giá xăng dầu thị trường trong nước và Thế giới
(Nguồn: Tổng cục Thống kê – TCTK)
Trước tình hình lạm phát gia tăng từ quý III/2007, từ tháng 4-2008 Chính
phủ đã có bước ngoặt chuyển hướng chính sách từ thúc đẩy tăng trưởng sang
kiềm chế lạm phát. Từ tháng 10-2008, nền kinh tế lại phải gồng mình chống đỡ
tác động hết sức tiêu cực của cơn bão khủng hoảng và suy thoái toàn cầu. Một
lần nữa, Chính phủ lại chuyển hướng chính sách, tập trung chống suy giảm kinh
tế cùng tiếp tục duy trì ổn định kinh tế vĩ mô và an sinh xã hội. Chính sách tiền
tệ được nới lỏng dần và từ tháng 12-2008, một gói kích thích kinh tế được chính
thức triển khai nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh, phát triển kết
cấu hạ tầng, kích thích tiêu dùng và giảm thiểu khó khăn xã hội.

2004 2005 2006 2007 2008
Tốc độ tăng trưởng (%)
GDP 7,79 8,44 8,23 8,46 6,18
Nông-lâm-thủy sản 4,36 4,02 3,69 3,76 4,07
Công nghiệp - xây dựng 10,22 10,69 10,38 10,22 6,11
Dịch vụ 7,26 8,48 8,29 8,85 7,18
Đóng góp vào tăng trưởng GDP theo điểm phần trăm
GDP 7,79 8,44 8,23 8,46 6,18
Nông - lâm - thủy sản 0,92 0,82 0,72 0,70 0,73
TIỂU LUẬN TÀI CHÍNH TIỀN TỆ


GVHD: H
 Th Khánh
Linh

G3.FB08A.DTHU
Công nghiệp - xây dựng 3,93 4,21 4,17 4,19 2,54
Dịch vụ 2,94 3,42 3,34 3,57 2,90
Bảng 5: Tăng trưởng GDP giai đoạn 2004-2008
Nguồn: TCTK và tính toán Viện NCQLKTTƯ).
Trong bối cảnh có những biến động không thuận của Thế giới, tốc độ tăng
trưởng kinh tế nước ta năm 2008 đã chậm lại, còn 6,2% so với 8,5% của năm
2007. Đây là mức tăng trưởng thấp nhất kể từ năm 2000; hơn nữa tăng trưởng
quý IV/2008 chỉ đạt 5,7% so với 6,5% của ba quý đầu năm 2008. Dẫu vậy, việc
đạt được mức tăng trưởng 6,2% vẫn đáng được ghi nhận, nhất là so với nhiều
nước đang phát triển và trong khu vực. Đặc biệt, trong khi tăng trưởng của khu
vực công nghiệp - xây dựng sụt giảm đáng kể (6,1% so với 10,2% năm 2007),
thì khu vực nông - lâm - thủy sản lại có tốc độ tăng trưởng cao hơn năm 2007
(4,1% so với 3,8%), thể hiện ý nghĩa to lớn của khu vực này trong phát triển đất
nước cũng như trong giải quyết các vấn đề xã hội trong tình hình khó khăn.
Vốn đầu tư xã hội vẫn chiếm tỷ trọng cao, bằng 40,9% GDP, tuy đã thấp
hơn so với tỷ lệ 46,5% GDP năm 2007. Mức đầu tư cao chủ yếu do vốn đầu tư
khu vực FDI và khu vực ngoài nhà nước tăng mạnh, tương ứng 48,7% và 19,3%
so với năm 2007. Vốn đầu tư khu vực nhà nước giảm mạnh (-11,9%), phù hợp
với chính sách kinh tế vĩ mô thắt chặt.
Năm 2008 là năm đầu tiên vốn đầu tư nhà nước, đã từng có tỷ trọng lớn nhất
trong nhiều năm, trở thành có tỷ trọng nhỏ nhất trong tổng vốn đầu tư xã hội. Tuy
nhiên, hiệu quả đầu tư của khu vực nhà nước, nhất là của các tập đoàn và các doanh
nghiệp nhà nước (DNNN) quy mô lớn vẫn là một dấu hỏi lớn. Đặc biệt, sau hơn hai
năm dòng vốn FDI ồ ạt đổ vào Việt Nam, nền kinh tế đã và đang bộc lộ nhiều bất

cập, cản trở khả năng hấp thụ vốn hiệu quả. Hơn nữa, việc thu hút FDI còn tiềm ẩn
khá nhiều rủi ro và thách thức. Quy hoạch và phân cấp quản lý nhà nước về đầu tư
vẫn còn nhiều bất cập.
Thương mại Quốc tế năm 2008 có bước chuyển biến mới. Tổng kim ngạch
xuất khẩu hàng hóa đạt 62,7 tỉ USD, tăng 29,1%; tổng kim ngạch nhập khẩu hàng
hóa đạt 80,7 tỉ USD, tăng 28,6% so với năm 2007. Nước ta đã trở thành một nền
TIỂU LUẬN TÀI CHÍNH TIỀN TỆ

GVHD: H
 Th Khánh
Linh

G3.FB08A.DTHU
kinh tế có độ mở cao xét theo tỷ trọng xuất nhập khẩu trên GDP (160,7% GDP và
177,5% GDP nếu tính cả thương mại dịch vụ). Tuy nhiên, thương mại dịch vụ
chưa thật phát triển, năm 2008 chỉ bằng 10,5% thương mại hàng hóa, mức thấp
hơn nhiều tỷ lệ trên 20% của Thế giới. Cũng đã bắt đầu xuất hiện xu thế đa dạng
hóa mặt hàng để đối phó với rủi ro trên thị trường Thế giới. Tuy nhiên, cơ cấu
hàng hóa xuất khẩu vẫn phụ thuộc vào các nhóm hàng khoáng sản và nông - lâm -
thủy sản thô, sơ chế; hàng công nghiệp chế biến chủ yếu vẫn là gia công lắp ráp.
Một đặc trưng của năm 2008 là tình trạng bất ổn kinh tế vĩ mô. Lạm phát
leo thang, thậm chí trong “Báo cáo bối cảnh kinh tế Thế giới và dự báo kinh tế
vĩ mô 2009”, Bộ Kế hoạch đầu tư còn dự báo lạm phát sẽ lên đến 30% trong
năm 2008; thâm hụt thương mại hàng hóa và thâm hụt cán cân vãng lai lớn (lần
lượt là 14,4 % GDP và 9,5% GDP), rủi ro hệ thống tài chính ngân hàng tăng.
Tình hình kinh tế vĩ mô đã trở nên ổn định hơn từ tháng 8-2008. Đặc biệt lạm
phát giảm nhanh trong quí IV/2008, dẫn đến lạm phát cả năm còn gần 20%, tuy
vẫn cao song đã thấp hơn nhiều mức tháng 8-2008.
Tốc độ tăng trưởng giảm đồng nghĩa với tình trạng doanh nghiệp phải thu
hẹp quy mô sản xuất, cắt giảm lao động. Vào tháng 7-2008, tổng số người thất

nghiệp ở thành thị tăng 2,7% so với năm 2007, đưa tỷ lệ thất nghiệp của khu vực
thành thị lên 4,7% so với 4,6% năm 2007. Con số người thất nghiệp, mất việc
làm và phải giảm giờ làm còn tăng cao hơn nữa trong nửa cuối năm 2008. Hơn
nữa, lạm phát cao càng làm giảm thu nhập thực của đa số dân cư và có tác động
rất xấu đến nhóm người nghèo, thu nhập thấp.
Vấn đề đảm bảo an sinh xã hội năm 2008 đã được Chính phủ đặc biệt
quan tâm. Bên cạnh hệ thống chính sách hỗ trợ xã hội có tính thường xuyên,
nhiều biện pháp cụ thể, thiết thực đã được thực hiện nhằm giảm thiểu thiệt hại
và khó khăn cho người nghèo, thu nhập thấp và các nhóm xã hội dễ bị tổn
thương khác. Tuy nhiên, các chương trình hỗ trợ xã hội thường triển khai chậm,
không hiếm trường hợp không đúng đối tượng, trong khi lại thiếu những đánh
giá về hiệu lực, hiệu quả chương trình.
TIỂU LUẬN TÀI CHÍNH TIỀN TỆ

GVHD: H
 Th Khánh
Linh

G3.FB08A.DTHU
Những kết quả đáng ghi nhận về kinh tế - xã hội cũng như những khó
khăn nền kinh tế phải trải qua trong năm 2008 đã để lại nhiều bài học chính sách
sâu sắc.
Trước hết, hội nhập sâu rộng hơn đem lại nhiều cơ hội to lớn, nhưng cũng
đồng nghĩa rủi ro bất ổn kinh tế vĩ mô có thể tăng lên.
Quyết định mục tiêu chính sách và phản ứng chính sách kịp thời phải dựa
trên việc bám sát, cập nhật thông tin cũng như những dự báo/cảnh báo có phân
tích.
Hiệu lực, hiệu quả chính sách còn phụ thuộc vào sự phối hợp giữa các bộ,
các cơ quan hữu quan cũng như mối quan hệ thông tin minh bạch, có tính giải
trình cao giữa nhà nước với thị trường, công chúng. Những đặc thù riêng của

Việt Nam càng đòi hỏi chính sách phải có sự giải trình, rà soát thận trọng và
được minh chứng.
Trong điều kiện Việt Nam, việc kết hợp chặt chẽ các chính sách kinh tế vĩ
mô với các biện pháp vi mô cũng có thể rất cần thiết khi xử lý các vấn đề kinh tế
- tài chính “đột ngột” phát sinh theo chiều hướng xấu. Song cũng cần chuẩn bị
cả cách thức/lộ trình rút bỏ các biện pháp đó, nhất là các biện pháp có tính hành
chính, một cách chu đáo và được giải trình nghiêm túc.
Các chính sách kinh tế thường khó có tác động cùng chiều, nhất là trong
bối cảnh bất ổn kinh tế vĩ mô, đối với các mục tiêu và các nhóm xã hội khác
nhau. Chính vì vậy, cần cả sự hỗ trợ đối với người nghèo, nhóm xã hội dễ bị tổn
thương và cả ý chí chính trị vượt qua các nhóm trục lợi/nhóm đặc quyền.
Trong bối cảnh khủng hoảng tài chính và suy thoái lan rộng toàn cầu,
những bài học đó vẫn là những gợi ý có giá trị cho việc lựa chọn mục tiêu chính
sách và cách thức thực thi chính sách một cách có hiệu lực và hiệu quả.
II. DỰ BÁO KINH TẾ VIỆT NAM 2009
Năm 2009 là năm thứ ba đánh dấu sự hội nhập khá toàn diện của kinh tế
Việt Nam với nền kinh tế Thế giới. Năm 2009, Việt Nam sẽ tiếp tục thực hiện
các cam kết song phương, vùng và các cam kết trong khuôn khổ WTO với tư
cách là một thành viên chính thức. Năm 2009 cũng là năm thứ tư triển khai thực
TIỂU LUẬN TÀI CHÍNH TIỀN TỆ

GVHD: H
 Th Khánh
Linh

G3.FB08A.DTHU
hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2006-2010 với gói chính sách
kích cầu trong bối cảnh nền kinh tế nước ta còn tiếp tục bị tác động bởi cuộc
khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu.
Tuy nhiên, năm 2009 kinh tế Thế giới được dự báo tiếp tục đà suy giảm

và tăng trưởng chậm hơn so với năm 2008 do tác động mạnh và chưa có dấu
hiệu cải thiện rõ rệt của cuộc suy thoái kinh tế kinh tế toàn cầu.
Sự suy giảm của kinh tế Thế giới là nhân tố có thể tác động bất lợi cho
nền kinh tế nước ta, một nền kinh tế vốn dĩ dựa nhiều vào đầu tư nước ngoài và
xuất khẩu. Mặt khác, trong nước, việc thực thi chính sách kích thích kinh tế, ở
một chừng mực nhất định nào đó, sẽ gây áp lực làm tăng lạm phát. Do vậy, mục
tiêu tăng trưởng kinh tế do Quốc hội nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam
khoá XII, Kỳ họp thứ 4 (ngày 06-11-2008) đặt ra cho năm 2009 sẽ là khó khả
thi, nếu như các tác động tiêu cực tới nền kinh tế Việt Nam trở thành hiện thực
và việc thực thi chính sách kích cầu không đạt được hiệu quả mong muốn.
Để làm sáng tỏ nhận định trên, Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế trung
ương đã tiến hành dự báo một số chỉ tiêu kinh tế cơ bản của Việt Nam trong
năm 2009. Dự báo dựa trên triển vọng kinh tế Thế giới và những tác động tới
nền kinh tế Việt Nam cũng như những phân tích diễn biến nội tại nền kinh tế
Việt Nam trong năm 2009 có tính tới những điều chỉnh chính sách kinh tế vĩ mô
phù hợp với các cam kết WTO, khu vực và song phương cũng như chính sách
kinh tế vĩ mô nhằm ngăn chặn đà suy giảm tăng trưởng kinh tế, giảm bớt tốc độ
tăng của lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mô.

Kịch bản
Cơ bản
Kịch bản
Lạc quan
Kịch bản
Bi quan
Giả định về mức tăng

GDP thực của các đối tác thương mại +0,5 +1,0 +0,0
Giá dầu thô Thế giới -50,0 -45,0 -60,0
Tỷ giá hối đoái danh nghĩa +5,0 +3,0

Cung tiền tệ (M2) +25,0 +15,0
Kết quả



×