Tải bản đầy đủ (.docx) (13 trang)

Bài tập lớn Lịch sử Đảng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (686.45 KB, 13 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
-------***-------

BÀI TẬP LỚN MÔN LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG
SẢN VIỆT NAM
ĐỀ BÀI: Vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản trong sự nghiệp
giải phóng dân tộc 1930-1945.

Họ và tên SV: Nguyễn Mai Linh
Lớp học phần : 07
Mã SV: 11192917

GVHD: Nguyễn Thị Thắm

......................................................................................
HÀ NỘI, NĂM 2021

1


Mục lục:

A- Phần mở đầu…………………………………………………………………. 1
B- Phần nội dung………………………………………………………………………... 2
1. Tình hình Việt Nam và các phong trào yêu nước trước khi có Đảng……….2
2. Thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (3/2/1930)……………………………..2
3. Đảng lãnh đạo các phong trào giải phóng dân tộc (1930 -1945)…………….4
3.1. Đảng ta đã tổ chức và lãnh đạo cao trào cách mạng 1930- 1931, mà đỉnh
cao là Xơ Viết -Nghệ Tĩnh…………………………………………………………4
3.2.Cao trào đấu tranh địi dân sinh, dân chủ 1936-1939………………………..5
3.3. Cách mạng tháng 8/1945……………………………………………………6


C- Kết luận……………………………………………………………………….10

* Tài liệu tham khảo
…………………………………………………………………………………….11


A – PHẦN MỞ ĐẦU
Điều 4 Hiến pháp nước Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (năm 2013) có
ghi: “Đảng Cộng sản Việt Nam - Đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời
là đội tiên phong của Nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung
thành lợi ích của giai cấp cơng nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, lấy chủ
nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, là lực lượng
lãnh đạo Nhà nước và xã hội…”. Trong chặng đường giải phóng dân tộc Việt Nam
khỏi áp bức bóc lột của chủ nghĩa thực dân, ta khơng thể phủ nhận vai trị lãnh đạo
to lớn của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đặc biệt trong giai đoạn từ 1930-1945, từ khi
ra đời Đảng đã có những dấu ấn rất quan trọng giúp nhân dân ta từ một nước với
chế độ nửa thuộc địa nửa phong kiến dám đứng lên giành chính quyền về tay nhân
dân và thành lập nhà nước công-nông đầu tiên ở Đông Nam Á. Ngày 3/2/1930,
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, đánh dấu bước ngoặt vô cùng quan trọng trong
lịch sử cách mạng Việt Nam. Trải qua hơn 90 năm xây dựng và trưởng thành, lấy
chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, Đảng đã
lãnh đạo nhân dân ta giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vượt
qua muôn vàn khó khăn, thử thách, làm nên những thành tựu vĩ đại trong lịch sử
dựng nước và giữ nước của dân tộc.

1


B – PHẦN NỘI DUNG
1. Tình hình Việt Nam và các phong trào yêu nước trước khi có Đảng:

Trước năm 1930 khi chưa có Đảng, đất nước ta chìm trong ách thống trị, áp
bức hơn 80 năm của chủ nghĩa thực dân Pháp và hàng trăm năm của chế độ phong
kiến thối nát. Mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp và
phong kiến phản động trở thành mâu thuẫn chủ yếu nhất và ngày càng gay gắt.
Trong bối cảnh đó, những luồng tư tưởng ở bên ngoài: tư tưởng Cách mạng tư sản
Pháp 1789, phong trào Duy tân Nhật Bản năm 1868, cuộc vận động Duy tân tại
Trung Quốc năm 1898, Cách mạng Tân Hợi của Trung Quốc năm 1911…, đặc biệt
là Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 đã tác động mạnh mẽ, làm chuyển biến
phong trào yêu nước những năm cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Các phong trào
chống thực dân Pháp theo ngọn cờ phong kiến, ngọn cờ dân chủ tư sản của nhân
dân Việt Nam đã diễn ra quyết liệt, liên tục và rộng khắp cả ba miền Bắc, Trung,
Nam. Dù với nhiều cách thức tiến hành khác nhau, song đều hướng tới mục tiêu
đánh đổ chế độ thuộc địa, giành độc lập cho dân tộc. Tuy nhiên, “các phong trào
cứu nước từ lập trường Cần Vương đến lập trường tư sản, tiểu tư sản qua khảo
nghiệm lịch sử đều lần lượt thất bại” . Nguyên nhân thất bại của các phong trào đó
là do thiếu đường lối chính trị đúng đắn để giải quyết triệt để những mâu thuẫn cơ
bản, chủ yếu của xã hội, chưa có một tổ chức vững mạnh để tập hợp, giác ngộ và
lãnh đạo toàn dân tộc, chưa xác định được phương pháp đấu tranh thích hợp để
đánh đổ kẻ thù. Nhiệm vụ lịch sử cấp thiết đặt ra cho thế hệ yêu nước đương thời là
cần phải có một tổ chức cách mạng tiên phong, có đường lối cứu nước đúng đắn để
giải phóng dân tộc.
2. Thành lập Đảng Cộng Sản Việt Nam (3/2/1930)
Trước yêu cầu cấp thiết giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam, với nhiệt
huyết cứu nước, với nhãn quan chính trị sắc bén, vượt lên trên hạn chế của các bậc
2


yêu nước đương thời, năm 1911, Nguyễn Tất Thành quyết định ra đi tìm đường
cứu nước, giải phóng dân tộc. Người nhận thấy ở đâu bọn đế quốc, thực dân cũng
tàn bạo, độc ác, ở đâu những người lao động cũng bị áp bức, bóc lột dã man. Giữa

tháng 7/1920, khi đọc Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và
vấn đề thuộc địa của V.I. Lênin, Nguyễn Ái Quốc khẳng định: “Đây là cái cần thiết
cho chúng ta. Đây là con đường giải phóng cho chúng ta”. Người đã tìm ra con
đường cứu nước đúng đắn đó là con đường cách mạng vơ sản - con đường kết hợp
độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội, kết hợp tinh thần yêu nước với tinh thần quốc
tế vô sản. Với sự nỗ lực cố gắng truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào phong trào
yêu nước Việt Nam của Nguyễn Ái Quốc và những hoạt động tích cực của các cấp
bộ trong tổ chức Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên trên cả nước đã có tác dụng
thúc đẩy phong trào yêu nước Việt Nam theo khuynh hướng cách mạng vô sản,
nâng cao ý thức giác ngộ và lập trường cách mạng của giai cấp công nhân. Lần
lượt ở 3 miền Bắc, Trung, Nam đã thành lập các Đảng với mục đích lãnh đạo cách
mạng Việt Nam: Ngày 17-6-1929, đại biểu của các tổ chức cộng sản ở Bắc Kỳ
quyết định thành lập Đông Dương Cộng sản đảng. Tháng 11-1929 ở Nam Kỳ, An
Nam Cộng sản đảng được thành lập. Tháng 9-1929, những người tiên tiến trong
Tân Việt Cách mạng đảng họp bàn việc thành lập Đơng Dương Cộng sản Liên
đồn. Sự ra đời ba tổ chức cộng sản trên cả nước diễn ra trong vòng nửa cuối năm
1929 đã khẳng định bước phát triển về chất của phong trào yêu nước Việt Nam
theo khuynh hướng cách mạng vô sản, phù hợp với xu thế và nhu cầu bức thiết của
lịch sử Việt Nam. Tuy nhiên, sự ra đời ba tổ chức cộng sản ở ba miền đều tuyên bố
ủng hộ Quốc tế Cộng sản, đều tự nhận là đảng cách mạng chân chính, khơng tránh
khỏi phân tán về lực lượng và thiếu thống nhất về tổ chức trên cả nước.
Sự chuyển biến mạnh mẽ các phong trào đấu tranh của các tầng lớp nhân dân
ngày càng lên cao, nhu cầu thành lập một chính đảng cách mạng có đủ khả năng
tập hợp lực lượng tồn dân tộc và đảm nhiệm vai trò lãnh đạo sự nghiệp giải phóng
3


dân tộc ngày càng trở nên bức thiết đối với cách mạng Việt Nam lúc bấy giờ. Từ
ngày 6-l đến ngày 7-2-1930, Hội nghị hợp nhất ba tổ chức cộng sản họp tại bán
đảo Cửu Long (Hương Cảng, Trung Quốc) dưới sự chủ trì của đồng chí Nguyễn Ái

Quốc nhất trí thành lập một đảng thống nhất, lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam;
thông qua Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt, Điều lệ
vắn tắt của Đảng. Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản Việt Nam mang tầm vóc
lịch sử như là Đại hội thành lập Đảng. Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập là
kết quả của cuộc đấu tranh giai cấp và đấu tranh dân tộc ở nước ta trong những
năm đầu thế kỷ XX; là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với phong
trào công nhân và phong trào yêu nước; là kết quả của quá trình lựa chọn, sàng lọc
nghiêm khắc của lịch sử và của q trình chuẩn bị đầy đủ về chính trị, tư tưởng và
tổ chức của một tập thể chiến sĩ cách mạng, đứng đầu là đồng chí Nguyễn Ái
Quốc. Đó là một mốc lớn, bước ngoặt trọng đại trong lịch sử cách mạng Việt Nam,
chấm dứt thời kỳ khủng hoảng về đường lối cứu nước. Chánh cương vắn tắt, Sách
lược vắn tắt do Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc khởi thảo, được Hội nghị thành lập Đảng
Cộng sản Việt Nam thông qua đã xác định: cách mạng Việt Nam phải tiến hành
cách mạng giải phóng dân tộc tiến lên chủ nghĩa xã hội. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
khẳng định: “Việc thành lập Đảng là một bước ngoặt vô cùng quan trọng trong lịch
sử cách mạng Việt Nam ta. Nó chứng tỏ rằng giai cấp vô sản ta đã trưởng thành và
đủ sức lãnh đạo cách mạng”. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là một bước ngoặt vĩ
đại trong lịch sử phát triển của dân tộc Việt Nam, trở thành nhân tố hàng đầu quyết
định đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
3. Đảng lãnh đạo các phong trào giải phóng dân tộc (1930-1945)
Trong giai đoạn này, Đảng đã có những đường lối đúng đắn để dẫn dắt dân tộc
Việt Nam tự mình đứng lên giải phóng khỏi áp bức, bất cơng.
3.1. Đảng ta đã tổ chức và lãnh đạo cao trào cách mạng 1930- 1931, mà
đỉnh cao là Xô Viết -Nghệ Tĩnh.
4


Cuộc khủng hoảng kinh tế 1929-1933 đã thúc đẩy thực dân Pháp tăng cường
cấu kết với thế lực phong kiến thuộc địa ra sức bóc lột nhân dân Việt Nam và đẩy
đời sống của toàn thể nhân dân lâm vào tình trạng cùng cực. Giữa lúc đó Đảng

Cộng sản Việt Nam ra đời với hệ thống tổ chức thống nhất và cương lĩnh chính trị
đúng đắn, nắm quyền lãnh đạo duy nhất đối với cách mạng Việt Nam, “lãnh đạo
ngay một cuộc đấu tranh kịch liệt chống thực dân Pháp”. Ở vùng nông thôn hai
tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh, nổ ra nhiều cuộc biểu tình lớn của nơng dân. Trước sức
mạnh của quần chúng, bộ máy chính quyền của đế quốc và tay sai ở nhiều nơi tan
rã. Các tổ chức đảng lãnh đạo ban chấp hành nông hội ở thôn, xã đứng ra quản lý
mọi mặt đời sống xã hội ở nơng thơn, thực hiện chun chính với kẻ thù, dân chủ
với quần chúng nhân dân, làm chức năng, nhiệm vụ một chính quyền cách mạng
dưới hình thức các uỷ ban tự quản theo kiểu Xô viết. Khi chính quyền Xơ viết ra
đời cũng là lúc phong trào cách mạng lên tới đỉnh cao nhất. Tuy thất bại nhưng cao
trào cách mạng năm 1930 là bước thắng lợi đầu tiên có ý nghĩa quyết định đến tiến
trình phát triển về sau của cách mạng Việt Nam. Cao trào bước đầu tạo ra trận địa
và lực lượng cách mạng, rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên và quần chúng yêu
nước. Đặc biệt, Xô viết Nghệ An tuy bị thất bại, nhưng đã có ảnh hưởng lớn .
3.2.Cao trào đấu tranh đòi dân sinh, dân chủ 1936-1939
Qua lãnh đạo cuộc đấu tranh hợp pháp và nửa hợp pháp rộng lớn kết hợp với
hoạt động bí mật, khơng hợp pháp, Đảng được rèn luyện, trưởng thành, lực lượng
quần chúng cách mạng mở rộng và được thử thách. Qua cuộc vận động dân chủ,
đội quân chính trị quần chúng gồm hàng triệu người được tập hợp, giác ngộ và rèn
luyện. Uy tín và ảnh hưởng của Đảng được mở rộng. Tổ chức Đảng được củng cố
và phát triển. Đảng tích lũy thêm nhiều kinh nghiệm mới. Đó là kinh nghiệm về chỉ
đạo chiến lược: giải quyết mối quan hệ giữa mục tiêu chiến lược và mục tiêu trước
mắt; về xây dựng một mặt trận thống nhất rộng rãi phù hợp với u cầu của nhiệm
vụ chính trị, phân hóa và cơ lập cao độ kẻ thù nguy hiểm nhất; về kết hợp các hình
5


thức tổ chức và đấu tranh.
3.3. Cách mạng tháng 8 năm 1945
Ngày 9-3-1945 phát-xít Nhật đã làm đảo chính gạt bỏ thực dân Pháp để độc

chiếm Ðông Dương. Thường vụ Trung ương Ðảng đã kịp thời ra bản chỉ thị lịch
sử: “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” (12-3-1945). Chỉ thị nêu rõ
kẻ thù của cách mạng là phát-xít Nhật, vì vậy khẩu hiệu là Ðánh đuổi phát-xít
Nhật. Ðảng đã phát động cao trào kháng Nhật cứu nước mạnh mẽ để làm tiền đề
cho cuộc tổng khởi nghĩa. Ðây là thời kỳ tiền khởi nghĩa, phải thay đổi mọi hình
thức tuyên truyền, cổ động, tổ chức và đấu tranh cho phù hợp sẵn sàng chuyển
sang tổng khởi nghĩa. Chỉ thị của Trung ương cũng phân tích thời cơ cách mạng và
cho rằng những cơ hội tốt đang giúp cho những điều kiện khởi nghĩa mau chín
muồi. Những điều kiện thuận lợi đó là: Chính trị khủng hoảng, kẻ thù hoang mang
khơng rảnh tay đối phó với cách mạng; nạn đói ghê gớm làm cho quần chúng căm
ghét quân cướp nước; chiến tranh thế giới đến giai đoạn quyết liệt; Ðồng minh sẽ
đổ bộ vào Ðông Dương để đánh Nhật. Ðó là sự vận dụng tư tưởng Mác-Lênin về
khởi nghĩa vũ trang phù hợp với thực tiễn cách mạng Việt Nam. Những điều kiện
để khởi nghĩa mà chỉ thị của Trung ương nêu ra đã là định hướng quan trọng để các
đảng bộ địa phương chủ động phát động và lãnh đạo khởi nghĩa. Bản Chỉ thị cịn
chủ trương phá kho thóc gạo của đế quốc để cứu đói, lập Ủy ban quân sự cách
mạng và xây dựng chính quyền (các Ủy ban dân tộc giải phóng và Ủy ban nhân
dân cách mạng).
Dưới sự lãnh đạo của Ðảng, cao trào cách mạng phát triển mạnh mẽ. Tháng
4-1945 các lực lượng vũ trang cách mạng thống nhất thành Việt Nam giải phóng
quân. Ngày 4-6-1945, thành lập khu giải phóng Việt Bắc với sáu tỉnh như là căn cứ
địa của cách mạng cả nước, hình ảnh của nước Việt Nam mới. Tổ chức Việt Minh
phát triển rộng khắp trên cả nước. Không chỉ ở căn cứ địa, ở vùng nông thôn mà
phong trào ở đô thị cũng phát triển mạnh mẽ, nhất là phong trào công nhân, học
6


sinh, sinh viên trí thức. Tháng 5-1945, Hồ Chí Minh từ Cao Bằng chuyển về Tuyên
Quang. Tại Tân Trào (Tuyên Quang) đã diễn ra Hội nghị toàn quốc của Ðảng họp
ngày 14 và 15-8-1945. Hội nghị của Ðảng họp ở thời điểm lịch sử phong trào cách

mạng của toàn dân ta diễn ra sơi sục trong cả nước và phát-xít Nhật đầu hàng vô
điều kiện. Ðảng ta nhận định "cơ hội rất tốt cho ta giành quyền độc lập đã tới".
Mục đích cuộc chiến đấu của ta giành quyền độc lập hoàn toàn. Tiến hành cuộc
tổng khởi nghĩa theo ba nguyên tắc: Tập trung lực lượng vào những việc chính;
Thống nhất về mọi phương diện quân sự, chính trị, hành động và chỉ huy; Kịp thời
hành động, không bỏ lỡ thời cơ. Khẩu hiệu đấu tranh của Ðảng là Phản đối xâm
lược, hồn tồn độc lập, chính quyền nhân dân. Hội nghị Ðảng tồn quốc cơng bố
mười chính sách của Việt Minh và nhấn mạnh chủ trương "Lập nên một nước Việt
Nam dân chủ Cộng hịa hồn tồn độc lập".
Lệnh khởi nghĩa (Quân lệnh số 1 của Ủy ban khởi nghĩa) được ban bố:
“Chúng ta phải hành động cho nhanh, với một tinh thần vô cùng quả cảm, vô cùng
thận trọng! Cuộc thắng lợi hoàn toàn nhất định sẽ về ta”. Cũng ở thời điểm lịch sử
đó Hồ Chí Minh có Thư kêu gọi tổng khởi nghĩa nêu rõ: “Giờ quyết định cho vận
mệnh dân tộc đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải
phóng cho ta”. Ngày 16-8-1945, Quốc dân Ðại hội họp và ra Nghị quyết về giành
chính quyền tồn quốc và thi hành mười chính sách lớn của Việt Minh, Ủy ban dân
tộc giải phóng được thành lập gồm 15 ủy viên do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch.
Thường trực Ủy ban gồm Hồ Chí Minh, Trần Huy Liệu, Phạm Văn Ðồng, Nguyễn
Lương Bằng, Dương Ðức Hiền trực tiếp chỉ đạo cuộc Tổng khởi nghĩa. Ủy ban dân
tộc giải phóng là tổ chức tiền thân của Chính phủ Việt Nam dân chủ Cộng hòa.
Nghị quyết của Quốc dân Ðại hội nhấn mạnh mục tiêu: “Giành lấy chính quyền,
xây dựng một nước Việt Nam dân chủ Cộng hịa trên nền tảng hồn toàn độc lập”.
Thực hiện Nghị quyết của Ðảng và Quốc dân Ðại hội, chỉ trong vòng hai tuần
từ 14 đến 28-8-1945, nhân dân cả nước ta đã giành thắng lợi vẻ vang trong cuộc
7


Cách mạng Tháng Tám. Sự lãnh đạo kiên quyết, sáng suốt và kịp thời của Trung
ương Ðảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh có ý nghĩa quyết định thắng lợi. Khi nghiên
cứu về vai trò lãnh đạo của Ðảng, chúng ta thấy rõ được tinh thần trách nhiệm cao,

sự năng động, chủ động, sáng tạo của các đảng bộ địa phương, tức các xứ ủy, tỉnh
ủy, huyện ủy và tổ chức đảng ở cơ sở. Các cuộc khởi nghĩa tiêu biểu ở Hà Nội (198), Huế (23-8), Sài Gòn (25-8) và cả những tỉnh xa xôi, điều kiện liên lạc khó khăn
đã thể hiện điều đó. Vai trị của hệ thống tổ chức đảng từ Trung ương đến cơ sở,
của các đảng viên kiên trung của Ðảng, từ người lãnh đạo cao nhất đến người đảng
viên ở cơ sở, đã bảo đảm cho Ðảng sự lãnh đạo, điều hành tập trung, thống nhất ở
giờ phút quyết định của lịch sử. Ngày 2-9-1945, Lễ độc lập được tổ chức trọng thể
tại Quảng trường Ba Đình. Chính phủ lâm thời ra mắt quốc dân. Thay mặt Chính
phủ lâm thời Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập, trịnh trọng tuyên bố trước
quốc dân và thế giới: Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời.
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thắng lợi dưới sự lãnh đạo của một Đảng
mới 15 tuổi, biến Đảng từ khơng hợp pháp thành một Đảng nắm chính quyền trong
cả nước. Một nguyên nhân quan trọng dẫn tới thành công trong Cách mạng Tháng
Tám là Đảng đã luôn quan tâm xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng và tổ chức
theo nguyên tắc của chủ nghĩa Mác - Lênin. Trong điều kiện hoạt động bí mật, bị
địch khủng bố, truy lùng gắt gao, bắt bớ, giam cầm, chém giết, công tác xây dựng
Đảng càng cấp thiết. Đường lối xây dựng Đảng trên cả 3 mặt: chính trị, tư tưởng và
tổ chức có quan hệ mật thiết với nhau, trong đó, xây dựng Đảng về chính trị là cốt
lõi, là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu. Từ những chủ trương và biện pháp xây dựng
Đảng về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đào tạo cán bộ đúng đắn, Đảng bắt đầu xây
dựng từ mấy nhóm ít người, được rèn luyện trong những cuộc đấu tranh ác liệt,
năm 1945, Đảng vẻn vẹn chỉ có khoảng 5.000 đảng viên (một số còn bị giam trong
các nhà tù đế quốc). Thế nhưng, Đảng đã đoàn kết và lãnh đạo được nhân dân cả
nước, đưa cuộc khởi nghĩa đến thành công- một mốc son chói lọi trong lịch sử cả
8


dân tộc Việt Nam. Với thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Đảng đã
lãnh đạo nhân dân đưa lịch sử dân tộc sang trang mới, đánh dấu bước nhảy vọt vĩ
đại trong q trình tiến hố của dân tộc. Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa từ khi
ra đời, dù phải trải qua mn vàn khó khăn thử thách, nhưng dưới sự lãnh đạo của

Đảng, với tinh thần đồn kết phấn đấu của tồn dân, ln được xây dựng và củng
cố, vững bước tiến trên con đường độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.

9


C- PHẦN KẾT LUẬN
Khẳng định ý nghĩa của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Hồ Chí Minh viết:
“Chẳng những giai cấp lao động và nhân dân Việt Nam ta có thể tự hào, mà giai
cấp lao động và những dân tộc bị áp bức nơi khác cũng có thể tự hào rằng: Lần này
là lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng của các dân tộc thuộc địa và nửa thuộc địa,
một Đảng mới 15 tuổi đã lãnh đạo cách mạng thành cơng, đã nắm chính quyền
tồn quốc”. Trong việc thực hiện sứ mệnh nặng nề trước dân tộc và lịch sử, Ðảng
đã rất coi trọng xây dựng về tư tưởng chính trị và tổ chức, rèn luyện phương pháp
đấu tranh và cách lãnh đạo. Trong Cách mạng Tháng Tám đã nổi bật năng lực lãnh
đạo và sức chiến đấu của Ðảng ta. Ðó là bài học quý báu cho nhiệm vụ xây dựng
Ðảng hiện nay và thực hiện vai trị lãnh đạo của Ðảng trong cơng cuộc đổi mới,
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước ngày nay. Một lần nữa có thể khẳng định
vai trị lãnh đạo vơ cùng quan trọng của Đảng Cộng sản trong giai đoạn 1930-1945
nói riêng và trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc nói chung. Phát huy
những thành tựu trong công tác xây dựng Đảng thời kỳ Đảng lãnh đạo đấu tranh
giành chính quyền và q trình cả nước q độ lên chủ nghĩa xã hội, Đảng phải
vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức; thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh
đốn, ra sức nâng cao trình độ trí tuệ, bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức và năng
lực lãnh đạo; giữ vững truyền thống đoàn kết thống nhất trong Đảng, tăng cường
dân chủ và kỷ luật hoạt động Đảng; thường xuyên tự phê bình và phê bình, đấu
tranh chống chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa cơ hội, tệ quan liêu, tham nhũng, lãng
phí và mọi hành động chia rẽ, bè phái. Như vậy mới có thể: “bảo vệ vững chắc Tổ
quốc, giữ vững mơi trường hịa bình, ổn định; phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản
trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.


10


*Tài liệu tham khảo:
- Giáo trình Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam (dành cho bậc đại học – không
chuyên lý luận chính trị).
- Bài viết của PGS-TS Vũ Quang Vinh - Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
trên báo Sài Gịn giải phóng online.
Vai trị lãnh đạo của Đảng - nhân tố quyết định thắng lợi của Cách mạng Tháng
Tám | Chính trị | Báo Sài Gịn Giải Phóng (sggp.org.vn)
- Bài viết của PGS.TS Nguyễn Trọng Phúc - Viện trưởng Viện Lịch sử Ðảng trên
báo điện tử Nhân dân.
Vai trò lãnh đạo của Đảng trong cuộc Cách mạng Tháng Tám 1945 - Báo Nhân
Dân (nhandan.vn)
- Bài viết của PGS.TS. Lê Văn Yên - Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật trên
trang thông tin điện tử tổng hợp Ban nội chính trung ương.
Vai trị lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định mọi thắng lợi trong tiến trình cách
mạng Việt Nam - Ban Nội Chính Trung ương (noichinh.vn)
- Bài viết trên báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam.
Vai trò lãnh đạo của Đảng – Nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam
(dangcongsan.vn)

11



×