Tải bản đầy đủ (.pdf) (32 trang)

TIỂU LUẬN: ĐỊA VỊ PHÁP LÍ CỦA CÔNG TY CHO THUÊ TÀI CHÍNH THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (473.05 KB, 32 trang )


1








TIỂU LUẬN

ĐỊA VỊ PHÁP LÍ CỦA CÔNG TY CHO THUÊ
TÀI CHÍNH THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM.

2

Bài tiểu luận
LỜI MỞ ĐẦU
Hội nhập kinh tế quốc tế và tự do hoá thương mại đang là xung hướng phát triển
của kinh tế thế giới, hoà vào dòng chảy đó, Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức
thứ 150 của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) năm 2006. Trong các lĩnh vực công
nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ thì lĩnh vực tài chính nổi lên như một công cụ hữu hiệu và
không thể thiếu trong mọi hoạt động từ sản xuất, phân phối đến tiêu dùng với vai trò cung
ứng vốn và thanh toán cho nền kinh tế. Trong tất cả các công cụ tài chính hiện có, cho
thuê tài chính được đánh giá là mang lại nhiều lợi ích và thuận lợi hơn cho các doanh
nghiệp vừa và nhỏ. Nền kinh tế Việt Nam với hơn 90% số doanh nghiệp có quy mô vừa
và nhỏ, rất thích hợp khi sử dụng công cụ cho thuê tài chính. Để hiểu rõ hơn về công cụ
cho thuê tài chính và sự điều chỉnh của pháp luật đối với công cụ này, đặc biệt là hiểu
được địa vị pháp lý của chúng nhằm vận dụng tốt công cụ này trên thực tiễn kinh tế -
pháp luật tại Việt Nam, đồng thời nêu lên một số điểm bất cập của pháp luật về Công ty


cho thuê tài chính, đó là nội dung và mục đích của bài tiểu luận này.











3

I. LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA CÔNG TY CHO THUÊ TÀI
CHÍNH
Mặc dù khái niệm cho thuê tài chính đã xuất hiện vào giữa thế kỉ 20 còn đối với
Việt Nam thì thuật ngữ này chỉ mới được biết đến và trở nên phổ biến trong vài năm trở
lại đây nhưng nguồn gốc hình thành nó đã có lịch sử từ rất lâu đời. Quả thật vậy, cho
thuê tài chính là một dạng của cho thuê tài sản và có ý kiến cho rằng có thể hoạt động cho
thuê đã xuất hiện từ 5000 năm trước công nguyên. Một số giai đoạn phát triển đáng chú ý
của nghiệp vụ cho thuê tài chính:
Babylon và Hi Lạp cổ đại
Các nhà khảo cổ đã tìm thấy phiến đất sét có khắc chữ ở thành phố cổ của người
Sumerian (gần Vịnh Ba Tư) ghi nhận giao dịch cho thuê năm 2010 trước công nguyên.
Do một số tầng lớp trong xã hội có nhiều đất đai không canh tác hết, tài sản cá nhân
không dùng tới. Ban đầu, chỉ là hình thức cho mượn không nhận lại lợi ích gì nhưng sau
đó do nhu cầu lớn của nền sản xuất xã hội phát triển thành hình thức cho thuê đổi lại một
lợi ích khác. 50 năm sau giao dịch lần đầu tiên của người Sumerian thì cho thuê tài sản
được vua xứ Babylon qui định thành văn trong bộ luật nổi tiếng Hammurabi.

Còn người Hy Lạp cổ là những người tiên phong trong phát triển hình thức cho
thuê lại các khu mỏ và cho thuê nhà băng. Hợp đồng cho thuê nhà băng đầu tiên được kí
vào năm 370 trước CN cho các tài sản bao gồm tên của nhà băng, các khoản cầm cố, các
văn phòng và nhân viên.
Liên hiệp Anh
Một trong những điều luật đầu tiên nhắc tới thuê ở Liên hợp Anh là Đạo luật xứ
Wales được soạn thảo vào năm 1284. Đạo luật đã sử dụng những điều luật về đất đai sẵn
cỏ làm khung pháp lý cho việc thuê các tài sản như các thiết bị nông nghiệp. Cùng với sự
phát triển của hệ thống đường sắt vào giữa thế kỷ 19, các doanh nghiệp nhỏ cũng đầu tư
vốn vào các toa tàu chở than và sau đó cho các công ty mỏ thuê lại. Các hợp đồng thuê
thường cho người thuê quyền được mua thiết bị sau khi hết thời hạn hợp đồng.

4

Hoa Kỳ
Cho thuê tài chính với những hình thức như hiện nay bắt nguồn từ Mỹ. Công ty
cho thuê đầu tiên của Mỹ được thành lập bởi Henry Shofeld vào năm 1952. Công ty
được thành lập để phục vụ ngành vận tải đường sắt. Châu Âu cũng nhanh chóng xuất
hiện những công ty cho thuê của mình vào cuối những năm 1950 và đầu 1960.
Những thành tựu công nghệ khiến cho các doanh nghiệp có nhu cầu đổi mới tài sản
thường xuyên hơn. Và cho thuê tài chính trở thành hình thức tài trợ vốn thông dụng cho
sản xuất và tiêu dùng. Đi thuê giúp cho các doanh nghiệp nhỏ có mức thu nhập thấp và
không có khả năng khai thác lợi thế của khấu hao tài sản cố định có được tài sản với
những điều khoản có lợi hơn là việc mua thiết bị. Cho thuê tài chính là giải pháp hữu hiệu
cho phần lớn các doanh nhân tuy giàu ý tưởng kinh doanh nhưng hạn chế về vốn.
Tiếp theo Mỹ phải đến những năm 1970 và 1980, Châu Á, Nam Mỹ và Châu Phi
mới phát triển hình thức cho thuê và cho tới nay thuê tài chính đã là một khái niệm phổ
biến trên toàn cầu. Tính riêng ở Mỹ, trên 30% tổng số các thiết bị đều được trang bị dưới
các hợn đồng thuê. Hơn 80% các công ty – từ những công ty nhỏ mới thành lập cho tới
những doanh nghiệp nằm trong danh sách Forutne 500 – đều đi thuê một phần hoặc toàn

bộ máy móc thiết bị của họ. Sự phát triển nhanh của các công ty cho thuê tài chính chính
là ở chỗ một doanh nghiệp không nhất thiết phải sở hữu tài sản để làm ra lợi nhuận.
Nhiều khi chỉ cần quyền sử dụng tài sản trong một khoảng thời gian nhất định để sinh lời.
Như triết gia Aristotle đã nói “Sự giàu có thực sự không phải nằm trong quyền sở hữu tài
sản mà là trong quyền sử dụng nó”. Nghiệp vụ cho thuê sẽ mang lại lợi nhuận cho tất cả
các bên. Cơ chế cho thuê dẫn vốn vào tài sản theo hướng cho phép các doanh nghiệp đi
vào sản xuất nhanh chóng, và tạo ra những khoản thu nhập đủ để chi trả các khoản thuê.
Đối với Việt Nam
Mặc dù công ty cho thuê tài chính đầu tiên được thành lập vào năm 1996 và hoạt
động cho thuê tài chính cũng đã manh nha ở các ngân hàng trước đó nhưng phải cho đến

5

khi Chính phủ ban hành Nghị định 16/2001/NĐ-CP ngày 02/05/2001 thì hoạt động cho
thuê tài chính ở Việt Nam mới thực sự hình thành và ngày càng phát triển mạnh mẽ.
II. KHÁI NIỆM - ĐẶC ĐIỂM:
2.1. Khái niệm:
2.1.1. Bản chất của hoạt động cho thuê tài chính:
Cho thuê tài sản có thể phân thành hai loại là cho thuê tài chính và cho thuê tài sản
do đó có thể nói cho thuê tài chính là một dạng của cho thuê tài sản. Trong quá trình hình
thành và phát triển của hoạt động cho thuê tài chính đã cho thấy, loại dịch vụ này còn là
kênh dẫn vốn mới có đặc trưng và tiện ích riêng thích hợp cho các doanh nghiệp vừa và
nhỏ có mức thu nhập thấp và không có khả năng khai thác lợi thế của việc trích khấu hao
tài sản cố định. Cho thuê tài chính đã trở thành giải pháp giúp một số lượng lớn các
doanh nhân giàu ý tưởng kinh doanh nhưng nghèo về vốn, có thể thoả mãn về tài chính
để tiến hành hoạt động kinh doanh, mở rộng năng lực sản xuất nhằm tăng lợi nhuận. Bởi
vì, cho thuê tài chính giúp các doanh nghiệp kịp thời hiện đại hoá sản xuất theo kịp tốc độ
phát triển của công nghệ mới kể cả khi doanh nghiệp thiếu vốn: giá trị tài sản thuê có thể
được tài trợ 100 % mà nhiều khi doanh nghiệp không cần có tài sản thế chấp.
Nghiên cứu về bản chất của cho thuê tài chính cho thấy hoạt động này vừa mang

dáng dấp của giao dịch cho vay vừa mang dáng dấp của giao dịch cho thuê tài sản, tuy
nhiên cho thuê tài chính có những điểm khác biệt so với cả hai loại giao dịch này.
Cho thuê tài chính và cho vay để mua tài sản đều là hai hoạt động tài trợ vốn
nhưng chúng có những đặc điểm khác nhau, đó là quyền sở hữu tài sản được hình thành
từ nguồn vốn tài trợ. Trong hoạt động CTTC, công ty cho thuê giữ lại quyền sở hữu tài
sản cho thuê và thu tiền trích khấu hao tài sản cho thuê. Khi hết thời hạn hợp đồng, bên
thuê có quyền lựa chọn giữa việc tiếp tục thuê hoặc mua lại tài sản theo giá trị còn lại của
tài sản. Trong hoạt động cho vay, bên đi vay không những có quyền sử dụng mà còn cả
quyền sở hữu tài sản được hình thành từ vốn vay và có quyền giữ lại tiền trích khấu hao
tài sản đó; còn bên cho vay có quyền đòi lại cả gốc lẫn lãi vốn cho vay.

6

2.1.2. Khái niệm về cho thuê tài chính theo pháp luật Việt Nam:
Theo quy định tại Điều 20 Khoản 11 Luật Các tổ chức tín dụng 1997, Điều 1 NĐ
16/2001/NĐ-CP được sửa đổi bổ sung tại Điều 1 khoản 1 Nghị định 65/2005/NĐ-CP:
cho thuê tài chính là hoạt động tín dụng trung và dài hạn thông qua việc cho thuê máy
móc, thiết bị, phương tiện vận chuyển và các động sản trên cơ sở hợp đồng giữa bên cho
thuê với bên thuê. Bên cho thuê cam kết mua máy móc, thiết bị, phương tiện vận chuyển
và các động sản khác theo yêu cầu của bên thuê và nắm giữ quyền sở hữu đối với tài sản
cho thuê. Bên thuê sử dụng tài sản thuê và thanh toán tiền thuê trong suốt thời hạn thuê
đã được hai bên thoả thuận. Nói một cách ngắn gọn, cho thuê tài chính là việc cấp một
khoản tín dụng trung hạn hoặc dài hạn thông qua việc cho thuê máy móc, thiết bị và các
động sản khác.
2.2. Đặc điểm:
- Khi kết thúc thời hạn cho thuê theo hợp đồng, bên thuê đựoc chuyển quyền sở hữu
tài sản thuê hoặc tiếp tục thuê theo sự thoả thuận của hai bên.
- Khi kết thúc thời hạn cho thuê theo hợp đồng, bên thuê được quyền ưu tiên mua
lại tài sản thuê theo giá danh nghĩa thấp hơn giá trị thực tế của tài sản thuê tại thời điểm
mua lại.

- Tổng số tiền thuê một loại tài sản qui định tại hợp đồng cho thuê tài chính, ít nhất
phải tương đương với giá trị tài sản đó tại thời điểm kí hợp đồng.
2.3. Phân loại công ty cho thuê tài chính:
Theo qui định tại Khoản 1 Điều 1 NĐ 95/2008/NĐ-CP sửa đổi bổ sung Điều 2 NĐ
65/2005/NĐ-CP thì ở Việt Nam công ty cho thuê tài chính được thành lập và hoạt động
dưới các hình thức:
- Công ty cho thuê tài chính trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên;
- Công ty cho thuê tài chính trách nhiệm hữu hạn một thành viên;
- Công ty cho thuê tài chính cổ phần.

7

Tuy nhiên, trên thực tế vẫn còn một số công ty CTTC hoạt động dưới các hình
thức công ty CTTC liên doanh và công ty CTTC 100% vốn nước ngoài. Công ty CTTC
liên doanh là công ty cho thuê tài chính được thành lập tại Việt Nam, bằng góp vốn của
Việt Nam và bên nước ngoài trên cơ sở hơp đồng liên doanh. Công ty CTTC liên doanh
được thành lập dưới hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên. Công ty
CTTC 100% vốn nước ngoài đựoc thành lập tại Việt Nam với 100% vốn điếu lệ thuộc sở
hữu của một hoặc một số tổ chức tín dụng nước ngoài. Công ty CTTC 100% vốn nước
ngoài được thành lập dưới hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn.
III. ĐỊA VỊ PHÁP LÍ CỦA CÔNG TY CTTC THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM.
3.1. Trình tự thành lập và chấm dứt hoạt động của công ty CTTC:
3.1.1. Điều kiện thành lập một công ty cho thuê tài chính:
a) Về vốn pháp định: là vốn nó cho phép các công ty có khả năng trang trải được những
khoản vốn lỗ phát sinh đột xuất và những rủi ro có trong lĩnh vực kinh doanh tiền tệ, hay
còn gọi là mức vốn tối thiểu phải có khi thành lập công ty CTTC.
Theo pháp luật Việt Nam hiện hành tại Nghị Định 141/2006/NĐ-CP quy định mức
vốn pháp định khi thành lập công ty cho thuê tài chính như sau:
- Cho đến năm 2008 thì vốn pháp định phải đạt tới 100 tỷ đồng;
- Cho đến năm 2010 thí vốn pháp định phải đạt tới 150 tỷ dồng;

Trong đó các tổ chức tín dụng được cấp giấy phép thành lập hoạt động sau ngày
Nghị định 141/2006/NĐ-CP có hiệu lực và trước ngày 31/12/2008 thì phải đảm bảo ngay
số vốn điều lệ góp hoặc được cấp tối thiểu tương đương mức vốn định qui định cho đến
năm 2008.
Còn các tổ chức tín dụng cấp giấy phép thành lập và hoạt động sau ngày
31/12/2008 phải đảm bảo ngay số vốn pháp định qui định cho tới năm 2010.

8

Trong khi đó công ty CTTC liên doanh hoặc công ty CTTC 100% vốn nước ngoài
thì tổng số tài sản phải là 10 tỷ USD vào cuối năm trước thời điểm nộp đơn trừ trường
hợp hiệp định song phương giữa Việt Nam và các nước có quy định khác.
b) Điều kiện cấp giấy phép thành lập và hoạt động đối với công ty CTTC:
- Có nhu cầu hoạt động cho thuê tài chính trên địa bàn xin hoạt động;
- Có đủ vốn pháp định theo qui định của pháp luật Việt Nam hiện hành;
- Thành viên sáng lập là tổ chức, cá nhân có uy tín và năng lực tài chính;
- Người quản trị, diều hành phải có năng lực hành vi dân sự đầy đủ và trình độ
chuyên môn phù hợp với hoạt động của công ty cho thuê tài chính;
- Có dự thảo điều lệ về tổ chức và hoạt động phù hợp với qui định của Luật Các tổ
chức tín dụng và các qui đinh khác của pháp luật;
- Có phương án của kinh doanh khả thi;
- Còn đối với công ty CTTC liên doanh hoặc 100% vốn nước ngoài, phải được tổ
chức có thẩm quyền theo qui định của pháp luật nước nguyên xứ cho phép hoạt
động cho thuê tài chính tại Việt Nam.
c) Hồ sơ xin cấp giấy phép thành lập và hoạt động đối với CTCTTC:
- Đơn xin cấp giấy phép thành lập và hoạt động;
- Dự thảo điều lệ;
- Phương án hoạt động 3 năm đầu, trong đó nêu rõ hiệu quả và lợi ích kinh tế của
công ty;
- Danh sách lý lịch, các văn bằng chứng minh năng lực, trình độ chuyên môn của

thành viên sáng lâp, thành viên hội đồng quản trị, ban kiểm soát và tổng giám đốc;
- Phương án góp vốn và chính sách cho những cá nhân, tổ chức góp vốn;
- Tình hình tài chính và các thông tin về các cổ đông lớn;

9

- Chấp thuận của ủy ban nhân dân các cấp có thẩm quyền nơi đặt trụ sở của công ty
cho thuê tài chính;
- Còn đối với công ty CTTC liên doanh và công ty CTTC 100% vốn nước ngoài còn
phải thêm càc tài liệu sau:
- Điều lệ hoạt động của tổ chức nước ngoài;
- Giấy phép hoạt động của tổ chức nước ngoài;
- Văn bản của tổ chức nước ngoài cho phép bên nước ngoài hoạt động tại Việt Nam;
- Bảng cân đối tài chính, bảng kết quả lỗ lãi đã được kiểm toán và báo cáo tình hình
hoạt động 3 năm gần nhất của tổ chức nứơc ngoài;
- Dự thảo hợp đồng liên doanh;
Hồ sơ xin cấp giấy phép đối với công ty CTTC liên doanh hoặc công ty CTTC
100% vốn nước ngoài thì phải thành lập hai bộ, một bộ bằng tiếng Việt và một bộ bằng
tiếng nước ngoài thông dụng. Ngân hàng nhà nước qui định những tài liệu trong bộ hồ sơ
bằng tiếng nước ngoài phải được lập pháp hóa lãnh sự. Các bản sao tiếng Việt và các bản
dịch từ tiếng nước ngoài ra tiếng Việt phải được cơ quan công chứng Việt Nam hoặc cơ
quan đại diện nước ngoài, cơ quan lãnh sự của Việt Nam ở nước ngoài xác nhận.
Trong thời hạn 90 ngày kể từ ngày nhận được đầy đủ hồ sơ xin cấp giấy phép
thành lập và hoạt động thì Ngân hàng nhà nước phải cấp hoặc từ chối cấp giấy phép, nếu
từ chối, ngân hàng nhà nước phải có văn bản giải thích lý do.
d) Nộp lệ phí:
Công ty CTTC được ngân hàng nhà nước cấp giấy phép thành lập và hoạt động
phải nộp lệ phí theo qui định của luật phí và lệ phí.
e) Thẩm quyền cấp và thu hồi giấy phép:
Ngân hàng nhà nước Việt Nam là cơ quan quản lý nhà nước về hoạt động cho thuê

tài chính có nhiệm vụ cấp và thu hồi giấy phép thành lập hoạt động, giám sát và thanh tra
hoat động của các công ty CTTC.

10

Thời gian hoạt động của của các công ty CTTC tại Việt Nam tối đa là 50 năm.
Trong trường hợp cần gia hạn hoạt động phải được ngân hàng nhà nước chấp nhận. Mỗi
lần gia hạn không quá 50 năm.
3.1.2. Điều kiện chấm dứt hoạt động công ty CTTC:
Trường hợp 1: công ty CTTC bị giải thể trong các trường hợp sau:
- Tự nguyện xin phép giải thể, nếu có khả năng thanh toán hết nợ và được
ngân hàng nhà nước chấp thuận;
- Khi hết hạn hoạt động không xin phép gia hạn hoặc xin gia hạn nhưng
không được ngân hàng nhà nước chấp nhận;
- Bị thu hồi giấy phép thành lập và hoạt động;
Tổ chức được cấp giấy phép có thể bị thu hồi giấy phép khi xảy ra một trong các
trừơng hợp sau:
- Các chứng cứ trong các hồ sơ xin cấp giấy phép có những thông tin cố ý làm sai
sự thật;
- Sau thời hạn qui định điều kiện hoạt động Điều 28 của Luật tổ chức tín dụng năm
1997 mà không hoạt động;
- Tự nguyện hay bị cơ quan nhà nước có thẩm quyền buộc phải giải thể;
- Chia sáp nhập các công ty cho thuê tài chính;
- Hoạt động sai mục đích;
Không có đủ các điều kiện qui định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 28 của Luật tổ
chức tín dụng năm 1997.
Sau khi bị thu hối các tổ chức phải chấm dứt ngay.
Quyết định thu hồi giấy phép, ngân hàng nhà nước công bố trên các phương tiện
thông tin đại chúng.
Trường hợp 2: Công ty CTTC bị phá sản


11

Sau khi ngân hàng nhà nước có văn bản về việc không áp dụng hoặc chấm dứt
biện pháp phục hồi khả năng thanh toán của công ty CTTC mà công ty cho thuê tài chính
vẫn mất khả năng thanh toán nợ đến hạn thì có thể bị tòa án mở thủ tục giải quyết yêu cầu
tuyên bố phá sản theo qui dịnh của luật phá sản.
3.2. Quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng cho thuê tài chính:
3.2.1. Quyền và nghĩa vụ của bên thuê tài sản:
a) Quyền:
- Có quyền lựa chọn thoả thuận với bên cung ứng về đặc tính kỹ thuật, chủng loại,
giá cả cách thức, thời hạn giao nhận, lắp đặt và bảo hành tài sản cho thuê;
- Trực tiếp nhận tài sản thuê từ nhà cung ứng;
- Quyết định mua tài sản hoặc thuê tiếp tài sản khi hết hạn hợp đồng;
- Được bồi thường thiệt hại nếu bên cho thuê vi phạm hợp đồng;
- Chấm dứt hợp đồng trước hạn với bên cho thuê khi bên cho thuê không giao đúng
hạn tài sản cho thuê hoặc vi phạm hợp đồng;
b) Nghĩa vụ:
- Thanh toán tiền thuê đã thoả thuận và các khoản tiền khác có liên quan đến thuế,
lệ phí, bảo hiểm và thuế nhập khẩu;
- Sử dụng tài sản thuê theo đúng thoả thuận trong hợp đồng;
- Chịu mọi rủi ro về mất mát hư hỏng đối với tài sản thuê và mọi hậu quả do tài sản
này gây ra cho bên thứ ba;
- Cung cấp tài liệu về tình hình hoạt động và kinh doanh về các vấn đề liên quan
đến tài sản thuê khi bên cho thuê yêu cầu.
3.2.2. Quyền và nghĩa vụ của bên cho thuê:
a) Quyền:

12


- Yêu cầu bên thuê cung cấp toàn bộ giấy tờ có liên quan tới tình hình hoạt động kinh
doanh và tài sản thuê;
- Mua hoặc nhập khẩu tài sản theo yêu cầu của bên thuê;
- Sở hữu tài sản thuê, kiểm tra về quản lý sử dụng tài sản thuê;
- Yêu cầu bồi thường thiệt hại tài sản do lỗi của bên thuê;
- Chuyển nhượng các quyền và nghĩa vụ của mình trong hợp đồng tài chính;
- Chấm dứt hợp đồng trước hạn khi bên thuê không trả tiền thuê theo thoả thuận trong
hợp đồng hoặc bên thuê vi phạm các điều khoản trong hợp đồng, bên thuê bị phá
sản, giải thể, hoặc khi người bảo lãnh bị phá sản, giải thể mà bên cho thuê không
chấp nhận đề nghị chấm dứt bảo lãnh hoặc đề nghị người khác bảo lãnh thay thế của
bên thuê.
b) Nghĩa vụ
- Mua hàng hoá theo yêu cầu của bên thuê.
- Đăng kí quyền sở hữu, làm thủ tục mua bảo hiểm đối với tài sản thuê.
3.3. Cơ cấu tổ chức của công ty CTTC:
Tương tự như các tổ chức tín dụng khác, công ty CTTC nằm dưới sự quản lý và
điều hành của Hội đồng quản trị, Tổng giám đốc (Giám đốc) và Ban kiểm soát.
3.3.1. Hội đồng quản trị:
Tại khoản 1 điều 14 nghị định số 95/2008/NĐ-CP thì: Hội đồng quản trị có chức
năng quản trị công ty CTTC, có toàn quyền nhân danh công ty để quyết định, thực hiện
các quyền và nghĩa vụ của công ty trừ những vấn đề thuộc thẩm quyền của đại hội đồng
cổ đông hoặc chủ sở hữu hoặc thành viên góp vốn.
Hội đồng quản trị có ít nhất 3 thành viên và có nhiệm kỳ từ 3 đến 5 năm do điều lệ
tổ chức và hoạt động của công ty quy định, các thành viên của Hội đồng quản trị có thể

13

được bầu lại với số nhiệm kỳ không hạn chế và có thể bị miễn nhiệm, bãi nhiệm bất cứ
lúc nào theo quyết định của cơ quan có thẩm quyền bầu hoặc bổ nhiệm hoặc chỉ định.
Để đảm bảo cho Hội đồng quản trị thực hiện tốt chức năng của mình, pháp luật yêu

các các thành viên Hội đồng quản trị phải là người có uy tín, đạo đức nghề nghiệp và có
kiến thức về hoạt động ngân hàng – tài chính. Bên cạnh đó, pháp luật cần có quy định
cấm chủ tịch và thành viên Hội đồng quản trị thực hiện nhiệm vụ của mình. Nhằm ngăn
chặn các quyết định thiếu khách quan, có thể làm tổn thương lợi ích của công ty hoặc lợi
ích của bên thứ ba, pháp luật còn cấm chủ tịch Hội đồng quản trị kiêm nhiệm các chức
Tổng giám đốc (giám đốc), hoặc phó tổng giám đốc (phó giám đốc).
3.3.2. Ban kiểm soát:
Khoản 2 Điều 14 Nghị định 95/2008/NĐ-CP, Ban kiểm soát có tối thiểu 3 thành
viên, trong đó có một người là trưởng ban và ít nhất phải có một nửa số thành viên là
chuyên trách. Ban kiểm soát có nhiệm kỳ từ 3 đến 5 năm do điều lệ công ty CTTC quy
định và có thể bầu lại với số nhiệm kỳ không hạn chế.
Ban kiểm soát có nhiệm vụ kiểm tra hoạt động tài chính, giám sát việc chấp hành
chế độ hạch toán nội bộ hoạt động từng thời kỳ, từng lĩnh vực nhằm đánh giá chính xác
hoạt động kinh doanh và thực trạng tài chính của công ty cho thuê tài chính.
Để đảm bảo thành viên Ban kiểm soát thực hiện tốt trách nhiệm trên, pháp luật quy định
các thành viên này phải có bằng đại học về các lĩnh vực tài chính, ngân hàng.
3.3.3. Tổng giám đốc (giám đốc):
Theo khoản 3 Điều 15 Nghị định 95/2008/NĐ-CP, Tổng giám đốc (Giám đốc)
được bổ nhiệm từ một trong những thành viên của HĐQT, chịu trách nhiệm trước
HĐQT, trước pháp luật về việc điều hành hoạt động hằng ngày theo nhiệm vụ quyền hạn
của mình. Tổng giám đốc phải có trình độ tối thiểu ở bậc đại học về chuyên ngành kinh
tế, ngân hàng, tài chính, có kinh nghiệm công tác trong lĩnh vực này, có năng lực điều
hành và phải cư trú tại Việt Nam trong suốt thời gian đương nhiệm.

14

Tổng giám đốc có nhiệm kỳ không quá 5 năm và có thể được bổ nhiệm lại “việc
mở chi nhánh, văn phòng đại diện nước ngoài của công ty CTTC phải được Ngân hàng
Nhà nước chấp thuận bằng văn bản, việc thành lập công ty trực thuộc của công ty tài
chính để hoạt động trên một lĩnh vực tài chính, ngân hàng, bảo hiểm thực hiện theo quy

định của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và pháp luật hiện hành.
3.4. Hoạt động nghiệp vụ:
3.4.1. Huy động vốn: công ty cho thuê tài chính được phép huy động vốn từ
các nguồn sau:
Được nhận tiền gửi có kỳ hạn từ một năm trở nên của tổ chức, cá nhân theo quy
định của Ngân hàng Nhà nước;
Được phát hành trái phiếu, chứng chỉ tiền gửi và giấy tờ có giá khác có kỳ hạn trên
một năm nhằm mục đích huy động vốn của tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước theo
quy định của Ngân hàng Nhà nước;
Được vay vốn từ các tổ chức tín dụng, tài chính, ngân hàng trong và ngoài nước;
Được nhận các nguồn vốn khác theo quy định của Ngân hàng Nhà nước.
3.4.2. Cho thuê tài chính:
Tài trợ vốn để mua máy móc, thiết bị hoặc phương tiện vận chuyển hoặc các động
sản khác theo yêu cầu của bên thuê và nắm giữ quyền sở hữu đối với tài sản cho thuê;
Mua lại máy móc, thiết bị, phương tiện vận chuyển và các động sản thuộc sở hữu của bên
thuê và cho bên thuê thuê lại chính các tài sản đó để phục cho hoạt động sản xuất của
mình.
3.4.3. Các dịch vụ liên quan tới thuê tài chính:
Tư vấn cho khách hàng những vấn đề liên quan đến nghiệp vụ cho thuê tài chính;
Thực hiện các dịch vụ uỷ thác, quản lý tài sản, bảo lãnh liên quan đến hoạt động cho thuê
tài chính.

15

3.4.4. Một số nghiệp vụ khác:
Được thực hiện nghiệp vụ cho thuê vận hành;
Được bán các khoản phải thu từ hợp đồng cho thuê tài chính cho các tổ chức cá
nhân theo quy định của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam;
Trong trường hợp công ty cho thuê tài chính có mức vốn điều lệ tương đương mức
vốn pháp định đối với công ty cho thuê tài chính thì được phép thực hiện một số nghiệp

vụ như: cho vay ngắn hạn bổ sung vốn lưu động cho bên thuê, thực hiện bao thanh toán
cho bên thuê.
IV. ĐÁNH GÍA KHUNG PHÁP LÝ:
Công ty tài chính(CTTC) xuất hiện ở Việt Nam lần đầu tiên vào năm 1995, là
kênh tài trợ hữu hiệu cho các tổ chức cá nhân, làm phong phú thêm các loại hình dịch vụ
tài chính – ngân hàng. Hoạt động này được pháp luật điều chỉnh trong luật các Tổ chức
tín dụng 1997 sửa đổi bổ sung năm 2004, Nghị định 16/2001/NĐ-CP; NĐ 65/2005/NĐ-
CP sửa đổi bổ sung một số điều NĐ 16/2001/NĐ-CP, NĐ 95/2008/NĐ-CP sửa đổi bổ
sung một số điều của Nghị định 16/2001/NĐ-CP và một số văn bản khác có liên quan.
Tuy nhiên đến hiện nay hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực này và phạm vi hoạt động
còn rất hạn chế. Bên cạnh một số nguyên nhân khác thì hệ thống các quy định pháp luật
còn thiếu đồng bộ là một rào cản không nhỏ, nhất là trong xu thế hội nhập hiện nay với
làn sóng đầu tư mạnh mẽ vào Việt Nam.
Các quy định về hoạt động này cũng còn khá nhiều bất cập nhất là các quy định về
xử lí tranh chấp hợp đồng cho thuê, thu hồi tài sản, đăng kí tài sản cho thuê không nhất
quán; quan hệ nhà cung cấp – thuê – cho thuê chưa rõ gây ra những phức tạp nhất là khi
xảy ra tranh chấp.
 Khoản 1 Điều 1 NĐ 16/2001/NĐ-CP: “CTTC là hoạt động tín dụng … thông qua việc
cho thuê máy móc thiết bị, phương tiện và các động sản khác trên cở sở hoạt động cho
thuê…”

16

Theo Điều 73 Luật Các tổ chức tín dụng : “ tổ chức tín dụng không được trực tiếp
kinh doanh bất động sản” hai điều trên đã hạn chế đối tượng của hoạt động cho thuê tài
chính.
Và theo điểm b khoản 1 Điều 9 Luật kinh doanh bất động sản thì doanh nghiệp
kinh doanh bất động sản thực hiện chức năng thuê mua bất động sản, quy định này có vẻ
như không hợp lý bởi nghiệp vụ chính của các doanh nghiệp này là mua bán cho thuê văn
phòng, quyền sở hữu nhà, quyền sử dụng đất và họ thực tế rất ít hoặc không thực hiện

chức năng thuê mua bất động sản. Việc xây dựng công trình mua bán nhà, chuyển
nhượng quyền sử dụng đất là độc lập với nhau nên việc quy định cho công ty cho thuê tài
chính mua bất động sản của doanh nghiệp kinh doanh bất động sản theo yêu cầu của
khách hàng là hợp lý hơn, vừa không ảnh hưởng chồng đến họat động của các công ty
kinh doanh bất động sản đồng thời phát triển được họat động cho thuê tài chính trong lĩnh
vực bất động sản đáp ứng nhu cầu rất cao về mảng này trong thực tế.
Theo công ước Viên 1980 và luật pháp một số nước như Nga quy định máy bay là
bất động sản trong khi pháp luật dân sự Việt Nam thì bất động sản là đất đai và các tài
sản gắn liền với đất đai ( theo Điều 174 Bộ luật Dân sự 2005), theo cách nói này, máy
bay không là bất động sản. Như vậy, đã thể hiện sự không tương thích giữa pháp luật
Việt Nam. Trong khi thực tế việc cho thuê tài chính đối với máy bay lại khá phổ biến ở
Việt Nam, tiểu biểu là hãng hàng không Việt Nam Airline có một nửa số máy bay từ hoạt
động thuê tài chính. Do vây, khi xảy ra tranh chấp trong hợp đồng cho thuê tài chính thì
việc giải quyết là rất khó khăn.
Đối tượng của cho thuê tài chính là bất động sản sẽ có độ an toàn cao vê khả năng
thu hồi vốn của bên cho thuê khi có sự vi phạm đảm bảo lợi ích bên cho thuê hơn so với
cho thuê tài chính các động sản khác bởi vì :
- Quyền sở hữu bất động sản thuộc bên cho thuê do đó khi có vi phạm của bên thuê
thì bên cho thuê hoàn toàn có khả năng thu hồi nhờ tính không thể di dời của bất
động sản;

17

- Bên thuê có nghĩa vụ thanh toán đầy đủ tiền thuê khi chấm dứt hợp đồng đảm bảo
bên thuê thu hồi cả vốn lẫn lãi;
- Trong hợp đồng CTTC các bên có quyền thoả thuận áp dụng các biện pháp bảo
đảm khả năng thanh toán;
Mặt khác nhu cầu thực tế về mảng này là rất cao nhất là lĩnh vực cho thuê văn
phòng.
Bên cạnh đó, pháp luật Việt Nam không cho các công ty CTTC kinh doanh cho

thuê bất động sản nhưng thực tế hiện nay Việt Nam Airline đang đi thuê máy bay của
một số công ty CTTC nước ngoài mà trong pháp luật dân sự Việt Nam thì máy bay là
một loại bất động sản. Nếu trong tương lai Việt Nam có một công ty CTTC có khả năng
cho thuê máy bay thì lúc đó sẽ bị vướng phải hàng rào pháp lí do khả năng làm luật
không dự đoán được các tình huống xảy ra trong tương lai. Nên chăng cần thiết phải sửa
đổi Điều 73 Luật các tổ chức tín dụng theo hướng loại trừ hạn chế này đối với hoạt động
cho thuê tài chính, như vậy mới góp phần làm cho thị trường cho thuê tài chính phát triển
tương xứng với tiềm năng của nó, để tạo ra khả năng đầu tư tốt hơn cho nền kinh tế, có
lợi cho các doanh nghiệp trong kinh doanh, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
 CTTC là hoạt động tín dụng ( khoản 1 Điều 1 NĐ 16/2001/NĐ-CP) và đối tượng là
tài sản cụ thể. Theo Khoản 3 Điều 1 NĐ 16: hoạt động CTTC trên lãnh thổ Việt Nam
phải được tiến hành thông qua các công ty CTTC được thành lập và hoạt động tại Việt
Nam. Và khoản 1 Điều 1 NĐ 95/2008/NĐ-CP sửa đổi bổ sung NĐ 16/2001/NĐ-CP:
“Công ty CTTC là một tổ chức tín dụng phi ngân hàng, là pháp nhân Việt Nam”. Như
vậy, các tổ chức tín dụng là ngân hàng không được tiến hành hoạt động CTTC. Đó thực
sự là một điều không công bằng với các ngân hàng bởi các TCTD phi ngân hàng được
phép thực hiện một số nghiệp vụ ngân hàng và còn không thống nhất với khoản 3 Điều 1
Luật sửa đổi bổ sung Luật các TCTD và một số văn bản khác. Ví dụ như:

18

- Khoản 3 Điều 1 Luật sửa đổi bổ sung Luật các TCTD: “Ngân hàng là loại hình tổ
chức tín dụng được tiến hành toàn bộ hoạt động kinh doanh khác có liên quan” (Khoản
3, 7, 8, 11 Điều 20 Luật các TCTD);
- Điều 4 NĐ 49/2000/NĐ-CP: ngân hàng thương mại được cấp tín dụng cho các tổ
chức, cá nhân dưới hình thức cho vay, chiết khấu thương phiếu và giấy tờ có giá khác,
bảo lãnh, CTTC, và các hình thức khác theo quy định của NHNN (Khoản 2 Điều 1 NĐ
49/200/NĐ-CP; Điều 49 Luật các tổ chức tín dụng (cấp tín dụng là…));
- Điều 11 NĐ 49/2000/NĐ-CP: “ngân hàng thương mại được hoạt động cho thuê tài
chính nhưng phải thành lập công ty cho thuê tài chính…”

Như vậy có mâu thuẫn: không cho ngân hàng hoạt động trực tiếp CTTC và cho
phép thành lập các công ty trực thuộc lại hoạt động CTTC.
Có sự không thống nhất với các luật và văn bản khác.
- Cho phép ngân hàng hoạt động cho thuê tài chính nhưng NĐ 16/2001/NĐ-CP lại
không chokhông phù hợp.
- Cho phép ngân hàng hoàn toàn được quyền tiến hành CTTC (cấp tín dụng).
Thực tế các ngân hàng “lách” quy định NĐ 16/2001/NĐ-CP bằng cách lập các
công ty CTTC trực thuộc để tiến hành hoạt động kinh doanh này và ở Việt Nam trên 80%
các công ty CTTC trực thuộc ngân hàng.
“Thật khó lí giải thuyết phục vì sao ngân hàng không được tiến hành hoạt động
CTTC trong khi các nhà làm luật và các nhà khoa học pháp lí đều đồng ý CTTC là hình
thức cấp tín dụng có độ an toàn cao. Do đó cần xem xét gỡ bỏ rào cản này để nâng cao
năng lực cấp tín dụng của ngân hàng, tăng cường khả năng sử dụng vốn hiệu quả nhằm
đảm bảo tính thống nhất của pháp luật, đồng thời tạo công bằng pháp lí cho các ngân
hàng trong hoạt động kinh doanh ”.
 Quy định về phương thức xử lí, tài sản cho thuê để thu hồi tài sản khi bên thuê vi
phạm hợp đồng không hợp lí:

19

- Theo Khoản 1 Điều 27 NĐ 16/2001/NĐ-CP quy định cho bên thuê có quyền chấm
dứt hợp đồng CTTC trước hạn…Khoản 1 Điều 28 quy định công ty CTTC xử lí tài sản
cho thuê khi bên vi phạm theo Khoản 1 Điều 27 mà không phân biệt dạng CTTC là hoàn
trả lại tài sản hay không hoàn trả lại tài sản khi chấm dứt hợp đồng. Tuy nhiên, theo
Khoản 1 Điều 28 thì xử lí này chỉ phù hợp với công ty CTTC mà tổng tiền thuê ít nhất
phải bằng giá trị tài sản tài thời điểm kí kết hợp đồng bởi thông thường bên thuê không
hoàn trả lại tài sản cho thuê khi chấm dứt hợp đồng. Nếu quy định này áp dụng trong
trường hợp tổng tiền thuê nhỏ hơn giá trị tài sản tại thời điểm kí kết hợp đồng thì pháp
luật chỉ đảm bảo khả năng thu hồi tiền thuê của bên cho thuê chứ không bảo đảm khả
năng thu hồi cấp vốn tín dụng, như vậy không phù hợp với nguyên tắc cấp tín dụng và

không đảm bảo được quyền lợi chính đáng của bên cho thuê, sự bảo vệ quyền lợi của bên
cho thuê của hệ thống pháp luật là không tốt.
- Tại Khoản 1 Điều 27: khi bên thuê chưa thanh toán đủ tiền thuê thì bên cho thuê có
quyền thu hồi tài sản và yêu cầu bồi thường.
Trường hợp tổng tiền thuê lớn hơn giá trị tài sản hoặc hợp đồng bên thuê được
chuyển giao quyền sở hữu sau khi chấm dứt hợp đồng thì sẽ bất lợi cho bên thuê vì họ đã
thanh toán tổng tiền thuê (đã đảm bảo quyền của bên cho thuê) nhưng vẫn không đựơc sở
hữu tài sản thuê. NĐ 65/2005/NĐ-CP đã khắc phục bất cập này nhưng lại bất cập khi mở
rộng khái niệm CTTC ở chính văn bản này.
 Về quản lí, sử dụng, khấu hao đối với tài sản cố định cho thuê tài chính chưa thống
nhất.
- Theo quyết định 206/2003/QĐ-BTC ngày 12/12/2003 về chế độ quản lí, sử dụng,
khấu hao tài sản cố định thì: doanh nghiệp thuê tài chính tài sản cố định phải quản lí, sử
dụng, trích khấu hao như tài sản thuộc về mình và phân định tài sản cho thuê mà không
thuộc CTTC là cho thuê vận hành và bên cho thuê có nghĩa vụ trích khấu hao chứ không
phải bên thuê.

20

- QĐ 206/2003/QĐ-BTC định nghĩa rõ ràng về CTTC tương tự NĐ 16/2001/NĐ-CP,
nhưng NĐ này đã được sửa đổi bổ sung ở NĐ 65/2005/NĐ-CP, do đó trong nhiều trường
hợp CTTC ở NĐ 65 không được coi là CTTC theo quy định tại QĐ 206, điều này thể
hiện sự không thống nhất, gây vướng mắc: bên nào sẽ phải thực hiện nghĩa vụ trích khấu
hao đối với tài sản CTTC ở giữa.
- Theo QĐ 731/2004/QĐ-NHNN của Thống đốc ngân hàng nhà nước quy định quy chế
tạm thời về hoạt động cho thuê vận hành của các công ty CTTC thì thuế (có liên quan đến
nghĩa vụ trích khấu hao) của công ty CTTC được thực hiện theo quy định của Bộ Tài
Chính gây khó khăn cho công ty CTTC và cả bên thuê khi áp dụng bên nào có nghĩa vụ
trích khấu hao khi tính thuế.
- Theo quy định tài sản cho thuê thuộc quyền sở hữu của bên cho thuê và giấy tờ đăng

kí, liên quan đều mang tên bên cho thuê.
Đối với tài sản CTTC là phương tiện lưu hành sẽ gây khó khăn cho hoạt động của
bên thuê. Khi trụ sở công ty CTTC ở TP, trụ sở công ty ở tỉnh quy định về khám lưu hành
phương tiện thì cỏ quan có thẩm quyền khám là cơ quan đăng kiểm nơi đặt trụ sở công ty
CTTC, công ty cho thuê phải dời từ tỉnh về thành phố để khám gây ảnh hưởng sản xuất
kinh doanh của công ty đi thuê.
VD: tài sản đi thuê là ô tô khi lưu hành sử dụng bản công chứng đăng kí phương
tiện (công ty CTTC giữ bản đăng kí theo nghị định 16/2001/NĐ-CP), doanh nghiệp thuê
sẽ gặp khó khăn khi một số cơ quan chức năng không chấp nhận việc sử dụng đăng kí
như trên.
Mọi công ty CTTC chịu sự quản lí của Ngân hàng nhà nước về mọi hoạt động
(gồm cả cho thuê vận hành) trong khi các doanh nghiệp khác hoạt động cho thuê vận
hành tài sản giá trị lớn thì không chịu sự quản lí. Trong khi sự phân biệt giao dịch CTTC
và giao dịch cho thuê thông thường trong luật chưa thật rõ ràng.

21

- Quy định “thu hồi ngay lập tức tài sản cho thuê” khi bên thuê vi phạm hợp đồng là
khó thực hiện bởi đối với tài sản bên cho thuê chỉ sở hữu “danh nghĩa” còn về cơ bản, tất
cả quyền chiếm hữu sử dụng (thực tế) đều thuộc bên thuê.
- Trong xử lí: các cơ quan pháp luật thường hình sự hoá các quan hệ kinh tế và thu hồi
tài sản giữ làm tang chứng vụ án mà không trả lại cho bên cho thuê, đã gây khó khăn cho
họ.
- Trong các văn bản pháp luật về họat động tín dụng không quy định về mức ký quỹ
của khách hàng trong họat động cho thuê tài chính mà do doanh nghiệp tự quyết định,
thông thường ở Việt Nam mức kí quỹ đề nghị của các công ty là 30% giá trị hợp đồng
cho thuê tài chính, mức kí quỹ này quá cao so với thực tế năng lực tài chính của doanh
nghiệp và hơn hết nó không đúng như bản chất của hoạt động cho thuê tài chính, để phát
huy khả năng hoạt động của doanh nghiệp, với thực tế ở Việt Nam 98% các doanh nghiệp
vừa và nhỏ rất cần có nguồn vốn để đầu tư phát triển. Quy định này có lẽ xuất phát từ

thực tế năng lực đánh giá tính khả thi dự án kinh doanh, năng lực tài chính của các doanh
nghiệp cho thuê tài chính còn yếu kém, sự tin tưởng lẫn nhau giữa hai bên và sự quy định
chi tiết trong luật với cơ chế đảm bảo quyền lợi hai bên trong quan hệ cho thuê tài chính
chưa cao.
- Theo Khoản 7 Điều 1 NĐ 95/2008/NĐ-CP sửa đổi bổ sung Điểm b Khoản 1 Điều 16
NĐ 16/2001/NĐ-CP và Điều 16 NĐ 16 thì công ty cho thuê tài chính được huy động vốn
từ các cá nhân tổ chức thông qua nhận tiền gửi, phát hành giấy tờ có giá có kì hạn từ một
năm trở lên. Quy định này rõ ràng hạn chế khả năng huy động vốn của công ty cho thuê
tài chính trong trường hợp công ty cần huy động nguồn vốn ngắn hạn.
- Theo Điều 31 NĐ 16/2001/NĐ-CP: tổng dư nợ cho thuê tài chính đối với một khách
hàng không được vượt quá 30% vốn tự có của công ty cho thuê tài chính; không quá 80%
đối với một nhóm khách hàng. Như vậy, có sự hạn chế hoạt động cho thuê tài chính của
doanh nghiệp trong trường hợp đối tác chiến lược của công ty có dự án kinh doanh có
tính khả thi cao sẽ mang lại lợi ích cho cả hai bên nhưng cần một nguồn tài trợ lớn trên
30% vốn tự có của công ty cho thuê tài chính thì công ty này không thể tự mình thực hiện

22

hợp đồng cho thuê tài chính mà cần có sự hợp vốn với các công ty cho thuê tài chính
khác, điều này có thể dẫn đến sự chậm trễ trong cơ hội đầu tư của cả hai bên, bởi để đạt
được sự thỏa thuận của hai bên hợp vốn là không dễ, làm mất thời gian thậm chí có thể
làm mất khách hàng.
- Theo Khoản 1 Điều 1 NĐ 65/2005/NĐ-CP sửa đổi bổ sung Khoản 2 Điều 1 NĐ
16/2001/NĐ-CP thì thời hạn cho thuê một loại tài sản ít nhất phải bằng 60% thời gian cần
thiết để khấu hao tài sản thuê. Điều này gây ra các cách hiểu không thống nhất về ý nghĩa
của quy định trên, chẳng hạn nếu trong trường hợp bên thuê tài chính muốn và có khả
năng mua lại tài sản trước thời hạn chấm dứt hợp đồng cho thuê thì lại không có quy định
nào đựơc đề cập về giải quyết hợp đồng chấm dứt trước thời hạn.
V. SO SÁNH VỚI QUỸ ĐẦU TƯ MẠO HIỂM:
4.1. Tổng quan về quỹ đầu tư mạo hiểm :

Sở dĩ gọi hình thức tín dụng này là quỹ đầu tư mạo hiểm vì đây thường là hành vi
của của những nhà đầu tư, họ đầu tư vào lĩnh vực kinh doanh mà không có tài sản đảm
bảo nào, vì vậy, khi mà doanh nghiệp được đầu tư phá sản thì họ sẽ mất tất cả tài sản đầu
tư. Ngoài ra, nhà đầu tư còn mất công sức và thời gian với việc xây dựng và quản lý
doanh nghiệp
Ở các nước phát triển Quỹ Đầu Tư Mạo Hiểm (QĐTMH) là động lực chính cho sự
phát triển công nghệ cao và Mỹ là nơi bắt nguồn của các QĐTMH. Những giá trị căn bản
QĐTMH hướng tới khác giá trị thông thường có tầm nhìn xa hơn, lợi nhuận lớn hơn và
rủi ro cao hơn. Quỹ Đầu Tư cũng là nển tảng tạo nên những giá trị đột phá trong xã hội,
trong các lĩnh vực mới luôn thay đổi. Do dó, ĐTMH là phương thức đầu tư vừa và nhỏ
vào các công ty có các sản phẩm hoặc nguồn thu nhập tiềm năng, nhưng chưa hoặc đang
triển khai, thường là lĩnh vực công nghê cao, công nghệ mới.
Đặc điểm của hình thức đầu tư này là không trực tiếp cung cấp vốn cho doanh
nghiệp mà thông qua một tổ chức chuyên nghiệp để thực hiện đầu tư và quản lý vốn đầu
tư. Trong môi trường cạnh tranh, doanh nghiệp muốn sinh tồn thì phải đổi mới công nghệ

23

và doanh nghiệp nào có công nghệ cao, nhiều tài sản vô hình thì sẽ chiến thắng, cho nên
ĐTMH là yếu tố quan trọng thúc đẩy hình thành doanh nghiệp công nghệ cao và phát
triển công nghệ cao.
 Mục đích của đầu tư mạo hiểm:
Mục đích chủ yếu của ĐTMH là hình thành các doanh nghiệp KH&CN hoặc
doanh nghiệp công nghệ cao. Theo nghĩa rộng, là đầu tư vốn vào toàn bộ hoạt động kinh
tế mang tính phát triển, sáng tạo, có độ mạo hiểm cao nhưng tiềm năng hiệu quả cũng
cao. Theo nghĩa hẹp, ĐTMH thường là đầu tư vào sản xuất, kinh doanh sản phẩm có hàm
lượng công nghệ cao. Mục đích của ĐTMH là thúc đẩy phát triển ngành công nghệ cao,
hình thành các doanh nghiệp công nghệ cao.
 Các yếu tố hình thành:
 Vốn mạo hiểm:

Vốn mạo hiểm có thể được hiểu là các khoản đầu tư vốn cổ phần tư nhân trung
hạn vào các công ty nhận vốn chưa trưởng thành. Nói cách khác, các công ty nhận vốn
đầu tư đang trong giai đoạn manh nha của quá trình phát triển sản phẩm, phát triển năng
lực sản xuất hoặc bắt đầu mở rộng cung cấp hàng hóa, dịch vụ. Trong giai đoạn đầu phát
triển, mức độ rủi ro rất cao, vì thế, các chuyên gia quản lý vốn mạo hiểm sẽ tìm kiếm các
khoản thu nhập vốn tiềm năng cao hơn. Ông Đỗ Văn Lộc, Quyền Vụ trưởng Vụ Công
nghệ cao, Bộ KH&CN cho biết: dự thảo điều lệ quỹ là 450 tỷ đồng dựa trên dự kiến số
doanh nghiệp công nghệ cao của Việt Nam đang chuẩn bị hình thành, kinh nghiệm từ
Quỹ Đầu tư mạo hiểm IDG và từ 19 quỹ công nghệ cao của Trung Quốc (vốn từ 100 -
1.400 tỷ đồng). Như vậy Quỹ đầu tiên của Việt Nam có số vốn bằng gần 1/3 quỹ của IDG
và bằng một quỹ trung bình trong 19 quỹ của Trung Quốc.
 Đối tượng đầu tư:
Vốn đầu tư mạo hiểm là một trong 4 loại vốn đầu tư trực tiếp được dùng để đầu tư
vào các công ty có sản phẩm hoặc nguồn thu nhập tiềm năng, nhưng chưa hoặc đang triển
khai và thường các công ty này là những DN vừa và nhỏ. Bỏ vốn ra, các nhà đầu tư mạo

24

hiểm đồng thời thực hiện việc hỗ trợ điều hành các công ty này. Như vậy, quỹ đầu tư mạo
hiểm và các công ty được đầu tư cùng chia sẻ thành công và rủi ro.
 Thời hạn đầu tư:
Các chủ đầu tư thường không có ý định sát cánh cùng DN làm ăn suốt dự án mà
sau vài ba năm đầu tư hoặc tiếp tục theo đuổi, hoặc rút lui. Vì thế trong thỏa thuận hợp
tác thường phải bàn đến lối ra cho nhà đầu tư. Bên cạnh đó, đã mạo hiểm bỏ vốn vào DN
các nhà đầu tư cũng muốn tham gia công việc điều hành để phát hiện giúp DN tháo gỡ
các yếu kém trong quản lý, nhân lực, quản trị nội bộ công ty, nhận các bản báo cáo tài
chính thường kỳ.
 Mục đích đầu tư:
Mục đích cuối cùng của quỹ đầu tư mạo hiểm vẫn là làm tăng giá trị của các công
ty họ đầu tư, tìm kiếm lợi nhuận từ phía các quỹ đầu tư mạo hiểm, do độ rủi ro cao nên

mức lợi nhuận mà các nhà đầu tư muốn tìm kiếm cũng phải nhiều hơn các hình thức
khác. Vì thế, khi tham gia bỏ vốn vào DN, các quỹ đầu tư sẽ tập trung vào việc xây dựng
giá trị lâu dài của công ty để sau một thời gian khi chuyển nhượng các nhà đầu tư sẽ thu
lãi ở mức cao nhất. Để làm được những điều này, các công ty đầu tư vốn mạo hiểm luôn
được trang bị đội ngũ chuyên gia tài năng, từng người được phát huy trên các lĩnh vực mà
họ có sở trường để cùng phát huy năng lực điều hành, quản lý trong các DN mà họ tham
gia đầu tư. Từ phía các DN cũng phải biết được yêu cầu của nhà đầu tư, xây dựng và
hoạch định cho mình các kế hoạch, dự án sản xuất kinh doanh tốt, có tính thuyết phục cao
để có thể hấp dẫn các quỹ đầu tư mạo hiểm ngay từ phút ban đầu.
 Phương thúc đầu tư :
Về phương thức đầu tư, Quỹ sẽ đầu tư vào doanh nghiệp dưới dạng góp vốn cổ
phần (không quá 30% tổng số vốn của dự án đầu tư), mua lại cổ phần chứng khoán của
doanh nghiệp công nghệ cao. Lấy mục tiêu hỗ trợ hình thành và phát triển các doanh
nghiệp công nghệ cao là cơ bản, không lấy lợi nhuận làm mục tiêu chính nên Quỹ sẽ
được Nhà nước bảo đảm cấp vốn từ ngân sách. Để tăng nguồn vốn, Quỹ được phép huy

25

động các nguồn vốn ngoài ngân sách của các doanh nghiệp, các tổ chức trong và ngoài
nước.
 Thực trạng, khuynh huớng quỹ đầu tư mạo hiểm ở Việt Nam:
 Thực trạng
Hiện nay, ở nước ta có một số quỹ ĐTMH của nước ngoài đang hoạt động. Quỹ
ĐTMH IDG (IDGVF) được thành lập từ năm 2004 tại Việt Nam, nhằm đầu tư vào lĩnh
vực công nghệ thông tin với số vốn ban đầu lên đến 100 triệu USD. Tuy nhiên, sau 1 năm
hoạt động, mới có 4 doanh nghiệp Việt Nam nhận được sự hỗ trợ của quỹ này với vốn
đầu tư không đáng kể. Quỹ Mekong đã đầu tư cho các doanh nghiệp tư nhân hoạt động
xuất khẩu: Đầu tư 1 triệu USD vào Công ty cổ phần sản xuất và thương mại Minh Phúc,
1,6 triệu USD vào Công ty cổ phần nhựa Tân Đại Hưng, 745 ngàn USD vào Công ty Lạc
Việt sản xuất phần mềm xuất khẩu. Nhìn chung, các doanh nghiệp vừa và nhỏ của Việt

Nam chưa đủ điều kiện nhận được ĐTMH trung và dài hạn, vì trình độ tổ chức và vận
hành doanh nghiệp thấp cũng như thiếu chiến lược dài hạn trong đổi mới công nghệ,
ngoại trừ một số doanh nghiệp hoạt động xuất khẩu hoặc trong lĩnh vực công nghệ thông
tin.
Tồn tại hiện nay của nền kinh tế nước ta là chưa hình thành được hệ thống các
doanh nghiệp công nghệ cao, vườn ươm tạo công nghệ, đồng thời thiếu hệ thống pháp
luật, chính sách hỗ trợ phát triển ĐTMH, cùng với thị trường chứng khoán còn yếu, chưa
hình thành thị trường vốn. Do đó, vấn đề hình thành và phát triển doanh nghiệp ĐTMH
một cách đầy đủ ở nước ta trong giai đoạn trước mắt chưa có điều kiện thuận lợi như ở
các nước đã có các yếu tố thị trường mạnh mẽ hơn (thể hiện qua tỷ lệ cổ phần hoá, tư
nhân hoá, phát triển thị trường chứng khoán ). Hiện nay chúng ta đang đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập kinh tế quốc tế, việc đẩy nhanh tốc độ đổi mới công
nghệ để nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là nhu cầu tất yếu. Trong những
năm qua, Nhà nước đã và đang kiên trì thực hiện xây dựng các khu công nghệ cao tại Hà
Nội và thành phố Hồ Chí Minh. Nhiều doanh nghiệp mới ra đời đã có những yếu tố công
nghệ cao đang hoạt động trong lĩnh vực công nghệ thông tin, vi điện tử, viễn thông, công

×