Tải bản đầy đủ (.pdf) (109 trang)

Tác động của hoạt động xuất nhập khẩu đến môi trường ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.03 MB, 109 trang )

Khoá luận tốt nghiệp Tác động của hoạt động xuất nhập khẩu đến môi
trường
Trần Minh Hoàng - Lớp A14 - K38D - Đại học Ngoại thương
- -
1

LỜI NÓI ĐẦU

Điểm xuất phát là, bất kể ai dù là nam hay nữ, những người lãnh đạo đất
nước và mọi người dân, những người sống trên trái đất này không thể sống tách
biệt khỏi thế giới loài người. Hơn nữa, vào thời điểm cuối thế kỉ này mọi người
VIệt Nam, nam cũng như nữ, đang cố gắng hết sức để đạt một vị trí thuận lợ
i
trong thời đại sau. Đây sẽ là cuộc chiến đấu khó khăn nhất trong lịch sử nước
Việt Nam: cuộc đấu tranh vì hoà bình và thịnh vượng.
Mặc dù quá trình “đổi mới” của Việt Nam là chậm chạp nhưng không thể
đảo ngược.
Đúng như vậy, Việt Nam đang thực sự hội nhập với thế giới. Đặc biệt, từ
sau khi bức tường Berlin bị phá bỏ thì thế gi
ới đang chuyển biến một cách
nhanh chóng.
Vậy thì thế giới ngày nay như thế nào? Và thế giới đã trải qua những biến
đổi gì?
Trước khi bức tường Berlin bị phá bỏ, nền kinh tế toàn cầu bao gồm các
lĩnh vực khác nhau và phát triển trên cơ sở các hệ thống kinh tế và xã hội khác
nhau, thậm chí đối kháng và xung đột với nhau.
Từ nay thời kì ấy đã chấm dứt.
Sự chuyển h
ướng sang nền kinh tế thị trường là điều không thể đảo lộn
được trên toàn thế giới này. Đây là sự khởi đầu của quá trình toàn cầu hoá.
Toàn cầu hoá ở những mức độ khác nhau, của các nền kinh tế quốc gia


khác nhau và của mọi mặt trong đời sống kinh tế ( từ các thị trường tiền tệ đến
vấn đề sức khoẻ xuyên qua thương mại, môi trường, bảo trợ xã h
ội, lao động
v.v…) là không thể trốn tránh và không thể đảo ngược được.
Từ thuở xa xưa, con người sinh sống trên trái đất và duy trì cuộc sống
của mình bằng việc tiêu thụ, sản xuất và trao đổi. Khi dân số trên địa cầu ngày
càng tăng, khi các cư dân ngày càng thịnh vượng thì các nhu cầu ngày càng trở
nên quan trọng, đa dạng, cầu kì. Những mất cân đối giữa tiêu thụ, sản xuất, trao
đổi đang tạo ra những tác động có h
ại đối với trái đất- nơi che chở cho con
người. Như vậy, dù muốn hay không việc bảo vệ trái đất là một trong những ưu
tiên không thể đảo ngược trong toàn cầu hoá.
Chính trong bối cảnh này mà mối liên hệ giữa xuất nhập khẩu và môi
Khoá luận tốt nghiệp Tác động của hoạt động xuất nhập khẩu đến môi
trường
Trần Minh Hoàng - Lớp A14 - K38D - Đại học Ngoại thương
- -
2

trường phải được đề cao ngang với tầm quan trọng của nó. Ta hãy xem xét một
hình ảnh đơn giản: xuất nhập khẩu và môi trường đều cùng ở trên một con tàu,
do đó cả hai có thể cùng chìm nghỉm khi xảy ra bão tố hoặc con tàu sẽ đưa
chúng đến bến bờ thanh bình và giầu có. Và để con tàu cập bến ở hải cảng tốt
như vậy thì đoàn thuỷ thủ và những hành khách ( như tiền tệ, tài chính, giáo d
ục,
y tế, văn hoá và nhất là lao động và bảo trợ xã hội) phải được hoan nghênh trên
tầu. Sau hết và cần nhất là phải có một e kíp tốt hỗ trợ cho thuyền trưởng.
Hình ảnh này rất có tính thuyết phục và cần được áp dụng ở cả phạm vi
quốc gia và toàn cầu. Thật vậy, trên phạm vi toàn cầu, có thể nào lại để cho các
thị trường vô tâm, vô hồn, với một mong muốn duy nhất là lợi nhu

ận, nhất là các
thị trường tài chính, quyết định cuộc sống của mọi người không? Có thể nào
chúng ta lại chịu đựng hay tìm ra một cơ cấu kinh tế toàn cầu mới để thay thế
cho cơ cấu đã tồn tại suốt 50 năm sau các cuộc thế chiến, một cơ cấu được gọi là
cơ cấu sống còn nhưng lại không thể vượt qua được những khó khăn và thách
th
ức của toàn cầu hoá hơn nữa.
Do vậy, trên con đường tới thời đại mới, các tổ chức quốc tế với khả
năng chuyên sâu phải cùng nhau xây dựng một cơ cấu kinh tế toàn cầu chung
để thúc đẩy và quản lí mối liên hệ sống còn của các thành phần khác nhau của
đời sống kinh tế toàn cầu, trong đó có mối liên hệ thương mại quốc tế ( xuất
nhập khẩu) và môi trường.
Việt Nam còn đang chậm chạp trên con đường từ liên kết quốc gia đến
liên kết quốc tế. Tuy nhiên, với luồng sinh khí của công cuộc đổi mới bắt đầu từ
cuối những năm thập kỉ tám mươi, Việt Nam đã tiến một bước dài theo hướng
hiện đại hoá nền kinh tế và đang sánh cùng các nước trong khu vực. Sự phát
triển này đã nảy sinh những thách thức mới, mà nó khác với nh
ững khó khăn
chúng ta đã vượt qua trong 30 năm qua. Sự phát triển của thương mại nói chung
và hoạt động xuất nhập khẩu nói riêng làm cho nền kinh tế chịu một sức căng
mới, như cạn kiệt nguồn tài nguyên và giảm sự che phủ của rừng, môi trường
sinh thái bị ô nhiễm nghiêm trọng. Hơn bao giờ hết, việc nghiên cứu tác động
tiêu cực của hoạt động xuất nhập khẩu t
ới môi trường tự nhiên là điều hết sức
cần thiết và cấp bách.
Xuất phát từ yêu cầu trên, em đã chọn đề tài: “Tác động của hoạt động
xuất nhập khẩu đến môi trường ở Việt Nam ”. Mục đích của khóa luận là
Khoá luận tốt nghiệp Tác động của hoạt động xuất nhập khẩu đến môi
trường
Trần Minh Hoàng - Lớp A14 - K38D - Đại học Ngoại thương

- -
3

thông qua việc nghiên cứu bản chất, các quy định pháp lí và thực trạng mối
quan hệ giữa xuất nhập khẩu và môi trường để thấy được ảnh hưởng của các
hoạt động xuất nhập khẩu đến môi trường tự nhiên, trong đó em chỉ xin tập
trung vào nghiên cứu các tác động tiêu cực, từ đó đưa ra những giải pháp ,
kiến nghị nhằm làm hài hoà mối quan hệ này.
Để thực hiện mục
đích như em trình bày ở trên, khoá luận được chia
thành ba phần như sau:
Chương I: Tổng quan về mối quan hệ giữa xuất nhập khẩu và môi
trường
Chương II: Thực trạng tác động tiêu cực của hoạt động xuất nhập
khẩu đến môi trường tự nhiên.
Chương III: Các giải pháp phát triển xuất nhập khẩu gắn với công tác
bảo vệ môi trường ở Việt Nam
Trong m
ột thời gian ngắn với phạm vi đề tài tương đối rộng, do kiến thức
còn hạn chế, thực tế kinh nghiệm chưa nhiều nên bài viết không tránh khỏi
những thiếu sót. Em rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các Thầy giáo,
các Cô giáo và các bạn.
Cho phép em được bày tỏ lòng biết ơn và tình cảm kính trọng đối với tất
cả các Thầy Cô giáo, các cán bộ công tác tại trường Đại học Ngoại th
ương. Em
xin chân thành cảm ơn Thầy giáo, TS. Nguyễn Hữu Khải, Trưởng Phòng Quản
lí khoa học trường đại học Ngoại thương; Chú Nguyễn Văn Tài, Chuyên viên
Vụ Môi trường, Bộ Tài nguyên Môi trường; Bác Nguyễn Phi Thanh, Chuyên
viên Vụ KHCN- BTM; PGS. TS. Nguyễn Đức Khiển, Viện Khoa học- Công
nghệ- Môi trường trường Đại học Bách Khoa, Bác Vũ Trường Khang, Vụ phó

Vụ KHCN- BTM. Đặc biệt, cho phép em được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới
Thầy giáo, TS. Vũ S
ĩ Tuấn, Người đã trực tiếp hướng dẫn và giúp đỡ em hoàn
thành khoá luận này.






Khoá luận tốt nghiệp Tác động của hoạt động xuất nhập khẩu đến môi
trường
Trần Minh Hoàng - Lớp A14 - K38D - Đại học Ngoại thương
- -
4



CHƯƠNG I
TỔNG QUAN VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA XUẤT NHẬP KHẨU VÀ
MÔI TRƯỜNG

I. NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ LUẬN CHUNG
1. Khái niệm môi trường
Bất cứ một vật thể, một sự kiện nào cũng tồn tại và diễn biến trong một môi
trường. Trong tiếng Anh môi trường “Environment” có nghĩa là cái bao quanh,
trong tiếng Trung Quốc gọi môi trường là “hoàn cảnh”. Nói đến môi trường là
nói đến môi trường của mộ
t vật thể hoặc một sự kiện nhất định.
Môi trường là khái niệm rất rộng, được định nghĩa theo nhiều cách khác nhau,

đặc biệt là sau hội nghị Stockhom về môi trường năm 1972.
+ Định nghĩa của S.V Kalenski( 1959,1970): Môi trường chỉ là những gì có
quan hệ một cách gần gũi nhất với đời sống và hoạt động sản xuất của con
người. Định nghĩa này về môi trường là mu
ốn nói đến môi trường địa lý.
+Định nghĩa của I.P Gheraximou (1972): Môi trường là khung cảnh của lao
động cuộc sống riêng tư của con người, trong đó môi trường tự nhiên là cơ sở
cần thiết cho sự tồn tại của nhân loại.
+Trong báo cáo toàn cầu công bố năm 1982: Môi trường là những vật thể vật
lý và sinh học bao quanh con người...mối quan hệ với loài người của nó chặt chẽ
đến mức mà sự
phân biệt giữa cá thể con người với môi trường bị xoá nhoà đi.
+Trong tuyên ngôn UNESCO năm 1981: Môi trường là toàn bộ hệ thống tự
nhiên và các hệ thống do con người tạo ra xung quanh mình, trong đó con người
sinh sống và bằng lao động cuả mình đã khai thác các tài nguyên thiên nhiên
hoặc nhân tạo nhằm làm thoả mãn các nhu cầu của con người
+R.G Sharma1988: Môi trường là tất cả những gì xung quanh con người.
+Trong Luật bảo vệ môi trường của nước CHXHCN Việt Nam (thông qua
ngày 27/12/1993) môi trường
được định nghĩa như sau: “ Môi trường bao gồm
các yếu tố tự nhiên và yếu tố vật chất nhân tạo, quan hệ mật thiết với nhau, bao
quanh con người, có ảnh hưởng đến đờí sống, sản xuất, sự tồn tại, phát triển
của con người và thiên nhiên”.
Khoá luận tốt nghiệp Tác động của hoạt động xuất nhập khẩu đến môi
trường
Trần Minh Hoàng - Lớp A14 - K38D - Đại học Ngoại thương
- -
5

Môi trường sống của con người theo chức năng được phân thành các loại:

+Môi trường tự nhiên
: Bao gồm các nhân tố thiên nhiên như vật lý, hoá học,
sinh học, tồn tại ngoài ý muốn của con người, nhưng cũng ít nhiều chịu tác động
của con người. Đó là ánh sáng mặt trời, núi sông, biển cả, không khí, động vật,
thực vật, đất, nước….Môi trường tự nhiên cho ta không khí để thở, đất để xây
dựng nhà cửa, trồng cấy, chăn nuôi, cung cấp cho con người các loại tài nguyên
khoáng sản cần cho sản xuất, tiêu thụ
và là nơi chứa đựng, đồng hoá các chất
thải, cung cấp cho ta cảnh đẹp để giải trí, làm cho cuộc sống của con người thêm
phong phú.
+Môi trường xã hội:
Là tổng thể các quan hệ giữa người với người. Đó là
những luật lệ, thể chế, cam kết, quy định, ước định …..ở các cấp khác nhau như
Liên hiệp quốc, Hiệp hội các nước, quốc gia, tỉnh, huyện, cơ quan, làng xã, họ
tộc, gia đình, tổ nhóm, các tổ chức tôn giáo, tổ chức đoàn thể…Môi trường kinh
tế xã hội định hướng các hoạt động của con người theo m
ột khuôn khổ nhất
định, tạo nên sức mạnh tập thể thuận lợi cho sự phát triển, làm cho cuộc sống
của con người khác với sinh vật khác.
+Ngoài ra ta còn phân biệt khái niệm môi trường nhân tạo
, bao gồm tất cả
các nhân tố do con người tạo nên, làm thành những tiện nghi trong cuộc sống
như ô tô, máy bay, nhà ở, công sở, các khu vực đô thị, công viên nhân tạo.
+Môi trường theo nghĩa rộng
là tất cả các nhân tố tự nhiên và xã hội cần thiết
cho sự sống, sản xuất của con người, như tài nguyên thiên nhiên, không khí, đất,
nước, ánh sáng cảnh quan, quan hệ xã hội.
+Môi trường theo nghĩa hẹp
không xét tới tài nguyên thiên nhiên, mà chỉ bao
gồm các nhân tố tự nhiên và xã hội trực tiếp liên quan tới chất lượng cuộc sống

của con người.
Tóm lại, môi trường của một vật thể, hay một sự kiện là tổng hợp các điều
kiện bên ngoài có ảnh hưởng tới vật thể và sự kiện đó. Môi trường là tất cả
những gì có xung quanh ta, cho ta cơ sở để sống và phát triển.
Như
vậy môi trường là một khái niệm tổng hợp, phức tạp, mang tính mở và
phát triển cùng với trình độ phát triển của khoa học công nghệ nói riêng, của nền
kinh tế- xã hội và nhận thức của loài người nói chung. Tuy nhiên, trong phạm vi
của khoá luận này, em chỉ xin trình bày môi trường với khái niệm môi trường
tự nhiên.
2. Thành phần môi trường
Thành phần môi trường là các yếu tố hợp thành môi trường: không khí, nước,
Khoá luận tốt nghiệp Tác động của hoạt động xuất nhập khẩu đến môi
trường
Trần Minh Hoàng - Lớp A14 - K38D - Đại học Ngoại thương
- -
6

đất, âm thanh, ánh sáng, lòng đất, núi, rừng, sông, hồ, biển, sinh vật, các hệ sinh
thái, các khu dân cư, khu sản xuất, khu bảo tồn thiên nhiên, cảnh quan thiên
nhiên, danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử và các hình thái vật chất khác.
Môi trường tự nhiên trên hành tinh hiện nay bao gồm:
- Khí quyển có cấu tạo phức tạp với nhiều tầng lớp khí khác nhau, trong đó
mỗi tầng khí quyển là một hỗn hợp các chất khí có nồng độ và thành phần khác
nhau, có tác động mạnh yếu khác nhau đế
n sự sống của con người.
- Thuỷ quyển bao gồm các tầng nước khác nhau trong các đại dương,
sông ngòi, ao hồ, nước ngầm trong lòng đất, kể cả sự sống trong các đại dương,
sông ngòi đó.
- Địa quyển là lớp vỏ trái đất, bao gồm bề mặt trái đất, cùng với sự sống và

các tài nguyên khoáng sản nằm trong lòng đất.
3. Tính chất môi trường
Với sự phát triển mạnh mẽ của n
ền kinh tế thị trường, môi trường ngày càng
mang đậm tính chất của một dạng hàng hoá công cộng đa dụng, với các đặc
trưng cơ bản là không cạnh tranh và không loại trừ. Nghĩa là với hàng hoá môi
trường thì, một mặt sự tiêu dùng của người này không loại trừ sự tiêu dùng của
người khác ( trừ khi họ phải trả giá rất đắt), và mặt khác, môi trường, với tất cả
những tiện ích của mình, ngày càng tr
ở thành sản phẩm và tài sản chung của
cộng đồng, vì cộng đồng và do cộng đồng cả ở cấp vùng, quốc gia, khu vực và
toàn cầu.
4. Một số khái niệm liên quan đến sự biến đổi môi trường.
+Ô nhiễm môi trường: Nếu nhìn dưới góc độ vật lí thuần tuý thì khái niệm ô
nhiễm môi trường chỉ trình độ của môi trường trong đó những chỉ số hoá lí của
nó bị thay đổi theo chiều h
ướng xấu đi. Theo Luật Bảo vệ môi trường ( khoản 2,
điều 6) thì ô nhiễm môi trường “ là sự làm thay đổi tính chất môi trường, vi
phạm tiêu chuẩn môi trường”.
Như vậy, nếu nhìn môi trường theo góc độ pháp lí thì một hành vi tác động
đến môi trường được coi là gây ô nhiễm môi trường nó phải đạt hai tiêu chí:
- Thay đổi tính chất môi trường
- Vi phạm tiêu chuẩn môi trường
Như vậy, có thể thấy rằng, nếu mộ
t khu vực nhất định nào đó chưa được pháp
luật quy định tiêu chuẩn môi trường thì một hành vi làm thay đổi môi trường
theo hướng xấu đi ở khu vực đó có thể bị coi là hành vi gây ô nhiễm môi trường.
Khoá luận tốt nghiệp Tác động của hoạt động xuất nhập khẩu đến môi
trường
Trần Minh Hoàng - Lớp A14 - K38D - Đại học Ngoại thương

- -
7

Điều này chỉ là nhìn nhận về mặt pháp lí để quy trách nhiệm. Song trên thực tế
có rất nhiều hoạt động gây ô nhiễm môi trường mà chưa vi phạm tiêu chuẩn môi
trường ( ô nhiễm không khí do các phương tiện giao thông) hoặc đã vượt tiêu
chuẩn cho phép rất nhiều mà không quy trách nhiệm cho ai được bởi đó là kết
quả tất yếu của hoạt động sản xuất, sinh hoạt của con người. Giải quyết vấn đề

này chỉ có thể tự giác mỗi người nhìn nhận được tác hại và góp phần giảm bớt
sự gia tăng ô nhiễm.
+ Tiêu chuẩn môi trường: Tiêu chuẩn môi trường là một bộ phận quan trọng
trong hệ thống pháp luật về bảo vệ môi trường, trong hoạt động quản lí môi
trường, tổ chức môi trường vừa được xem là công cụ kĩ thuật, vừa là công cụ
pháp lí giúp Nhà nước quản lí môi trường chỉ
trên cơ sở tiêu chuẩn môi trường,
các cơ quan Nhà nước mới có thể xác định chính xác chất lượng môi trường,
biết được một cách cụ thể thành phần môi trường nào đã bị ô nhiễm hay chưa?Ô
nhiễm đến mức độ nào? Ai là người gây ô nhiễm? Trên cơ sở các tiêu chuẩn môi
trường, Nhà nước mới có thể áp dụng các biện pháp ngăn chặn và khắc phục
tình trạng môi trường bị ô nhiễm và xử lí kị
p thời các vi phạm môi trường.
Theo luật bảo vệ môi trường 1993 ( khoản 7, điều 2) thì “ Tiêu chuẩn môi
trường là những chuẩn mực giới hạn cho phép được quy định dùng làm căn cứ
để quản lí môi trường”.
Những chuẩn mực giới hạn cho phép được hiểu là mức độ hoặc phạm vi chất
ô nhiễm nhất định trong các thành phần môi trường mà Nhà nước thấy có thể
chấp nhận đượ
c vì chưa đến mức gây nguy hiểm cho con người hoặc đã giới hạn
an toàn để bảo vệ sức khoẻ cộng đồng và bảo vệ môi trường trong hiện tại cũng

như trong tương lai.
Tuy nhiên, việc xác định tiêu chuẩn môi trường cũng cần xuất phát từ thực
tiễn của từng nước, chủ yếu là trình độ phát triển kinh tế, trình độ KH và CN để
sao cho các tiêu chuẩn môi trường vừa phả
i đảm bảo chất lượng môi trường, vừa
không vì vậy mà gây trở ngại cho quá trình phát triển kinh tế.
+Chất thải : Là chất được loại ra trong sinh hoạt, trong sản xuất hay trong các
hoạt động khác. Chất thải có thể ở dạng rắn, lỏng, khí hoặc các dạng khác.
+Chất gây ô nhiễm môi trường: Là những nhân tố làm cho môi trường trở
thành độc hại.
+Suy thoái môi trường: Là sự làm thay đổi chất lượng, số lượ
ng của thành
phần môi trường, gây ảnh hưởng xấu tới đời sống của con người và thiên nhiên.
+Sự cố môi trường: Là các tai biến hoặc rủi ro xảy ra trong quá trình hoạt
Khoá luận tốt nghiệp Tác động của hoạt động xuất nhập khẩu đến môi
trường
Trần Minh Hoàng - Lớp A14 - K38D - Đại học Ngoại thương
- -
8

động của con người hoặc thiên nhiên, gây suy thoái môi trường nghiêm trọng.
II.MỐI QUAN HỆ GIỮA THƯƠNG MẠI QUỐCTẾ VÀ MÔI TRƯỜNG
Mối quan hệ giữa thương mại quốc tế và môi trường là một trong những nội
dung cơ bản của mối quan hệ giữa kinh tế và môi trường. Phần lớn thiệt hại môi
trường có nguyên nhân từ sự gia tăng của các hoạt động kinh tế. Thương mại
quốc t
ế đóng một vai trò ngày càng lớn trong sự gia tăng các hoạt động kinh tế
và vì thế là một trong những tác nhân quan trọng của những biến đổi môi
trường.
1. Tính tất yếu khách quan của việc phát triển thương mại quốc tế trên cơ

sở bảo vệ môi trường sinh thái
Tự do hoá thương mại và vấn đề bảo vệ môi trường sinh thái đang trở thành
những vấn đề mang tính toàn cầu. Ngay trong lời nói đầ
u của hiệp định WTO đã
ghi nhận vấn đề bảo vệ môi trường và thúc đẩy sự phát triển bền vững. Sự quan
tâm về môi trường cũng được nhắc lại trong nhiều hiệp định mà WTO giám sát,
như các hiệp định về hàng rào kĩ thuật trong thương mại, nông nghiệp, trợ cấp,
các quyền sở hữu trí tuệ và dịch vụ.
Việc phát triển thương mại tự do trên cơ
sở bảo vệ môi trường không còn là
vấn đề của một quốc gia mà là vấn đề của cả thế giới, là xu thế, kết quả tất yếu
của quá trình phát triển kinh tế của mỗi nước, khi mà các yếu tố, các nguồn dự
trữ cho phát triển kinh tế đang ngày càng cạn kiệt, bị lãng phí vì ô nhiễm trầm
trọng, cũng như trước sức ép về sự gia tăng dân số trên toàn th
ế giới.
Trong phạm vi, khuôn khổ của một quốc gia, tính tất yếu của việc phát triển
thương mại quốc tế trên cơ sở bảo vệ môi trường sinh thái là do:
Thứ nhất, do yêu cầu giải quyết mâu thuẫn giữa lợi ích trước mắt và lâu
dài, giữa lợi ích cục bộ và tổng thể trong quá trình phát triển kinh tế.
Giữa kinh tế và môi trường có mối quan hệ trực tiếp và chặt chẽ. M
ặc dù tình
trạng liên quan đến ô nhiễm từ các ngành công nghiệp và ô nhiễm không khí ở
một số nước, nhất là những nước kém phát triển, chưa phải là ở mức cao, song
hiện nay, những vấn đề môi trường nghiêm trọng như nạn phá rừng, nạn xói
mòn và thoái hoá đất, việc huỷ hoại cân bằng sinh thái ở một số tiểu vùng, sự
mất dần các nguồn gen,v.v… đang là những vấn đề cấp bách có ảnh h
ưởng lâu
dài tới sự phát triển lâu bền. Cải cách kinh tế làm cho các hoạt động khai thác tài
nguyên và môi trường trở nên mãnh liệt hơn. Cải cách kinh tế, nếu không có thể
chế thích hợp, thì nạn ô nhiễm môi trường do công nghiệp, trước hết ở các trung

tâm công nghiệp khai khoáng, ở các đô thị, ở các vùng thu hút đầu tư nước
Khoá luận tốt nghiệp Tác động của hoạt động xuất nhập khẩu đến môi
trường
Trần Minh Hoàng - Lớp A14 - K38D - Đại học Ngoại thương
- -
9

ngoài, sẽ trở thành hiện thực.
Như vậy, vấn đề đặt ra là: không được phép vì mục đích tăng trưởng kinh tế
mà huỷ hoại, tàn phá môi trường, không thể vì lợi ích trước mắt mà để lại gánh
nặng và hậu quả cho những thế hệ mai sau.
Thương mại quốc tế tạo điều kiện cho các quốc gia tăng trưởng kinh tế,
nhưng tăng trưởng kinh tế lại có thể
gây ảnh hưởng xấu đến môi trường sinh thái
trên các khía cạnh sau: một là khai thác quá mức dự trữ tài nguyên làm mất cân
bằng sinh thái; hai là, do tăng trưởng kinh tế, các chất thải công nghiệp làm huỷ
hoại môi trường ngày càng cao ( chất thải phóng xạ, chất thải công nghiệp hoá
dầu…); ba là, việc nhập máy móc, trang thiết bị cũ từ nước ngoài vào biến các
nước nhập khẩu trở thành bãi thải công nghiệp của các nước phát triển, thương
mại thì thu
được lợi nhuận, song nền kinh tế thì suy tàn do công nghiệp lạc hậu,
môi trường sinh thái bị ô nhiễm.
Tuy nhiên, thương mại quốc tế không phải là lý do duy nhất làm suy thoái
môi trường sinh thái, mà còn có nhiều nguyên nhân khác nằm trong chính sách
phát triển kinh tế các nước khi lựa chọn cơ cấu kinh tế. Điều này có thể thấy rõ ở
các nước chậm phát triển như các nước châu Phi, với nền kinh tế lạc hậu, thương
mại không phát triển, nạn nghèo đ
ói đã và đang trở thành kinh niên mà môi
trường vẫn bị phá hoại ở mức báo động. Điều này có thể giải thích nguyên nhân
gây ra sự huỷ hoại môi trường sinh thái ở những nước này là để đáp ứng nhu cầu

tiêu dùng cá nhân chứ không phải cho đầu tư phát triển kinh tế, giải quyết lợi ích
trước mắt mà ảnh hưởng đến lợi ích lâu dài.
Tóm lại, môi trường sinh thái là giá đỡ của sự sống, bao hàm các yếu tố
về
tiềm năng phát triển kinh tế mà xét cho đến cùng, tất cả mọi hoạt động kinh tế
đều phụ thuộc vào đó. Vì vậy, bảo vệ môi trường sinh thái cũng tức là bảo vệ
các yếu tố tiềm năng cho phát triển, phân phối một cách có hiệu quả nguồn dự
trữ tài nguyên cho các ngành kinh tế, cho giai đoạn trước mắt và giai đoạn lâu
dài theo hướng phát triển bền vững. Trong mối quan h
ệ giữa thương mại quốc tế
và bảo vệ môi trường thì chúng vừa là định chế vừa có sự tương tác hỗ trợ lẫn
nhau.
Thứ hai, thực hiện chiến lược con người và phát huy yếu tố con người
trong mối quan hệ giữa thương mại quốc tế và môi trường
Thương mại quốc tế tạo điều kiện cho các quốc gia mở rộng thị trường, kinh
doanh có hiệu quả, phát triển mối quan hệ hợp tác và cạnh tranh trên thị trường
quốc tế, giúp cho con người mở rộng tầm nhìn ra bên ngoài, nâng cao tri thức.
Khoá luận tốt nghiệp Tác động của hoạt động xuất nhập khẩu đến môi
trường
Trần Minh Hoàng - Lớp A14 - K38D - Đại học Ngoại thương
- -
10

Đồng thời thương mại quốc tế cũng có nghĩa là thị trường hoá các mối quan hệ
kinh tế lẫn các mối quan hệ phi kinh tế cả về chiều rộng lẫn chiều sâu. Trong
hoạt động kinh tế nói chung và hoạt động thương mại quốc tế nói riêng, con
người bao giờ cũng là chủ thể, là người tiến hành các hoạt động sản xuất kinh
doanh, cũng là người ban hành các luật lệ, chính sách và lại là ngườ
i thực hiện
các luật lệ chính sách, thúc đẩy các hoạt động tăng trưởng, gìn giữ cảnh quan,

môi trường sinh thái. Vì vậy, bảo vệ môi trường sinh thái và việc thực thi chiến
lược con người có mối quan hệ hữu cơ với nhau. Trong mối quan hệ đó, một
mặt con người được sinh tồn trên các điều kiện của môi trường như không khí,
nước, thức ăn…, mặt khác do việc sử dụng, khai thác (nhiề
u khi là khai thác quá
mức) nguồn tài nguyên thiên nhiên, con người đã phá vỡ sự cân bằng sinh thái,
làm suy giảm, cạn kiệt các nguồn tài nguyên, gây ô nhiễm môi trường. Như vậy,
để duy trì và phát triển sự sống của chính mình, con người không thể không thực
thi các biện pháp giữ gìn và bảo vệ môi trường.
Bảo vệ môi trường sinh thái là một tất yếu khách quan trong quá trình tự do
hoá thương mại nhằm thực thi chiến lược con người và phát triển đất nước một
cách bền v
ững.
Khi con người là một yếu tố cấu thành của hệ môi trường sinh thái cần được
chăm lo, phát triển một cách hài hoà với các nguồn dự trữ tài nguyên như quỹ
đất đai ( đất ở và đất sản xuất lương thực, thực phẩm), nguồn nước ( nước sinh
hoạt, nước tưới tiêu…) thậm chí ngay cả các chất thải do con người thải vào môi
trường trong quá trình sản xuất, tiêu dùng của mình cũng cầ
n phải hài hoà với
sức chứa có thể chấp nhận của môi trường.
Hiện nay, chúng ta đang đứng trước tình hình là nhu cầu của con người tăng
lên nhưng nguồn tài nguyên có giới hạn. Sự quá tải của hành tinh sẽ không chịu
đựng được nhịp điệu tăng dân số, thêm 90 triệu người mỗi năm và trong 50 năm
nữa sẽ tăng gấp đôi số lượng người hiện nay, 12 tỷ ng
ười. Cuộc khủng hoảng
sinh thái không chỉ làm suy thoái môi trường tự nhiên mà còn đẩy mạnh suy sụp
kinh tế, phá vỡ hoà hợp xã hội. Cơn stress sinh thái gây ra các cuộc ở Xômali,
Haity hay Ruanđa là một chứng cứ. Bệnh dịch sinh thái sẽ xuất hiện với những
bệnh ung thư mới, với những suy thoái hệ thống, suy thoái khu vực, với một số
khu vực rộng lớn trên trái đất không thể sống được, hoang mạc rộng ra, v

ới sự
biến mất các động vật thực vật cần cho sự sống con người, với sự rối loạn khí
hậu quả đất. Khu vực thiếu lương thực sẽ tăng lên, sản xuất giảm, giá cả lương
thực , thực phẩm thì tăng vô độ.
Khoá luận tốt nghiệp Tác động của hoạt động xuất nhập khẩu đến môi
trường
Trần Minh Hoàng - Lớp A14 - K38D - Đại học Ngoại thương
- -
11

Sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá là do con người thực hiện. Như
vậy, cần phải có chính sách và chiến lược con người đúng đắn. Con người khi
tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh cần tuân thủ luật pháp( trong đó có luật
bảo vệ môi trường). Nhà nước với tư cách là chủ thể quản lí nền kinh tế, khi ban
hành chính sách, luật pháp phải đảm bảo quyền tự do kinh doanh của mỗi người,
đảm bảo tăng trưởng và phát triển kinh tế, và giữ gìn môi trường sinh thái. Con
người phải được bồi dưỡng và nâng cao trình độ toàn diện về mọi mặt để tiến
hành sản xuất, kinh doanh trong điều kiện tự do cạnh tranh.
Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng. Sự nghiệp cải cách kinh tế theo
hướng thị trường cũng là sự nghiệp của con người. Cải cách thành công nhanh
hay chậm tuỳ thuộc r
ất nhiều vào khả năng cải tạo con người, bao gồm con
người với tư cách là chủ thể quản lí. Ngược lại, sự tăng năng suất lao động sẽ
làm cho các nhà đầu tư quan tâm đến chiến lược phát triển dài hạn nhằm đạt
được phần lợi nhuận lớn hơn trong thương mại quốc tế.
Thứ ba, hoà nhập nền kinh tế của mỗi nước vào khu vực và trên th
ế giới
thông qua hoạt động xuất nhập khẩu, đầu tư liên doanh, liên kết kinh tế
thương mại và hợp tác quốc tế
Chúng ta đang sống trong một thời đại mà các quan hệ kinh tế quốc tế đã phát

triển tới mức không một quốc gia nào dù thuộc hệ thống kinh tế xã hội nào có
thể vẫn tồn tại hoặc phát triển mà không chịu sự tác động qua lại của các mối
quan hệ này.
Về phương diện kinh tế, thế giới hôm nay đang tiến tới khuôn khổ toàn cầu.
Do sự phát triển khoa học công nghệ và lực lượng sản xuất trên quy mô thế giới,
toàn cầu hoá và khu vực hoá đã trở thành xu thế tất yếu thúc đẩy hầu hết các
quốc gia thực hiện chính sách kinh tế mở bằng cách giảm bớt, thậm chí xoá bỏ
hàng rào thuế quan và phi quan thuế; chuyển dịch một cách thông thoáng hàng
hoá, v
ốn đầu tư, tiền tệ, dịch vụ lao động giữa các quốc gia với quy mô ngày
càng lớn, hình thành các tổ chức kinh tế – tài chính mang tính toàn cầu và khu
vực, kí kết hàng loạt các hiệp định song phương và đa phương, công ước kinh tế
quốc tế, phát triển củng cố các tập đoàn xuyên quốc gia. Muốn tận dụng được
công nghệ, tiền vốn và thị trường để phát triển kinh tế, các nước phải tích cự
c và
chủ động mở cửa. Tuy nhiên, để giữ vững chủ quyền bảo đảm sự phát triển
nhanh của mỗi quốc gia phải có những đối sách hợp lí trong việc hợp tác song
phương và đa phương trên cơ sở giữ vững độc lập chủ quyền, trong đó bao hàm
cả các yếu tố về tài nguyên thiên nhiên và môi trường sinh thái.
Khoá luận tốt nghiệp Tác động của hoạt động xuất nhập khẩu đến môi
trường
Trần Minh Hoàng - Lớp A14 - K38D - Đại học Ngoại thương
- -
12

2. Bản chất của mối quan hệ giữa thương mại quốc tế và môi trường
Thương mại quốc tế và môi trường có mối quan hệ nhân quả. Trước hết, môi
trường phải là giá đỡ của cuộc sống, chính vì vậy mọi hoạt động kinh tế , thương
mại đều phải dựa trên nền tảng của môi trường. Môi trường cung cấp mọi thứ
nguyên liệu đầu vào như kim lo

ại, sản phẩm rừng, thuỷ sản… cũng như năng
lượng cho quá trình chế biến. Môi trường cũng đồng thời là nơi tiếp nhận chất
thải của các hoạt động thương mại. Thứ hai, các hoạt động thương mại cũng
chịu những tác động mạnh mẽ của các yếu tố môi trường. Những biện pháp và
chính sách môi trường có thể tác động tích cực hoặc tiêu cự
c đối với thương mại
tự do, thúc đẩy hoặc là tạo ra rào cản đối với thương mại.
Thương mại quốc tế ảnh hưởng đến môi trường, trước hết bởi tính chất của
hoạt động này. Thương mại là hoạt động trao đổi, mua bán, là khâu trung gian
giữa sản xuất và tiêu dùng, do vậy, vừa là nguyên nhân lây lan ô nhiễm vừa có
thể phổ biến một cách nhanh nhất những sản phẩ
m và công nghệ thân thiện với
môi trường.
Ảnh hưởng tiếp theo của thương mại quốc tế đối với môi trường là bởi tính
quy mô của nó. Thương mại quốc tế ngày nay mang tính toàn cầu. Do đặc tính
này mà thương mại quốc tế có thể mở rộng quy mô của sản xuất thông qua sử
dụng các phương pháp sản xuất ngày càng hiệu quả, sản xuất nhiều hàng hoá
hơn trên cùng một đơn vị lao độ
ng , tài nguyên và công nghệ. Như vậy, thương
mại quốc tế góp phần làm tăng hiệu quả sản xuất, tiết kiệm và sử dụng hiệu quả
tài nguyên thiên nhiên. Tăng quy mô thương mại cũng làm tăng nhu cầu bảo vệ
môi trường sống của con người. Tuy nhiên , sự gia tăng quy mô sản xuất do tác
động của thương mại quốc tế cũng có thể gây ảnh hưởng xấu đến môi trường.
M
ột mặt, hoạt động này làm tăng các yếu tố đầu vào, khuyến khích khai thác và
sử dụng ngày càng nhiều các nguồn tài nguyên, đặc biệt là ở các nước đang phát
triển. Mặt khác, quy mô thương mại và sản xuất gia tăng sẽ làm tăng chất thải ô
nhiễm từ hoạt động sản xuất và tiêu dùng. Điều này có thể thấy rất rõ về tình
trạng rác thải và chất phát thải gây hiệu ứng nhà kính ở các nướ
c phát triển.

Một khía cạnh tác động khác của thương mại quốc tế đối với môi trường là
tính chất cơ cấu của nó. Thương mại quốc tế có thể tạo ra thay đổi cơ cấu sản
xuất của một nước theo nguyên tắc lợi thế so sánh , tức là , tập trung sản xuất
những mặt hàng có lợi thế để trao đổi lấy những hàng hoá khác. Nếu cơ cấu s
ản
xuất chuyển sang những hàng hoá ít tổn hại đến môi trường hơn, khi đó thương
mại quốc tế có tác dụng tốt đối với môi trường. Tuy nhiên, nếu một nước có khả
năng cạnh tranh tốt đối với những sản phẩm dựa trên các nguồn tài
Khoá luận tốt nghiệp Tác động của hoạt động xuất nhập khẩu đến môi
trường
Trần Minh Hoàng - Lớp A14 - K38D - Đại học Ngoại thương
- -
13

nguyên thiên nhiên hoặc những hàng hoá mà khi sản xuất chúng có khả năng ô
nhiễm cao thì thương mại quốc tế lại làm cho nước đó bị gia tăng ô nhiễm môi
trường, gây cạn kiệt nguồn tài nguyên thiên nhiên.
Tóm lại, thương mại quốc tế và môi trường có môí quan hệ chặt chẽ với nhau.
Phát triển thương mại quốc tế sẽ tạo ra động lực để phát triển kinh tế, nâng cao
đời sống và nhận thức của m
ỗi người về môi trường cũng như làm tăng chi phí
bảo vệ môi trường. Ngược lại, môi trường với vai trò là giá đỡ của cuộc sống,
bảo vệ môi trường, hạn chế khai thác quá mức, bảo tồn và phát triển các nguồn
tài nguyên không tái tạo là cơ sở để phát triển kinh tế, thương mại và thương
mại quốc tế một cách bền vững. Mặt khác, thương mại quốc tế có thể
làm tổn
hại đến môi trường, làm lây lan ô nhiễm, sử dụng lãng phí và kém hiệu quả tài
nguyên thiên nhiên, tăng chất thải độc hại. Các biện pháp và công cụ môi trường
cũng có thể tạo ra rào cản hạn chế thương mại , bóp méo giá cả, tạo bất bình
đẳng trong thương mại quốc tế. Để giải quyết hài hoà mối quan hệ giữa thương

mại quốc tế và môi trường, mục tiêu phát triển thương mại và m
ục tiêu bảo vệ
môi trường phải đứng trên quan điểm phát triển bền vững. Phát triển bền vững là
dung hoà giữa việc bảo vệ môi trường và tăng trưởng kinh tế. Phát triển bền
vững là mục tiêu chung nhất không chỉ riêng cho thương mại quốc tế và môi
trường mà đối với tất cả các lĩnh vực hoạt động khác của nhân loại. Một môi
trường tự nhiên bền vững là n
ền tảng cho sự phát triển bền vững, trong đó có
phát triển thương mại quốc tế.
III. CÁC QUY ĐỊNH VỀ MÔI TRƯỜNG TRONG THƯƠNG MẠI
QUỐC TẾ
1. Quy định về môi trường của tổ chức thương mại quốc tế WTO
WTO là một tổ chức quốc tế nghiên cứu các điều lệ buôn bán quốc tế. Mục
đích của nó là tạo điều kiện thuận l
ợi cho mậu dịch giữa các nước bằng cách đề
ra các điều kiện cạnh tranh tốt và bình đẳng. Để đạt được mục tiêu này, WTO
khuyến khích các nước tham gia vào các cuộc thương lượng về việc cắt giảm
thuế quan, dỡ bỏ các hàng rào thương mại và yêu cầu các nước áp dụng các quy
định chung về thương mại hàng hoá và thương mại dịch vụ.
Thương mại quốc tế và môi trường là một trong nhữ
ng vấn đề đáng quan tâm
trên toàn cầu. Mối quan hệ giữa thương mại quốc tế và bảo vệ môi trường đã
được đặt ra từ đầu những năm 1970 ở các cấp độ khác nhau. Tháng 11/ 1971,
các đại diện hội đồng GATT thoả thuận thành lập một tổ chức chuyên trách về
các biện pháp môi trường và thương mại quốc tế ( còn gọi là tổ chức EMIT).
Khoá luận tốt nghiệp Tác động của hoạt động xuất nhập khẩu đến môi
trường
Trần Minh Hoàng - Lớp A14 - K38D - Đại học Ngoại thương
- -
14


Năm 1972, Hội nghị Stockholm 1972 về môi trường và nhân loại được tổ chức.
Trong thời gian chuẩn bị hội nghị , Tổng thư kí của GATT đã đưa ra một bản
nghiên cứu với tựa đề Kiểm soát ô nhiễm công nghiệp và thương mại quốc tế.
Mãi đến năm 1991, tổ chức EMIT mới có cuộc họp đầu tiên, đưa ra một bản
dự thảo để phục vụ H
ội nghị LHQ 1992 về môi trường và phát triển. Năm 1992,
UNCED đã tổ chức một cuộc hội nghị lớn hay còn được biết đến bởi tên ‘ đỉnh
cao của thế giới’, thông qua ‘ chương trình nghị sự 21’, chỉ ra tầm quan trọng
của việc thúc đẩy sự phát triển bền vững , thông qua một số biện pháp trong đó
có thương mại quốc tế.
Tháng 4 năm 1994, khi kết thúc vòng đàm phán Urguay, một quyết
định cấp
bộ trưởng về thương mại và môi trường đã được thông qua. Một Uỷ ban về
thương mại và môi trường (CTE) thuộc khuôn khổ WTO đã được thành lập.
CTE tiếp quản công việc từ nhóm EMIT.
WTO không phải là một tổ chức bảo vệ môi trường, phạm vi thẩm quyền của
tổ chức này chỉ liên quan đến các chính sách về môi trường được giới hạn bởi
chính sách về thươ
ng mại và có thể dẫn đến những ảnh hưởng quan trọng đối
với thương mại. Các thoả thuận GATT/ WTO đã tạo cơ hội cho những chính
sách về bảo vệ môi trường quốc gia nhưng với điều kiện là không được phân
biệt đối xử; những cơ hội tiếp cận thị trường là yếu tố cần thiết để bảo đảm giúp
các nước
đang phát triển phát triển bền vững. Về tăng cường sự hợp tác giữa các
quốc gia như là sự hợp tác đa phương cần thiết để đưa ra những vấn đề về gắn
thương mại với môi trường một cách tương xứng.
Một số điều khoản của GATT có liên quan trực tiếp tới các vấn đề gắn thương
mại với môi trườ
ng bao gồm điều I và III của GATT về sự không phân biệt đối

xử, cũng như các mục cụ thể của điều XX (GATT) về những ngoại lệ chung.
Tất cả các điều khoản GATT/ WTO liên quan đến các vấn đề gắn thương mại và
môi trường được trình bày dưới đây:
(1) Sự không phân biệt đối xử:

Quy tắc về sự phân biệt đối xử có hai phần: Quy chế tối huệ quốc( MFN) có
trong điều I và chính sách đãi ngộ quốc gia(NT) có ở trong điều III của GATT.
Theo điều I của GATT, các thành viên WTO nhất định phải dành các ưu đãi như
nhau đối với các sản phẩm như nhau được sản xuất từ các nước khác. Do đó,
không một nước nào có thể ban những đặc lợi về kinh doanh cho mộ
t nước khác
hoặc phân biệt đối xử. Tất cả các thành viên đều có điạ vị ngang bằng và những
lợi nhuận sẽ được lần lượt phân chia theo các hàng rào thương mại thấp hơn.
Khoá luận tốt nghiệp Tác động của hoạt động xuất nhập khẩu đến môi
trường
Trần Minh Hoàng - Lớp A14 - K38D - Đại học Ngoại thương
- -
15

Quy chế tối huệ quốc đảm bảo rằng, các nước đang phát triển và những nước có
nền kinh tế ít phát triển có thể thu được lợi nhuận một cách tự do từ các điều
kiện kinh doanh tốt nhất bất cứ lúc nào họ đàm phán. Phần thứ hai của các điều
khoản không phân biệt đối xử là chính sách đãi ngộ quốc gia . Điều này của
GATT quy định rằng n
ếu một sản phẩm được tham gia vào thị trường của một
nước nào đó thì chúng phải được xem xét một cách tương xứng với sản phẩm
hàng hoá được sản xuất trong nội địa của nước nhập khẩu.
Quy định không phân biệt đối xử là một quy định chính trong các điều luật
của hệ thống thương mại đa phương. Với sự lưu ý tới các vấ
n đề gắn thương mại

vơí môi trường, quy tắc này đảm bảo rằng những chính sách bảo vệ môi trường
quốc gia sẽ không được thông qua với ý định phân biệt đối xử một cách tuỳ tiện
giữa hàng ngoại và hàng nội, hoặc giữa những hàng hoá nhập khẩu từ các đối
tác kinh doanh khác nhau. Do đó, điều này có thể ngăn ngừa sự lạm dụng bởi
những chính sách về môi trườ
ng ngăn ngừa cách sử dụng sự che đậy các hạn chế
về thương mại quốc tế.
(2) Điều XX về các ngoại lệ chung:

Trong cuộc đàm phán đầu năm 1947, điều XX của GATT đã đưa ra một số
trường hợp đặc biệt của các bên tham gia GATT, hoặc những thành viên hiện
hành WTO. Bao gồm hai trường hợp về bảo vệ môi trường có thể loại trừ từ
những quy định của GATT. Điều luật này nêu rõ:
‘ Yêu cầu các giải pháp này không được áp dụng theo kiểu sẽ tạo đà cho việc
phân biệt đối x
ử không rõ ràng giữa những nước có cùng điều kiện tốt như nhau,
hoặc trong thoả thuận này sẽ được diễn giải để ngăn chặn sự ép buộc của những
giải pháp của các bên tham gia:
….(b) cần thiết để bảo vệ sức khoẻ con người, động thực vật;
….(g) liên quan đến việc bảo tồn những nguồn tài nguyên đang bị cạn kiệt,
nếu những gi
ải pháp này được thiết lập có hiệu quả, kết hợp với các hạn chế về
sản xuất và tiêu dùng trong nước.’
Điều XX(b) và (g) cho phép các hội viên WTO có quyền áp dụng – các giải
pháp chính sách nếu điều này “ cần thiết” để bảo vệ con người, động thực vật,
hoặc nếu các giải pháp liên quan đến việc bảo tồn những nguồn tài nguyên đang
cạn kiệt. Tuy nhiên, nội dung của điề
u XX nhằm để đảm bảo rằng GATT
không bao gồm các giải pháp mà gây ra sự phân biệt đối xử, sự thiết lập những
hạn chế về thương mại quốc tế. Có nghĩa rằng, các giải pháp đó chỉ nhằm các

mục đích môi trường chứ không phải vì mục đích bảo hộ mậu dịch.
Khoá luận tốt nghiệp Tác động của hoạt động xuất nhập khẩu đến môi
trường
Trần Minh Hoàng - Lớp A14 - K38D - Đại học Ngoại thương
- -
16

(3) Điều khoản ngoại lệ chung trong hiệp định thương mại dịch vụ
(GATS):
Tại vòng đàm phán Urguay, GATS có một điều khoản về những ngoại lệ
chung trong điều XIV, tương tự như ở điều XX của GATT, khi giải quyết các
vấn đề về môi trường. Điều này của GATS cho phép các thành viên của WTO
được thông qua GATT- cũng được áp dụng những giải pháp chính sách nếu
điều này ‘cần thiết cho việc bảo vệ con người, động thực vật hay sức khoẻ
’ (và
cũng giống như điều XX(b) của GATT). Tuy nhiên, điều này phải không gây ra
sự phân biệt, và không tạo ra những hạn chế về thương mại quốc tế.
(4) Những thoả thuận về hàng rào kĩ thuật trong thương mại quốc tế
(TBT):
Trong thoả thuận tại vòng đàm phán Urguay về TBT, các thành viên đã đưa ra
những cố gắng để đảm bảo rằng các tiêu chuẩn và quy định về kĩ thuật cũng như
các thủ tục chứng nhận và kiểm tra, mà không gây cản trở với thương mại.
Trong phần mở đầu của thoả thuận đã thừa nhận những quyền của các nước để
thông qua các giải pháp này, với phạ
m vi họ cho là thích hợp- ví dụ về việc bảo
vệ sức khoẻ con người, động thực vật, hoặc về bảo vệ môi trường. Hơn nữa, các
thành viên được cho phép áp dụng các giải pháp để đảm bảo rằng họ đã đáp ứng
được những tiêu chuẩn về bảo vệ của họ cũng như những thủ tục để đánh giá .
Sự không phân biệt đố
i xử trong việc chuẩn bị , chấp nhận và áp dụng các quy

định, tiêu chuẩn về kĩ thuật, các thủ tục để đánh giá là một trong những quy tắc
chính của thoả thuận này. Sự rõ ràng của những giải pháp này được trình bày
qua sự thông báo của họ với ban thư kí WTO và sự thiết lập những điều khoản
chính thức của quốc gia, là những nét nổi bật của thoả thuận.
Tho
ả thuận cho phép một nước thông qua các quy định, tiêu chuẩn về kĩ thuật
và các thủ tục để đánh giá nhằm bảo vệ môi trường. Tuy nhiên, thoả thuận này
gắn những biện pháp với những yêu cầu đa dạng, trong số đó bao gồm tính rõ
ràng và sự không phân biệt đối xử.
(5) Thoả thuận về những biện pháp bảo vệ sức khoẻ và kiểm dịch thực vật
(SPS):
Trong thoả thuận về SPS tại vòng đàm phán Urguay đã đưa ra ứng dụng về sự
an toàn của thực phẩm, những quy định về y tế của động thực vật. Công nhận
những quyền của một thành viên được thông qua các giải pháp SPS, nhưng họ
phải dựa vào cơ sở khoa học, chỉ được áp dụng trong phạm vi cần thiết để bảo
vệ sức khoẻ con ngườ
i, động thực vật và không được phân biệt giữa các thành
Khoá luận tốt nghiệp Tác động của hoạt động xuất nhập khẩu đến môi
trường
Trần Minh Hoàng - Lớp A14 - K38D - Đại học Ngoại thương
- -
17

viên có cùng điều kiện thuận lợi như nhau. Thoả thuận này bổ sung cho thoả
thuận TBT. Về vấn đề môi trường, thoả thuận này cho phép các thành viên
thông qua các biện pháp SPS, nhưng phải đưa ra những yêu cầu, bao gồm các
vấn đề về đánh giá rủi ro, sự không phân biệt đối xử, sự rõ ràng và các vấn đề
khác.
(6) Thoả thuận về các khía cạnh của quyền sở hữu trí tuệ liên quan đến
thương mại (TRIPS):

- Nhằm để tăng cường các quyền sở hữu trí tuệ, thoả thuận TRIPS tại vòng
đàm phán Urguay đã xem xét rõ ràng phần 5 trong hiệp định về quyền sở hữu
nhãn mác. Điều 27( 2) cho phép các thành viên của tổ chức thương mại thế giới
được tiếp tục không công nhận sáng chế cho một số đối tượng như:
+ Động vật thực vật và những quy trình sinh học cần thiết như
ng với điều
kiện chúng phải phục vụ cho quá trình tạo ra những cấu trúc vi sinh vật mới và
những quy trình vi sinh vật.
+ Điều khoản này quy định các Quốc gia thành viên phải bảo vệ đa dạng sinh
học thông qua Quyền sáng chế hay hệ thống sui generis hoặc cả hai.
+ Hơn nữa, các quốc gia thành viên của tổ chức thương mại thế giới không
công nhận sáng chế cho một số đối tượng khi vi
ệc ngăn chặn sự thương mại hoá
của các đối tượng này là “cần thiết” để duy trì ổn định xã hội, giữ gìn đạo đức xã
hội, bảo vệ cuộc sống của con người, động thực vật và tránh những ảnh hưởng
xấu đến môi trường.’
(7) Thoả thuận về những biện pháp để bù đắp và trợ cấp:

Thoả thuận về trợ cấp được áp dụng với những sản phẩm không thuộc nông
nghiệp tại vòng đàm phán Urguay nhằm để quy định việc trợ cấp. Theo thoả
thuận này, các biện pháp trợ cấp cụ thể được đề cập đến như biện pháp ‘ không
thể khiếu nại’. Nói chung, những biện pháp đều được thông qua trong thoả thuận
này. Theo điều 8 trong thoả thuận về
các biện pháp trợ cấp trực tiếp đề cập đến
vấn đề môi trường, trong số các biện pháp về trợ cấp được đề cập đến, là các
biện pháp để thúc đẩy những điều kiện thuận lợi hiện có, thích ứng với những
yêu cầu của môi trường mới. Thông thường các quy định của luật pháp gây ra
những gánh nặng về tài chính cho các công ty (điều 8 (c)). Tuy nhiên, các biện
pháp trợ
cấp này nhằm tạo điều kiện cho các thành viên kiểm soát được tình

trạng bên ngoài về môi trường khi có phát sinh.
(8) Thoả thuận về nông nghiệp

Được thông qua tại vòng đàm phán Urguay, thoả thuận về nông nghiệp đã cố
Khoá luận tốt nghiệp Tác động của hoạt động xuất nhập khẩu đến môi
trường
Trần Minh Hoàng - Lớp A14 - K38D - Đại học Ngoại thương
- -
18

gắng cải cách lại việc kinh doanh các sản phẩm nông nghiệp và đưa ra những cơ
sở chính sách định hướng thị trường. Trong phần mở đầu các thoả thuận này, đã
khẳng định sự cam kết của các thành viên trong việc cải cách nông nghiệp theo
hướng bảo vệ môi trường. Theo thoả thuận này, các biện pháp trợ giúp trong
nước với tác động tối thiểu với thương mại ( được biết như các chính sách ‘ h
ộp
xanh’ ) được loại bỏ từ sự rút gọn những cam kết ( trong phụ lục 2 của thoả
thuận). Các biện pháp này áp dụng theo các chương trình về môi trường , miễn
là phải đáp ứng được những điều kiện cụ thể. Sự cắt giảm này tạo điều kiện cho
các thành viên có thể kiểm soát được tình trạng bên ngoài của môi trường.
(9) Các quyết định có liên quan:

Hai quyết định về các vấn đề môi trường đã được thông qua tại vòng đàm
phán Urguay. Theo công bố trước đây, quyết định cấp Bộ trưởng về vấn đề
thương mại và môi trường, được thiết lập bởi CTE với mục đích đưa ra các
chính sách để tương trợ lẫn nhau về thương mại và môi trường quốc tế. Đây là
những quyết định có trong chương trình hành độ
ng của CTE. Quyết định về
kinh doanh các dịch vụ và môi trường cũng được các Bộ trưởng thông qua.
Quyết định này đã chỉ thị cho CTE kiểm tra và báo cáo vì mối quan hệ giữa các

dịch vụ thương mại và môi trường liên quan đến vấn đề về phát triển bền vững,
hơn nữa để quyết định nếu điều XIV cần được sửa đổi. CTE cũng đã đưa ra vấn
đề này trong chương trình hành động của mình.
Vấn đề môi trường là nổi cộm trong thời gian hiện nay nhưng vì sao buộc
phải đưa vấn đề này vào chương trình bàn luận và thậm chí phải thành lập một
tổ chức (CTE) thuộc khuôn khổ của WTO để chuyên trách về những vấn đề môi
trường? Các câu trả lời có thể khác nhau nhưng nói chung chủ yếu là ngoài các
lĩnh vực liên quan như chính trị, đạo đức, sự lên án của dân chúng… thì cái còn
lại chỉ là những biện pháp kinh tế. Vấn đề môi trường đã gây nên sự chú ý đặc
biệt của dân chúng nhất là ở các nước phát triển vào thời kì mà sự liên kết kinh
tế của thế giới đã trở thành một xu thế tất yếu. Sự liên kết đó được thể hiện bằng
tính toàn cầu hoá kinh tế thương mại. Tổ chức thương mại thế giới WTO là tổ
ch
ức cao nhất đại diện cho xu thế nói trên. Một điều quan trọng là tất cả các
nước thuộc các nước phát triển hoặc đang phát triển đều có một mong muốn là
gia nhập tổ chức này(WTO) để tìm kiếm các cơ hội thuận lợi trong việc phát
triển kinh tế của đất nước và coi đó là một mục tiêu cần phải đạt được. Vai trò
của WTO không chỉ quan trọng trong việc phát triển thươ
ng mại mà còn quan
trọng trong việc giải quyết các vấn đề môi trường.
Khoá luận tốt nghiệp Tác động của hoạt động xuất nhập khẩu đến môi
trường
Trần Minh Hoàng - Lớp A14 - K38D - Đại học Ngoại thương
- -
19

2. Những điều khoản về thương mại trong các hiệp định môi trường đa
biên MEAs
MEAs (Multilateral Environmental Agreements) – những hiệp định môi
trường đa phương- là thuật ngữ dùng để chỉ các hiệp định môi trường được kí

kết giữa nhiều bên với nhau ( nhiều hơn hai nước trở lên) và đa phương ở đây có
hàm nghĩa là mang tính toàn cầu.
Trong số hơn 200 hiệp định môi trường đa phương hiệ
n chỉ có khoảng 20
hiệp định là có những biện pháp thương mại. Tuy nhiên, nhiều hiệp định môi
trường đa phương (MEAs) như công ước Basel về những chất thải nguy hiểm,
Nghị định thư Montreal về những chất huỷ diệt tầng ôzôn hoặc Công ước buôn
bán quốc tế về những loài có nguy cơ bị tuyệt chủng ( CITEs) là những hạn chế
đáng kể trong buôn bán quốc tế.
Mộ
t số hiệp định môi trường đa phương có các biện pháp thương mại:
Công ước về buôn bán quốc tế các loài có nguy cơ bị tuyệt chủng (CITEs)-
1975 : có mục tiêu bảo vệ những động vật có nguy cơ bị diệt chủng. Công ước
này hạn chế việc buôn bán những loài theo mức độ về sự đe doạ diệt chủng.
Nghị định thư Montreal – 1987: cấm xuất khẩu những ch
ất đã được kiểm soát
sang các nước không tham gia công ước và ngăn cản việc chuyển nhượng kĩ
thuật để sản xuất những chất đó.
Công ứơc Basel – 1992: cấm các nước xuất khẩu rác thải nguy hiểm mà
không được khẳng định bằng văn bản của nước nhập khẩu.
Công ước về đa dạng sinh học- 1993 : nhằm đảm bảo việc sử dụ
ng một cách
công bằng các nguồn lợi từ gen
Nghị định thư Cartagena về an toàn sinh học- 2000: cho phép các nước có thể
hạn chế việc nhập khẩu các sinh vật sống đã bị thay đổi gen như là một hình
thức kiểm soát các mối nguy hiểm đã xác định.
Những hiệp định môi trường đa phương không bao gồm những biện pháp bắt
buộc mà chủ yếu là dựa vào nguyên tắc tự nguyệ
n, cho nên việc thực thi thường
kém hiệu quả, còn trong hoạt động thương mại biện pháp để thực hiện nội dung

của các hiệp định là bắt buộc. Tính bắt buộc được biểu hiện thông qua các biện
pháp hạn chế và trừng phạt thương mại. Vì vậy, người ta lại dùng các biện pháp
thương mại để đạt được mục tiêu môi trường. Việc dùng những hạn chế và trừng
phạ
t thương mại là công cụ thích hợp ở những phạm vi nhất định để giải quyết
mối lo ngại về môi trường. Điều này trái với mục đích của GATT/ WTO , tuy
nhiên lại được sự ủng hộ của một số nước nhất là các nước phát triển.
Khoá luận tốt nghiệp Tác động của hoạt động xuất nhập khẩu đến môi
trường
Trần Minh Hoàng - Lớp A14 - K38D - Đại học Ngoại thương
- -
20

Những hiệp định môi trường quốc tế như là công ước Basel và Nghị định thư
Montreal, cho phép sự hạn chế thương mại, hoặc cấm buôn bán đối với bên
không tuân theo hoặc bên không kí kết như là một phương tiện của những điều
khoản tăng của hiệp định. Việc dùng những cơ chế bắt buộc, trong các hiệp định
môi trường đa phương làm nổi bật s
ự mâu thuẫn tiềm tàng với những chính sách
thương mại và những nguyên tắc buôn bán công khai và tự do: mục tiêu hoạt
động của GATT là giảm thiểu những chính sách và thực tiễn làm sai lệch hoặc
can thiệp vào mục tiêu của thương mại quốc tế. Tuy nhiên, việc dùng những hạn
chế thương mại là một phương tiện để đạt đến một mục tiêu về môi trường có
thể đi ngược lại nhữ
ng mục tiêu nói trên. Đồng thời , những nguyên tắc buôn
bán tự do có thể xung đột với những biện pháp bảo vệ môi trường, dựa trên
những sự hạn chế thương mại là một phương tiện hoàn thành mục tiêu môi
trường.
Điều khoản 12 của bản tuyên bố RIO đòi hỏi mọi cố gắng thích hợp được tạo
ra phải đảm bảo rằng, các biện pháp về môi trường đề c

ập đến các vấn đề môi
trường qua biên giới hay toàn cầu hay phải dựa trên cơ sở đồng nhất quốc tế.
Hơn thế nữa, bản tuyên bố nói rằng phải tránh những biện pháp thương mại đơn
phương nhằm đạt được những mục tiêu môi trường nằm ngoài phạm vi quyền
hạn của nước đó. Người ta lo ngại là phương sách đối với những biện pháp đơ
n
phương trong văn bản này dẫn đến nguy cơ có sự phân biệt đối xử giả tạo và bảo
hộ trá hình làm ảnh hưởng đến hệ thống thương mại và có thể đe doạ chương
trình môi trường quốc tế.
3. Quy định về môi trường trong ISO 14000
Rõ ràng, thương mại cần phải được củng cố và phát triển hơn nữa để nhằm
đảm bảo nhu cầu ngày càng tăng củ
a cuộc sống con người. Bên cạnh đó, như đã
trình bày ở trên, môi trường cũng cần phải được bảo vệ và xem như là nền tảng
hay giá đỡ cho sự phát triển của xã hội loài người. Tổ chức tiêu chuẩn hoá quốc
tế ISO (International Stand Organisation) với bộ tiêu chuẩn ISO 14000 là công
cụ hữu hiệu, một cuộc cách mạng trong việc giải quyết vấn đề về môi trường.
Trước khi bộ tiêu chuẩ
n quốc tế ISO 14000 được tiểu ban kĩ thuật TC 207 của
tổ chức tiêu chuẩn hoá quốc tế biên soạn, một số nước và doanh nghiệp đã tiến
hành việc quản lí môi trường theo hệ thống. Còn hầu hết các nước và doanh
nghiệp khác đều áp dụng mô hình ‘ mệnh lệnh và kiểm soát’ nhằm đối phó với
tình hình thực tế và theo yêu cầu của luật pháp. Theo phương pháp cũ, để phù
hợp với các yêu cầu về
môi trường, doanh nghiệp chỉ cần tập trung vào kiểm
soát chất thải cuối đường ống dẫn là có thể đáp ứng với các yêu cầu
Khoá luận tốt nghiệp Tác động của hoạt động xuất nhập khẩu đến môi
trường
Trần Minh Hoàng - Lớp A14 - K38D - Đại học Ngoại thương
- -

21

đặt ra. Việc xử lí môi trường theo phương pháp cuối đường ống dẫn (end- of-
pipe polution control) vừa không hiệu quả lại vừa tốn kém. Các nhà môi trường
đã chỉ ra rằng, cách giải quyết vấn đề môi trường như vậy là thụ động, rời rạc,
không tổng thể. Đó chính là phương pháp hạn chế chứ không phải là phòng
ngừa và chưa giải quyết vấn đề một cách triệt để bởi vì nó mới ch
ỉ tập trung vào
dập chữa cháy nhiều hơn là phòng cháy để cho đám cháy không xảy ra. Tuy
nhiên, dù áp dụng phương pháp mới – quản lí theo hệ thống thì sự ô nhiễm môi
trường do sản xuất gây ra vẫn có nhưng mức độ sẽ ít hơn rất nhiều so với
phương pháp cũ. Trong thực tế, lượng các thành phần ô nhiễm đã có mầm mống
từ trong sản phẩm, kể cả khi sản phẩm được đưa vào s
ản xuất cho đến khi vứt bỏ
sản phẩm ra môi trường.
Bộ tiêu chuẩn ISO 14000 đem đến cách tiếp cận hệ thống cho việc quản lí sự
tác động của các hoạt động, sản phẩm hay dịch vụ của họ đối với môi trường và
cung cấp các công cụ hỗ trợ có liên quan cho các Tổ chức doanh nghiệp để quản
lí sự tác động của các hoạt động, sản phẩm ho
ặc dịch vụ của họ đối với môi
trường, ngăn ngừa ô nhiễm và liên tục cải thiện môi trường với sự cam kết của
lãnh đạo và sự tham gia có ý thức của mọi thành viên của cơ sở từ người sản
xuất trực tiếp đến các cán bộ quản lí.
Bộ tiêu chuẩn ISO 14000 được ban hành để áp dụng cho các doanh nghiệp
sản xuất, dịch vụ, các tổ chức c
ơ sở lớn và nhỏ trên phạm vi toàn cầu, có xem
xét đến các yếu tố của khu vực phát triển và đang phát triển của thế giới một
cách thích hợp. Bộ tiêu chuẩn ISO 14000 có thể chấp nhận được đối với bất kì
doanh nghiệp nào không phân biệt loại hình, quy mô, hình thức hoạt động hoặc
vị trí. Các vấn đề liên quan đến luật pháp quốc gia cũng được xem xét một cách

ảnh hưởng đến khi xây dựng bộ
tiêu chuẩn này.
Bộ tiêu chuẩn ISO 14000 được dự kiến ban hành gồm 21 tiêu chuẩn và
hướng dẫn kĩ thuật, đề cập đến các vấn đề sau:
1. Hệ thống quản lí môi trường
2. Kiểm tra đánh giá môi trường
3. Nhãn môi trường
4. Đánh giá kết quả hoạt động môi trường
5. Đánh giá chu trình sống của hoạt động
6. Các khía cạnh môi trường trong các tiêu chuẩn về sản ph
ẩm
7. Thuật ngữ và định nghĩa trong lĩnh vực quản lí môi trường
Khoá luận tốt nghiệp Tác động của hoạt động xuất nhập khẩu đến môi
trường
Trần Minh Hoàng - Lớp A14 - K38D - Đại học Ngoại thương
- -
22

Trong số các tiêu chuẩn nêu trên về hệ thống tiêu chuẩn áp dụng cho việc
quản lí môi trường thì tiêu chuẩn ISO 14001 về Hệ thống quản lí môi trường là
quan trọng nhất. Đây là tiêu chuẩn có thể sử dụng để bên thứ ba độc lập có thể
đánh giá một cách khách quan sự phù hợp giữa cam kết của tổ chức, doanh
nghiệp với các quy định của pháp luật về các vấn đề môi trường, cũng như đ
ánh
giá các tác động lên môi trường của các hoạt động, sản phẩm hoặc dịch vụ của
tổ chức doanh nghiệp. Và tất nhiên, nó được dùng để xây dựng hoặc cải thiện
HTQLMT của họ.
Đây là tiêu chuẩn duy nhất của bộ tiêu chuẩn ISO 14000 quy định các yêu cầu
đối với Hệ thống quản lí môi trường bao gồm các yếu tố của HTQLMT mà các
tổ chức, doanh nghiệp muốn được chứng nhận ph

ải thoả mãn. Các tiêu chuẩn
còn lại là các tiêu chuẩn mang tính chất hướng dẫn giúp cho việc xây dựng và
thực hiện HTQLMT có hiệu quả.
Tiêu chuẩn ISO 14001 được xây dựng trên cơ sở kế thừa các kinh nghiệm của
ISO 9000 ( về quản lí chất lượng sản phẩm theo hệ thống) và được thực hiện
theo mô hình quản lí P-D-C-A tương tự như ISO 9000. Các yếu tố của hệ thống
quản lí môi trường được chi tiết hoá trong ISO 14001 phả
i được áp dụng , lập
thành văn bản và thực hiện sao cho cơ quan Chứng nhận bên thứ ba có thể xác
minh và cấp giấy chứng nhận trên cơ sở của các bằng chứng xác thực rằng tổ
chức, doanh nghiệp đã áp dụng tốt và có thể duy trì HTQLMT được. ISO 14000
cũng thiết kế cho các tổ chức , doanh nghiệp muốn công bố sự phù hợp với tiêu
chuẩn cho các bên thứ hai có ý định sẵn sàng chấp nhậ
n việc tự công bố mà
không có sự can thiệp của bên thứ ba.
ISO 14000 cung cấp cho tổ chức, doanh nghiệp một khuôn khổ để đạt được
sự quản lí môi trường một cách tin cậy và đầy đủ hơn. Các yêu cầu của hoạt
động, sản phẩm và dịch vụ của tổ chức bao gồm chính sách môi trường, nguồn
lực đào tạo vận hành đáp ứng các trường hợp khẩn cấp,
đánh giá , kiểm tra đo
đạc và xem xét lại của lãnh đạo.
Một nội dung đáng lưu ý khác của bộ tiêu chuẩn ISO 14000 trong mối quan
hệ đối với thương mại là vấn đề nhãn môi trường. Đây là một nội dung quan
trọng nhất của ISO 14000 đối với các sản phẩm. Trong vòng trên một thập kỉ trở
lại đây, nhiều quốc gia đã áp dụng chương trình về nhãn môi trường của mình
đối vớ
i các sản phẩm lưu thông trên thị trường. Hiện tượng nhãn môi trường
đang là mối quan tâm của nhiều doanh nghiệp và tổ chức thương mại thế giới (
WTO) quan tâm trong các cuộc thảo luận về thương mại quốc tế. Đó là vấn đề
liệu sự xuất hiện nhãn môi trường có thể làm xuất hiện một rào cản

Khoá luận tốt nghiệp Tác động của hoạt động xuất nhập khẩu đến môi
trường
Trần Minh Hoàng - Lớp A14 - K38D - Đại học Ngoại thương
- -
23

mới như là các rào cản thường được gọi là “rào cản xanh” hay không? Nội dung
về nhãn môi trường được thực hiện trong khuôn khổ ISO/TC 207 nhằm thống
nhất và hướng dẫn các khái niệm , tiêu chí cơ bản đối với việc quy định thực
hiện nhãn môi trường nhằm dỡ bỏ hàng rào trên. Điều đó có thể hiểu rằng khi
tất cả các sản phẩm hàng hoá và dịch vụ đều có nhãn môi trường thì sự lưu
thông của chúng trên thị trường sẽ không vấp phải một rào cản nào khác. Và
như vậy hàng rào TBT sẽ được dỡ bỏ tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển
của thương mại quốc tế. Mặt khác, cùng với sự phát triển của thương mại quốc
tế các hàng hoá và dịch vụ đều đáp ứng những tiêu chuẩn quản lí môi trường
theo ISO 14000 nên đó là các sản phẩm s
ạch, các sản phẩm thân thiện với môi
trường kể từ trước và sau quá trình sản xuất. Điều đó đã đáp ứng được yêu cầu
của sự phát triển bền vững mà hiện nay chúng ta vẫn thường nói tới.
4. Quy định về môi trường trong hoạt động xuất nhập khẩu của Việt
Nam
4.1 Khái quát về các chính sách thương mại và chính sách môi trường
trong các văn bản pháp luật quan trọng của Vi
ệt nam.
Nhận thức được tầm quan trọng của công tác bảo vệ môi trường, cũng như
yêu cầu phải đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế trong bối cảnh tự do hoá thương
mại, mở cửa hội nhập, trong những năm gần đây Đảng và Chính Phủ Việt Nam
đã triển khai nhiều hoạt động để đảm bảo phát triển kinh tế vừa bảo vệ môi
trườ
ng. Các chủ trương về phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường được thể hiện

khá rõ nét trong hầu hết các văn bản pháp luật cơ bản của nước ta.
Tư tưởng chỉ đạo quan trọng nhất về phát triển bền vững được thể hiện một
cách rõ ràng trong Hiến pháp của nước ta năm 1992. Điều 29 của Hiến pháp nêu
rõ “Cơ quan Nhà nước, đơn vị vũ trang, tổ
chức kinh tế, tổ chức xã hội, mọi cá
nhân phải thực hiện và bảo vệ môi trường. Nghiêm cấm mọi hành động làm suy
kiệt tài nguyên và huỷ hoại môi trường.”. Tiếp đó Điều 112 của Hiến pháp cũng
đã quy định nhiệm vụ và quyền hạn của Chính phủ trong việc “thi hành những
biện pháp bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tạo điều kiện cho
công dân s
ử dụng quyền vè làm tròn nghĩa vụ của mình, bảo vệ tài sản, lợi ích
của Nhà nước và của xã hội; bảo vệ môi trường”. Đây chính là tiền đề cơ bản
cho sự ra đời sau này của hàng loạt các đạo luật và văn bản dưới luật trong lĩnh
vực phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường.
Một trong những đóng góp quan trọng đối với mục tiêu phát triển kinh tế b
ền
vững là việc ra đời Luật bảo vệ môi trường năm 1994. và Luật thương mại 1997.
Khoá luận tốt nghiệp Tác động của hoạt động xuất nhập khẩu đến môi
trường
Trần Minh Hoàng - Lớp A14 - K38D - Đại học Ngoại thương
- -
24

Đây là hai văn bản pháp lý quan trọng nhất điều chỉnh hoạt động bảo vệ môi
trường và hoạt động thương mại. Mặc dù trong hai bộ Luật này chưa thể hiện rõ
nét mối quan hệ giữa chính sách thương mại và chính sách môi trường trong
việc thúc đẩy phát triển bền vững nhưng rất nhiều điều khoản của chúng đã đề
cập đến một số khía cạnh thươ
ng mại liên quan đến môi trường cũng như nhiều
văn bản dưới luật khác được ban hành nhằm đảm bảo triển khai thương mại bền

vững trong bối cảnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập kinh tế quốc tế.
Luật bảo vệ môi trường (1994) đã đề cập tới những vấn đề cơ bản trong việc
phòng chống, khắc phục suy thoái môi trường, ô nhiễ
m môi trường hợp tác quốc
tế về bảo vệ môi trường, khen thưởng cũng như xử lý vi phạm những quy định
về bảo vệ môi trường. Nhiều điều khoản của luật cũng đã đề cập đến những vấn
đề môi trường liên quan đến hoạt động thương mại. đặc biệt là trong lĩnh vực
khai thác và sử dụng hiệu quả nguồn tài nguyên đ
a dạng sinh học, hạn chế hoặc
cấm sản xuất và trao đổi thương mại những hàng hoá có nguy hại đối với môi
trường. Chẳng hạn, điều 12 của Luật bảo vệ môi trường quy định: “tổ chức, cá
nhân có trách nhiệm bảo vệ các giống loài thực vật, động vật hoang dã, bảo vệ
tính đa dạng sinh học, bảo vệ rừng, biển và các hệ sinh thái. Việ
c khai thác
phải theo đúng quy hoạch và các quy định của luật bảo vệ và phát triển rừng.
Nhà nước có kế hoạch tổ chức cho các tổ chức, các nhân trồng rừng, phủ xanh
đất trống, đồi núi trọc để mở rộng, nhân diện tích của rừng, bảo vệ các vùng
đầu nguồn sông suối”. Điều 16 quy định quy định “Tổ chức, các nhân trong sản
xuất kinh doanh và các hoạt động khai thác thực hiện các biệ
n pháp vệ sinh môi
trường, phải có thiết bị kỹ thuật để xử lý chất thải, đảm bảo tiêu chuẩn môi
trường, phòng chống suy thoái môi trường, ô nhiễm môi trường, sự cố môi
trường”. Điều 19 quy định “Việc nhập, xuất khẩu công nghệ, máy móc, thiết bị,
các chế phẩm sinh học hoặc hoá học, các chất độc hại, chất phóng xạ, các loài
động vật, thực vật, ngu
ồn gen, vi sinh vật có liên quan đến bảo vệ môi trường
phải được phép của cơ quan quản lý ngành hữu quan và cơ quan quản lý Nhà
nước về bảo vệ môi trường”. Điều 23 quy định “Tổ chức, cá nhân sản xuất, vận
chuyển, buôn bán, sử dụng, cất giữ, huỷ bỏ các chất độc hại, chất dễ gây cháy,
nổ, phải tuân theo quy định về an toàn cho người, sinh vật, không gây suy thoái

môi tường, ô nhiễm môi tr
ường, sự cố môi trường”. Tại điều 29 Luật bảo vệ môi
trường nghiêm cấm các hành vi gây ảnh hưởng đến môi trường như: Đốt phá
rừng, khai thác khoáng sản một cách bừa bãi gây huỷ hoại môi trường, làm mất
cân bằng sinh htái, Thải khói, bụi, khí đọc, mùi hôi thối gây hại vào không khí;
phát bức xạ, phóng xạ, quá giói hạn cho phép vào môi trường xung quanh; Thải
Khoá luận tốt nghiệp Tác động của hoạt động xuất nhập khẩu đến môi
trường
Trần Minh Hoàng - Lớp A14 - K38D - Đại học Ngoại thương
- -
25

dầu mỡ, hoá chất độc hại, chất phóng xạ quá giói hạn cho phép, các chất thải,
xác động vật, thực vật, vi khuẩn, siêu vi khuẩn độc hại và gây dịch bệnh vào
nguồn ngước; Chôn vùi , thải vào đất các chất độc hại quá giói hạn cho phép;
Khai thác, kinh doanh các loại thực vật, động vật quý hiếm trong danh mục quy
định của Chính phủ; Nhập khẩu công nghệ, thiết bị không đáp ứng tiêu chuẩn
môi trường; nhập kh
ẩu, xuất khẩu chất thải; sử dụng các phương pháp, phương
tiện, công cụ huỷ diệt hàng loạt trong khai thác, đánh bắt các nguồn động vật,
thực vật.
Như vậy có thể nhận thấy rằng, Luật bảo vệ môi trường đã đề cập đến hầu hết
các vấn đề môi trường liên quan đến phát triển kinh tế, trao đổi thương mại, đi
ều
chỉnh phần lớn các hành vi của cá nhân và tổ chức trong việc bảo vệ môi trường.
Tuy nhiên, chưa có sự gắn kết các vấn đề môi trường với phát triển thương mại
khi nước ta mở cửa thị trường, hội nhập kinh tế quốc tế. Nhiều điều khoản của
Hiệp định thương mại đa biên liên quan đến môi trường chưa được thể hiện rõ
trong v
ăn bản pháp luật này.

Để hoà nhập các vấn đề môi trường vào trong các chính sách thương mại cần
phải có sự phối hợp của nhiều ngành, nhiều cấp, trong đó Chính phủ phải có
chương trình định hướng cho hoạt động này. Ngoài Luật bảo vệ môi trường nói
trên, trong những năm qua đã có nhiều văn bản pháp lý điều tiết vấn đề phát
triển kinh tế và bảo vệ môi trường như
Luật đất đai (1993), Luật bảo tồn và phát
triển tài nguyên rừng (1991), Luật khoáng sản (1996) Pháp lệnh về nguồn thuỷ
sản (1989), Pháp lệnh thuế tài nguyên (1990)… Song song với các văn vản Luật
nêu trên, Chính phủ cũng đã ban hành chiến lược về cải tiến công tác quản lý
môi trường, bao gồm việc thực hiện Chương trình nghị sự 21, chương trình kiểm
soát ô nhiễm công nghiệp và đô thị, chương trình quốc gia về
bảo vệ rừng, loại
bỏ các chất làm thủng tầng ôzôn, hành động quốc gia về bảo tồn đa dạng sinh
học.
Đồng thời, Việt Nam cũng đã tham gia ngày càng nhiều các điều ước quốc tế
về môi trường có liên quan đến thương mại như : Công ước quốc tế về buôn bán
các loài động thực vật hoang dã nguy cấp (1994); Công ước Viên về bảo vệ tầng
ozon(1994); Nghị
định thư Montreal về biến đổi khí hậu (1994) Công ước khung
về biến đổi khí hậu (1994)
Luật Thương mại được Quốc hội ban hành ngày 10/5/1997 cũng đã đề cập
đến nhiều khía cạnh môi trường trong hoạt động thương mại, nghiêm cấm các
hành vi thương mại gây ảnh hưởng đến môi trường. Chẳng hạn, Điều 15 của
Luật quy định “Cấm lưu thông hàng hoá, cung ứng dị
ch vụ gây

×