Tải bản đầy đủ (.pdf) (109 trang)

Luận văn: Giải pháp nhằm mở rộng hoạt động cho vay các Tổng Công Ty Nhà nước tại Sở giao dịch I - Ngân hàng Công thương Việt Nam doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (866.71 KB, 109 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG…………………





Luận văn

Giải pháp nhằm mở rộng hoạt động cho vay các Tổng Công Ty
Nhà nước tại Sở giao dịch I - Ngân hàng Công thương Việt Nam









98
Khóa Luận Tốt Ngiệp Trần Đào Nguyên – Trung 1 K37


2

I. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI.
Mở rộng cho vay, tăng dư nợ lành mạnh và nâng cao thu nhập ngân
hàng luôn là một trong những mục tiêu dài hạn của một ngân hàng thương
mại (NHTM). Để thực hiện điều đó, các ngân hàng đã sử dụng nhiều biện
pháp, nhằm vào nhiều nhóm khách hàng. Sự ra đời và phát triển của các Tổng


Công ty Nhà nước theo các Quyết định 90/TTg và 91/TTg ngày 07/4/1994 ở
nước ta cũng đã được các NHTM tập trung khai thác nhằm vào mục tiêu trên.
Là những doanh nghiệp Nhà nước quy mô lớn, hoạt động theo mô hình mới,
các Tổng Công ty Nhà nước có những lợi thế căn bản với tư cách là khách
hàng của một ngân hàng. Mở rộng cho vay các Tổng Công ty Nhà nước
không chỉ có ý nghĩa với việc kinh doanh của ngân hàng, nó còn giúp các
Tổng Công ty mau chóng ổn định, phát triển sản xuất - kinh doanh, góp phần
thực hiện chiến lược phát triển kinh tế chung. Tuy vậy, điều này hoàn toàn
không đơn giản, bởi ngân hàng phải kết hợp giữa mở rộng với nâng cao hiệu
quả cho vay trong điều kiện cạnh tranh ngày càng gay gắt. Hơn nữa, các
Tổng Công ty Nhà nước được thành lập hướng tới mô hình tập đoàn kinh tế ở
nước ta trong những điều kiện riêng và có những đặc điểm riêng, do đó để mở
rộng cho vay các Tổng Công ty cần phải có những giải pháp phù hợp.
Qua thời gian thực tập tại Sở giao dịch I - Ngân hàng Công thương Việt
Nam, thực hiện kết hợp lý thuyết với thực tiễn, em chọn đề tài “Giải pháp
nhằm mở rộng hoạt động cho vay các Tổng Công Ty Nhà nước tại Sở giao
dịch I - Ngân hàng Công thương Việt Nam” làm đề tài Khoá luận Tốt
nghiệp của mình.

II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU KHÓA LUẬN.
Khoá luận đi từ những nội dung mang tính lý luận trong hoạt động cho
vay đối với các Tổng Công ty Nhà nước của một NHTM, tới các vấn đề thực
tiễn trong hoạt động này đối với Sở giao dịch I từ đó đưa ra những giải pháp,
Khóa Luận Tốt Ngiệp Trần Đào Nguyên – Trung 1 K37


3

kiến nghị cụ thể nhằm mở rộng hoạt động cho vay đối với các Tổng Công ty
Nhà nước tại Sở giao dịch I – Ngân hàng Công thương Việt Nam.

III. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU.
Đối tượng nghiên cứu: Hoạt động cho vay các Tổng Công ty Nhà nước
tại Sở giao dịch I - Ngân hàng Công thương Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu: Tập trung vào những vấn đề liên quan tới hoạt
động cho vay của ngân hàng đối với các Tổng Công ty Nhà nước, những vấn
đề trong việc thực hiện cơ chế chính sách đối với hoạt động cho vay các Tổng
Công ty Nhà nước tại Sở giao dịch I - Ngân hàng Công thương Việt Nam,
thời gian từ năm 1999 đến 2001 và 6 tháng đầu năm 2002.
IV. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.
Khóa luận sử dụng phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sự,
phương pháp hệ thống, so sánh - thống kê, phân tích kinh tế để nghiên cứu
các vấn đề đã nêu ra.
V. KẾT CẤU KHÓA LUẬN.
Ngoài phần mở đầu và kết luận, khóa luận gồm ba chương:
Chương I: Tổng quan về hoạt động cho vay của Ngân hàng thương mại
và nhu cầu vay vốn của các Tổng Công ty Nhà nước ở Việt
Nam.
Chương II: Thực trạng hoạt động cho vay các Tổng Công Ty Nhà nước tại
Sở giao dịch I - Ngân hàng Công thương Việt Nam.
Chương III: Giải pháp nhằm mở rộng cho vay các Tổng Công Ty Nhà nước
tại Sở giao dịch I - Ngân hàng Công thương Việt Nam.





Khóa Luận Tốt Ngiệp Trần Đào Nguyên – Trung 1 K37


4


CHƯƠNG I
HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA CÁC NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI VỚI CÁC TỔNG CÔNG TY NHÀ NƯỚC
I - HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI.
1. Khái niệm và đặc trưng hoạt động cho vay của các NHTM:
1. 1. Khái niệm:
Theo nghĩa thông thường, cho vay là việc chuyển giao một số tiền hay
tài sản nhất định cho người khác sử dụng với điều kiện có hoàn trả lại. Khái
niệm phổ biến này được dùng rộng rãi trong đời sống thường ngày, từ những
món tiền hay tài sản có giá trị lớn cho tới những món tiền lớn hay đồ vật có
giá trị nhỏ. Với khái niệm này, hoạt động cho vay hay quan hệ vay mượn nói
chung có 2 đặc điểm chính là:
- Thứ nhất, trong quan hệ ấy, chỉ có sự chuyển giao quyền sử dụng (tiền,
tài sản) mà không có sự chuyển giao quyền sở hữu các tài sản hay số tiền đó.
- Thứ hai, người cho vay được hoàn trả lại sau một thời gian nhất định
theo sự thoả thuận giữa hai bên: người cho vay và người đi vay.
Người cho vay có nhận được một khoản lãi nào hay không cũng phụ
thuộc vào sự thoả thuận này, và trong đời sống thường ngày không phải bao
giờ người cho vay cũng lấy lãi.
Còn đối với các NHTM hay là các tổ chức tín dụng nói chung thì cho
vay là một nội dung nghiệp vụ. Đó là việc NHTM giao cho khách hàng một
khoản tiền nhất định trong một thời gian nhất định với điều kiện là họ phải
hoàn trả lại cùng với một khoản tiền vượt trội đóng vai trò là tiền lãi. Với một
khoản vay mượn thông thường, người cho vay có thể không đòi hỏi một
khoản lãi nào, điều này có thể xuất phát từ những mối quan hệ cá nhân, hoặc
người cho vay không phải là người kinh doanh tiền Song đối với các
NHTM, bao giờ họ cũng phải thu lãi, ít nhất là phải đủ để trả lãi cho người
Khóa Luận Tốt Ngiệp Trần Đào Nguyên – Trung 1 K37



5

gửi tiền vào ngân hàng, bởi vì họ cũng là những người kinh doanh vì mục tiêu
lợi nhuận.
Ở Việt Nam, theo Quy chế cho vay ban hành kèm Quyết định
324/1998/ QĐ - NHNN1, thì Cho vay là một hình thức cung cấp tín dụng,
theo đó tổ chức tín dụng giao cho khách hàng một khoản tiền để sử dụng
vào mục đích và thời gian nhất định theo thỏa thuận với nguyên tắc có
hoàn trả cả gốc lẫn lãi.
Với tư cách là người cho vay, ngân hàng đáp ứng vốn cho các đơn vị,
tổ chức, cá nhân khi có nhu cầu cần được bổ sung vốn trong hoạt động sản
xuất kinh doanh và tiêu dùng. Với vai trò này, hoạt động cho vay của NHTM
đã thực hiện chức năng phân phối lại vốn tiền tệ để đáp ứng nhu cầu tái sản
xuất xã hội. Quá trình tái sản xuất xã hội thường xuyên xuất hiện hiện tượng
tạm thời thừa vốn ở các tổ chức cá nhân này, trong khi các tổ chức cá nhân
khác lại thiếu vốn và có nhu cầu về vốn. Hiện tượng thừa thiếu vốn phát sinh
do có sự chênh lệch về thời gian, số lượng giữa các khoản thu nhập và chi tiêu
ở tất cả các tổ chức cá nhân trong quá trình tái sản xuất đòi hỏi phải được tiến
hành liên tục. Tín dụng thương mại đã không giải quyết được vấn đề này, chỉ
có ngân hàng là tổ chức chuyên kinh doanh tiền tệ mới có khả năng giải quyết
mâu thuẫn này thông qua hoạt động cho vay của mình.
Ta cũng cần phân biệt giữa cho vay và cấp tín dụng: một ngân hàng có
thể cấp cho khách hàng các khoản tín dụng bằng các nghiệp vụ cho vay, cho
thuê tài chính, bảo lãnh ngân hàng, tín dụng chứng từ Cho vay chỉ là một
hình thức cấp tín dụng, song nó lại là một hình thức chủ yếu và quan trọng
nhất của các NHTM.
1.2. Đặc trưng:
Hoạt động cho vay của các NHTM có các đặc trưng sau:
- NHTM chuyển giao quyền sử dụng cho người đi vay một khoản tiền nhất

định.
Khóa Luận Tốt Ngiệp Trần Đào Nguyên – Trung 1 K37


6

- Người đi vay chỉ được sử dụng tạm thời, trong một thời gian nhất định,
sau khi hết thời hạn sử dụng theo thoả thuận, người đi vay phải hoàn trả cho
NHTM.
- Giá trị được hoàn trả thông thường lớn hơn giá trị lúc cho vay hay nói
cách khác người đi vay phải trả thêm phần lợi tức còn gọi là tiền lãi.
Tóm lại, hoạt động cho vay của NHTM mang những đặc trưng cụ thể
là: Tính thời hạn, tính hoàn trả và lòng tin người vay sẽ sử dụng vốn có hiệu
quả và hoàn trả đúng thời hạn cả vốn lẫn lãi.
2. Nội dung chủ yếu trong quy trình cho vay của các NHTM:
2.1. Tìm kiếm và thẩm định:
Các ngân hàng có thể có được yêu cầu vay vốn do khách hàng đưa tới
hoặc ngân hàng chủ động tìm đến với các khách hàng có nhu cầu vay vốn để
đề nghị phục vụ. Khi đã có yêu cầu xin vay vốn, điều đầu tiên cán bộ tín dụng
(CBTD) phải làm là hướng dẫn khách hàng về thủ tục và điều kiện được xin
vay vốn. Nếu khách hàng đã nhất trí với các điều kiện và thủ tục ấy thì CBTD
hướng dẫn họ lập hồ sơ vay vốn để ngân hàng chính thức nghiên cứu, thẩm
định. Mục đích của thẩm định tín dụng là xác định khả năng và ý muốn của
người vay trong việc hoàn trả tiền vay phù hợp với các điều khoản của hợp
đồng tín dụng, nói cách khác là ước lượng rủi ro không hoàn trả. Từ đó đưa ra
quyết định cho vay hay không, và nếu cho vay thì cho vay bao nhiêu? Với kỳ
hạn, lãi suất và phương thức cho vay nào?… Khi tiến hành thẩm định, ngân
hàng phải trả lời cho hai loại câu hỏi lớn là phải thẩm định cái gì (thẩm định
các yếu tố nào) và các nguồn thông tin lấy từ đâu. Chúng ta sẽ đi vào xem xét
cách trả lời với mỗi loại câu hỏi trên.

Trả lời câu hỏi thẩm định cái gì ? Các ngân hàng lại thường chia ra
thành thẩm định các yếu tố về bản thân khách hàng và thẩm định về phương
án, dự án xin vay vốn.
a/ Các yếu tố về bản thân khách hàng:
Khóa Luận Tốt Ngiệp Trần Đào Nguyên – Trung 1 K37


7

Năng lực vay nợ: Các ngân hàng quan tâm trước tiên đến năng lực pháp
lý và năng lực hành vi dân sự của khách hàng. Là khách hàng, cá nhân họ
phải là những công dân đến tuổi trưởng thành (theo luật Việt Nam là 18 tuổi
trở lên), nếu không họ phải được cha mẹ hay người giám hộ bảo lãnh và cùng
ký vào đơn xin vay tiền. Đối với các tổ chức kinh tế (TCKT), ngân hàng xét
xem nó có đủ tư cách pháp nhân không, các giấy tờ xác minh tư cách ấy, tính
độc lập và tự chịu trách nhiệm trong việc đưa ra các quyết định của các TCKT
đó như thế nào? Ai là người có thẩm quyền đại diện cho công ty trong quan
hệ vay mượn? Đây là những yếu tố mà bắt buộc ngân hàng phải xem xét.
Uy tín của khách hàng: Uy tín ở đây không chỉ trong quan hệ của khách
hàng với ngân hàng, mà còn trong các quan hệ tín dụng cũng như kinh tế với
các ngân hàng và đối tác khác. Lịch sử các mối quan hệ này của khách hàng
trong đó có việc thực hiện các hợp đồng tín dụng thường rất có giá trị khi
đánh giá uy tín của họ. Tuy nhiên không phải lúc nào ngân hàng cũng nắm
được rõ ràng các yếu tố này mà còn phải phán đoán sự sẵn lòng trả nợ cũng
như sự cố gắng thực hiện hợp đồng tín dụng.
Năng lực tài chính của khách hàng: Ở đây, các NHTM sẽ xác định vốn
kinh doanh của doanh nghiệp xin vay, và họ sẽ không bao giờ cấp một món
vay nào cho doanh nghiệp nếu không được đảm bảo bằng vốn kinh doanh.
Vốn kinh doanh là một trong những tiêu chuẩn đo lường sức mạnh tài chính
của khách hàng, và cũng là một yếu tố quyết định tới khối lượng tín dụng mà

ngân hàng sẵn lòng cung cấp. Các ngân hàng còn phải xem xét khả năng độc
lập, tự chủ tài chính trong kinh doanh, khả năng thanh toán và hoàn trả nợ của
người vay. Điều này được thực hiện thông qua phân tích các chỉ tiêu đặc
trưng tài chính của doanh nghiệp như tỷ lệ thanh toán nhanh, tỷ lệ thanh toán
hiện hành, vốn lưu động thực tế chủ sở hữu, vòng quay vốn lưu động, hệ số
tài trợ trong tổng tài sản… Bên cạnh đó, năng lực tài chính của doanh nghiệp,
trong đó có yếu tố lợi nhuận, chịu tác động của nhiều yếu tố nội tại của doanh
nghiệp ấy, đó là khả năng quản lý, khả năng kỹ thuật - công nghệ, sức cạnh
Khóa Luận Tốt Ngiệp Trần Đào Nguyên – Trung 1 K37


8

tranh. Đây cũng là những đối tượng trong thẩm định của ngân hàng, và tất
nhiên họ sẽ đánh giá cao các doanh nghiệp có hệ thống quản lý có hiệu lực,
cung cấp các sản phẩm, dịch vụ có sức cạnh tranh tốt trên thị trường.
Thẩm định tài sản thế chấp, cầm cố (nếu có): Về nguyên tắc, những tài
sản đem cầm cố, thế chấp phải thuộc quyền sở hữu của người vay, và người
vay phải chứng minh được điều đó trước ngân hàng bằng những tài liệu hợp
pháp. Không chỉ như vậy, CBTD còn phải thẩm định giá trị những tài sản ấy
một cách chính xác theo giá cả thị trường hiện tại và giá trị thanh lý (thường
thấp hơn nhiều giá cả thị trường hiện tại) trong trường hợp người vay không
trả nợ hoặc có sự biến động về giá cả của những tài sản đó.
Bên cạnh đó, các điều kiện kinh tế tuy không phải là yếu tố thuộc về
bản thân khách hàng nhưng nó lại tác động tới khả năng trả nợ, tới phương án,
dự án sử dụng vốn vay của khách hàng với vai trò là môi trường hoạt động
của cả các doanh nghiệp và ngân hàng. CBTD sẽ phải liên tục tổng hợp và
phân tích các thông tin về nhịp độ tăng trưởng kinh tế của đất nước, như tỷ lệ
lạm phát, thất nghiệp, lãi suất chiết khấu của NHTW, cân đối ngân sách, cân
đối thanh toán và tỷ giá hối đoái và phân tích được các thông tin về lĩnh vực

hoạt động của khách hàng.
b/ Về thẩm đinh phương án, dự án xin vay:
Trước hết, ngân hàng phải xem xem phương án sử dụng vốn vay có phù
hợp với kế hoạch SXKD, với điều kiện thị trường hay không; các điều kiện để
thực hiện thành công phương án, các định mức kinh tế - kỹ thuật, các số liệu
về thu nhập và chi phí cũng như lợi nhuận dự kiến có hợp lý không? Điều này
xuất phát từ mối quan hệ tay ba ngân hàng - doanh nghiệp - thị trường.
Đối với những yêu cầu xin vay vốn ngắn hạn bổ sung cho vốn lưu
động, nguồn trả nợ trực tiếp nhất là doanh thu tiêu thụ sản phẩm, dịch vụ hình
thành từ nguồn vốn vay. Ngân hàng thường thiết lập mối tương quan giữa
khoản tiền xin vay với doanh thu theo kế hoạch và doanh thu thực hiện của
phương án SXKD. Tại thời điểm xem xét, doanh thu thực hiện chưa xuất
Khóa Luận Tốt Ngiệp Trần Đào Nguyên – Trung 1 K37


9

hiện, nhưng ngân hàng lại phải dự đoán được do nó phụ thuộc trực tiếp vào
tiêu thụ, tức là nhu cầu thị trường và sức cạnh tranh của sản phẩm. Kết hợp
với các yếu tố đã phân tích về bản thân khách hàng, ngân hàng sẽ rút ra kết
luận về số tiền có thể chấp nhận cho vay trong tổng doanh thu đó. Một vấn đề
có tính nguyên tắc là chỉ những phương án với hiệu quả được tính trong
khoảng thời gian một chu kỳ sản xuất hoặc năm dương lịch mới là đối tượng
của cho vay vốn lưu động.
Đối với các dự án xin vay vốn trung, dài hạn thì việc thẩm định sẽ phức
tạp hơn, bởi các khoản cho vay này chứa đựng nhiều rủi ro hơn. Các ngân
hàng thường thẩm định dự án từ nhiều phương diện: kỹ thuật, thị trường và tài
chính của dự án, từ đó khẳng định tính khả thi kinh tế - kỹ thuật của dự án,
xác định được thời điểm thực hiện dự án, lịch trình giải ngân, trả nợ được trù
tính trong dự án, từ đó mà quyết định cho vay hay từ chối. Trước tiên, ngân

hàng thẩm định về thị trường sản phẩm, dịch vụ và sản phẩm dịch vụ sẽ cung
cấp như đối với cho vay ngắn hạn. Thẩm định kỹ thuật dự án cũng quan hệ
chặt chẽ tới phương diện thị trường của dự án. Ở đây, ngân hàng quan tâm tới
qui mô của dự án, xem có phù hợp vói khả năng tiêu thụ sản phẩm, khả năng
cung cấp nguyên vật liệu và năng lực quản lý của doanh nghiệp không? Tiếp
đó ngân hàng xem xét tới công nghệ và trang thiết bị, đây cũng là căn cứ xác
định chu kỳ sống của sản phẩm, một yếu tố có ý nghĩa khi xem xét đầu tư.
Việc thẩm định kỹ thuật có thể được thực hiện bởi các bộ phận chuyên trách
hoặc do CBTD tự phụ trách. Tuy nhiên có nhiều trường hợp do trình độ
chuyên môn hoá của CBTD còn thấp hoặc tính phức tạp của dự án ngân hàng
phải thuê các chuyên gia tư vấn.
Về phương diện tài chính, ngân hàng có thể sử dụng các phương pháp
khác nhau, sử dụng các loại chỉ tiêu đánh giá hiệu quả tài chính của dự án như
giá trị hiện tại (NPV), tỷ suất hoàn vốn nội bộ (IRR), thời gian hoàn vốn, tỷ
suất lợi ích trên chi phí (B/C)… Khi thẩm định dự án đầu tư để cho vay trung,
Khóa Luận Tốt Ngiệp Trần Đào Nguyên – Trung 1 K37


10

dài hạn, ngân hàng thường vận dụng tổng hợp nhiều phương pháp trong đó
coi mỗi chỉ tiêu là một con số thể hiện một mặt của dự án.
Trả lời câu hỏi các nguồn thông tin lấy từ đâu? Ngân hàng có thể
thu thập thông tin từ các nguồn:
+ Thông qua phỏng vấn trực tiếp người xin vay, CBTD có thể đánh giá
được phần nào năng lực, tư cách đạo đức của khách hàng, cũng như để giải
thích những điều chưa rõ trong hồ sơ tín dụng.
+ Nguồn thứ hai là hệ thống sổ sách của ngân hàng để biết thêm về uy
tín của khách hàng trong việc hoàn trả các món vay, số dư trên các tài khoản,
tình hình thanh toán công nợ

+ Các nguồn thông tin bên ngoài, như ngân hàng thuê các Công ty
chuyên nghiệp điều tra thu thập thông tin về khách hàng, hay nhờ các ngân
hàng bạn hay bạn hàng của khách hàng để xác định uy tín của anh ta. Một số
nước còn có hệ thống thông tin tín dụng chung do ngân hàng Trung ương hay
hiệp hội các ngân hàng điều hành (CIC ở Việt Nam là một ví dụ về hình thức
này).
+ Thông qua các chuyến viếng thăm khách hàng, CBTD có thể thu thập
những thông tin rất khách quan về tình hình hoạt động của họ.
+ Những thông tin do khách hàng cung cấp từ các hồ sơ vay vốn và sổ
sách kế toán. Đây là nguồn thông tin chính thức mà khách hàng phải trình lên
ngân hàng khi xin vay.
Ở một ngân hàng thường có sự phân cấp uỷ quyền trong việc quyết
định cho vay. Điều này càng thấy rõ ở mức phán quyết mà chi nhánh của
NHTM (ở ngân hàng có chi nhánh) có thể quyết định cho vay. Nhiều khi một
hội đồng gồm nhiều thành viên được thành lập để thẩm định và quyết định
cho vay đối với các dự án lớn, có tính phức tạp cao.
2.2. Giải ngân, quản lý món vay và thu nợ:
Khóa Luận Tốt Ngiệp Trần Đào Nguyên – Trung 1 K37


11

Mục đích của khâu này là phát tiền vay đúng tiến độ, đúng đối tượng,
kiểm soát và quản lý chặt chẽ món vay để đảm bảo khách hàng sử dụng vốn
vay đúng mục đích, thực hiện được kế hoạch trả nợ, đồng thời có thể phát
hiện sớm nhất những khó khăn phát sinh để có biện pháp xử lý nhằm hạn chế
tới mức thấp nhất rủi ro đối với ngân hàng. Các công việc cụ thể là:
Khi phát tiền vay, CBTD tuân thủ nguyên tắc phải có vật tư, tài sản
tương đương là đối tượng ghi trong hợp đồng tín dụng kết hợp với các
phương thức thanh toán, ngân hàng có thể thanh toán trực tiếp với người cung

cấp của khách hàng mà không qua trung gian.
Sau khi phát tiền vay, CBTD vẫn thường xuyên quản lý kiểm tra việc
sử dụng vốn vay của khách hàng. Ngoài việc liên tục theo dõi sự vận động
của vốn, ngân hàng còn chú ý cả tới tình hình kinh doanh chung của khách
hàng và tình hình thị trường giá cả Phát hiện sớm nhất những dấu hiệu của
khoản cho vay có vấn đề, ngân hàng có thể có biện pháp thích hợp. Ngân
hàng có thể thu hồi khoản vay trước hạn, nếu khách hàng sử dụng vốn sai
mục đích. Ngân hàng cũng có thể yêu cầu thêm tài sản thế chấp, cầm cố khi
giá trị thị trường của các tài sản này giảm ngoài dự kiến Đối với những khó
khăn mang tính khách quan, ngân hàng sẽ cùng khách hàng giải quyết, giúp
doanh nghiệp thu hồi các hoá đơn chậm trả, thanh toán hàng tồn kho hay giảm
bớt dự trữ quá mức; sắp xếp, cấu trúc lại các khoản vay bằng định lại kỳ hạn
nợ hay rút bớt mức chi trả định kỳ trong một thời gian Để việc thu nợ diễn
ra thuận lợi, CBTD có các biện pháp nhắc nhở, đôn đốc; định kỳ tổng kết
việc thực hiện kế hoạch trả nợ của khách hàng.
2.3. Thanh lý hợp đồng tín dụng và lưu giữ hồ sơ khách hàng:
Sau khi thu nợ đầy đủ hoặc giải quyết các tồn tại về khoản vay, ngân
hàng và khách hàng tiến hành thanh lý hợp đồng tín dụng. Ngân hàng tổng
kết, đánh giá toàn bộ quá trình cho vay, rút ra kinh nghiệm, bài học cần thiết,
đồng thời đưa ra các yêu cầu mới. Ngân hàng tiến hành lưu trữ hồ sơ khách
Khóa Luận Tốt Ngiệp Trần Đào Nguyên – Trung 1 K37


12

hàng dù họ còn quan hệ với ngân hàng nữa hay không. Nhiều NHTM ở các
nước tiên tiến có hẳn bộ phận chuyên trách, và công việc này được thực hiện
bằng nhiều phương tiện hiện đại như máy tính, các phần mềm quản lý khách
hàng. Ở nước ta, công việc này do mỗi CBTD đảm nhận, đưa vào phòng quản
lý khách hàng; các lưu trữ vẫn chủ yếu dưới dạng hồ sơ giấy tờ.

3. Mở rộng hoạt động cho vay của NHTM:
Khối lượng cho vay biểu hiện ở hai mặt:
- Mặt tuyệt đối biểu hiện ở số dư tuyệt đối của khoản mục trong nghiệp
vụ tài sản có ngân hàng và một phần dịch vụ ngoại bảng cân đối kế toán.
- Mặt tương đối biểu hiện ở tỷ trọng số dư của các khoản mục trên trong
tổng số các khoản mục cho vay và đầu tư trong và ngoài bảng cân đối kế toán.
Mở rộng hoạt động cho vay có 2 hình thức biểu hiện:
- Mở rộng tuyệt đối là tăng số dư của các khoản mục này trong và ngoài
bảng tổng kết tài sản so với kỳ trước, tăng doanh số cho vay lớn hơn tăng
doanh số thu nợ.
- Hình thức mở rộng tương đối hoạt động cho vay là tăng tỷ trọng số dư
cho vay trong tổng số dư nợ và đầu tư của hệ thống ngân hàng. Việc tăng tỷ
trọng cho vay làm thay đổi cơ cấu hoạt động kinh doanh ngân hàng theo
hướng tăng hoạt động cho vay.
II - TỔNG CÔNG TY VÀ NHU CẦU VAY VỐN CỦA CÁC TỔNG CÔNG
TY NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM.
1. Khái niệm, hoàn cảnh ra đời của Tổng Công ty Nhà nước ở nước
ta:
1.1. Khái niệm Tổng Công ty Nhà nước:
Tổng Công ty Nhà nước là doanh nghiệp Nhà nước (DNNN) có quy mô
lớn bao gồm các đơn vị thành viên có quan hệ gắn bó với nhau về lợi ích kinh
tế, tài chính, công nghệ thông tin, đào tạo, nghiên cứu, tiếp thị, hoạt động
trong một hoặc một số chuyên ngành kinh tế kỹ thuật chính do Nhà nước
Khóa Luận Tốt Ngiệp Trần Đào Nguyên – Trung 1 K37


13

thành lập nhằm tăng cường tích tụ, tập trung, phân công chuyên môn hóa và
hợp tác sản xuất để thực hiện nhiệm vụ Nhà nước giao, nâng cao khả năng và

hiệu quả kinh doanh của các đơn vị thành viên và của toàn Tổng Công ty đáp
ứng nhu cầu của nền kinh tế.
Tổng Công ty Nhà nước hoạt động theo mô hình quy định tại Quyết
định số 91/TTg ngày 07/3/1994 của Thủ tướng Chính phủ gọi tắt là Tổng
Công ty 91. Tổng Công ty Nhà nước hoạt động theo mô hình quy định tại
Quyết định số 90/TTg ngày 07/3/1994 của Thủ tướng Chính phủ gọi tắt là
Tổng công ty 90.
Các đơn vi được lựa chọn theo Quyết định 91 là một số Tổng Công ty,
Công ty lớn có mối liên hệ theo ngành và vùng lãnh thổ không phân biệt
doanh nghiệp do Trung ương hay do địa phương quản lý có vị trí quan trọng
trong nền kinh tế quốc dân, bảo đảm những yêu cầu cần thiết cho thị trường
trong nước và có triển vọng mở rộng quan hệ kinh doanh ra nước ngoài, phải
có 7 doanh nghiệp thành viên trở lên và có vốn pháp định ít nhất là 1.000 tỷ
đồng.
Các Tổng Công ty được thành lập theo Quyết định 90 là các Liên hiệp
Xí nghiệp, Tổng Công ty có ít nhất 5 đơn vị thành viên quan hệ với nhau về
công nghệ, tài chính, chương trình đầu tư phát triển, dịch vụ về cung ứng, vận
chuyển, tiêu thụ, thông tin, đào tạo. Toàn Tổng Công ty có vốn pháp định trên
500 tỷ đồng, trong những ngành đặc thù thì vốn pháp định có thể thấp hơn
nhưng không được ít hơn 100 tỷ đồng.
1.2. Hoàn cảnh ra đời của Tổng Công ty ở nước ta:
Trong nền kinh tế thị trường, dưới sự chi phối của các quy luật kinh tế
khách quan như quy luật giá trị, quy luật cạnh tranh, quy luật tích tụ và tập
trung sản xuất diễn ra một xu hướng cơ bản là sự tập trung sản xuất kinh
doanh để hình thành các tập đoàn kinh doanh dưới nhiều hình thức và mức độ
khác nhau.
Khóa Luận Tốt Ngiệp Trần Đào Nguyên – Trung 1 K37


14


Hiện nay, các tập đoàn kinh doanh có vai trò chi phối nhiều nền kinh tế
trên thế giới như các cheabol ở Hàn Quốc, các tập đoàn kinh doanh của Mỹ,
Nhật. Các Công ty đa quốc gia, xuyên quốc gia cũng là những dạng tập đoàn
kinh doanh. Ngay ở các nước láng giềng với Việt Nam ta, nhiều tập đoàn kinh
doanh đã hình thành và phát triển, đóng vai trò lớn trong nền kinh tế quốc dân
(Thái Lan, Malaysia). Trong tình trạng nền kinh tế thế giới có nhiều biến
động mạnh vừa qua, xu hướng sáp nhập, hợp nhất các Công ty đã diễn ra càng
phổ biến và mạnh mẽ.
Ở Việt Nam, từ những năm 1960 ở miền Bắc đã hình thành và phát
triển các liên hiệp xí nghiệp và Tổng Công ty trong hệ thống các DNNN, và
đặc biệt bùng nổ vào cuối thập kỷ 70 đầu thập kỷ 80 trên phạm vi toàn quốc.
Cho đến năm 1991, đã tồn tại khoảng 150 Tổng Công ty và liên hiệp xí
nghiệp được tổ chức hoạt động theo cơ chế tập trung bao cấp kèm theo một số
chức năng quản lý Nhà nước. Sự lẫn lộn giữa chức năng quản lý Nhà nước và
chức năng hoạt động kinh doanh đã biến các mô hình này thành một cấp hành
chính trung gian, khiến quá trình tích tụ và tập trung hoá không được thực
hiện tốt. Tất nhiên các mô hình này đã có những đóng góp lớn trong thời kỳ
chiến tranh, nhưng sau này, nhất là khi nền kinh tế đã chuyển sang cơ chế thị
trường, các Tổng Công ty và liên hiệp xí nghiệp theo mô hình ấy ngày càng tỏ
ra không phù hợp, khó có thể trụ vững trong nền kinh tế thị trường. Quyết
định 217 và Nghị định 388 ra đời đã tăng cường tính độc lập, tự chủ trong
kinh doanh của các DNNN, mang lại nhiều tác dụng tích cực, đồng thời làm
giảm vai trò của các liên hiệp xí nghiệp và Tổng Công ty như trên. Tuy nhiên
sau một thời gian hoạt động. Hệ thống DNNN lại bộc lộ những nhược điểm
lớn. Đó là: sản xuất còn manh mún, phân tán, chồng chéo và trùng lặp về các
chức năng kinh doanh; khả năng tái đầu tư qua tích tụ rất hạn chế do quy mô
nhỏ; kỹ thuật, công nghệ lạc hậu, hiệu quả sản xuất thấp. Hậu quả là khả năng
cạnh tranh của các doanh nghiệp này thấp, đặc biệt là trong cạnh tranh quốc
Khóa Luận Tốt Ngiệp Trần Đào Nguyên – Trung 1 K37



15

tế; mặt khác, nhiều DNNN cạnh tranh bừa bãi, gây tổn hại cho nền kinh tế nội
địa hạn chế vai trò chủ đạo của hệ thống kinh tế quốc doanh.
Để khắc phục các nhược điểm trên, ngày 07/3/1994, Thủ tướng Chính
phủ đã ra các quyết định 90/TTg và 91/TTg về sắp xếp lại các DNNN, đồng
thời cho phép thành lập các Tổng Công ty Nhà nước. Mục đích của việc này
là: Tạo ra điều kiện để thúc đẩy tích tụ, tập trung và tái đầu tư; nâng cao khả
năng cạnh tranh của hệ thống DNNN trên thị trường trong và ngoài nước;
thực hiện chủ trương xoá bỏ dần chế độ bộ chủ quản và cấp hành chính chủ
quản, sự phân biệt giữa các doanh nghiệp Trung ương và địa phương. Việc
thành lập các Tổng Công ty Nhà nước là một bộ phận của quá trình đổi mới,
tổ chức và sắp xếp lại các DNNN, hình thành các tập đoàn kinh doanh mạnh
của Nhà nước.
Sau những năm đầu hoạt động, các Tổng Công ty đã phát huy nhiều tác
dụng tích cực: Tập hợp được sức mạnh toàn Tổng Công ty trong tham gia đấu
thầu, bảo lãnh vay vốn tín dụng thực hiện chiến lược đầu tư phát triển và đổi
mới công nghệ (rõ nhất là các TCT 91), xây dựng và mở rộng thị trường,
giảm thiểu sự cạnh tranh hỗn loạn giữa các DNNN với nhau trên thị trường
trong nước, bình ổn giá cả. Nhưng việc thành lập Tổng Công ty mang tính
chủ quan lại bộc lộ một số nhược điểm một loạt Tổng Công ty được thành lập
trên cơ sở gom các doanh nghiệp cùng chức năng lại thành một Tổng Công ty,
vốn giao cho Tổng Công ty là tổng vốn các thành viên nắm giữ, dẫn tới tình
trạng Tổng Công ty chỉ nắm vai trò quản lý hành chính; tình trạng độc quyền
trong kinh doanh tăng lên đặc biệt đối với các Tổng Công ty 91; quan hệ giữa
Tổng Công ty - đơn vị thành viên còn nhiều trục trặc.
2. Địa vị pháp lý và tổ chức một Tổng Công ty:
2.1. Địa vị pháp lý:

Các Tổng Công ty ra đời trực tiếp từ các quyết định 90/TTg, 91/TTg
ngày 07/3/1994 của Thủ tướng Chính phủ. Ngoài việc chịu chi phối bởi các
Khóa Luận Tốt Ngiệp Trần Đào Nguyên – Trung 1 K37


16

văn bản pháp quy như đối với các DNNN, các Tổng Công ty còn có các văn
bản quy định, hướng dẫn như Nghị định 39/CP ngày 27/6/1995 ban hành điều
lệ mẫu về tổ chức và hoạt động của Tổng Công ty Nhà nước; Quyết định 838
tài chính/QĐ/TCDN ngày 28/8/1996 ban hành quy chế tài chính mẫu Tổng
Công ty Nhà nước; Quy chế Công ty tài chính trong Tổng Công ty Nhà nước
Chỉ thị 135/TTg ngày 4/3/1997 về xây dựng Quy chế hoạt động của Hội đồng
quản trị và Ban kiểm soát trong Tổng Công ty và một số văn bản khác. Với
một Tổng Công ty cụ thể thì địa vị và tổ chức của Tổng Công ty được quy
định cụ thể ở Điều lệ và quy chế tài chính của nó.
Tổng Công ty Nhà nước là những DNNN có tư cách pháp nhân Việt
Nam do Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập (đối với các Tổng Công ty
quan trọng - Tổng Công ty 91); do Bộ trưởng Bộ quản lý ngành kinh tế kỹ
thuật hoặc tương đương, UBND tỉnh hoặc tương đương thành lập (TCT 90)
theo uỷ quyền của Thủ tướng Chính phủ. Tổng Công ty có vốn và tài sản độc
lập và tự chịu trách nhiệm với các khoản nợ trong phạm vi số vốn do Tổng
Công ty quản lý. Tổng Công ty có quyền tự chủ trong hoạt động sản xuất kinh
doanh. Theo quy định hiện hành, mối quan hệ giữa Tổng Công ty với các cơ
quan (Thủ tướng Chính phủ, Bộ tài chính, các bộ và UBND thành lập ) là
rất phức tạp, nhiều quy định còn thiếu cụ thể. Điều này khiến nhiều cơ quan
Nhà nước can thiệp vào hoạt động của các Tổng Công ty hay gây ảnh hưởng
trong việc ra các quyết định.
2.2. Về tổ chức:
Tổng Công ty được quản lý bởi Hội đồng quản trị và điều hành bởi

Tổng giám đốc (TGĐ). Hội đồng quản trị có 5 hoặc 7 thành viên do thủ
trưởng cơ quan ra quyết định thành lập Tổng Công ty bổ nhiệm, miễn nhiệm
theo nhiệm kỳ 5 năm. Hội đồng quản trị chịu trách nhiệm về sự phát triển của
Tổng Công ty theo nhiệm vụ Nhà nước giao; có quyền nhận vốn do Nhà nước
giao cho Tổng Công ty; xem xét phê duyệt phương án do Tổng Giám đốc đề
Khóa Luận Tốt Ngiệp Trần Đào Nguyên – Trung 1 K37


17

nghị về giao vốn cho các đơn vị thành viên và phương án điều hoà vốn và các
nguồn lực giữa các thành viên đó. Hội đồng Quản trị thành lập Ban kiểm soát
thực hiện kiểm tra, giám sát Tổng Giám đốc, bộ máy giúp việc và các thành
viên Tổng Công ty. Tổng giám đốc là đại diện pháp nhân của Tổng Công ty và
chịu trách nhiệm trước Hội đồng quản trị, trước người bổ nhiệm mình và pháp
luật về điều hành hoạt động của Tổng Công ty. Tổng Giám đốc cùng Chủ tịch
Hội đồng quản trị ký nhận vốn và các nguồn lực khác của Nhà nước để quản lý
sử dụng theo mục tiêu nhiệm vụ Nhà nước giao cho Tổng Công ty; giao hoặc
điều hoà vốn giữa các thành viên Tổng Công ty theo phương án đã được Hội
đồng quản trị phê duyệt; điều hành Tổng Công ty theo các nghị quyết, quyết
định của Hội đồng quản trị.
Tổng Công ty gồm các đơn vị thành viên là những DNNN hạch toán
độc lập, hạch toán phụ thuộc hay đơn vị hành chính sự nghiệp. Các thành viên
hạch toán độc lập có quyền tự chủ kinh doanh, chịu trách nhiệm về các khoản
nợ và cam kết của mình trong phạm vi vốn do doanh nghiệp quản lý, sử dụng.
Các doanh nghiệp này có tư cách pháp nhân hạn chế, bởi nó chịu sự ràng
buộc về nghĩa vụ và quyền lợi với Tổng Công ty theo quy định tại Điều lệ
Tổng Công ty và của đơn vị.
Các thành viên hạch toán phụ thuộc không có tư cách pháp nhân. Nó có
quyền tự chủ kinh doanh theo phân cấp của TCT, Tổng Công ty chịu trách

nhiệm cuối cùng về nghĩa vụ tài chính phát sinh do sự cam kết của các đơn vị
này. Các thành viên là đơn vị hành chính sự nghiệp hoạt động theo nguyên tắc
lấy thu bù chi, được TCT hỗ trợ nếu thiếu hụt ngân sách hoạt động.
Về mặt sản xuất kinh doanh, các thành viên phụ thuộc chịu sự chỉ đạo
trực tiếp từ Tổng Công ty. Đối với thành viên độc lập, thực hiện kế hoạch của
mình trên cơ sở bảo đảm các mục tiêu, chỉ tiêu, các cân đối lớn, các định mức
kinh tế kỹ thuật chủ yếu phù hợp với kế hoạch chung của toàn Tổng Công ty,
đồng thời mở rộng kinh doanh để khai thác tối ưu có nguồn lực mình có, đáp
Khóa Luận Tốt Ngiệp Trần Đào Nguyên – Trung 1 K37


18

ứng nhu cầu thị trường. Tổng Công ty lựa chọn thị trường thống nhất và phân
công giữa các đơn vị thành viên.
3. Tình hình hoạt động của các Tổng Công ty Nhà nước từ khi thành
lập đến nay:
Đến nay trên toàn quốc có 17 Tổng Công ty 91 thành lập và hoạt động
theo Quyết định 91/TTG, 74 Tổng Công ty 90 theo Quyết định 90/TTg ngày
07/3/1994 của Thủ tướng Chính phủ, với 1750 đơn vị thành viên hạch toán
độc lập đã, chiếm 24% tổng số các doanh nghiệp Nhà nước, nhưng chiếm
66% về vốn, 60% về lao động và đóng góp vào ngân sách Nhà nước tới 69%,
tạo ra 50% tổng doanh thu và hơn 83% lợi nhuận của toàn hệ thống DNNN.
Trong những năm qua, các TCT Nhà nước đã từng bước khẳng định
được vai trò của mình; các cơ chế chính sách dần được hoàn thiện, mô hình
hoạt động rõ nét hơn, xuất hiện một số hình mẫu sơ khai các công ty mẹ - con
trong các TCT. Nhiều TCT thực hiện tốt việc đấu thầu các công trình qui mô
lớn, phức tạp, cả trong nước và quốc tế; bảo lãnh vay vốn, hỗ trợ cho các
doanh nghiệp thành viên gặp khó khăn theo cơ chế tín dụng nội bộ… Đặc biệt
là các TCT 91, chiếm 9,2% số doanh nghiệp Nhà nước nhưng chiếm tới

54,9% về vốn, 64,2% lãi trước thuế và 54,9% nộp ngân sách.
Tuy nhiên, nhiều TCT cũng bộc lộ những yếu kém và tồn tại về tổ
chức, phân cấp hoạt động, cơ chế và quan hệ tài chính vv làm chậm quá
trình tích tụ vốn, giảm tốc độ tăng trưởng và sức cạnh tranh. Đối với một số
TCT như Than, Dệt - may, Thép, Bưu chính Viễn thông, bộ máy quản lý hành
chính còn nặng nề, số lao động dư thừa lớn. Đa số các TCT có chỉ tiêu kinh tế
tăng về giá trị tuyệt đối nhưng mức tăng đang giảm qua các năm.
Về chiến lược đầu tư phát triển và đổi mới công nghệ, hầu hết các TCT
đã chủ động xây dựng chiến lược, quy hoạch phát triển của TCT đến năm
2010, trong đó sản xuất công nghiệp, đầu tư, xây dựng, giao thông vận tải,
bưu chính viễn thông và các ngành quan trọng khác theo hướng phát huy nội
Khóa Luận Tốt Ngiệp Trần Đào Nguyên – Trung 1 K37


19

lực, phát triển các nguồn nguyên liệu trong nước, tăng năng lực sản xuất các
sản phẩm thay thế nhập khẩu, đẩy mạnh xuất khẩu. Các chiến lược này là cơ
sở để tiếp tục sắp xếp lại các TCT, bước đầu hạn chế tình trạng đầu tư tràn
lan, manh mún kém hiệu quả trước đây.
Về thị trường và xuất nhập khẩu, tổng kim ngạch của các TCT tăng
hàng năm. Trên cơ sở đáp ứng nhu cầu của thị trường, căn cứ định hướng
phát triển của ngành, nhiều TCT đã chủ động thực hiện kế hoạch kinh doanh,
mở rộng thị phần, tiến tới chiếm lĩnh thị trường bằng các sản phẩm chủ lực.
Tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước năm 1999 đạt 11,5 tỷ USD, năm 2000
đạt 14,4 tỷ USD, 2001 đạt trên 15 tỷ USD, đến hết tháng 9/2002 đạt 11.907 tỷ
USD có phần đóng góp quan trọng của các TCT Nhà nước. Tính đến hết
tháng 9/2002, giá trị xuất khẩu của Tổng Công ty Dầu khí đạt 2.027 triệu
USD, Tổng Công ty Dệt may đạt 732 triệu USD, Tổng Công ty Cà phê đạt
250 triệu USD…

4. Vốn và nhu cầu vốn của các Tổng Công ty Nhà nước:
4.1. Các nguồn vốn của một doanh nghiệp:
Để tiến hành hoạt động SXKD, trước tiên mỗi doanh nghiệp cần có
vốn: Vốn đầu tư ban đầu và vốn bổ sung để mở rộng SXKD. Vốn SXKD
được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau. Song căn cứ vào nội dung kinh tế
có thể chia thành hai nguồn cơ bản, đó là: nguồn vốn chủ sở hữu và nguồn
vốn vay.
a/ Nguồn vốn chủ sở hữu:
Nguồn vốn chủ sở hữu biểu hiện quyền sở hữu của người chủ về các
tài sản hiện có của doanh nghiệp. Một doanh nghiệp có thể có nhiều hoặc một
chủ sở hữu. Vốn chủ sở hữu được tạo từ các nguồn sau:
- Vốn góp do các chủ sở hữu, các nhà đầu tư đóng để thành lập hoặc
mở rộng kinh doanh. Ví dụ đối với DNNN nguồn vốn chủ sở hữu do Nhà
nước cấp phát nên được gọi là vốn Nhà nước.
Khóa Luận Tốt Ngiệp Trần Đào Nguyên – Trung 1 K37


20

- Lãi chưa phân phối: đây là kết quả của toàn bộ hoạt động SXKD. Số
lãi này trong khi chưa phân phối được sử dụng cho kinh doanh và coi như vốn
chủ sở hữu.
- Vốn chủ sở hữu khác: Là số vốn chủ sở hữu có nguồn gốc từ lợi
nhuận để lại (các quỹ xí nghiệp, các khoản dự trữ theo điều lệ, theo luật
định…) hoặc các loại vốn khác (xây dựng cơ bản, chênh lệch đánh giá lại tài
sản, chênh lệch tỷ giá chưa xử lý, vốn kinh phí cấp phát…)
b/ Nguồn vốn vay:
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, hầu như không một doanh
nghiệp nào chỉ SXKD bằng nguồn vốn tự có mà đều phải hoạt động bằng
nhiều nguồn vốn trong đó nguồn vốn vay chiếm tỷ lệ đáng kể, khoảng 70-

90%. Nguồn vốn vay được thực hiện dưới các phương thức chủ yếu sau:
- Tín dụng Ngân hàng. Bao gồm tín dụng ứng trước, tín dụng hạn mức,
chiết khấu thương phiếu, bao thanh toán, tín dụng thuê mua, tín dụng bằng
chữ ký (tín dụng chấp nhận, tín dụng bảo lãnh, tín dụng chứng từ).
- Phát hành trái phiếu.
- Tín dụng Thương mại – là quan hệ tín dụng giữa các nhà doanh
nghiệp, được biểu hiện dưới hình thức mua bán chịu hàng hóa.
4.2. Nhu cầu vốn của các Tổng Công ty Nhà nước:
Các Tổng Công ty đều có quy mô lớn xét trên cả phương diện về vốn
doanh thu, lao động và số doanh nghiệp thành viên tham gia. Vào năm 1997,
sau 3 năm hoạt động, vốn Nhà nước tại các Tổng Công ty Nhà nước mới chỉ
là 73.831 tỷ đồng chiếm 71,9% vốn Nhà nước tại toàn bộ doanh nghiệp nhà
nước (trong đó TCT 91 chiếm 54,5% và TCT 90 chiếm 16,1%) và cho tới
ngày 30/6/2002 theo số liệu kiểm kê tài sản Nhà nước trên toàn quốc vừa
công bố, các Tổng Công ty đã nắm giữ 70% trong 165.000 tỷ đồng vốn Nhà
nước đã được đầu tư cho các doanh nghiệp. Điều này nói lên sự quan tâm của
nhà nước tới việc phát triển các Tổng Công ty. Tuy nhiên, do các TCT đều
Khóa Luận Tốt Ngiệp Trần Đào Nguyên – Trung 1 K37


21

giữ vị trí trọng yếu trong mỗi ngành và trong toàn bộ ngành kinh tế nên nguồn
vốn Nhà nước không thể đáp ứng đầy đủ nhu cầu mở rộng SXKD của các
TCT. Ví dụ như sản lượng thép của Tổng Công ty Thép Việt Nam chiếm
99,6% sản lượng thép của cả nước, sản lượng xi măng của Tổng Công ty Xi
măng chiếm 97,9%, sản lượng điện của Tổng Công ty Điện lực chiếm 94%,
sản lượng than của Tổng Công ty Than chiếm 97%
Các TCT Nhà nước đã đề ra các chiến lược đầu tư, phát triển và đổi
mới công nghệ, thực hiện những dự án nhằm mục đích tăng nhanh về vốn và

thu hút vốn đầu tư nước ngoài, từng bước thực hiện chính sách thị trường.
Một thực tế đặt ra là nhu cầu vốn của các Tổng Công ty là rất lớn. Tình trạng
thiếu vốn hiện nay đang là một lực cản hàng đầu ảnh hưởng đến sự phát triển
của các TCT Nhà nước. Nguồn vốn tự có của các Tổng Công ty hầu như chưa
thể đáp ứng được nhu cầu hoạt động nội bộ, chưa nói tới việc đầu tư phát triển
lâu dài. Nguồn vốn tự có của TCT than mỗi năm chỉ đáp ứng được 30% nhu
cầu vốn thực tế. Còn TCT dầu khí thì tổng lượng vốn cần mỗi năm gấp 2 lần
nguồn vốn tự có. Nguồn vốn đầu tư của nhà nước mỗi năm là rất lớn nhưng
so với việc phát triển và mở rộng các Tổng Công ty thì mới chỉ đáp ứng được
phần nào nhu cầu vốn. Các TCT cũng đã tiến hành vay bạn hàng và ngân
hàng nước ngoài. Đây đều là những nguồn vốn vay có tính ổn định không cao
do nguồn vốn vay từ bạn hàng không dồi dào, vay từ các ngân hàng nước
ngoài đòi hỏi quy trình thẩm định khắt khe.
Chính vì thế, các ngân hàng lớn trong nước đã trở thành nơi đáp ứng
nhu cầu vay vốn cho các TCT. Trước hết, nếu nhìn từ phía khách hàng, vốn
vay các ngân hàng này cho phép các TCT nhanh chóng đi vào ổn định sản
xuất kinh doanh, đây là nguồn có khả năng đáp ứng không chỉ nguồn vốn vay
trung dài hạn cho đầu tư tập trung của toàn TCT mà còn giải quyết được
những bức xúc đối với vốn lưu động của các doanh nghiệp thành viên, nhất là
đối với tổng công ty 90. Nhìn từ phía ngân hàng, cho vay các TCT là cho vay
Khóa Luận Tốt Ngiệp Trần Đào Nguyên – Trung 1 K37


22

nhóm khách hàng lớn, thể hiện ở quy mô các món vay. Trong năm 2001, một
số TCT có số vay tại Ngân hàng Công Thương Việt Nam như sau: Tổng Công
ty xi măng vay 501 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 31% tổng vốn vay các ngân hàng,
Tổng Công ty than vay 485 tỷ đồng, chiếm gần 50% tổng vốn vay các ngân
hàng, Tổng Công ty xây dựng số 1 vay 25 tỷ đồng chiếm 7,5 % tổng vốn vay

ngân hàng, Tổng Công ty xây dựng cầu Thăng Long vay 103 tỷ đồng chiếm
28% tổng vốn vay các ngân hàng. Bước sang 6 tháng đầu năm 2002
1
với mục
tiêu tăng nhanh tỷ trọng cho vay các Tổng Công ty, khối lượng vốn giải ngân
đã chiếm 74% so với năm trước. Điều này phản ánh nhu cầu vốn ngày càng
tăng của TCT và cũng phản ánh mục tiêu và định hướng mở rộng cho vay
các TCT của ngân hàng. Những dự án sau khi được giải ngân đều nhanh
chóng được đưa vào thực hiện, ví dụ như dự án Đuôi hơi Phú Mỹ hay dự án
khí nam Côn Sơn thuộc TCT dầu khí đều đã đi vào hoạt động trong năm
2001. Như vậy nguồn vốn từ ngân hàng trong những năm gần đây đã phát huy
tác dụng to lớn của nó đối với các TCT khi mà việc thiếu vốn đã có lúc tưởng
như bế tắc. Các TCT Nhà nước luôn là những khách hàng tiềm năng của các
NHTM trong hoạt động vay vốn và ngược lại các TCT cũng đã tìm thấy được
nguồn cung cấp vốn ổn định, dồi dào phục vụ cho kế hoạch đầu tư phát triển
và mở rộng SXKD của mình.
III – HOẠT ĐỘNG CHO VAY CÁC TỔNG CÔNG TY NHÀ NƯỚC CỦA
MỘT NHTM.
1. Các đặc điểm của khách hàng là Tổng Công ty Nhà nước:
Ở đây ta tập trung chỉ ra những đặc điểm có ảnh hưởng tới hoạt động
cho vay các Tổng Công ty của một NHTM.
Thứ nhất, khách hàng ở đây là DNNN có quy mô lớn, số lượng ít, có
nhu cầu vay vốn rất lớn, nhất là cho đầu tư tập trung, bao gồm cả của Tổng
Công ty và các đơn vị thành viên. Với số lượng 91 Tổng Công ty trên toàn
quốc, ngân hàng có thể tìm kiếm quan hệ tương đối dễ dàng.
Khóa Luận Tốt Ngiệp Trần Đào Nguyên – Trung 1 K37


23


Thứ hai, nhiều TCT hoạt động sản xuất kinh doanh trên lĩnh vực độc
quyền (chủ yếu là các TCT 91). Yếu tố này kết hợp với tính chất sở hữu Nhà
nước khiến các ngân hàng “an tâm” trong mở rộng cho vay nhóm khách hàng
này. Mặt khác, các Tổng Công ty được thực hiện nhiều dự án đầu tư theo chỉ
định của Chính phủ nên dường như có một sự bảo lãnh chắc chắn từ phía Nhà
nước, tạo một điều kiện thuận lợi căn bản cho ngân hàng.
Thứ ba, theo cơ chế tài chính TCT, ngân hàng có thể cho vay với TCT
hoặc cho vay với doanh nghiệp thành viên dưới hai hình thức có hoặc không
có bảo lãnh của TCT, vì doanh nghiệp thành viên độc lập là những DNNN có
tư cách pháp nhân, có thể vay vốn NHTM quốc doanh không cần thế chấp.
Tuy vậy, việc vay nợ của nó phải trong mức phân cấp của TCT. Tổng Công
ty có nhiều đơn vị thành viên, phân bố trên địa bàn rộng nên gây khó khăn
cho quản lý khi ngân hàng cho vay TCT, rồi TCT lại giao vốn đó cho các
thành viên này. Mặt khác, việc TCT có quyền điều chuyển vốn và tài sản giữa
các thành viên đặt ngân hàng trước một rủi ro lớn khi cho vay các đơn vị
thành viên này.
Thứ tư, các Tổng Công ty nhất là TCT 91 có tiềm lực tài chính mạnh,
có cơ chế hỗ trợ lẫn nhau giữa các thành viên, san xẻ rủi ro, bởi vậy nguy cơ
mất khả năng trả nợ của các doanh nghiệp thành viên giảm đi so với các
DNNN độc lập khác. Tuy vậy khả năng tự chủ tài chính của họ bị giảm đi.
Thứ năm, các TCT có nhiều mối quan hệ phức tạp với các cơ quan
Nhà nước (nhất là các TCT 90), tính hành chính trong các mối quan hệ đó vẫn
còn khá đậm, nên khả năng mở rộng cho vay của ngân hàng với các TCT còn
phụ thuộc nhiều vào quan hệ của ngân hàng với các cơ quan Nhà nước trên.
Đây cũng là điểm các ngân hàng cần hết sức lưu ý trong hoạt động thực tiễn
của mình.
2. Xu hướng tác động của mối quan hệ giữa NHTM với TCTNN đến
nền KTQD:
1 : Tài li


u H

i th

o
đ
ánh giá quan h

tín d

ng v

i TCT Nhà n
ư

c c

a NHCT Vi

t Nam tháng 9/2002

Khóa Luận Tốt Ngiệp Trần Đào Nguyên – Trung 1 K37


24

Ở Việt Nam, thông qua việc cho vay và nhận tiền gửi với số tiền lớn
của Tổng Công ty Nhà nước, lợi ích của các NHTM và các Tổng Công ty Nhà
nước có sự ảnh hưởng, phụ thuộc lẫn nhau do tác động của cơ chế thị trường
“bàn tay vô hình”. Sự liên kết giữa các TCT với ngân hàng trong nước sẽ tạo

ra những tập đoàn kinh doanh thực sự mạnh, đủ sức cạnh tranh và hợp tác đối
với đối tác nước ngoài trong quá trình hội nhập khu vực và quốc tế. Bên cạnh
đó, cũng có thể dẫn đến độc quyền trong một số lĩnh vực quan trọng như điện
lực, bưu chính viễn thông, dầu khí… Vấn đề đặt ra là các Tổng Công ty Việt
Nam có làm lũng đoạn nền kinh tế hay không? Chúng ta đều biết rằng, hiện
nay các TCT lớn đều thuộc sở hữu Nhà nước, nền kinh tế Nhà nước sẽ phát
triển theo một mục tiêu thống nhất. Tuy nhiên, với xu hướng đa số NHTM đổ
xô vào quan hệ tín dụng với TCT mạnh và sự thay đổi sở hữu khi cổ phần hóa
các TCT cũng có thể dẫn tới độc quyền và lũng đoạn ở một mức độ nhất định.
3. Vai trò hoạt động cho vay các Tổng Công ty Nhà nước của
NHTM:
3.1. Nhìn từ phía khách hàng:
Vốn vay ngân hàng cho phép các TCT Nhà nước nhanh chóng đi vào
ổn định sản xuất kinh doanh khi mới được thành lập. Ngân hàng cũng là
nguồn có khả năng đáp ứng nhu cầu vốn vay trung, dài hạn cho đầu tư tập
trung của toàn TCT, vốn lưu động của các doanh nghiệp thành viên. Mặt
khác, hoạt động cho vay của ngân hàng đối với TCT góp phần tăng cường
quan hệ nội bộ TCT, tạo sự kết dính giữa TCT và các thành viên và giữa các
thành viên với nhau, nhất là về mặt tài chính. TCT thể hiện được vai trò của
mình trong bảo lãnh vay vốn ngân hàng cho các TCT, hoặc trực tiếp vay vốn
giao cho doanh nghiệp thành viên sử dụng mà trước đây khi ở ngoài TCT các
doanh nghiệp này khó được vay vốn ngân hàng. Vốn vay ngân hàng còn tạo
điều kiện để các TCT hoàn thành các nhiệm vụ Nhà nước giao.
3.2. Nhìn từ phía ngân hàng:
Khóa Luận Tốt Ngiệp Trần Đào Nguyên – Trung 1 K37


25

Cho vay các TCT là cho vay nhóm các khách hàng lớn, thể hiện ở quy

mô các món vay. Các món vay đó thường lớn gấp nhiều lần so với các DNNN
độc lập khác, góp phần tăng nhanh dư nợ, đóng góp lớn vào thu nhập của
ngân hàng. Qua cho vay các TCT hoạt động trên các lĩnh vực kinh tế - kỹ
thuật nhất định, ngân hàng có điều kiện nâng cao trình độ chuyên môn hoá,
tập trung trong quản lý; đồng thời qua đó các NHTM đã góp phần thực hiện
nhiều chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước.
Tuy nhiên, các Tổng Công ty ở nước ta vẫn chủ yếu kinh doanh trên
một lĩnh vực. Kinh doanh đa ngành, đa lĩnh vực mới chỉ là định hướng phấn
đấu mà trên thực tế chưa thực hiện được là bao. Do đó Tổng Công ty chỉ có
thể san xẻ, trung hoà những rủi ro, khó khăn riêng biệt, không có tính hệ
thống giữa các thành viên. Những rủi ro mang tính hệ thống, những khó khăn
đối với toàn ngành (suy giảm cầu, cạnh tranh ) mà hầu như tất cả các thành
viên đều phải đối mặt đặt ngân hàng chuyên cho vay các lĩnh vực đó trước rủi
ro lớn. Mặt khác, việc tập trung số vốn lớn cho vay một nhóm khách hàng
TCT là ngân hàng đang chấp nhận rủi ro “để nhiều trứng vào một giỏ” theo lý
thuyết cho vay của NHTM. Đây là những điều ngân hàng cần cân nhắc với
các lợi thế khi đầu tư vào các Tổng Công ty.
4. Các nhân tố ảnh hưởng đến quan hệ vay vốn của Tổng Công ty
Nhà nước và NHTM:
4.1. Về phía doanh nghiệp:
a/ Năng lực thị trường của doanh nghiệp:
Biểu hiện ở các mặt như: Khối lượng sản phẩm tiêu thụ với chất lượng
sản phẩm như thế nào, có phù hợp với thị hiếu khách hàng không, có đáp ứng
được yêu cầu thị trường không? Vị trí của doanh nghiệp trong nền kinh tế như
thế nào? Đối với thị trường trong nước và quốc tế ra sao? Quá khứ, hiện tại và
tương lai phát triển của doanh nghiệp cũng như ngành kinh tế đó? Hệ thống
mạng lưới tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp như thế nào? Mối quan hệ đối

×