Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

Quan hệ lượng-chất, nhân-quả và thực trạng sinh viên trước xu thế toàn cầu hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (120.17 KB, 12 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
VIỆN THƯƠNG MẠI & KINH TẾ QUỐC TẾ

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
Đề bài:
QUAN HỆ LƯỢNG - CHẤT, NHÂN - QUẢ VÀ
THỰC TRẠNG SINH VIÊN TRƯỚC
XU THẾ TỒN CẦU HĨA

Người thực hiện: NGUYỄN THỊ LAN ANH
MSV: 11190369
GVHD: TS. Lê Ngọc Thông
Lớp học phần: Triết học Mác – Lênin (219)_12
Năm học: 2019 - 2020

_____________o0o_____________
1


MỤC LỤC
- PHẦN MỞ ĐẦU ................................................................................... 3
- PHẦN NỘI DUNG ............................................................................... 4
I/ Cơ sở lý luận triết học dùng làm tiền đề lý luận cho đề tài ............... 4
1. Nguyên tắc phương pháp luận của quy luận lượng-chất ............ 4
2. Nguyên tắc phương pháp luận của mối quan hệ nguyên nhân-kết
quả ...............................................................................................
5
II/ Vận dụng nguyên lý triết học để phân tích, làm rõ thực trạng của
sinh viên trước xu thế tồn cầu hóa ................................................................ 6
1. Tồn cầu hóa và ảnh hưởng tích cực của tồn cầu hóa ................ 6
2. Ảnh hưởng của tồn cầu hóa đến thực trang sinh viên hiện nay .. 7


2.1 Ảnh hưởng tích cực .................................................................. 7
2.2 Ảnh hưởng tích cực .................................................................. 9
- PHẦN KẾT LUẬN ............................................................................. 11

TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................... 12

2


PHẦN MỞ ĐẦU
Trong đời sống hằng ngày, đằng sau các hiện tượng mn hình mn vẻ,
con người dần dần nhận thức được tính trật tự và mối liên hệ có tính lặp lại
của các hiện tượng, từ đó hình thành nên các khái niệm ‘’quy luật’’ với tư
cách là phạm trù của lý luận nhận thức, khái niệm ‘’quy luật’’ là sản phẩm của
tư duy khoa học, phản ánh sự liên hệ của các sự vật và tính chính thể của
chúng.
Các quy luật của tư nhiên, xã hội cũng như của tư duy con người đều mang
tính khách quan, con người khơng thể tạo ra hoặc tự ý xóa bỏ được quy luật
mà chie nhận thức và vận dụng nó trong thực tiễn.
Bài tiểu luận dưới đây em xin phép được trình bày rõ hơn về quan hệ của
quy luật lượng - chất, và quan hệ nhân - quả. Qua đó vận dụng ngun lý triết
học để phân tích thực trạng sinh viên nước ta hiện nay trước ảnh hưởng tích
cực và tiêu cực của xu thế tồn cầu hóa.
Bài tiểu luận này đã giúp em học hổi được nhiều trong việc rèn luyện cách
viết, cách diễn giải một só vấn đề và trau dồi khả năng tư duy trong nhiều lĩnh
vực. Song, do đây là bài tiểu luận đầu tiên nên khơng thể tránh khỏi những sai
sót về nội dung cũng như hình thức. Kính mong các thầy giáo, cơ giáo sữa
chữa và góp ý để bài tiểu luận của em có thể hồn thiện hơn.
EM XIN CHÂN THÀNH CẢM ƠN!


3


PHẦN NỘI DUNG
I/ Cơ sở lý luận triết học dùng làm tiền đề lý luận cho đề tài
1. Nguyên tắc phương pháp luận của quy luận lượng-chất
_ Muốn hiểu thấu đáo qui luật lượng- chất thì trước hết phải tìm hiểu xem
thế nào là lượng, thế nào là chất. Trong giáo trình triết học Mác- Lênin, khái
niệm về chất và lượng được dịnh nghĩa như sau: ‘’Chất là một phạm trù triết
học dùng để chỉ tính qui định khách quan vốn có của sự vật và hiện tượng, là
sự thống nhất hữu cơ của các thuộc tính làm cho nó là nó chứ khơng phải cái
khác”. Cịn ‘’Lượng là một phạm trù triết học để chỉ tính qui định vốn có của
sự vật biểu thị số lượng, qui mơ, trình độ, nhịp điệu của sự vận động và phát
triển của sự vật cũng như của các thuộc tính của nó”.
Bất kì sự vật, hiện tượng nào cũng có chất và lượng. Trong quá trình
vận động và phát triển, chất và lượng của sự vật cũng biến đổi. Sự thay đổi
của lượng và của chất không diễn ra độc lập với nhau. Trái lại, chúng có quan
hệ chặt chẽ với nhau. Nhưng khơng phải bất kì sự thay đổi nào của lượng
cũng ngay lập tức làm thay đổi căn bản chất của sự vật. Lượng của sự vật có
thể thay đổi trong một giới hạn nhất định mà không làm thay đổi căn bản chất
của sự vật đó. Vượt qua giới hạn đó sẽ làm cho vật khơng cịn là nó, chất cũ
mất đi, chất mới ra đời. ____
Khuôn khổ mà trong đó, sự thay đổi về lượng chưa làm thay đổi về chất
của sự vật được gọi là độ. “Độ là một phạm trù triết học dùng để chỉ sự thống
nhất giữa lượng và chất, nó là khoảng giới hạn, mà trong đó, sự thay đổi về
lượng chưa làm thay đổi căn bản về chất của sự vật .”
Những điểm giới hạn mà tại đó sự thay đổi về lượng sẽ làm thay đổi
chất của sự vật được gọi là điểm nút.
Sự thay đổi về lượng khi đạt tới điểm nút sẽ dẫn đến sự ra đời chất mới.
Sự thống nhất giữa lượng và chất mới tạo thành một độ mới với điểm nút

mới. Vì vậy, có thể hình dung sự phát triển dưới dạng một đường nút của
những quan hệ về độ.
_ Sự thay đổi về chất do những thay đổi về lượng trước đó gây ra gọi là
bước nhảy. Nói cách khác, bước nhảy là một phạm trù triết học dùng để chỉ
giai đoạn chuyển hoá về chất của sự vật do những thay đổi về chất trước đó
gây ra.
Sự thay đổi về chất là kết quả của sự thay đổi về lượng khi đạt tới điểm
nút. Sau khi ra đời, chất mới có thể tác động trở lại sự thay đổi của lượng.
Chất mới có thể làm thay đổi quy mô tồn tại của sự vật, làm thay đổi nhịp
điệu của sự vận động và phát triển của sự vật đó.
Bởi vì chất và lượng là hai mạt đối lập vốn có trong lịng sự vật hiện
tượng. Chất thì tương đối ổn định cịn lượng thì thường xuyên biến đổi. Sự
thay đổi của lượng đến một lúc nào đó thì đối lập với chất cũ, bị chất cũ kìm
hãm, nó địi hỏi phải phá bỏ độ cũ mở ra một độ mới để mở đường cho lượng
4


thay đổi. Khi chất cũ bị phá bỏ, chất mới được thiết lập lại tạo ra sự thống
nhất giữa chất và lượng.
Quy luật lượng chất được phát biểu như sau: “Bất kì sự vật nào
cũng là sự thống nhất giữa chất và lượng, sự thay đổi dần dần về lượng vượt
quá giới hạn của độ sẽ dẫn tới thay đổi căn bản về chất của sự vật thông qua
bước nhảy; chất mới ra đời sẽ tác động trở lại sự thay đổi của lượng.
Xuất phát từ những điều trên, trong hoạt động nhận thức và hoạt động
thực tiễn đòi hỏi phải quan tâm đến q trình tích luỹ về lượng bởi vì khơng
có q trình này thì khơng có sự thay đổi căn bản về chất. Sự vật cũng không
thể mất đi, cái mới tiến bộ hơn không thể ra đời thay thế.
Khi chất mới ra đời thì phải biết xác định quy mô tốc độ phát triển mới
về lượng cho phù hợp, không được thoả mãn dừng lại. _
Phải chống lại quan điểm tả khuynh và hữu khuynh. Tả khuynh là quan

điểm coi thường tích luỹ về lượng. Cịn hữu khuynh là khi lượng thay đổi đã
chín muồi cần phải có sự thay đổi về chất lại khơng dám thực hiện bước thay
đôỉ về chất. Cả hai quan điểm đó đều là quan điểm sai lầm.
Một ví dụ về quan hệ lượng chất phù hợp với bản thân em hiện nay là
việc luyện nghe Tiếng Anh. Khi ta luyện tập nghe hằng ngày, khi đã tích đủ
một lượng nhất định, điều này cứ lặp đi lặp lại liên tục thì tất nhiên là kĩ năng
nghe trong tiếng anh của chúng ta sẽ được cải thiện rõ rệt hơn. Khi ấy có sự
hình thành nên chất.
2. Ngun tắc phương pháp luận của mối quan hệ nguyên nhân-kết quả
Nguyên nhân là cái sinh ra kết quả. Do đó, nguyên nhân bao giờ cũng
có trước kết quả. Cịn kết quả bao giờ cũng xuất hiện sau khi nguyên nhân đã
xuất hiện.
Song không phải mọi sự việc nối tiếp trong thời gian của các hiện
tượng đều là biều hiện của mối quan hệ nhân quả.
Trong hiện thực mối liên hệ nhân- quả biểu hiện rất phức tạp.
Một kết quả thông thường không phải do một nguyên nhân và một nguyên
nhân có thể sản sinh ra nhiều kết quả. Khi các nguyên nhân tác động cùng
chiều, cùng hướng, cùng một lúc lên sự vật thì chúng sẽ gây lên ảnh hưởng
cùng chiều tới sự hình thành kết quả và ngược lại.
Trong sợi dây chuyền vơ tận của sự vận động vật chất, khơng có hiện
tượng nào được coi là nguyên nhân đầu tiên và cũng khơng có kết quả nào
được xem là kết quả cuối cùng. Trong mối quan hệ này, sự vật nào đó được
coi là ngun nhân thì trong sự việc khác, nó lại được coi là kết quả và ngược
lại.
Nguyên nhân sản sinh ra kết quả. Nhưng sau khi xuất hiện, kết quả
khơng giữ vai trị thụ động đối với ngun nhân. Trái lại, nó tác động lại
nguyên nhân theo hai chiều hướng hoặc tích cực hoặc tiêu cực.
Mối liên hệ nhân – quả có tính khách quan. Khơng có sự vật hiện tượng
nào tồn tại mà khơng có ngun nhân. Do đó, nhiệm vụ của nhận thức khoa
5



học là phải khám phá ra nguyên nhân. Bởi vì có biết nguyên nhân, chúng ta
mới có thể định hướng cho sự phát triển tiếp sau.
Một sự vật hiện tượng có thể do nhiều nguyên nhân sinh ra. Mỗi
nguyên nhân có vị trí khác nhau trong việc hình thành kết quả. Vì vậy, ta cần
phải phân loại các nguyên nhân đồng thời phải nắm được những nguyên nhân
phát triển cùng chiều để tạo ra sức mạnh tổng hợp và hạn chế những nguyên
nhân ngược chiều.
Nguyên nhân sinh ra kết quả nhưng sau khi kết quả xuất hiện thì nó
lại tác động trở lại ngun nhân sinh ra nó. Vì vậy, phải biết khai thác tận
dụng các kết quả đã đạt được để nâng cao nhận thức để thúc đẩy sự vật phát
triển.
II/ Vận dụng nguyên lý triết học để phân tích, làm rõ thực trạng của sinh
viên trước xu thế tồn cầu hóa
1. Tồn cầu hóa và ảnh hưởng tích cực của tồn cầu hóa
Tồn cầu hố (globalization) là khái niệm ra đời từ những năm 80 của
thế kỷ XX, dùng để chỉ quá trình tăng lên mạnh mẽ những mối liên hệ, ảnh
hưởng, tác động và phụ thuộc lẫn nhau của tất cả các quốc gia, dân tộc trên
thế giới, làm biến đổi các quan hệ thế giới, từ đó nảy sinh những sự kiện mới.
Tồn cầu hố là bước phát triển mới về chất của quốc tế hoá- một khái niệm
đã có từ trước đó.
Nếu như trước đây, quốc tế hoá được chi phối và thúc đẩy bởi cuộc cách
mạng cơng nghiệp, thì giờ đây, với tồn cầu hố là cuộc cách mạng khoa học cơng nghệ, với sự ra đời của một loạt ngành mới (công nghệ thông tin, công
nghệ sinh học, vật liệu mới...) đã tác động mạnh mẽ đến các lĩnh vực khác.
Trong quá trình tồn cầu hố, mỗi quốc gia, dân tộc chỉ có thể tồn tại và phát
triển khi hồ mình trong cộng đồng thế giới, trở thành một mắt xích trong sợi
dây chuyền của nền kinh tế thế giới. Nhìn chung, tồn cầu hố có những điểm
tích cực sau:
- Thúc đẩy sự phát triển xã hội và q trình xã hội hố lực lượng sản

xuất, tạo sự tăng trưởng kinh tế cao ở nhiều khu vực, tái cơ cấu nền
kinh tế thế giới.
- Truyền bá, chuyển giao trên quy mô ngày càng lớn những thành quả,
những phát minh sáng tạo mới về khoa học - công nghệ và tổ chức
quản lý, đưa thông tin đến từng quốc gia, từng cá nhân một cách nhanh
chóng và đa dạng.
- Tạo khả năng phát triển rút ngắn, mang lại nguồn lực quan trọng cho sự
phát triển, đặc biệt là với các nước đang phát triển.
- Tạo điều kiện cho sự hiểu biết lẫn nhau giữa các dân tộc và quốc gia.
Nhưng, bên cạnh mặt tích cực, tồn cầu hố cũng có mặt tiêu cực:
- Làm trầm trọng thêm sự bất công xã hội, đào sâu thêm hố ngăn cách
giàu nghèo giữa các nước, các khu vực.
6


- Cuộc sống của con người trở nên kém an toàn hơn: nguy cơ xảy ra các
cuộc khủng hoảng dây chuyền trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn
hố, xã hội; các bí mật thơng tin và đời tư bị xâm phạm.
- Thu hẹp phạm vi và hiệu qủa của quyền lực, của nhà nước dân tộc, ảnh
hưởng đến bản sắc dân tộc.
Chính vì thế, hiện nay đang dấy lên phong trào phản đối tồn cầu hố ở
cả các nước đang phát triển lẫn các nước phát triển.
Bên cạnh đó, cịn có ý kiến cho rằng, về một phương diện nào đó, tồn cầu
hố tức là Mỹ hố. Vì thế, chủ nghĩa bài phương Tây, tập trung là bài Mỹ,
đang có xu hướng gia tăng ở các nước. Chuẩn mực Mỹ về tự do, nhân quyền
đang bị nhiều nước xem xét lại và thậm chí lên án, đặc biệt là tại các nước
châu Á, khi Mỹ cố tình áp đặt chuẩn mực của mình lên khu vực này. Điều đó
dẫn tới việc xuất hiện xu hướng khu vực hố, bảo vệ bản sắc dân tộc như là
một sự phản ứng lại tồn cầu hố.
Từ năm 1986, Việt Nam chính thức bước vào thời kỳ đổi mới, xoá bỏ

chế độ bao cấp và chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa. Một nền kinh tế mở đang ngày càng đặt dần những bước chân mạnh
mẽ vào q trình tồn cầu hố và hội nhập quốc tế và đã bộc lộ tính hai mặt
(tích cực lẫn tiêu cực), tác động đến các giá trị tinh thần, đặc biệt là giá trị đạo
đức của con người trong nền kinh tế chuyển đổi.
2. Ảnh hưởng của tồn cầu hóa đến thực trang sinh viên hiện nay
2.1. Ảnh hưởng tích cực
Chúng ta có thể thấy rằng, giới trẻ, trong đó có sinh viên, những người
sinh ra và lớn lên trong thời kỳ đổi mới, là đối tượng nhạy cảm nhất trước
những biến đổi vơ cùng nhanh chóng của đất nước ta và thế giới. Họ trước hết
mang đầy đủ những đặc điểm chung của con người. Nhưng bên cạnh đó, họ
còn mang những đặc điểm riêng: trẻ (chú ý ngoại lệ: đang xuất hiện một số
sinh viên đứng tuổi), có tri thức, dễ tiếp thu cái mới, nhạy cảm với các vấn đề
chính trị- xã hội, theo học tập trung tại các trường đại học và cao đẳng
(thường ở các đô thị) nên sinh hoạt trong một cộng đồng với những quan hệ
khá gần gũi (trường, lớp). Với những đặc điểm trẻ tuổi, có trình độ và năng
lực sáng tạo, khả năng tiếp nhận cái mới nhanh và linh hoạt, thích nghi kịp
thời với sự thay đổi nhanh chóng của xã hội hiện đại, nên tồn cầu hố đã tác
động khơng nhỏ tới đối tượng này. Nhìn chung, sự tác động này mang tính hai
mặt: tích cực và tiêu cực.
Một trong những tác động tích cực nổi bật nhất của tồn cầu hố cùng
với ý thức đề cao tính cá nhân, là việc soi chiếu các giá trị đạo đức dưới góc
độ cá nhân, phẩm chất cá nhân. Tính cá nhân được coi như một trong những
thước đo của hành động, đạo đức hay phi đạo đức chỉ phụ thuộc một phần vào
di sản tinh thần mà cộng đồng trước để lại, còn chủ yếu phụ thuộc vào mỗi cá
nhân tạo thành cộng đồng mới hôm nay. Quan điểm đạo đức xuất phát từ
thước đo cá nhân này là một sức mạnh lớn trong quá trình ly khai với những
7



quan điểm đạo đức truyền thống khơng cịn phù hợp trong thời kỳ mới. Tự ý
thức cá nhân, ít chịu ảnh hưởng bởi dư luận như trước, đã tạo điều kiện phát
huy sức sáng tạo cá nhân làm cho cá nhân chủ động và nhanh chóng tiếp cận
với những cái mới trong khoa học, kỹ thuật và công nghệ, chịu khó học hỏi
kiến thức phục vụ cho nghề nghiệp và công việc. Thực ra, việc để lại đằng sau
bước đi của chúng ta những di sản quá khứ đã lỗi thời khơng phải là chuyện
đơn giản, vì nó đã ăn sâu vào ý thức cộng đồng qua một thời gian khá dài.
Chính xu hướng tồn cầu hố là chất xúc tác, là đòn bẩy và cũng là yêu cầu
của việc rời bỏ triệt để những mảnh quá khứ đã lỗi thời một cách nhẹ nhàng,
thanh thản. Làm được điều đó một cách triệt để nhất, rõ ràng nhất, không ai
khác ngồi sinh viên - đối tượng trẻ có tri thức, lớn lên trong mơi trường mới,
có điều kiện rời bỏ quá khứ một cách ít luyến tiếc hơn cả. Đây là đối tượng
mà sự liên hệ với truyền thống chưa thật sự sâu đậm nên dễ dàng để những
giá trị truyền thống lỗi thời lại đằng sau để tiếp thu cái mới, chấp nhận những
giá trị mới trong một môi trường năng động liên tục.
Tác động tích cực tiếp theo của tồn cầu hố đối với đạo đức sinh viên là
tạo ra sự đồng nhất tương đối giữa quan niệm đạo đức và quy tắc ứng xử của
một cộng đồng (ở đây là sinh viên Việt Nam) với các quan niệm đạo đức và
quy tắc ứng xử chung mang tính quốc tế. Như đã phân tích ở trên, với đặc
điểm cơ bản là trẻ, có tri thức và dễ tiếp thu cái mới, lại được trang bị ngoại
ngữ, tin học, với sự hỗ trợ của các phương tiện thông tin hiện đại và việc mở
rộng, đa dạng hóa tiến trình giao lưu quốc tế, sinh viên ngày nay đã hoà kịp
vào dịng chảy mới trong qúa trình hội nhập. Điều đó tạo ra sự xích lại gần
nhau các giá trị đạo đức trong một tinh thần cảm thông và cởi mở. Có thể thấy
những biểu hiện này trong các quan niệm đạo đức có liên quan đến các lĩnh
vực đặc trưng của tuổi trẻ, như tình bạn, tình yêu... Các quan niệm đạo đức
của sinh viên Việt Nam, bên cạnh cái riêng của mình, đang xuất hiện những
cái chung hồ nhập cùng thế giới, mở ra những cơ hội giao lưu, học hỏi. Có
thể dự đốn về một xu hướng đạo đức được quốc tế hoá, vừa trên cơ sở thống
nhất những quy tắc đạo đức chung của con người, vừa giữ được truyền thống

tốt đẹp của dân tộc nói chung, đạo đức sinh viên Việt Nam nói riêng.
Những quan niệm về tốt, xấu, cơng bằng, bình đẳng... cũng đang có sự
dịch chuyển nhất định. Những dịch chuyển này đã giải phóng về mặt tư
tưởng, quan niệm trước những giá trị đạo đức lỗi thời, hướng sinh viên đến sự
chuẩn bị cho những hành động có tính hiệu quả sau này khi gia nhập vào thị
trường nhân lực. Những quy tắc ứng xử của sinh viên vì thế cũng biến đổi,
các nguyên tắc thiết thực, hiệu qủa, phù hợp với yêu cầu mới của thời đại
công nghiệp được họ hướng tới. Những rào cản đạo đức nào khơng cịn phù
hợp trong việc điều chỉnh hành vi sẽ bị vượt qua, thể hiện khá rõ nét ở sinh
viên.
2.2. Ảnh hưởng tích cực
Nhưng điều đáng chú ý là vẫn với những yếu tố tác động có tính tích cực
ở trên, thì cũng chính những yếu tố này, một bộ phận sinh viên đã đẩy lên
8


quá cao, đến mức lệch chuẩn, nghiêng sang khía cạnh tiêu cực. Chính ở nơi
đây thể hiện sự mâu thuẫn biện chứng trong ý thức đạo đức của đối tượng
này: tác động hai chiều thuận và nghịch của cùng một yếu tố.
Tác động tiêu cực rõ nét nhất là biểu hiện thực dụng trong quan niệm đạo
đức và hành vi ứng xử ở một bộ phận không nhỏ sinh viên hơm nay. Trào lưu
dân chủ hố, làn sóng cơng nghệ thơng tin và việc nâng cao dân trí đã làm ý
thức cá nhân được tăng lên, đặc biệt trong những người trẻ có học vấn là sinh
viên. Họ ý thức cao về bản thân mình và muốn thể hiện vai trò cá nhân. Tuy
nhiên, cái cá nhân nhiều khi lấn át cái cộng đồng, họ coi lợi ích cá nhân quan
trọng hơn tất cả. Một sinh viên kinh tế trong một phỏng vấn sâu đã cho rằng,
kinh doanh là hoạt động đem lại lợi nhuận cho mình bằng bất cứ giá nào và
không cần đếm xỉa đến vấn đề đạo đức.
Một biểu hiện khá điển hình của tiêu cực này, đến mức tạo nên một tiêu
cực thứ hai, là đang hình thành một thái độ bàng quan đối với những người

xung quanh, cho dù các phong trào tình nguyện gần đây được phát động khá
rầm rộ trong sinh viên, nhằm giáo dục và tuyên truyền tinh thần vì cộng đồng.
Sự hy sinh và quan tâm đến người khác ở họ thấp đi, và nếu có thì thường
được đánh giá dưới góc độ kinh tế thực dụng hơn là tình cảm và sự chia sẻ.
Hy sinh và quan tâm đến người khác, khơng gì ngồi vấn đề là việc làm đó sẽ
đưa lại lợi ích gì cho chính mình. ?
Tác động tiêu cực tiếp theo là, cùng với sự du nhập lối sống và sản phẩm
công nghệ hiện đại từ các nước phát triển, đã dần dần làm khơng ít sinh viên
xa rời các giá trị đạo đức truyền thống tốt đẹp vốn vẫn đang phù hợp với thời
kỳ hiện đại. Hình thành tư tưởng hưởng thụ, ăn chơi, đua địi, chịu tác động
của tệ nạn xã hội, dễ bị dao động về mặt định hướng đạo đức và lối sống
trong bối cảnh một nền kinh tế- xã hội mở cửa. Các quan niệm đạo đức trong
một bộ phận sinh viên đang bị lệch chuẩn, đặc biệt có quan niệm cho rằng,
đạo đức và lợi ích cá nhân là hồn tồn đồng nhất trong mọi lúc, ở mọi nơi.
Cũng như vậy, với sự phát triển của thông tin, sự hỗ trợ của công nghệ
cao đang làm giảm giá thành và tăng tốc độ đường truyền, đã làm Internet trở
nên phổ biến, nhiều bạn trẻ lên mạng sử dụng tiện ích chat như một thú tiêu
khiển hơn là phương tiện liên lạc. Với mơi trường giao tiếp ảo này, người ta
có thể ảo hố những thơng tin cá nhân (tên, tuổi, giới tính, địa phương cư trú,
hình dáng...) và dễ dàng đi đến chỗ cung cấp thông tin giả. Sự dối lừa trên
mạng được coi là một trị chơi. Nếu như nó chỉ dừng lại ở đó thì khơng có gì
nghiêm trọng, nhưng cái đáng lưu tâm là ở chỗ, từ trò chơi - một lĩnh vực cụ
thể, nó dần ảnh hưởng sang quan niệm về đạo đức nói chung, và ảnh hưởng
đến cả các lĩnh vực khác. Gần đây, tác động tiêu cực của mơi trường ảo đã
hiện thực hố qua một số vụ xung đột trong các chatter ngoài đời.
Sự dối lừa được coi là chuyện bình thường. Khi quan sát, có thể thấy một
biểu hiện đáng buồn là nhiều sinh viên không cho rằng việc sao chép tài liệu,
ăn cắp ý tưởng trong quá trình làm bài thi, viết tiểu luận và khoá luận là một
hành vi phi đạo đức. Nhiều sinh viên đi thuê làm khoá luận, đồ án tốt nghiệp,
9



hoặc đi thi hộ trong kỳ thi tuyển sinh vào đại học và cao đẳng. Hiện tượng
mua bằng, bán điểm khơng cịn là chuyện hiếm thấy. Điều đáng lo ngại là
nhiều sinh viên bộc lộ thái độ coi đó là chuyện bình thường, khơng liên quan
đến đạo đức. Trong khi đó, ở các nước phát triển, lừa dối là hành vi bị lên án
rất mạnh trong môi trường học đường.
Sự lạnh lùng trong các mối quan hệ tình cảm - vốn rất được đề cao trong
đạo đức của người phương Đông, đang ngày càng lan rộng trong sinh viên.
Không thể không đáng suy nghĩ với lời một bài hát như thế này: “Tình u
đến em khơng mong đợi gì, tình u đi em khơng hề hối tiếc”. Nó như một
tun ngôn cho lối sống lạnh lùng, vô cảm, thiếu hụt những đam mê và khát
vọng vốn là tài sản quý báu của tuổi trẻ.
Bên cạnh đó, trong nhiều sinh viên, xuất hiện thái độ đòi hỏi hơn là sự
hy sinh, ước muốn hưởng thụ nhiều hơn đóng góp, ít chú ý đến nghĩa vụ và
trách nhiệm cơng dân…
Như vậy, có thể nói, tồn cầu hố là một làn sóng vơ cùng mạnh mẽ kéo theo
tất cả mọi quốc gia, mọi dân tộc, mọi gia đình và cá nhân vào cuộc. Khơng
một ai, khơng một quốc gia nào có thể đứng ngoài. Sinh viên Việt Nam là một
trong những đối tượng chịu ảnh hưởng khá mạnh của xu thế toàn cầu hóa. Họ
là nguồn nhân lực đầy sức mạnh, trẻ và có tri thức, có khả năng tiếp cận
nhanh chóng với cái mới và thay đổi linh hoạt - những tố chất rất cần thiết
cho một thời kỳ phát triển mới. Vì vậy, việc phát huy tính tích cực và điều
chỉnh những hành vi lệch lạc trong ý thức đạo đức của sinh viên, có tác dụng
vơ cùng to lớn trong việc phát triển và sử dụng nguồn lực quý này. Khẳng
định điều này, tại Đại hội IX, Đảng ta đã chỉ rõ, việc chăm lo giáo dục, bồi
dưỡng, đào tạo, phát triển tồn diện về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống,
văn hoá, sức khoẻ, nghề nghiệp cho thế hệ trẻ Việt Nam hơm nay để đội ngũ
này có điều kiện phát triển tài năng và sức sáng tạo, phát huy vai trị xung
kích trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc là trách nhiệm của cả hệ

thống chính trị và tồn xã hội

10


PHẦN KẾT LUẬN
Như vậy, lượng và chất là hai mặt thống nhất biện chứng của sự vật, chỉ
khi nào lượng được tích lũy tới một độ nhất định mới làm thay đổi về chất,
nên trong chỉ đạo hoạt động thực tiễn cũng như trong nhận thức khoa học phải
chú ý tích lũy dần dần những thay đổi về lượng, đồng thời phải biết thực hiện
và thực hiện kịp thời những bước nhảy khi có điều kiện chín muối.
Mối quan hệ biện chứng giữa nguyên nhân và kết quả là những cơ sở lý
luận rất quan trọng giúp cho chúng ta rút ra những bài học kinh nghiệmtrong
quá trình hoạt động thực tiễn. Những hoạt động thực tiễn là cơ sở để cho
chúng ta nhận thức được về đặc trưng của mối quan hệ nhân - quả và những
đặc trưng này với tư cách là thành quả của nhận thức lại sẽ tiếp tục chỉ đạo
cho con người trong hoạt động thực tiễn để có thể gặt hái được những thành
cơng to lớn hơn. Vì vậy, trong những câu ngạn ngữ chúng ta cũng bắt gặp
được sự tổng kết của cha ông ta về quan hệ nhân - quả là rất nhiều. Ví dụ:
“Mưa dầm thấm lâu, cày sâu tốt lúa”, “Ác giả ác báo”, …
Trong bài tiểu lận trên, em cũng trình bày ảnh hưởng của tồn cầu hóa
đến thực trạng sinh viên hiện nay. Có cả những tác động tích cực lẫn tác động
tiêu cực. Bản thân mỗi sinh viên hiện nay cần có những nhận thức đúng đắn
về mọi sự việc diễn ra trong cuộc sống, từ đó rút ra những bài học đúng đắn
cho bản thân giúp bản thân mình phát triển tốt hơn và trở thành người có ích
cho xã hội sau này.

11



TÀI LIỆU THAM KHẢO
 Giáo trình triết học Mác-Lênin, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia – Hà Nội,
2005.
 Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX. Nxb Chính trị Quốc gia,
Hà Nội, 2001, tr.126.

12



×