Lời mở đầu
Kinh nghiệm thế giới cho thấy để thị trường chứng khoán hoạt động có
hiệu qủa và phát triển thì vai trò của công ty chứng khoán trong việc tư vấn
chứng khoán cho khách hàng là một trong những khâu quan trọng cho các
doanh nghiệp và nhà đầu tư trên thị trường. Đối với thị trường chứng khoán
Việt Nam đã từng bước đi vào hoạt động ổn định, vai trò của các công ty
chứng khoán cũng đã bắt đầu phát huy tác dụng. Tuy nhiên, việc tư vấn cho
khách hàng tại các công ty chứng khoán hiện nay vẫn còn nhiều hạn chế đối
với doanh nghiệp,nhà đầu tư cũng như các tổ chức kinh doanh chứng khoán.
Đồng thời đây vẫn còn là một lĩnh vực hết sức mới mẻ đối với công ty chứng
khoán Việt Nam, nếu chúng ta không sớm tổ chức được một hệ thống chuẩn
mực nghiệp vụ tư vấn cho các công ty chứng khoán một cách chính xác và
kịp thời đến doanh nghiệp và nhà đầu tư thì không những không đảm bảo
được kết quả hoạt động của thị trường chứng khoán mà còn khó lấy được
lòng tin của công chúng đầu tư tham gia thị trường.
Vì vậy, một đòi hỏi cấp thiết của thị trường chứng khoán là cần có
những công ty chứng khoán làm nhiệm vụ tư vấn, giúp đỡ về chuyên môn cho
các thành phần tham gia thị trường. Xuất phát từ lý do trên, đề tài “Nâng cao
hiệu quả hoạt động tư vấn của Công ty Cổ phần chứng khoán Bảo Việt
(BVSC)” được lựa chọn với mục tiêu nghiên cứu cách thức thực hiện hoạt
động tư vấn và đề ra các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động tư vấn cho
các công ty chứng khoán.
Chuyên đề được chia làm 3 phần:
Chương 1: Hiệu quả hoạt động tư vấn của công ty chứng khoán
Chương 2: Thực trạng hiệu quả hoạt động tư vấn của BVSC
Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động tư vấn của BVSC
Chương 1: Hiệu quả hoạt động tư vấn của công ty chứng khoán
(CTCK)
1.1. Hoạt động tư vấn của CTCK
1.1.1. Khái quát về CTCK
Khái niệm
Công ty chứng khoán là một tổ chức tài chính trung gian trên thị trường
chứng khoán, thực hiện trung gian tài chính thông qua các hoạt động chủ yếu
như mua bán chứng khoán, môi giới chứng khoán cho khách hàng để hưởng
hoa hồng, phát hành và bảo lãnh chứng khoán, tư vấn đầu tư và quản lý quỹ
đầu tư.
Tại Việt Nam, theo quy chế về tổ chức và hoạt động của công ty chứng
khoán quy định: “Công ty chứng khoán là công ty cổ phần hoặc công ty trách
nhiệm hữu hạn thành lập hợp pháp tại Việt Nam, được Ủy ban Chứng khoán
Nhà nước (UBCKNN) cấp giấy phép thực hiện một hoặc một số loại hình
kinh doanh chứng khoán: môi giới chứng khoán, tự doanh chứng khoán, bảo
lãnh phát hành chứng khoán, tư vấn đầu tư chứng khoán…”
Chức năng và vai trò của CTCK
Trên thị trường chứng khoán, CTCK có 3 chức năng cơ bản sau:
* Tạo cơ chế huy động vốn bằng cách làm cầu nối gặp gỡ giữa những
người có tiền nhàn rỗi với những người cần vốn.
* Cung cấp cơ chế giá cả cho giao dịch.
* Tạo ra tính thanh khoản cho các loại chứng khoán.
Là một tổ chức trung gian, CTCK đóng vai trò quan trọng đối với sự tồn
tại và phát triển của TTCK. Đối với mỗi chủ thể khác nhau trong nền kinh tế,
vai trò của các CTCK cũng được nhìn nhận dưới những góc độ khác nhau.
+ Đối với tổ chức phát hành
Trên lý thuyết, khi doanh nghiệp cần huy động vốn bằng cách phát hành
chứng khoán, họ có thể tự chào bán khối lượng chứng khoán đến các nhà đầu
tư. Tuy nhiên, họ khó có thể làm tốt điều này bởi một lẽ họ không có bộ máy
chuyên nghiệp. Cần có những nhà chuyên nghiệp mua bán chứng khoán cho
họ. Mặt khác nguyên tắc trung gian của TTCK không cho phép nhà đầu tư và
nhà phát hành trực tiếp mua bán chứng khoán mà phải thông qua tổ chức
trung gian mua bán. CTCK là một trung gian tài chính với vai trò huy động
vốn, sẽ giúp tổ chức phát hành tìm được nhà đầu tư và phân phối chứng
khoán đến tận tay những người có nhu cầu nắm giữ loại chứng khoán đó. Nhà
đầu tư và tổ chức phát hành không phải mua bán trực tiếp chứng khoán với
nhau, điều này giúp giảm chi phí huy động cho tổ chức phát hành.
+ Đối với nhà đầu tư
Trên TTCK, giá cả các loại hàng hóa biến động thường xuyên. Trong khi
đó các nhà đầu tư không phải ai cũng có đủ điều kiện, khả năng nắm bắt hoặc
xử lý được các thông tin, diễn biến trên TTCK để đưa ra các quyết định đầu
tư hiệu quả. Nhờ lợi thế của một tổ chức trung gian, chuyên môn hoá cao làm
cầu nối cho các bên mua bán gặp nhau, các CTCK giúp cho nhà đầu tư tiết
kiệm được chi phí, thời gian, công sức trong từng giao dịch, giúp nâng cao
tính thanh khoản của thị trường.
+ Đối với TTCK
Trên thị trường sơ cấp, thông qua nghiệp vụ bảo lãnh phát hành chứng
khoán, CTCK thực hiện xác định và tư vấn cho tổ chức phát hành mức giá
phát hành hợp lý đối với các chứng khoán trong đợt phát hành. Thông thường
mức giá phát hành do các CTCK xác định trên cơ sở tiếp xúc, tìm hiểu và
thỏa thuận với các nhà đầu tư tiềm năng lớn trong đợt phát hành đó và tư vấn
cho tổ chức phát hành.
Trên thị trường thứ cấp, CTCK có vai trò giúp nhà đầu tư đánh giá chính
xác giá trị khoản đầu tư của mình. Toàn bộ các lệnh mua bán chứng khoán
được tập hợp tại các thị trường giao dịch tập trung thông qua các CTCK, và
trên cơ sở đó giá chứng khoán sẽ được xác định theo quy luật cung cầu. Ngoài
ra, chính hoạt động tự doanh của các CTCK cũng góp phần điều tiết giá
chứng khoán.
Các CTCK thực hiện cơ chế giao dịch chứng khoán trên cả thị trường sơ
cấp và thị trường thứ cấp. Từ đó, các nhà đầu tư có thể dễ dàng chuyển đổi
chứng khoán thành tiền mặt và ngược lại, làm tăng tính thanh khoản cho các
tài sản tài chính.
+ Đối với cơ quan quản lý
CTCK thực hiện các giao dịch mua bán chứng khoán, nắm giữ các tài
khoản giao dịch của khách hàng, vì vậy nó có được thông tin về các giao dịch
trên thị trường, thông tin về các loại cổ phiếu, trái phiếu, thông tin về tổ chức
phát hành và nhà đầu tư... CTCK có nghĩa vụ phải cung cấp các thông tin đó
cho các cấp có thẩm quyền khi có yêu cầu. Dựa vào nguồn thông tin này, các
cơ quan quản lý thị trường có thể theo dõi giám sát toàn cảnh hoạt động trên
TTCK để từ đó đưa ra các quyết định, chính sách đúng đắn, phù hợp, kịp thời
đảm bảo cho thị trường diễn ra một cách trật tự, khuôn khổ và có hiệu quả.
Điều kiện được cấp giấy phép kinh doanh chứng khoán tại Việt Nam
* Có phương án hoạt động kinh doanh phù hợp với mục tiêu phát triển
kinh tế, xã hội và phát triển ngành chứng khoán.
* Có đủ cơ sở vật chất kỹ thuật cho kinh doanh chứng khoán.
* Có mức vốn điều lệ tối thiểu bằng vốn pháp định. Vốn pháp định
thường được quy định củ thể cho từng loại hình nghiệp vụ.
* Giám đốc, Phó giám đốc (Tổng giám đốc, Phó tổng giám đốc), các
nhân viên kinh doanh của CTCK phải đáp ứng đầy đủ điều kiện để được cấp
chứng chỉ hành nghề kinh doanh chứng khoán do UBCKNN cấp.
* Giấy phép bảo lãnh phát hành chỉ được cấp cho công ty có giấy phép
tự doanh.
Quy định về vốn đối với công ty chứng khoán:
Theo khoản 1 điều 18 Nghị định 14/2007/NĐ-CP ngày 19/1/2007 của
Chính phủ quy định:
Vốn pháp định cho các nghiệp vụ kinh doanh của công ty chứng khoán,
công ty chứng khoán có vốn đầu tư nước ngoài, chi nhánh công ty chứng
khoán nước ngoài tại Việt Nam là:
- Môi giới chứng khoán: 25 tỷ đồng Việt Nam;
- Tự doanh chứng khoán: 100 tỷ đồng Việt Nam;
- Bảo lãnh phát hành chứng khoán: 165 tỷ đồng Việt Nam;
- Tư vấn đầu tư chứng khoán: 10 tỷ đồng Việt Nam.
1.1.2. Các hoạt động cơ bản của CTCK
Môi giới chứng khoán
Môi giới chứng khoán là một hoạt động kinh doanh của CTCK trong đó
CTCK đại diện cho khách hàng tiến hành giao dịch thông qua cơ chế giao
dịch tại Sở giao dịch chứng khoán (SGDCK), Trung tâm giao dịch chứng
khoán (TTGDCK) hay thị trường OTC mà chính khách hàng sẽ phải chịu
trách nhiệm đối với hậu quả kinh tế của việc giao dịch đó.
Khi thực hiện nghiệp vụ môi giới, CTCK phải mở tài khoản giao dịch
chứng khoán và tiền cho khách hàng trên cơ sở hợp đồng ký kết giữa khách
hàng và công ty. Trong trường hợp khách hàng của CTCK mở tài khoản lưu
ký tại tổ chức lưu ký là ngân hàng thương mại hoặc chi nhánh ngân hàng
nước ngoài, CTCK có trách nhiệm hướng dẫn các thủ tục giao dịch, mua bán
cho khách hàng và phải ký hợp đồng bằng văn bản với tổ chức lưu ký. Phí
môi giới thường được tính phần trăm trên tổng giá trị của một giao dịch.
Hiện nay có hai loại hình môi giới chứng khoán là môi giới chứng khoán
niêm yết và môi giới chứng khoán chưa niêm yết.
Môi giới chứng khoán niêm yết: Chứng khoán niêm yết là chứng khoán
đáp ứng các yêu cầu về niêm yết theo quy định và được giao dịch tại
SGDCK/TTGDCK. Việc môi giới chứng khoán niêm yết được thực hiện
thông qua hệ thống tài khoản giao dịch chứng khoán theo quy trình giao dịch
của SGDCK và TTGDCK. Mô hình giao dịch chứng khoán niêm yết hiện nay
cụ thể như sau:
1.Khách hàng mở tài khoản giao dịch và đặt lệnh mua, bán chứng khoán.
2.CTCK kiểm soát số dư tiền và chứng khoán của khách hàng.
3.Chuyển lệnh cho đại diện giao dịch tại SGD/TTGDCK.
4.Đại diện giao dịch nhập lệnh vào hệ thống của SGD/TTGDCK.
5.SGD/TTGDCK thực hiện so khớp lệnh và trả kết quả về CTCK.
6.CTCK thông báo cho khách hàng kết quả giao dịch đã được thực hiện.
Sơ đồ 1: Quy trình giao dịch chứng khoán niêm yết
Môi giới chứng khoán chưa niêm yết: Chứng khoán chưa niêm yết là
chứng khoán chưa thực hiện niêm yết hoặc đăng ký giao dịch trên SGD/
TTGDCK. Việc môi giới chứng khoán chưa niêm yết được CTCK thực hiện
thông qua các hợp đồng ủy thác hoặc trung gian mua bán chứng khoán. Thị
trường giao dịch chứng khoán chưa niêm yết đang đầy tiềm năng do hiện nay
số lượng chứng khoán niêm yết còn rất nhỏ so với tổng số lượng chứng khoán
chưa niêm yết.
Tự doanh chứng khoán
Đây là nghiệp vụ mà trong đó CTCK thực hiện mua và bán chứng khoán
cho chính mình.
Thông thường chức năng chính của CTCK là cầu nối giữa nhà đầu tư với
thị trường. Người chơi chứng khoán sẽ phải đến các CTCK để thực hiện một
số thủ tục như mở tài khoản chứng khoán, lưu ký chứng khoán tại đó. Khi đã
là thành viên của Trung tâm Lưu ký chứng khoán, CTCK sẽ phải mở tài
khoản lưu ký của bản thân công ty tại Trung tâm này và đồng thời mở tài
khoản lưu ký cho khách hàng của mình. Tất nhiên với dịch vụ này, CTCK sẽ
thu được một mức phí nhất định.
Song, với nghiệp vụ tự doanh, CTCK sẽ tham gia mua bán chứng khoán
như một tổ chức độc lập, bằng chính nguồn vốn của công ty, chứ không phải
bằng tài khoản của khách hàng.
Tuy nhiên đây là một hoạt động khó khăn và phức tạp, hoạt động này có
thể mang lại cho CTCK những khoản lợi nhuận lớn nhưng cũng có thể gây ra
những tổn thất không nhỏ. Để thực hiện nghiệp vụ này thành công, ngoài đội
ngũ nhân viên phân tích thị trường có nghiệp vụ giỏi và nhanh nhạy với
những biến động của thị trường, CTCK còn phải có một chế độ phân cấp
quản lý và đưa ra những quyết định đầu tư hợp lý, trong đó việc xây dựng chế
độ phân cấp quản lý và ra quyết định đầu tư là một trong những vấn đề then
chốt, quyết định sự sống còn của CTCK.
Nghiệp vụ tự doanh của CTCK có thể chia thành 2 lĩnh vực:
Thứ nhất, các CTCK thực hiện việc mua bán chứng khoán niêm yết cho
chính công ty mình. Do CTCK với lợi thế về nghiệp vụ có thể dự đoán trước
diễn biến của thị trường nên để đảm bảo sự công bằng cho khách hàng trong
quá trình giao dịch chứng khoán, CTCK phải ưu tiên thực hiện lệnh giao dịch
của khách hàng trước lệnh tự doanh của công ty.
Thứ hai, các CTCK thực hiện hoạt động tự doanh bằng hình thức mua
chứng khoán chưa niêm yết trên thị trường OTC. Tuy nhiên hoạt động này
phải tuân thủ những hạn mức do pháp luật quy định.
Ngoài ra, một hoạt động tự doanh phổ biến hiện nay của một số CTCK
là việc mua chứng khoán niêm yết lô lẻ, sau đó CTCK sẽ gộp lại thành lô
chẵn để niêm yết và có thể bán lại trên SGDCK và Trung tâm Giao dịch
Chứng khoán (TTGDCK). Có thể thấy nghiệp vụ mua lô lẻ này tương tự với
nghiệp vụ "xanhdica mua bao chứng khoán", chỉ khác là CTCK mua lẻ chứng
khoán từ nhiều nhà đầu tư rồi niêm yết trên SGDCK và TTGDCK trong khi
đó xanhdica mua bao hết chứng khoán của công ty mới phát hành. Đây là một
lĩnh vực có khả năng mang lại lợi nhuận tương đối lớn cho các CTCK. Giá
mua lô lẻ được xác định bằng thỏa thuận giữa khách hàng bán với CTCK, do
đó các CTCK có điều kiện để đưa ra mức giá phù hợp để thu hút khách hàng,
tạo sự chủ động cho các CTCK trong hoạt động kinh doanh của mình.
Hoạt động tự doanh hiện nay được xem là một trong những hoạt động
quan trọng nhất của các CTCK tại Việt Nam trong việc nâng cao lợi nhuận.
Tuy nhiên, do nghiệp vụ tự doanh và môi giới dễ nảy sinh xung đột lợi ích
nên các nước thường quy định các CTCK phải tổ chức thực hiện hai nghiệp
vụ ở hai bộ phận riêng biệt nếu CTCK đó thực hiện cả hai nghiệp vụ.
Bảo lãnh phát hành chứng khoán
Bảo lãnh phát hành là việc tổ chức bảo lãnh giúp tổ chức phát hành thực
hiện các thủ tục trước khi chào bán chứng khoán, nhận mua một phần hay
toàn bộ chứng khoán của tổ chức phát hành để bán lại hoặc mua số chứng
khoán còn lại chưa được phân phối hết.
Tổ chức phát hành được hưởng phí bảo lãnh hoặc một tỷ lệ hoa hồng
nhất định trên số tiền thu được từ đợt phát hành.
Hiện nay trên thế giới có một số hình thức bảo lãnh phát hành sau:
* Bảo lãnh cam kết chắc chắn: là hình thức bảo lãnh mà tổ chức bảo lãnh
phát hành cam kết sẽ mua toàn bộ số chứng khoán phát hành cho dù có phân
phối hết hay không.
* Bảo lãnh cố gắng tối đa: là phương thức bảo lãnh mà theo đó tổ chức
bảo lãnh thỏa thuận làm đại lý phát hành cho tổ chức phát hành. Tổ chức bảo
lãnh không cam kết bán toàn bộ số chứng khoán mà cam kết sẽ cố gắng tối
đa. Số chứng khoán còn lại nếu không phân phối hết sẽ trả lại cho tổ chức
phát hành. Nhu vậy, kết quả của việc bán chứng khoán của tổ chức phát hành
tùy thuộc vào khả năng, uy tín và sự lựa chọn nhà đầu tư của tổ chức bảo
lãnh.
* Bảo lãnh tất cả hoặc không: là phương thức bảo lãnh mà theo đó tổ
chức phát hành yêu cầu tổ chức bảo lãnh phải bán hết số chứng khoán dự định
phát hành, nếu không phân phối hết sẽ hủy bỏ đợt phát hành. Theo phương
thức này, không có một sự bảo đảm đợt phát hành có thành công hay không,
nên UBCKNN thường quy định số chứng khoán mà nhà đầu tư đã mua trong
thời gian chào bán sẽ được giữ bởi một người thứ ba để chờ kết quả cuối cùng
của đợt phát hành. Nếu đợt phát hành không thành công thì nhà đầu tư sẽ
được trả lại toàn bộ số tiền đặt cọc.
* Bảo lãnh với hạn mức tối thiểu: là phương thức kết hợp giữa phương
thức bảo lãnh cố gắng tối đa và phương thức bảo lãnh tất cả hoặc không. Theo
phương thức này, tổ chức phát hành yêu cầu tổ chức bảo lãnh bán tối thiểu
một tỷ lệ chứng khoán nhất định. Nếu số lượng chứng khoán bán ra dưới hạn
mức này thì đợt phát hành sẽ được hủy bỏ và toàn bộ tiền đặt cọc mua chứng
khoán sẽ được trả lại cho nhà đầu tư. Đây là phương thức bảo lãnh tương đối
hiệu quả, vừa bảo vệ lợi ích cho tổ chức phát hành, vừa hạn chế rủi ro cho tổ
chức bảo lãnh.
Riêng tại Việt Nam hiện nay chỉ áp dụng hình thức bảo lãnh với cam kết
chắc chắn nhằm mục đích bảo vệ nhà đầu tư và gắn kết trách nhiệm của các
CTCK. Điều này gây ra một số khó khăn cho các CTCK trong việc triển khai
nghiệp vụ này. Thực tế chỉ có các CTCK lớn mới có thể thực hiện nghiệp vụ
này vì người bảo lãnh phải có năng lực tài chính mạnh. Theo quy định thì vốn
pháp định cho nghiệp vụ bảo lãnh phát hành chứng khoán là 165 tỷ và CTCK
phải có hoạt động tự doanh mới được phép thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh phát
hành chứng khoán.
Tư vấn tài chính và đầu tư chứng khoán
Cũng như các loại hình tư vấn khác, tư vấn tài chính và đầu tư chứng
khoán là việc CTCK thông qua hoạt động phân tích để dưa ra các lời khuyên,
phân tích các tình huống và có thể thực hiện một số công việc dịch vụ khác
liên quan đến phát hành, đầu tư và cơ cấu tài chính cho khách hàng. CTCK sẽ
nhận được phí hoa hồng cho công việc tư vấn của mình.
Đối với các loại hình tư vấn khác, ví dụ như tư vấn pháp luật thì tính
chính xác của lời khuyên là cần thiết và có khả năng diễn ra đúng trên thực tế.
Tuy nhiên, đối với hoạt động tư vấn chứng khoán, do đặc điểm riêng trong
ngành là giá cả thường luôn biến động nên việc tư vấn về giá trị chứng khoán
rất khó khăn, đồng thời có thể xảy ra nhiều mâu thuẫn về lợi ích. Đặc biệt là
với hoạt động này, các nhà tư vấn có thể gây ra những hiểu lầm đáng tiếc về
giá trị và xu hướng giá cả của các loại chứng khoán – việc này có thể do khả
năng của họ hoặc do họ cố tình gây hiểu lầm để kiếm lợi. Do vậy, đây là hoạt
động cần được quản lý chặt chẽ và đòi hỏi phải có những giới hạn nhất định
trong khi thực hiện công việc.
Các nghiệp vụ phụ trợ
Trên đây là bốn nghiệp vụ chính chiếm tỷ trọng lớn trong doanh thu của
CTCK. Ngoài ra, CTCK còn thực hiện các nghiệp vụ hỗ trợ giao dịch nhằm
mục đích tạo thuận lợi cho nhà đầu tư, giúp nhà đầu tư không bỏ lỡ các cơ hội
đầu tư, đồng thời thúc đẩy các nghiệp vụ chính phát triển và nâng cao hiệu
quả sử dụng vốn.
* Nghiệp vụ lưu ký chứng khoán: là công việc đầu tiên để các chứng
khoán có thể giao dịch trên thị trường tập trung – việc lưu giữ, bảo quản
chứng khoán của khách hàng và giúp khách hàng thực hiện các quyền của
mình đối với chứng khoán – được thực hiện thông qua các thành viên lưu ký
của thị trường giao dịch chứng khoán.
Lưu ký chứng khoán là một hoạt động rất cần thiết trên TTCK. Bởi vì
trên TTCK tập trung, việc thanh toán các giao dịch diễn ra tại SGDCK và
TTGDCK. Vì vậy, lưu ký chứng khoán một mặt giúp cho quá trình thanh toán
tại SGDCK và TTGDCK được diễn ra thuận lợi, nhanh chóng, dễ dàng, mặt
khác hạn chế rủi ro cho người nắm giữ chứng khoán như rủi ro bị rách, hỏng,
thất lạc chứng chỉ chứng khoán…
* Quản lý thu nhập của khách hàng (quản lý cổ tức): xuất phát từ việc
lưu ký chứng khoán cho khách hàng, CTCK sẽ theo dõi tình hình thu lãi, cổ
tức của chứng khoán và đứng ra làm dịch vụ thu nhận và chi trả cổ tức cho
khách hàng thông qua tài khoản của khách hàng.
* Cho vay cầm cố chứng khoán: là một hình thức tín dụng mà trong đó
người đi vay dùng số chứng khoán sở hữu hợp pháp của mình làm tài sản cầm
cố để vay tiền nhằm mục đích kinh doanh, tiêu dùng…
* Cho vay bảo chứng: là một hình thức tín dụng mà khách hàng vay tiền
để mua chứng khoán, sau đó dùng chứng khoán mua được từ tiền vay để làm
tài sản cầm cố khoản cho vay.
* Cho vay ứng trước tiền bán chứng khoán: là việc CTCK ứng trước tiền
bán chứng khoán cho khách hàng ngay sau khi lệnh bán chứng khoán của
khách hàng được thực hiện tại SGDCK hoặc TTGDCK.
1.1.3. Hoạt động tư vấn của CTCK
Tư vấn là gì?
Cho đến nay trên thế giới cũng như ở Việt Nam chưa có một định nghĩa
độc tôn về hoạt động tư vấn. Có tài liệu định nghĩa vắn tắt: "Tư vấn là cung
cấp những lời khuyên nghề nghiệp", "Tư vấn là cung cấp năng lực giải quyết
vấn đề"... Tuy nhiên, quan niệm về bản chất và đặc điểm tư vấn thì khá thống
nhất:
+ Tư vấn là hoạt động được cung cấp bởi các chuyên gia có trình độ và
phẩm chất thích hợp (không phải có công ty tư vấn là trở thành nhà tư vấn).
+ Tư vấn là quá trình trao đổi thông tin hai chiều, giữa hai chủ thể có độc
lập tương đối về tài chính và tổ chức (nhà tư vấn và người sử dụng tư vấn).
+ Người ta chỉ sử dụng tư vấn khi đứng trước một vấn đề cụ thể phải xử
lý (ra quyết định hoặc hành động). Trong hoạt động tư vấn, mục tiêu luôn
luôn xác định (trong khuôn khổ một quá trình thực tiễn xác định, với không
gian, thời gian, nguồn lực và tình huống xác định).
+ Trong hoạt động tư vấn, người ta chỉ cung cấp thông tin, tri thức, giải
pháp hoặc phương án hành động thích hợp. Nhà tư vấn không quyết định
hoặc trực tiếp thực hiện.
Từ các điểm đó có thể định nghĩa: tư vấn là hoạt động trong đó các
chuyên gia tiến hành chọn lọc và cung cấp các thông tin, kiến thức, giải pháp
hoặc phương án hành động được lựa chọn và xử lý thích hợp để giúp ích cho
từng đối tượng cụ thể.
Hoạt động tư vấn của CTCK
Theo khái niệm trên thì có thể hiểu hoạt động tư vấn của CTCK là việc
thông qua các dữ liệu về chứng khoán, các CTCK tiến hành phân tích và dự
báo để đưa ra lời tư vấn cho khách hàng của mình trong lĩnh vực cơ cấu tài
chính, chia, tách, hợp nhất, sát nhập doanh nghiệp, phát hành và niêm yết
chứng khoán… Đây là nghiệp vụ mà vốn của nó chính là kiến thức chuyên
môn, kinh nghiệm nghề nghiệp của đội ngũ chuyên viên tư vấn của CTCK.
Hoạt động tư vấn được phân loại theo các tiêu chí sau:
+ Theo hình thức của hoạt động tư vấn: bao gồm tư vấn trực tiếp (gặp gõ
khách hàng trực tiếp hoặc thông qua thu từ, điện thoại) và tư vấn gián tiếp
(thông qua các phương tiện truyền thông) để tư vấn cho khách hàng.
+ Theo mức độ ủy quyền của hoạt động tư vấn: bao gồm tư vấn gợi ý
(gợi ý cho khách hàng về phương cách đầu tư hợp lý, quyết định đầu tư là của
khách hàng) và tư vấn ủy quyền (vừa tư vấn vừa quyết định hộ khách hàng
theo mức độ ủy quyền của khách hàng).
+ Theo đối tượng của hoạt động tư vấn: bao gồm tư vấn cho người phát
hành (tư vấn cho tổ chức dự kiến phát hành: cách thức, hình thức phát hành,
xây dựng hồ sơ, bản cáo bạch…và giúp tổ chức phát hành trong việc lựa chọn
tổ chức bảo lãnh, phân phối chứng khoán) và tư vấn đầu tư (tư vấn cho khách
hàng đầu tư chứng khoán trên thị trường thứ cấp về giá, thời gian, định hướng
đầu tư vào các loại chứng khoán…).
Nguyên tắc cơ bản của hoạt động tư vấn
Hoạt động tư vấn đòi hỏi phải tuân thủ một số nguyên tắc cơ bản sau:
+ Không đảm bảo chắc chắn về giá trị chứng khoán: giá trị chứng khoán
không phải là một số cố định, nó luôn thay đổi theo các yếu tố kinh tế, tâm lý
và diễn biến thực tiễn của thị trường.
+ Luôn nhắc nhở khách hàng rằng những lời tư vấn của mình dựa trên cơ
sở phân tích các yếu tố lý thuyết và những diễn biến trong quá khứ, có thể là
không hoàn toàn chính xác và khách hàng là người quyết định cuối cùng
trong việc sử dụng các thông tin từ nhà tư vấn để đầu tư, nhà tư vấn sẽ không
chịu trách nhiệm về những thiệt hại kinh tế do lời khuyên đưa ra.
+ Không được dụ dỗ, mời chào khách hàng mua hay bán một loại chứng
khoán nào đó, những lời tư vấn phải được xuất phát từ những cơ sở khách
quan là quá trình phân tích, tổng hợp một cách khoa học, logic các vấn để
nghiên cứu.
Tư vấn tài chính và đầu tư chứng khoán
* Tư vấn tài chính doanh nghiệp (Tư vấn cho người phát hành)
Là một mảng hoạt động quan trọng mang lại nguồn thu tương đối cao
cho CTCK. Thực hiện tốt nghiệp vụ này sẽ góp phần hỗ trợ phát triển các
doanh nghiệp và tạo ra những hàng hóa có chất lượng cao trên thị trường. Khi
thực hiện nghiệp vụ này, CTCK phải ký hợp đồng với tổ chức được tư vấn và
liên đới chịu trách nhiệm về nội dung trong hồ sơ xin niêm yết. Hoạt động
này tương đối đa dạng bao gồm:
+ Tư vấn chuyển đổi hình thức sở hữu doanh nghiệp: Thực hiện tư vấn
từ khâu xử lý tài chính, hỗ trợ tái cấu trúc vốn trước và sau khi chuyển đổi,
định giá doanh nghiệp và định giá chứng khoán phát hành, tư vấn cổ phần hóa
các doanh nghiệp Nhà nước, cổ phần hóa doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài.
+ Tư vấn tài chính doanh nghiệp: Phân tích đánh giá tình hình và tư vấn
tái cấu trúc tài chính doanh nghiệp, tư vấn nâng cao năng lực quản trị tài
chính nhằm đảm tình hình tài chính hiệu quả và lành mạnh.
+ Tư vấn phát hành: Thực hiện tái cấu trúc vốn, xác định nhu cầu hợp lý
và xây dựng phương án phát hành, định giá và lập hồ sơ phát hành theo đúng
quy định pháp luật, đại lý và/hoặc bảo lãnh phát hành.
+ Tư vấn niêm yết: Thực hiện các thủ tục cần thiết để đưa các chứng
khoán có đủ điều kiện vào đăng ký và giao dịch trên thị trường chứng khoán,
bao gồm các công việc như: Tư vấn xây dựng điều lệ hoạt động, tư vấn hoàn
thiện các yêu cầu hiện hành về tài chính, cổ đông, xây dựng bản cáo bạch,
nộp hồ sơ và giải trình theo yêu cầu của TTGDCK, thực hiện lưu ký chứng
khoán và tổ chức phiên giao dịch đầu tiên, tư vấn xây dựng các quy trình công
bố thông tin nội bộ.
+ Tư vấn quản trị doanh nghiệp: Xây dựng Điều lệ tổ chức và hoạt
động của doanh nghiệp, các quy chế điều chỉnh hoạt động của HĐQT, Ban
Giám đốc, BKS và các quy chế khác của công ty cổ phần, quy trình công bố
thông tin đại chúng.
* Tư vấn đầu tư chứng khoán:
Là việc các chuyên viên tư vấn sử dụng kiến thức chuyên môn của mình
để tư vấn cho nhà đầu tư về thời điểm mua bán chứng khoán, loại chứng
khoán mua bán, thời gian nắm giữ, tình hình diễn biến thị trường, xu hướng
giá cả. Đây là hoạt động phổ biến trên thị trường thứ cấp, diễn ra hàng ngày,
hàng giờ với nhiều hình thức khác nhau. Việc tư vấn có thể bằng lời nói, hoặc
có thể thông qua những bản tin, các báo cáo phân tích, khách hàng có thể gặp
gỡ nhà tư vấn hoặc thông qua các phương tiện truyền thông như điện thoại,
fax để nhờ tư vấn trực tiếp hoặc có thể gián tiếp thông qua các báo cáo phân
tích, các ấn phẩm mà nhà tư vấn phát hành.
Nhà tư vấn phải luôn là người thận trọng khi đưa ra những lời bình luận,
những báo cáo phân tích của mình về giá trị các loại chứng khoán, vì những
phát ngôn của các chuyên viên tư vấn có tác động rất lớn đến tâm lý của các
nhà đầu tư và thường dễ có thể trở thành lời tiên đoán, định hướng cho toàn
bộ thị trường. Bởi vì các nhà đầu tư tin rằng các nhà tư vấn là những chuyên
gia trong lĩnh vực này, họ có nhiều thông tin và kiến thức hơn những người
khác và họ có thể đánh giá tình hình chính xác hơn. Điều đó có thể mang lại
lợi nhuận cho người được tư vấn nhưng cũng có thể gây thiệt hại cho họ và
làm ảnh hưởng đến TTCK.
1.2. Hiệu quả hoạt động tư vấn của CTCK
1.2.1. Khái niệm hiệu quả hoạt động tư vấn
Hiệu quả hiểu theo nghĩa phổ thông, phổ biến trong cách nói của mọi
người là “Kết quả như yêu cầu của việc làm mang lại”.
Xét trên góc độ kinh tế thì hiệu quả được hiểu là “Mối quan hệ giữa đầu
vào các yếu tố khan hiếm với đầu ra hàng hoá và dịch vụ, có thể được đo
lường theo hiện vật gọi là hiệu quả kỹ thuật hoặc theo chi phí thì được gọi là
hiệu quả kinh tế. Khái niệm hiệu quả kinh tế được dùng như một tiêu chuẩn
để xem xét các tài nguyên được thị trường phân phối như thế nào”.
Từ khái niệm khái quát trên, có thể hình thành công thức biễu diễn khái
quát phạm trù hiệu quả kinh tế như sau:
H = K/C
Với H là hiệu quả kinh tế của một hiện tượng (quá trình kinh tế) nào đó;
K là kết quả thu được từ hiện tượng (quá trình) kinh tế đó và C là chi phí toàn
bộ để đạt được kết quả đó. Và như thế cũng có thể khái niệm ngắn gọn: hiệu
quả kinh tế phản ánh chất lượng hoạt động kinh tế và được xác định bởi tỷ số
giữa kết quả đạt được với chi phí bỏ ra để đạt được kết quả đó.
Quan điểm này đã đánh giá được tốt nhất trình độ sử dụng các nguồn lực
ở mọi điều kiện “động” của hoạt động kinh tế. Theo quan niệm như thế hoàn
toàn có thể tính toán được hiệu quả kinh tế trong sự vận động và biến đổi
không ngừng của các hoạt động kinh tế, không phụ thuộc vào quy mô và tốc
độ biến động khác nhau của chúng.
Thực chất khái niệm hiệu quả kinh tế nói chung và hiệu quả kinh tế của
hoạt động sản xuất kinh doanh nói riêng đã khẳng định bản chất của hiệu quả
kinh tế trong hoạt động sản xuất kinh doanh là phản ánh mặt chất lượng của
các hoạt động kinh doanh, phản ánh trình độ sử dụng các nguồn lực (lao
động, thiết bị máy móc, nguyên nhiên vật liệu và tiền vốn) để đạt được mục
tiêu cuối cùng của mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp –
mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận.
Từ định nghĩa về hiệu quả kinh tế đã trình bày ở trên có thể hiểu Hiệu
quả hoạt động tư vấn của CTCK là một khái niệm biểu hiện mối quan hệ giữa
các nguồn lực cho trước hữu hạn (nguồn vốn kinh doanh, nguồn nhân lực, cơ
sở vật chất…) của CTCK với chất lượng của dịch vụ đầu ra (hoạt động tư vấn
cho khách hàng). Hiệu quả hoạt động tư vấn được sử dụng làm tiêu chuẩn để
đánh giá xem CTCK đã phân bổ nguồn lực của mình tốt đến như thế nào. Khi
nói đến hiệu quả hoạt động tư vấn, chúng ta thường xem xét liệu các chuyên
viên tư vấn của CTCK có thực hiện tốt công việc tư vấn cho khách hàng hay
không, khách hàng có cảm thấy hài lòng với những lời khuyên, lời tư vấn đó
không, và điều quan trọng là hoạt động này phải đảm bảo lợi ích cho cả chủ
thể tư vấn là CTCK lẫn chủ thể được tư vấn là khách hàng.
Để có được một cái nhìn chính xác, toàn diện về hiệu quả hoạt động tư
vấn cũng như hoạt động kinh doanh của CTCK nói chung, ta cần phải dựa
vào những dữ liệu về tình hình hoạt động của công ty như bản cân đối kế
toán, báo cáo kết quả kinh doanh, báo cáo luân chuyển tiền tệ… Hiệu quả
hoạt động tư vấn của CTCK chịu tác động của rất nhiều nhân tố và được phản
ánh thông qua nhiều chỉ tiêu khác nhau.
1.2.2. Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả hoạt động tư vấn của CTCK
Doanh thu hoạt động tư vấn
Doanh thu hoạt động tư vấn cho khách hàng của CTCK là toàn bộ số tiền
mà công ty thu được khi thực hiện một hợp đồng tư vấn. Nói cách khác,
doanh thu hoạt động tư vấn chính là phí tư vấn mà CTCK phải thu phát sinh
từ hoạt động tư vấn cho khách hàng trong một thời kỳ nhất định. Mức phí tư
vấn cũng được xác định tùy thuộc vào loại hình tư vấn, ví dụ mức phí tư vấn
cho hoạt động bán đấu giá cổ phần không được vượt quá 10% chi phí cổ phần
hóa.
Khi có nhiều khách hàng tìm đến để được tư vấn, CTCK sẽ có được
nhiều hợp đồng tư vấn, doanh thu hoạt động tư vấn sẽ tăng lên. Ngược lại khi
nhu cầu được tư vấn của khách hàng là ít, số lượng hợp đồng tư vấn sẽ không
nhiều, từ đó doanh thu hoạt động tư vấn sẽ giảm xuống. Như vậy, doanh thu
hoạt động tư vấn phản ánh hiệu quả tư vấn của CTCK. Một CTCK có doanh
thu hoạt động tư vấn cao và tăng đều qua các năm thì có thể coi hoạt động tư
vấn của công ty đó là hiệu quả. Đó cũng chính là một trong những cơ sở để
tiến hành phát triển và mở rộng hoạt động tư vấn của CTCK.
Tỷ trọng doanh thu hoạt động tư vấn trong tổng doanh thu
Chỉ tiêu này được xác định bằng tỷ lệ giữa doanh thu từ hoạt động tư vấn
trên tổng doanh thu hoạt động kinh doanh của công ty. Tỷ trọng doanh thu
hoạt động tư vấn trong tổng doanh thu cho biết quy mô đóng góp của doanh
thu hoạt động tư vấn vào tổng doanh thu của CTCK. Khi doanh thu từ hoạt
động tư vấn tăng thì giá trị chỉ tiêu trên cũng tăng, phản ánh hiệu quả hoạt
động tư vấn được nâng cao. Ngược lại khi doanh thu hoạt động tư vấn giảm,
tỷ trọng giảm, hoạt động tư vấn được xem là không hiệu quả.
Lợi nhuận hoạt động tư vấn
Lợi nhuận hoạt động tư vấn được hiểu là phần chênh lệch giữa tổng số
tiền thu được từ các hợp đồng tư vấn (doanh thu hoạt động tư vấn) với chi phí
mà CTCK phải bỏ ra khi thực hiện hoạt động tư vấn.
Lợi nhuận hoạt động tư vấn tăng lên khi doanh thu hoạt động tư vấn tăng
lên hoặc chi phí giảm đi hoặc đồng thời tăng doanh thu và giảm chi phí. Tuy
nhiên do tư vấn là hoạt động sử dụng kiến thức và trình độ của đội ngũ
chuyên viên tư vấn để thực hiện tư vấn nên chi phí cho hoạt động tư vấn
thường không xác định được. Vì vậy, các CTCK thường sử dụng chỉ tiêu
doanh thu để phản ánh hiệu quả của hoạt động tư vấn hơn là chỉ tiêu lợi
nhuận, hoặc nếu sử dụng thì phải kết hợp với các chỉ tiêu khác để việc đánh
giá hiệu quả mới chính xác và khách quan.
Tỷ trọng lợi nhuận hoạt động tư vấn trong tổng lợi nhuận
Cũng như tỷ trọng doanh thu hoạt động tư vấn trong tổng doanh thu, tỷ
trọng lợi nhuận hoạt động tư vấn trong tổng lợi nhuận cũng là một tiêu chí để
đánh giá hiệu quả của hoạt động này. Một CTCK có tỷ trọng lợi nhuận hoạt
động tư vấn tăng đều qua từng thời kỳ chứng tỏ hiệu quả hoạt động tư vấn
được nâng cao và ngược lại.
Thị phần hoạt động tư vấn
Khi nghiên cứu hoạt động tư vấn của một CTCK, người ta thường đánh
giá hiệu quả của hoạt động này thông qua việc công ty có nhận được nhiều
hợp đồng tư vấn hay không, công ty có thực hiện tốt các hợp đồng đó không.
Thị phần hoạt động tư vấn có thể hiểu là hoạt động tư vấn của công ty chiếm
bao nhiêu tỷ trọng so với tổng thể trên thị trường, được biểu hiện bằng tỷ lệ
hợp đồng tư vấn mà công ty thực hiện so với tổng số hợp đồng tư vấn của
toàn bộ các CTCK. Đây cũng là một chỉ tiêu quan trọng để đánh giá hiệu quả
hoạt động tư vấn của CTCK. Thị phần hoạt động tư vấn được mở rộng, số
hợp đồng tư vấn tăng lên chứng tỏ hoạt động tư vấn của công ty là hiệu quả,
công ty là một tổ chức tư vấn đáng tin cậy nên mới có nhiều khách hàng tìm
đến để được tư vấn.
Quy trình hoạt động tư vấn
Mỗi CTCK khi thực hiện các hợp đồng tư vấn cho khách hàng đều có
quy trình riêng. Chẳng hạn khi thực hiện tư vấn, có những bước sẽ được
CTCK này thực hiện trước nhưng lại được công ty khác thực hiện sau. Bên
cạnh đó, mỗi một hoạt động tư vấn lại có một quy trình khác nhau. Quy trình
hoạt động niêm yết sẽ không thể giống với quy trình hoạt động cổ phần hóa.
Hoạt động tư vấn sẽ hiệu quả hơn khi CTCK tuân thủ một quy trình chính
xác, hợp lý, từ đó khách hàng sẽ cảm thấy thỏa mãn và đặt trọn niềm tin vào
công ty.
Tóm lại, để đánh giá một cách đầy đủ và chính xác hiệu quả hoạt động tư
vấn của CTCK phải sử dụng nhiều chỉ tiêu khác nhau. Với việc sử dụng các
nhóm chỉ tiêu này linh hoạt và logic, hiệu quả hoạt động tư vấn của CTCK sẽ
được phản ánh một cách chính xác, khách quan và đáng tin cậy.
1.3. Các nhân tố ảnh hưởng tới hiệu quả hoạt động tư vấn của CTCK
1.3.1. Nhân tố chủ quan
Có rất nhiều yếu tố nội tại tác động tới hiệu quả hoạt động của CTCK
nói chung và hoạt động tư vấn nói riêng. Tuy nhiên, khi xem xét hiệu quả
hoạt động của bất kỳ một doanh nghiệp nào ta thường đề cập đến các yếu tố
chính như vốn, nguồn nhân lực, chiến lược kinh doanh, trình độ công nghệ.
Đây là các nhân tố có ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả hoạt động tư vấn của
các CTCK.
Nguồn nhân lực
Trong bất kỳ lĩnh vực nào, nhân lực luôn là yếu tố quan trọng nhất, quyết
định đến sự thành bại của mọi hoạt động. Điều này đặc biệt càng đúng đối với
hoạt động tư vấn. Đây là hoạt động cung cấp các dịch vụ với hàm lượng tri
thức cao nên những đòi hỏi về kiến thức, trình độ chuyên môn, kinh nghiệm
và đạo đức nghề nghiệp được đặt lên hàng đầu. Do đó, đối với các CTCK có
nguồn nhân lực dồi dào, với những nhân viên đáp ứng được những yêu cầu
trên thì hoạt động tư vấn sẽ phát triển, hiệu quả được nâng cao, tạo được niềm
tin cho khách hàng. Từ đó, vị thế và uy tín của công ty sẽ được tăng lên và
dần trở thành tổ chức tư vấn hàng đầu.
Tại những TTCK mới nổi như ở Việt Nam, những chuyên gia tư vấn là
những người cần nhất nhưng lại thiếu nhất. Để trở thành nhân viên tư vấn thì
trước hết phải có giấy phép hành nghề tư vấn chứng khoán với những yêu cầu
cao hơn nhiều so với những nhân viên môi giới thông thường. TTCK không
phải là sân chơi cho những người không có kiến thức về lĩnh vực này. Tuy
nhiên, không phải ai cũng đủ trình độ hiểu và phân tích kỹ càng trước những
dữ liệu và thông tin được công bố để có thể đưa ra những quyết định chính
xác, hợp lý. Chính vì vậy họ tìm đến những nhà tư vấn, cần được tư vấn một
cách tốt nhất, hoàn hảo nhất. Mặc dù quyết định cuối cùng thuộc về họ nhưng
lời khuyên của những chuyên gia tư vấn có ảnh hưởng không nhỏ. Và một
quyết định thành công sẽ làm cho khách hàng càng tin tưởng vào vai trò của
nhà tư vấn. Cho nên việc tập trung đào tạo nguồn nhân lực luôn được các
CTCK chú trọng để nâng cao hiệu quả hoạt động tư vấn.
Chiến lược kinh doanh và định hướng phát triển của công ty
Bất kỳ doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh nào
khi được thành lập đều phải lập ra cho mình một chiến lược kinh doanh nhất
định, phù hợp với khả năng của doanh nghiệp đó và với xu thế phát triển của
thị trường. Các CTCK cũng không phải là ngoại lệ. Hầu hết các CTCK khi
mới thành lập đều tập trung vào phát triển hoạt động môi giới vì đây là hoạt
động mang lại doanh thu chủ yếu và hoạt động này tạo ra mạng lưới khách
hàng cho công ty. Tuy nhiên hiện nay các CTCK đã bắt đầu khai thác,phát
triển hoạt động tự doanh và tư vấn chứng khoán. Một công ty muốn phát triển
toàn diện không thể chỉ chuyên sâu về một mảng hoạt động thế mạnh mà xem
nhẹ, bỏ qua các hoạt động khác. Bởi vì các hoạt động của CTCK luôn có mối
liên hệ mật thiết với nhau. Hoạt động tư vấn đạt hiệu phát triển sẽ thúc đẩy
các hoạt động khác phát triển.
Chiến lược kinh doanh của CTCK đối với hoạt động tư vấn tùy thuộc
vào mục tiêu khách hàng là nhà đầu tư hay tổ chức, tùy thuộc vào loại hình tư
vấn là tư vấn tài chính hay tư vấn đầu tư và tùy thuộc vào hình thức tư vấn là
tư vấn trực tiếp, gián tiếp hay ủy quyền. Công ty sẽ xác định lợi ích thu được
và chi phí bỏ ra cho từng trường hợp cụ thể. Trên cơ sở đó CTCK xác định
được khách hàng mục tiêu phù hợp với năng lực tư vấn của mình và cơ cấu
các loại hình tư vấn sao cho đảm bảo vừa chuyên môn hóa vừa đa dạng hóa
dịch vụ tư vấn của mình. Chính vì vậy, chiến lược kinh doanh ảnh hưởng trực
tiếp tới hiệu quả hoạt động tư vấn của CTCK.
Nguồn vốn kinh doanh
Yếu tố vốn luôn là điều kiện đầu tiên được đưa ra xem xét khi thành lập
CTCK và thực hiện các nghiệp vụ kinh doanh trên thị trường. Bởi vì các
CTCK là trung gian cung cấp các dịch vụ tài chính, để tạo niềm tin nơi khách
hàng và phát triển các hoạt động một cách toàn diện thì CTCK phải có tiềm
lực tài chính dồi dào, lớn mạnh. Điều đó sẽ giúp cho CTCK đối mặt với nhiều
khó khăn từ nền kinh tế và từ những khách hàng của mình, nâng cao hiệu quả
các hoạt động của công ty.
Hoạt động tư vấn là hoạt động kinh doanh chất xám nên yêu cầu về vốn
không lớn như các hoạt động khác. Hiện nay vốn pháp định để thực hiện hoạt
động tư vấn chứng khoán tại Việt Nam chỉ là 10 tỷ đồng. Tuy nhiên CTCK
vẫn cần đầu tư vào các công cụ phục vụ cho quá trình hoạt động và xử lí dữ
liệu. Công cụ càng hiện đại, phát triển sẽ giúp cho việc phân tích xử lý dữ liệu
nhanh chóng, từ đó có thể đưa ra những lời tư vấn kịp thời, chính xác cho
khách hàng, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động tư vấn.
Cơ sở vật chất kỹ thuật, trình độ công nghệ thông tin
Ngày nay ở các nước có TTCK phát triển thì đa số các hoạt động đều
được thực hiện qua hệ thống máy móc hiện đại. Các CTCK muốn có hiệu quả
hoạt động tốt cũng cần phải ứng dụng các công nghệ hiện đại. Hoạt động tư
vấn phụ thuộc nhiều vào khối lượng thông tin mà CTCK thu thập được bởi vì
trên cơ sơ có các thông tin thì họ mới có thể tiến hành nghiên cứu, phân tích
được. Vì vậy, nhân viên tư vấn cần có các phương tiện, máy móc nhằm hỗ trợ
cho họ trong quá trình làm việc. Cho nên, điều kiện về cơ sở vật chất kỹ thuật
có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động của CTCK nói chung và hiệu quả hoạt
động tư vấn nói riêng.
Một điều chắc chắn rằng một CTCK có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại
hơn sẽ hoạt động tốt hơn không chỉ trong hoạt động tư vấn. Các CTCK có thể
tìm kiếm, tư vấn khách hàng thông qua mạng máy tính, được trang bị công
nghệ hiện đại sẽ giúp các nhân viên tư vấn tìm kiếm được nhiều khách hàng
hơn, giải quyết công việc nhanh chóng và hiệu quả hơn. Bên cạnh đó hoạt
động tư vấn có quan hệ mật thiết đối với các hoạt động khác. Vì vậy trong
CTCK cần có các trang thiết bị để liên kết các bộ phận với nhau, việc này
không chỉ có tác dụng tích cực đối với hoạt động tư vấn mà còn góp phần
nâng cao hiệu quả hoạt động chung của toàn CTCK.
1.3.2. Nhân tố khách quan
Hiệu quả hoạt động tư vấn của CTCK không chỉ bị ảnh hưởng bởi các
yếu tố nội tại của chính công ty mà còn phụ thuộc vào các nhân tố khách quan
từ bên ngoài. Các nhân tố này cũng có ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả của
hoạt động tư vấn.
Chính sách của nhà nước
Đây là nhân tố quan trọng tác động trực tiếp đến hoạt động của CTCK.
Chính sách của nhà nước không chỉ ảnh hưởng đến hoạt động tư vấn hay các
hoạt động của CTCK nói chung mà nó còn có tác động to lớn đối với mọi
ngành nghề của nền kinh tế. Một chính sách hợp lý, khả thi sẽ thúc đẩy sự
phát triển của TTCK cũng như nâng cao hiệu quả hoạt động tư vấn. Ngược
lại, một chính sách lỏng lẻo và thiếu định hướng sẽ kìm hãm sự phát triển của
thị trường, làm giảm hiệu quả hoạt động của CTCK. Các chính sách luôn có
độ trễ nhất định so với kết quả mà nó đem lại. Chính vì vậy, việc ban hành
chính sách phải được tính toán một cách kỹ lưỡng và được thực hiện chu đáo