Chuyên đề tốt nghiệp
LỜI NÓI ĐẦU
Hội nhập kinh tế là một xu hướng tất yếu và đang diễn ra rất mạnh mẽ,
cùng với đó là sự phát triển ngày càng đa dạng của các loại hình sản xuất kinh
doanh, trong đó có lĩnh vực tài chính. Tốc độ phát triển kinh tế phụ thuộc
nhiều vào sự phát triển của các doanh nghiệp. Nằm trong guồng quay chung
của sự phát triển nền kinh tế khu vực và thế giới - các doanh nghiệp Việt
Nam, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN) cũng không tránh
được sự chi phối đó. Để đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển của các
DNNVV thì nguồn lực tài chính là một trong những yếu tố quan trọng nhất,
giúp các DNNVV nắm bắt được các cơ hội đầu tư mở rộng sản xuất kinh
doanh, đổi mới công nghệ và nâng cao năng lực cạnh tranh.
Vốn luôn là khó khăn lớn nhất đối với sự tăng trưởng của DNVVN.
Các nhà đầu tư, các tổ chức tài chính thường e ngại khi tài trợ cho các doanh
nghiệp này bởi các DNVVN chưa có uy tín trên thị trường cạnh tranh, chưa
tạo lập được khả năng trả nợ và các DNVVV luôn được xem là đối tượng
khách hàng chứa đựng quá nhiều rủi ro. Với đặc điểm của các DNVVN là
quy mô nhỏ, vốn chủ sở hữu thấp, năng lực tài chính chưa cao, thiếu tài sản
thế chấp, khả năng xây dựng các dự án có tính khả thi còn yếu, số liệu thông
tin kế toán chưa đáng tin cậy… nên các doanh nghiệp rất khó tìm được người
bảo lãnh cho mình trong quan hệ tín dụng. Đó cũng là lý do mà các DNVVN
khó tiếp cận được vốn tín dụng của các ngân hàng thương mại và đang là một
trở ngại lớn cho các DNVVN hiện nay.
Việc ngày càng mở rộng về quy mô của hệ thống các ngân hàng cộng
với môi trường cạnh tranh gay gắt như hiện nay thì việc hỗ trợ phát triển
DNVVN là nhiệm vụ hết sức rất cần thiết đảm bảo cho sự phát triển lâu dài
của nền kinh tế. Không ngoại trừ xu thế đó, Ngân hàng nông nghiệp và phát
triển nông thôn tỉnh Quảng Bình (NHNo &PTNT) đã không ngừng hoàn thiện
và nâng cao chất lượng tín dụng, đa dạng hoá cung ứng sản phẩm dịch vụ
Nguyễn Thị Hải TCDN 46Q
1
Chuyên đề tốt nghiệp
bằng các chiến lược và chính sách ưu đãi nhằm thu hút khách hàng mới. Việc
hướng các sản phẩm dịch vụ vào các DNVVN, đặc biệt là các sản phẩm cho
vay đối với doanh nghiệp đã đem lại cho NHNo&PTNT tỉnh Quảng Bình
doanh số hoạt động đáng kể, điều này góp phần nâng cao vị thế và năng lực
cạnh tranh của ngân hàng trên thị trường tài chính nói chung và hệ thống các
ngân hàng thương mại nói riêng.
Xuất phát từ kết quả đạt được và những gì chưa làm được và để định
hướng cho thời gian tới NHNo&PTNT tỉnh Quảng Bình cần có những giải
pháp như thế nào nhằm hướng việc cung ứng sản phẩm cho vay vào các
DNVVN một cách có hiệu quả hơn, quy mô hơn. Tôi chọn nghiên cứu đề tài:
"Một số giải pháp nhằm mở rộng hoạt động cho vay đối với các doanh
nghiệp vừa và nhỏ tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh
Quảng Bình".
Ngoài lời mở đầu và kết luận, đề tài chia thành 3 chương.
Chương 1: Mở rộng hoạt động cho vay của NHTM đối với DNVVN -
những vấn đề cơ bản
Chương 2: Thực trạng hoạt động cho vay đối với DNVVN tại NHNo&
PTNT tỉnh Quảng Bình
Chương 3: Một số giải pháp nhằm mở rộng hoạt động cho vay DNVVN
tại NHNo&PTNT tỉnh Quảng Bình
Nguyễn Thị Hải TCDN 46Q
2
Chuyên đề tốt nghiệp
Chương 1
MỞ RỘNG HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI ĐỐI VỚI CÁC DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ -
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN
1.1 Doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nền kinh tế quốc dân
1.1.1 Khái niệm
Trong nền kinh tế Việt Nam, DNVVN là bộ phận doanh nghiệp rất
quan trọng, đóng góp đáng kể vào Ngân sách Nhà nước, giải quyết công ăn
việc làm cho hàng triệu lao động, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế… Các
DNVVN là một bộ phận doanh nghiệp phong phú với đủ mọi loại hình doanh
nghiệp từ Hộ kinh doanh cá thể, tổ hợp tác xã đến các Doanh nghiệp tư nhân,
Công ty trách nhiệm hữu hạn, Công ty cổ phần… kinh doanh trên nhiều lĩnh
vực, ngành nghề khác nhau. Chiếm tỷ trọng tương đối cao, trên 90% tổng
doanh nghiệp hiện có trên cả nước, các DNVVN đang hoạt động trong môi
trường kinh tế chưa hoàn toàn thuận lợi cả tầm vĩ mô và vi mô. Mặc dù chiếm
tỷ trọng lớn như thế nhưng hầu hết các DNVVN đều có quy mô nhỏ cả về vốn
và lao động.
Tuỳ theo đặc điểm và quy định của mỗi nước mà DNVVN được định
nghĩa theo các cách khác nhau. Tuy nhiên DNVVN được định nghĩa một cách
chung nhất: DNVVN là những cơ sở sản xuất kinh doanh có tư cách pháp
nhân; kinh doanh vì mục tiêu lợi nhuận; có quy mô doanh nghiệp trong những
giới hạn nhất định tính theo các tiêu thức vốn, lao động, doanh thu, giá trị gia
tăng thu được trong từng thời kỳ quy định của từng quốc gia (Nguồn: Giải
pháp phát triển DNVVN ở Việt Nam của Nguyễn Đình Hương - Nhà xuất bản
thống kê 2002).
Ở Việt Nam, DNVVN là những cơ sở sản xuất kinh doanh có tư cách
pháp nhân, không phân biệt thành phần kinh tế, có quy mô vốn và lao động
Nguyễn Thị Hải TCDN 46Q
3
Chuyên đề tốt nghiệp
tuỳ theo quy định của Chính phủ đối với từng ngành nghề tương ứng với từng
thời kỳ phát triển của nền kinh tế.
Theo quy định số 90/2001/NĐ-CP của Chính phủ ngày 23/11/2001 thì
DNVVN là cơ sở sản xuất kinh doanh độc lập, có đăng ký kinh doanh theo
pháp luật hiện hành, có vốn đăng ký không quá 10 tỷ đồng hoặc số lao động
trung bình hàng năm không quá 300 người.
1.1.2 Đặc điểm
- DNVVN có cơ cấu tổ chức đơn giản, linh hoạt.
Các DNVVN thường có cơ cấu tổ chức đơn giản, số lượng lao động ít
vì thế các doanh nghiệp này rất năng động linh hoạt, dễ chuyển hướng sản
xuất kinh doanh. Trong điều kiện cạnh tranh gay gắt như hiện nay, việc thâm
nhập được vào thị trường sẽ đem lại cho doanh nghiệp nhiều thành công. Lợi
nhuận của doanh nghiệp chỉ thu được tối đa khi sản phẩm hàng hoá đang
trong giai đoạn tăng trưởng, và khi sản phẩm hàng hoá đến giai đoạn suy
thoái, bị thị trường từ chối thì các DNVVN với quy mô vừa hoặc nhỏ sẽ dễ
dàng chuyển hướng sản xuất, lựa chọn mặt hàng kinh doanh có lợi nhất, phù
hợp nhất với khả năng của mình. Hơn nữa, những người điều hành quản lý
doanh nghiệp phần lớn là chủ sở hữu của doanh nghiệp hoặc là người góp vốn
lớn nhất nên họ được toàn quyền ra tất cả các quyết định có liên quan đến
doanh nghiệp. Cũng do hoạt động hẹp, chủ sở hữu vừa là người đầu tư vừa là
người quản lí nên các doanh nghiệp này được tự do hành động. Sự gắn bó sát
sao của chủ doanh nghiệp với quyền lợi của người lãnh đạo khiến họ phải tập
trung hết trí lực cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Vì họ có khả
năng tự quyết nên họ có thể chớp lấy những cơ hội kinh doanh thuận lợi, tạo
điều kiện cho khả năng thích ứng nhanh với sự biến động của thị trường và sự
thay đổi của khoa học kĩ thuật. Còn đối với các doanh nghiệp lớn, do quy mô
lớn cả về lao động và vốn nên thiếu sự linh động, khó phản ứng kịp thời với
những biến động của thị trường, mà hầu hết các doanh nghiệp này thường có
Nguyễn Thị Hải TCDN 46Q
4
Chuyên đề tốt nghiệp
chủ sở hữu là Nhà nước nên bị động trong sản xuất kinh doanh, chiến lược
kinh doanh phụ thuộc vào chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của Chính
phủ, vì thế có lúc mục tiêu lợi nhuận phải nhường chỗ cho mục tiêu phát triển.
- Mặc dù là nơi tạo việc làm chủ yếu trong mọi lĩnh vực. Mỗi năm thu hút
hàng triệu lao động nhưng hầu hết chất lượng lao động trong các DNVVN rất
thấp vì các doanh nghiệp này thường tận dụng nguồn lao động rẽ tại địa
phương, họ ít được đào tạo về chuyên môn, nghiệp vụ do đó hiệu quả lao
động chưa cao. Hơn nữa, các doanh nghiệp này có vốn ít nên hiếm có các
chương trình đào tạo giúp nâng cao tay nghề cho lao động của doanh nghiệp.
- Nói đến DNVVN ở Việt Nam chủ yếu là nói đến các doanh nghiệp thuộc
khu vực kinh tế ngoài quốc doanh. Do tính lịch sử của quá trình hình thành
và phát triển các thành phần kinh tế nên hầu hết các DNVVN ở nước ta đều
thuộc khu vực kinh tế ngoài quốc doanh. Vì vậy, đặc điểm và tính chất của
các doanh nghiệp thuộc khu vực này mang tính đại diện cho DNVVN .
- Các DNVVN phong phú với đủ mọi loại hình doanh nghiệp như hộ kinh
doanh cá thể, tổ hợp tác, doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn,
công ty cổ phần và kinh doanh trên nhiều lĩnh vực, ngành nghề khác nhau nên
các DNVVN cung cấp một khối lượng sản phẩm đa dạng cho xã hội. Đặc biệt
trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá như hiện nay thì sự phát triển
của các DNVVN là cách thức tốt nhất để sản xuất hàng hoá thay thế hàng
nhập khẩu. Nhờ quy mô nhỏ, chi phí sản xuất kinh doanh thấp vì tận dụng
được nguồn lao động, nguyên vật liệu rẻ tại địa phương, nên các DNVVN có
khả năng chuyên môn hoá sâu, có thể sản xuất một mặt hàng thay thế nhập
khẩu có chất lượng tốt, giá thành phù hợp với sức mua của nhân dân từ đó
góp phần ổn định đời sống xã hội, thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế.
- Các DNVVN ở Việt Nam thường có công nghệ lạc hậu, thủ công.
Hầu hết các DNVVN ở Việt Nam đều sử dụng công nghệ lạc hậu từ 15-
20 năm nên sản phẩm làm ra thường có giá trị công nghệ thấp, hàm lượng
Nguyễn Thị Hải TCDN 46Q
5
Chuyên đề tốt nghiệp
chất xám ít, giá trị thương mại và sức cạnh tranh kém so với sản phẩm cùng
loại của các quốc gia trong khu vực và trên thế giới. Tình trạng máy móc thiết
bị, công nghệ lạc hậu đã và đang là nguyên nhân chính của tình trạng lãng phí
trong sử dụng nguyên nhiên vật liệu và ô nhiễm môi trường…
Do chủ yếu tận dụng nguồn lao động tại địa phương với trình độ kỹ
thuật tay nghề thấp nên khả năng tiếp cận với những công nghệ máy móc hiện
đại là rất khó. Hơn nữa các doanh nghiệp vừa và nhỏ có quy mô vốn nhỏ, khả
năng huy động vốn lại ít nên thường gặp khó khăn trong việc đầu tư đổi mới
công nghệ.
- Trình độ quản lý của chủ DNVVN bị hạn chế, thiếu thông tin trong khi đó
lại khó có khả năng thu hút các nhà quản lý và lao động giỏi. Do khả năng tài
chính có hạn, DNVVN thường gặp khó khăn trong việc tiếp cận thông tin thị
trường, công nghệ sản xuất và công nghệ quản lý tiên tiến cũng như ít có khả
năng mua sắm những thiết bị hiện đại. Mặt khác, phần lớn các DNVVN được
thành lập do sự góp vốn của những người có vốn, khả năng quản lý của họ có
hạn nên thường gặp lúng túng khi có biến động lớn trên thị trường. Các nhà
quản lý doanh nghiệp chưa được đào tạo, thiếu sự hiểu biết đầy đủ về quản lý
doanh nghiệp trong khi điều kiện hội nhập và cạnh tranh. Hơn nữa do quy mô
sản xuất nhỏ, sản phẩm tiêu thụ không nhiều, các DNVVN khó có thể trả lương
cao cho người lao động nên khó có khả năng thu hút những người lao động có
trình độ cao trong sản xuất kinh doanh và quản lý điều hành doanh nghiệp.
- Các DNVVN có năng lực tài chính thấp.
Vốn luôn là khó khăn lớn nhất đối với sự tăng trưởng của DNVVN.
Khi mới thành lập, phần lớn các DNVVN thường gặp phải vấn đề về vốn. Các
nhà đầu tư, các tổ chức tài chính thường e ngại khi tài trợ cho các doanh
nghiệp này bởi các DNVVN chưa có uy tín trên thị trường cạnh tranh, chưa
tạo lập được khả năng trả nợ. Vốn chủ sở hữư thấp, năng lực tài chính chưa
cao, nếu chưa tạo được năng lực bằng uy tín kinh doanh và hiệu quả sử dụng
Nguyễn Thị Hải TCDN 46Q
6
Chuyên đề tốt nghiệp
vốn thì doanh nghiệp rất khó tìm được người bảo lãnh cho mình trong quan
hệ tín dụng. Vì thế DNVVN rất khó tiếp cận nguồn vốn tín dụng của các
Ngân hàng thương mại. Muốn vay vốn được từ nguồn tín dụng của các ngân
hàng thương mại thì các DNVVN phải tạo lập được dự án đầu tư có tính khả
thi nhưng do trình độ, khả năng quản lý kinh doanh của chủ doanh nghiệp
thấp, khả năng dự báo trước những sự biến động của ngành, của nền kinh tế
kém nên việc xây dựng các kế hoạch tài chính, phương án sản xuất kinh
doanh của không ít DNVVN còn yếu trong khi dịch vụ tư vấn hỗ trợ doanh
nghiệp lại chưa phát triển. Mặt khác, không ít các DNVVN lập báo cáo tài
chính chưa rõ ràng, không minh bạch do yếu kém về quản trị doanh nghiệp
nên các báo cáo tài chính không đáp ứng được yêu cầu. Bên cạnh đó vẫn còn
những doanh nghiệp lập báo cáo chỉ để đối phó với cơ quan Thuế nên đã cố
tình làm giảm khấu hao tài sản, tăng nợ… Một số doanh nghiệp còn làm trái
chức năng, trái pháp luật, sử dụng giấy tờ giả để lừa cơ quan quản lý Nhà
nước trong việc xin hoàn thuế hoặc góp vốn liên doanh, liên kết… Do nguồn
tài chính hạn hẹp, quá trình tích tụ và tập trung vốn thấp, khả năng xây dựng
các dự án khả thi yếu, nhiều doanh nghiệp còn hoạt động kinh doanh theo
thương vụ, không có chiến lược phát triển cụ thể nên mức độ rủi ro cao, trong
khi các báo cáo tài chính không đủ sức thuyết phục do chưa chấp hành tốt
công tác kế toán, một số doanh nghiệp chưa nhận thức đúng, đầy đủ nghĩa vụ
và trách nhiệm pháp lý trong việc đăng ký kinh doanh nên việc tiếp cận vốn
tín dụng từ các kênh thương mại cũng như ưu đãi đều rất hạn chế. Như vậy
với quy mô vốn nhỏ, khả năng tiếp cận các nguồn tài chính lại khó khăn nên
tiềm lực tài chính của các DNVVN đã thấp lại càng thấp hơn, do đó khả năng
cạnh tranh của các DNVVN trên thị trường không cao lắm.
Với những đặc điểm nổi bật của các DNVVN ở Việt Nam như trên,
cộng với môi trường cạnh tranh gay gắt như hiện nay thì việc hỗ trợ phát triển
Nguyễn Thị Hải TCDN 46Q
7
Chuyên đề tốt nghiệp
DNVVN là nhiệm vụ hết sức cần thiết đảm bảo cho sự phát triển lâu dài của
nền kinh tế.
1.1.3 Vai trò của DNVVN trong nền kinh tế quốc dân
Ở mỗi nền kinh tế quốc gia hay lãnh thổ, các DNVVN có thể giữ những
vai trò với mức độ khác nhau, song nhìn chung có một số vai trò tương đồng
như: giữ vai trò quan trọng trong nền kinh tế, giữ vai trò ổn định nền kinh tế,
làm cho nền kinh tế năng động, tạo nên ngành công nghiệp và dịch vụ phụ trợ
quan trọng, là trụ cột của kinh tế địa phương… Trong bối cảnh cạnh tranh gay
gắt như hiện nay để góp phần thúc
đẩy tăng trưởng kinh tế thì yêu cầu các nước, đặc biệt là các nước đang
phát triển cần có các chính sách hỗ trợ phát triển DNVVN. Có như vậy mới
huy động được tối đa nguồn lực xã hội, góp phần hỗ trợ các doanh nghiệp lớn
phát triển, nâng cao năng lực cạnh tranh trên thị trường. Điều đó được thể
hiện cụ thể như sau:
Thứ nhất, Về số lượng: Các DNVVN là bộ phận kinh tế chiếm ưu thế
tuyệt đối, có mặt ở hầu hết mọi thành phần kinh tế với đủ các loại hình kinh
doanh đa dạng. Ở nước ta các DNVVN chiếm tỷ trọng trên 90% tổng số các
doanh nghiệp trong nền kinh tế, con số này còn ở mức cao hơn ở một số nước
phát triển như Đức, Nhật. Đối với một số nước Châu Á như Singapo, Malaixia,
Hàn Quốc… các DNVVN chiếm từ 81- 98% tổng số doanh nghiệp (Nguồn:
Thông tin DNVVN - www.smenet.com.vn). Như vậy, mới chỉ nhìn vào những
con số này chúng ta đã thấy được vai trò của các DNVVN trong nền kinh tế
quan trọng như thế nào. Với số lượng như vậy, hàng năm các DNVVN đóng
góp rất đáng kể vào GDP của cả nước (khoảng 25% GDP), giải quyết việc làm
cho hàng vạn lao động. Nếu nhìn vào tốc độ tăng trưởng như hiện nay thì có
thể thấy rằng tiềm năng phát triển để đạt được những mục tiêu kinh tế - xã hội
đã đề ra trong giai đoạn tới phụ thuộc nhiều vào sự phát triển của các DNVVN
chứ không chỉ phụ thuộc vào các chương trình dự án lớn.
Nguyễn Thị Hải TCDN 46Q
8
Chuyên đề tốt nghiệp
Thứ hai, DNVVN đóng vai trò quan trọng trong việc thu hút lao động,
tạo công ăn việc làm với chi phí đầu tư thấp, giảm thất nghiệp góp phần ổn
định và phát triển xã hội.
Ở nước ta theo ước tính hàng năm các DNVVN thu hút khoảng 7,8
triệu lao động tương đương với 26% lao động của cả nước; trong đó số lao
động được thu hút vào các ngành công nghiệp chiếm tỷ trọng lớn nhất
(35,7%), sau đó đến các ngành thương mại - dịch vụ (19,5%), xây dựng
(15,6%)… Con số này cho thấy vai trò của DNVVN lớn hơn rất nhiều so với
DNNN trong việc thu hút lao động, tạo công ăn việc làm góp phần giải quyết
tốt sức ép thất nghiệp đang ngày càng gia tăng.
Thứ ba, Nhờ việc thu hút hàng triệu lao động mỗi năm các DNVVN đã
tạo ra nguồn thu nhập ổn định thường xuyên cho dân cư, góp phần quan trọng
trong việc tạo lập sự phát triển cân bằng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo
vùng, lãnh thổ.
Phần lớn các doanh nghiệp, các tập đoàn kinh tế lớn thường chỉ tập trung
đáp ứng nhu cầu của một nhóm khách hàng nhất định có mức thu nhập cao ở
các vùng đô thị, nơi có cơ sở hạ tầng phát triển, dân cư đông đúc, thị trường
tiêu thụ rộng. Vì thế họ đã bỏ qua đoạn thị trường rất quan trọng đó là bộ phận
khách hàng có mức thu nhập thấp hơn nhưng lại chiếm tỷ trọng khá lớn trong
nền kinh tế. Đây là đoạn thị trường có tiềm năng rất lớn để cho các DNVVN
xâm nhập, tạo chỗ đứng cho riêng mình nhưng đồng thời nó cũng giúp cân đối
được khả năng cung cầu trong xã hội, đáp ứng được cho nhu cầu phần lớn cho
bộ phận dân cư có mức thu nhập thấp, nâng cao mức sống cho họ. Hơn nữa các
doanh nghiệp lớn không đáp ứng được tất cả các yêu cầu của nền kinh tế như
lưu thông hàng hoá, phát triển ngành nghề truyền thống, tiểu thủ công
nghiệp… Trong khi đó các DNVVN với quy mô nhỏ; cấu tổ chức đơn giản,
linh hoạt; mặt khác vốn của hầu hết các doanh nghiệp này là do những chủ thể
kinh doanh tự nguyện bỏ ra, hoặc do các cổ đông đóng góp hoặc do liên doanh
Nguyễn Thị Hải TCDN 46Q
9
Chuyên đề tốt nghiệp
liên kết… vì thế họ có quyền tự chủ trong sản xuất kinh doanh, có quyền quyết
định ngành nghề kinh doanh phù hợp với khả năng, trình độ cũng như nhu cầu
thị trường. Đây là những điều kiện quan trọng giúp các DNVVN từng bước
khai thác những tiềm năng của các vùng miền mà các doanh nghiệp lớn không
thể tiếp cận được; góp phần làm giảm bớt chênh lệch về thu nhập giữa các bộ
phận dân cư, tạo ra sự phát triển tương đối đồng đều giữa các vùng của đất
nước, cải thiện mối quan hệ kinh tế giữa các khu vực khác nhau.
Thứ tư, DNVVN có vai trò quan trọng trong việc khai thác nguồn tài
chính của dân cư trong vùng và sử dụng tối ưu nguồn lực tại chỗ của các địa
phương. Để thành lập doanh nghiệp thuộc loại này thì chỉ cần một số vốn nhỏ
do đó đã tạo điều kiện cho dân cư tham gia đầu tư góp vốn. Như vậy thông qua
DNVVN những nguồn vốn nhỏ, tạm thời nhàn rỗi đã có khả năng được sinh
lời. Hơn nữa việc tiếp cận nguồn vốn tín dụng Ngân hàng của DNVVN rất hạn
chế, nguồn vốn hoạt động chủ yếu được huy động từ những nguồn thân quen.
Vì thế DNVVN được tiếp xúc với người cho vay, người cho vay có khi là chủ
sở hữu doanh nghiệp, trực tiếp điều hành hoạt động của doanh nghiệp nên việc
sử dụng vốn sẽ hiệu quả hơn. Bên cạnh đó các DNVVN có thể tận dụng được
nguồn lao động và nguyên liệu với giá rẻ, do đó làm giảm chi phí sản xuất, hạ
giá thành sản phẩm, tạo lợi thế cạnh tranh cho các doanh nghiệp trong việc tiêu
thụ sản phẩm. Như vậy, sự phát triển của các DNVVN đã tận dụng được tối đa
các nguồn lực của xã hội, tạo công ăn việc làm cho nhiều lao động có trình độ
tay nghề thấp, góp phần làm ổn định và phát triển xã hội.
Thứ năm, DNVVN có mặt trong rất nhiều ngành nghề, lĩnh vực khác
nhau và tồn tại như một bộ phận không thể thiếu của nền kinh tế. Nó có tác
dụng hỗ trợ, bổ sung, thúc đẩy các doanh nghiệp lớn phát triển. DNVVN là
một bộ phận hữu cơ gắn bó chặt chẽ với các doanh nghiệp lớn, là cơ sở để
hình thành nên các tập đoàn kinh tế lớn trong quá trình phát triển nền kinh tế
thị trường. Ngoài ra, các DNVVN cũng là đầu mối cung cấp đầu vào hay
Nguyễn Thị Hải TCDN 46Q
10
Chuyên đề tốt nghiệp
tham gia vào một khâu nào đó trong quá trình sản xuất kinh doanh của các
doanh nghiệp lớn. Chính điều này đã làm tăng khả năng hoạt động cho các
doanh nghiệp trên thị trường, tạo mối liên kết chặt chẽ giữa các loại hình
doanh nghiệp, các thành phần kinh tế góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh
cho các doanh nghiệp.
Thứ sáu, DNVVN góp phần hình thành và phát triển đội ngũ các nhà
kinh doanh năng động, sáng tạo. Cùng với việc phát triển các DNVVN là sự
xuất hiện của nhiều nhà kinh doanh trên nhiều lĩnh vực, đây là lực lượng rất
cần thiết góp phần thúc đẩy sản xuất kinh doanh ở nước ta phát triển. Đội ngũ
các nhà kinh doanh hiện nay ở Việt Nam còn rất khiêm tốn cả về số lượng và
chất lượng do chế độ cũ để lại. Trong nhiều năm đổi mới đã xuất hiện nhiều
gương mặt trẻ điển hình, năng động và sáng tạo trong quá trình điều hành,
quản lý DNVVN. Với chính sách hỗ trợ các DNVVN sẽ tạo điều kiện thuận
lợi cho đội ngũ các nhà kinh doanh trẻ phát huy năng lực của mình đóng góp
vào sự phát triển chung của xã hội.
Thứ bảy, Sự phát triển của các DNVVN tạo ra môi trường cạnh tranh
thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển có hiệu quả hơn. Sự tham gia của rất
nhiều các DNVVN vào quá trình sản xuất kinh doanh làm cho số lượng và
chủng loại sản phẩm tăng lên rất nhanh. Kết quả làm tăng tính cạnh tranh trên
thị trường, tạo ra sức ép lớn buộc các doanh nghiệp thường xuyên đổi mới
mặt hàng, giảm chi phí, tăng chất lượng để thích ứng với môi trường cạnh
tranh. Những yếu tố đó tác động lớn làm cho nền kinh tế phát triển năng động
và hiệu quả hơn.
Với vai trò to lớn của các DNVVN trong nền kinh tế quốc dân thì việc
khuyến khích, hỗ trợ các doanh nghiệp này là một giải pháp quan trọng để
thực hiện chiến lược phát triển kinh tế xã hội đến năm 2010, đặc biệt là thực
hiện chương trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn. Đây
cũng là một trong các giải pháp đảm bảo cho sự phát triển bền vững của nền
Nguyễn Thị Hải TCDN 46Q
11
Chuyên đề tốt nghiệp
kinh tế nước ta. Vì vậy, Chính phủ cần đưa ra các chính sách phát triển hợp lý
tạo điều kiện tốt nhất để các DNVVN phát huy được tối đa vai trò của mình
trong quá trình phát triển kinh tế đất nước.
1.2 Hoạt động cho vay của Ngân hàng thương mại
1.2.1 Khái niệm hoạt động cho vay
Cho vay là một hình thức của cấp tín dụng, theo đó tổ chức tín dụng
giao cho khách hàng sử dụng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích và thời
gian nhất định theo thoả thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi.
1.2.2 Vai trò của NHTM trong hoạt động cho vay
Cho vay là hoạt động mang tính chất sống còn đối với hầu hết các ngân
hàng thương mại. Đây không chỉ là khoản sử dụng vốn lớn nhất của ngân hàng,
mà còn là nguồn tạo ra thu nhập lớn nhất trong tất cả các tài sản có sinh lợi.
Hơn thế nữa, chính chức năng cho vay này có thể dẫn đến những rủi ro lớn
nhất mà các ngân hàng nói chung phải chấp nhận. Sự sụp đổ của một ngân
hàng thương mại thường có liên hệ với những vấn đề tồn tại trong danh mục
các khoản cho vay hơn là từ sự thua lỗ ở các loại tài sản có khác. Phần lớn quỹ
của ngân hàng đều được dùng để cho vay; mức doanh lợi chủ yếu được sản
sinh từ các khoản cho vay, và gánh nặng rủi ro kinh doanh cũng tập trung ở
đây.
Cho vay có ý nghĩa rất lớn đối với từng chủ thể kinh tế cũng như đối
với nền kinh tế đất nước và nó cũng đóng vai trò quan trọng trong việc thực
hiện chức năng xã hội của ngân hàng trong nền kinh tế. Cho vay là lý do tồn
tại cơ bản đối với ngân hàng thương mại. Tín dụng ngân hàng là nhu cầu cần
thiết của tất cả các chủ thể và thành phần khác nhau trong nền kinh tế. Việc
đáp ứng nhu cầu tín dụng này có thể được xem như là một cam kết hay nghĩa
vụ xã hội của ngân hàng trong khuôn khổ của khả năng sinh lợi và rủi ro. Hệ
thống ngân hàng cung cấp tín dụng để hỗ trợ cho việc mua hàng hóa và dịch
vụ và để hỗ trợ cho đầu tư (như xây dựng nhà cửa, xa lộ, cầu cống và những
Nguyễn Thị Hải TCDN 46Q
12
Chuyên đề tốt nghiệp
công trình kiến trúc khác, cũng như để mua máy móc và thiết bị). Đầu tư làm
gia tăng năng suất các nguồn của cải xã hội và tạo ra mức sống cao hơn cho
cá nhân và gia đình. Khi tín dụng ngân hàng khan hiếm và chi phí cao thì chi
tiêu trong nền kinh tế chậm lại và nạn thất nghiệp thường gia tăng. Các biến
động về tín dụng ngân hàng cũng có tác động lên lạm phát. Điều này không
có gì đáng ngạc nhiên, bởi vì tiền gửi ngân hàng là một trong những thành
phần lớn nhất của cung tiền tệ được sử dụng bởi công chúng và những thay
đổi về cung tiền tệ có quan hệ chặt chẽ với những thay đổi về giá cả hàng hóa
và dịch vụ trong nền kinh tế. Còn tiền gửi vào ngân hàng lại có mối liên hệ
với các khoản cho vay của ngân hàng. Các khoản cho vay gần như luôn luôn
được thực hiện bằng cách nâng số dư tài khoản của khách hàng nếu như
khách hàng đó có sẵn tài khoản tiền gửi tại ngân hàng, hoặc bằng cách mở
một tài khoản tiền gửi cho số tiền vay nếu người vay là một khách hàng mới.
Như vậy, khi một ngân hàng cho một cá nhân hoặc doanh nghiệp vay, thì nó
tạo ra trên sổ sách của nó một tài khoản tiền gửi dành cho quyền lợi của người
đi vay, nghĩa là ngân hàng mở rộng cung tiền tệ bằng cho vay.
Hoạt động cho vay có tính phức tạp, vì chức năng cho vay đóng vai trò
cơ bản đối với các ngân hàng, và mức độ rủi ro ở từng khoản cho vay có
nhiều khác biệt. Ngân hàng phải đánh giá lợi tức mang lại và những đặc điểm
rủi ro của các khoản cho vay và phải thẩm định mức độ hấp hẫn tương đối
giữa các loại cho vay khác nhau.
1.2.3 Các phương thức cho vay của NHTM đối với các DNVVN
- Cho vay từng lần: Mỗi lần vay vốn khách hàng và tổ chức tín dụng
làm thủ tục vay vốn cần thiết và ký kết hợp đồng tín dụng.
- Cho vay theo hạn mức tín dụng: Tổ chức tín dụng và khách hàng xác
định và thoả thuận một hạn mức tín dụng duy trì trong thời hạn nhất định
hoặc theo chu kỳ sản xuất, kinh doanh.
- Cho vay theo dự án đầu tư: Tổ chức tín dụng cho khách hàng vay vốn
Nguyễn Thị Hải TCDN 46Q
13
Chuyên đề tốt nghiệp
để thực hiện các dự án đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và các
dự án đầu tư phục vụ đời sống.
- Cho vay hợp vốn: Một nhóm tổ chức tín dụng cùng cho vay đối với một
dự án vay vốn hoặc phương án vay vốn của khách hàng; trong đó, có một tổ
chức tín dụng làm đầu mối dàn xếp, phối hợp với các tổ chức tín dụng khác.
Việc cho vay hợp vốn thực hiện theo quy định của quy chế này và quy chế đồng
tài trợ của các tổ chức tín dụng do Thống đốc Ngân hàng Nhà nước ban hành.
- Cho vay trả góp: Khi vay vốn, tổ chức tín dụng và khách hàng xác
định và thoả thuận số lãi tiền vay phải trả cộng với số nợ gốc được chia ra để
trả nợ theo nhiều kỳ hạn trong thời hạn cho vay.
- Cho vay theo hạn mức tín dụng dự phòng: Tổ chức tín dụng cam kết
đảm bảo sẵn sàng cho khách hàng vay vốn trong phạm vi hạn mức tín dụng
nhất định. Tổ chức tín dụng và khách hàng thỏa thuận thời hạn hiệu lực của
hạn mức tín dụng dự phòng, mức phí trả cho hạn mức tín dụng dự phòng.
- Cho vay qua nghiệp vụ phát hành và sử dụng thẻ tín dụng: Tổ chức tín
dụng chấp thuận cho khách hàng được sử dụng số vốn vay trong phạm vi hạn
mức tín dụng để thanh toán tiền mua hàng hóa, dịch vụ và rút tiền mặt tại máy
rút tiền tự động hoặc điểm ứng tiền mặt là đại lý của tổ chức tín dụng. Khi
cho vay phát hành và sử dụng thẻ tín dụng, tổ chức tín dụng và khách hàng
phải tuân theo các quy định của Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước về phát
hành và sử dụng thẻ tín dụng.
- Cho vay theo hạn mức thấu chi: là nghiệp vụ cho vay qua đó ngân
hàng cho phép người vay được chi trội (vượt) trên số dư tiền gửi thanh toán
của mình đến một giới hạn nhất định và trong khoảng thời gian xác định.
1.3 Mở rộng hoạt động cho vay của Ngân hàng thương mại đối với doanh
nghiệp vừa và nhỏ
1.3.1 Khái niệm mở rộng cho vay DNVVN
Mở rộng cho vay là thuật ngữ phản ánh quy mô cho vay của các Ngân
Nguyễn Thị Hải TCDN 46Q
14
Chuyên đề tốt nghiệp
hàng thương mại được mở rộng với điều kiện có thể, song phải đảm bảo mức
độ an toàn và khả năng sinh lời của ngân hàng do hoạt động cho vay mang lại.
Mở rộng hoạt động cho vay DNVVN phản ánh mức sinh lời và độ an
toàn của ngân hàng trong công tác cho vay đối vơi DNVVN .
Trong quá trình thực hiện nghiệp vụ cho vay, để quyết định bỏ vốn tài
trợ vào một dự án nào đó các ngân hàng phải đứng trước hai sự lựa chọn là lợi
nhuận và rủi ro. Mức rủi ro càng cao thì khả năng sinh lời càng lớn. Vì thế
đứng trước một quyết định cho vay, ngân hàng có thể theo đuổi mục tiêu lợi
nhuận cao hay thấp, song phải xác định được mối liên hệ giữa rủi ro và sinh
lợi để đảm bảo.
Đối với bất kỳ một ngân hàng nào thì cho vay bao giờ cũng được coi là
hoạt động chủ yếu mang lại lợi nhuận cao nhưng đồng thời cũng tiềm ẩn
nhiều rủi ro đe doạ hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Vì thế, mở rộng hoạt
động cho vay cùng với nâng cao hiệu cho vay trong hoạt động kinh doanh tại
các ngân hàng thương mại luôn là một yêu cầu bức xúc, là điều kiện tiên
quyết quyết định sự tồn tại và phát triển không chỉ riêng cho bản thân mỗi
ngân hàng mà còn cho cả hệ thống ngân hàng và nền kinh tế.
1.3.2 Tác dụng của mở rộng hoạt động cho vay của NHTM đối với
DNVVN
DNVVN đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc phát triển kinh tế
và giải quyết các vấn đề xã hội. Tuy nhiên, hiện nay các DNVVN đang gặp
phải nhiều khó khăn trong sản xuất kinh doanh và chịu áp lực cạnh tranh gay
gắt trên thị trường. Các DNVVN phát triển trong điều kiện năng lực tài chính,
quy mô nhỏ bé nên việc tiếp cận nguồn vốn từ các tổ chức tín dụng và các tổ
chức tài chính có vai trò rất quan trọng trong việc nâng cao sức mạnh tài
chính và khả năng cạnh tranh cho các DNVVN.
Có thể nói hầu hết các dịch vụ ngân hàng (huy động vốn, cho vay, đầu
tư, thanh toán, bảo lãnh, cho thuê tài chính, tư vấn, quản lý tài sản…) đã đến
Nguyễn Thị Hải TCDN 46Q
15
Chuyên đề tốt nghiệp
với cộng đồng các doanh nghiệp. Tuy nhiên, khó khăn lớn nhất, bức xúc nhất
của DNVVN hiện nay vẫn là thiếu vốn bởi năng lực vốn nội tại của các doanh
nghiệp này hạn chế trong khi tiếp cận vốn ngân hàng còn gặp rất nhiều rào
cản. Nguyên nhân là phần lớn DNVVN thành lập với số vốn nhỏ, hoạt động
chưa ổn định, một số DNVVN sau một thời gian kinh doanh đã rút lui, thay
tên đổi chủ (doanh nghiệp ma) gây nên tâm lý lo ngại cho các NHTM khi tiếp
cận đối tượng khách hàng này. Hiệu quả sản xuất kinh doanh DNVVN bị hạn
chế, khả năng sinh lời thấp, hoàn trả vốn khó khăn tạo cho các ngân hàng tâm
lý ngại tiếp cận. Một bộ phận nhỏ DNVVN hoạt động mang tính lừa đảo; các
dự án sản xuất kinh doanh thiếu tính khả thi, thiếu tính chiến lược kinh doanh,
chưa tạo lập được uy tín đối với ngân hàng do đó các NHTM ngại tiếp cận với
loại hình kinh doanh này vì độ rủi ro quá cao. Hơn nữa, rất nhiều NHTM hiện
nay, đặc biệt là các NHTM Nhà nước còn chưa tạo điều kiện thuận lợi cho
các DNVVN tiếp cận với nguồn vốn tín dụng ngân hàng. Các ngân hàng còn
thiếu thông tin về DNVVN, mặt khác năng lực thẩm định dự án còn nhiều hạn
chế nên họ chưa sẵn sàng tiếp cận với bộ phận khách hàng quá rủi ro này.
Như vậy, với thực trạng đó thì việc mở rộng hoạt động cho vay các
DNVVN là một sự cần thiết bởi nếu có chính sách hỗ trợ tài chính phù hợp sẽ
tạo điều kiện cho các doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả thì hoạt động cho vay
của ngân hàng cũng sẽ có hiệu quả. Việc mở rộng cùng với nâng cao hiệu quả
cho vay DNVVN không chỉ mang đến cho ngân hàng nguồn thu nhập cao,
tránh được rủi ro cho ngân hàng mà còn tạo điều kiện cho các DNVVN tiếp
cận được nguồn vốn lớn phục vụ cho sản xuất kinh doanh góp phần thúc đẩy
nền kinh tế phát triển.
1.3.2.1 Đối với Ngân hàng thương mại
- Mở rộng hoạt động cho vay DNVVN làm tăng doanh thu và lợi nhuận
cho ngân hàng.
Nguyễn Thị Hải TCDN 46Q
16
Chuyên đề tốt nghiệp
DNVVN là bộ phận khách hàng lớn, chiếm trên 90% tổng số doanh
nghiệp trong cả nước, DNVVN trở thành một bộ phận tiềm năng lớn để cho
các NHTM tiếp cận với đối tượng khách hàng này. Việc mở rộng hoạt động
cho vay giúp cho các NHTM đánh giá được từng đối tượng khách hàng, phân
loại được từng đối tượng khách hàng giúp ngân hàng tránh được rủi ro và
chính điều đó cũng làm tăng lợi nhuận cho ngân hàng. Các NHTM trong quá
trình đánh giá hiệu quả cho vay sẽ phân loại từng đối tượng khách hàng, từ đó
có các chính sách ưu đãi về lãi suất và điều kiện vay vốn đối với từng doanh
nghiệp để khuyến khích các doanh nghiệp sử dụng các sản phẩm dịch vụ của
mình làm tăng thu nhập cho ngân hàng.
- Mở rộng hoạt động cho vay DNVVN giúp ngân hàng nâng cao hiệu
quả cho vay hoàn thiện hơn.
Mở rộng cho vay DNVVN giúp ngân hàng chú trọng kiểm soát tốt hơn
rủi ro từ hoạt động cho vay. Thông qua việc xác định được những nguyên
nhân chủ yếu tác động đến hiệu quả cho vay DNVVN, ngân hàng sẽ hoàn
thiện hơn trong công tác cho vay. Từ đó giúp ngân hàng rút ra những kinh
nghiệm trong phân tích đánh giá khách hàng, trong quá trình thực hiện nghiệp
vụ như đưa ra các cơ cấu nợ hợp lý, đưa ra mức lãi suất và thời hạn nợ phù
hợp với từng đối tượng khách hàng… đồng thời cũng giúp các ngân hàng thu
thập được nhiều thông tin hơn về khách hàng, giúp cho việc kinh doanh có
hiệu quả hơn. Ngoài ra, để hoạt động cho vay thực sự mang lại hiệu quả hơn
nữa thì bên cạnh các sản phẩm tín dụng truyền thống các NHTM cần phát
triển các dịch vụ đi kèm. Có như vậy thì số lượng sản phẩm dịch vụ của ngân
hàng cũng gia tăng phong phú hơn, tạo điều kiện cho ngân hàng nâng cao
năng lực cạnh tranh trên thị trường tài chính.
1.3.2.2 Đối với doanh nghiệp
- Mở rộng hoạt động cho vay DNVVN giúp các doanh nghiệp tiếp cận
được nguồn vốn tín dụng ngân hàng thuận lợi hơn.
Nguyễn Thị Hải TCDN 46Q
17
Chuyên đề tốt nghiệp
Mở rộng hoạt động cho vay DNVVN buộc các ngân hàng phải đưa ra
được các biện pháp phòng tránh những rủi ro có thể xảy ra nhưng vẫn đem
đến cho ngân hàng mức lợi nhuận có thể chấp nhận được. Tức là ngân hàng
đã sẵn sàng đương đầu với những rủi ro có thể xảy ra khi cho vay DNVVN, vì
vậy các DNVVN có cơ hội tiếp cận được với nguồn vốn tín dụng quan trọng
này. Trong quá trình hoạt động sản xuất của mình, vốn là một trong những
yếu tố quan trọng nhất của doanh nghiệp, doanh nghiệp sẽ làm ăn hiệu quả
hơn nếu có một cơ cấu vốn tối ưu. Đặc điểm nổi bật nhất của các DNVVN là
vốn chủ sở hữu thấp nên vốn vay là nguồn vốn cực kỳ quan trọng. Có thể vay
vốn dưới nhiều hình thức khác nhau như thông qua tín dụng ngân hàng, tín
dụng thương mại hoặc phát hành trái phiếu, hoặc thông qua các quỹ hỗ trợ…
Nhưng hầu hết các DNVVN lại không đủ điều kiện để phát hành trái phiếu,
các quỹ hỗ trợ chưa được quan tâm vì thế nguồn vốn vay từ các NHTM được
xem là nguồn vô cùng quan trọng đối với các DNVVN. Khi DNVVN tiếp cận
được nguồn vốn ngân hàng thì quá trình kinh doanh của các doanh nghiệp trở
nên thuận lợi hơn, cùng với đó hoạt động cho vay của ngân hàng sẽ đem lại
hiệu quả hơn. Tuy nhiên, cả ngân hàng và doanh nghiệp cần phải cân nhắc kỹ
trước khi quyết định cho vay và vay, cần xác định tỷ lệ vốn vay hợp lý để
tránh được rủi ro cho ngân hàng nhưng đồng thời cũng không bỏ qua cơ hội
kinh doanh của doanh nghiệp.
- Mở rộng hoạt động cho vay DNVVN giúp các doanh nghiệp nâng cao
hiệu quả trong sản xuất kinh doanh.
Khi đi vay doanh nghiệp phải chịu áp lực trả nợ khi đến hạn. Do đó,
buộc các doanh nghiệp phải tính toán chính xác chi phí sản xuất kinh doanh,
tốc độ quay vòng của vốn, giá thành sản phẩm… sao cho sau một chu kỳ sản
xuất kinh doanh doanh nghiệp không chỉ thu đủ để trả nợ ngân hàng mà còn có
lợi nhuận mang lại. Để làm tốt buộc các doanh nghiệp phải nâng cao khả năng
hạch toán kinh doanh, tổ chức kinh doanh, sử dụng vốn một cách có hiệu quả.
Nguyễn Thị Hải TCDN 46Q
18
Chuyên đề tốt nghiệp
- Mở rộng hoạt động cho vay DNVVN buộc công tác hạch toán kế toán
của các doanh nghiệp phải rõ ràng minh bạch hơn.
Các báo cáo tài chính là những tài liệu quan trọng không thể thiếu
trong hồ sơ xin vay vốn của các doanh nghiệp. Thông qua đó ngân hàng có
thể phân tích, thẩm định, đánh giá năng lực tài chính cũng như khả năng kinh
doanh của doanh nghiệp để đưa ra các quyết định cho vay hay không. Nếu các
báo cáo thiếu tính minh bạch, không rõ ràng, không chứng minh được khả
năng tài chính lành mạnh của doanh nghiệp thì sẽ gây khó khăn cho doanh
nghiệp trong việc vay vốn. Vì thế, doanh nghiệp khi đi vay cần phải đáp ứng
đầy đủ và chính xác các yêu cầu của ngân hàng để việc vay vốn dễ dàng,
thuận lợi hơn, tiết kiệm được thời gian, đảm bảo kịp thời nguồn vốn cho hoạt
động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp diễn ra đúng dự định.
- Mở rộng hoạt động cho vay DNVVN làm tăng khả năng cạnh tranh và
uy tín cho các doanh nghiệp.
Mở rộng hoạt động cho vay DNVVN giúp các doanh nghiệp tiếp cận dễ
dàng hơn nguồn vốn tín dụng ngân hàng từ đó tạo điều kiện cho doanh nghiệp
mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh, nâng cao sức mạnh tài chính và khả
năng cạnh tranh. Nhờ nguồn vốn vay đó doanh nghiệp có khả năng tiếp cận với
công nghệ sản xuất hiện đại, mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm, mở rộng
các quan hệ hợp tác từ đó tạo uy tín lớn cho doanh nghiệp trên thương trường.
1.3.2.3 Đối với nền kinh tế
Việc mở rộng hoạt động cho vay không những tạo điều kiện cho các
doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả hơn mà còn giúp cho hoạt động của ngân
hàng mang lại thu nhập đáng kể. Điều đó góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát
triển. Mặt khác, mở rộng hoạt động cho vay buộc các NHTM phải có một cơ
cấu vốn, một chính sách tín dụng hợp lý nhằm giải quyết các mối quan hệ
cung cầu trong nền kinh tế một cách phù hợp và hiệu quả; đồng thời cũng tạo
Nguyễn Thị Hải TCDN 46Q
19
Chuyên đề tốt nghiệp
điều kiện để mở rộng các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt, giảm
được lượng tiền mặt trong lưu thông, tiết kiệm chi phí lưu thông cho xã hội.
Mở rộng hoạt động cho vay DNVVN tạo đà cho việc thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế, tăng uy tín cho ngân hàng; đồng thời góp phần kiềm chế và
đẩy lùi lạm phát, thực hiện ổn định tiền tệ.
Mở rộng hoạt động cho vay sẽ thúc đẩy sự phát triển các DNVVN; góp
phần quan trọng trong việc thực hiên các quy hoạch, chương trình phát triển
kinh tế của đất nước, giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho người lao động,
xoá đói giảm nghèo, khơi dậy các tiềm năng phát triển của địa phương, cung
cấp ngày càng nhiều sản phẩm cho xã hội…
Như vậy, có thể nói mở rộng hoạt động cho vay DNVVN của NHTM
có vai trò vô cùng quan trọng không chỉ đối với bản thân của ngân hàng và
doanh nghiệp mà cho cả nền kinh tế. Mở rộng hoạt động cho vay giúp ngân
hàng nâng cao mức thu nhập đồng thời giúp cho các DNVVN khắc phục được
những nhược điểm về vốn, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh và năng
lực cạnh tranh trên thị trường từ đó thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế và
ổn định xã hội.
1.3.3 Nội dung mở rộng cho vay đối với các DNVVN
Thiếu vốn là tình trạng thường xuyên xảy ra trong hoạt động sản xuất
kinh doanh của các DNVVN. Do đó, mở rộng cho vay tạo điều kiện cho các
doanh nghiệp có cơ hội tiếp cận nguồn vốn tín dụng để mở rộng sản xuất kinh
doanh, đầu tư đổi mới trang thiết bị… Việc phân phối tín dụng đã góp phần
điều hoà vốn trong toàn bộ nền kinh tế tạo cho quá trình sản xuất được liên tục.
Hiện nay, với sự xuất hiện hàng loạt các loại hình ngân hàng khác nhau
như: ngân hàng hợp danh, ngân hàng cổ phần, ngân hàng liên doanh… Điều này
dẫn đến áp lực cạnh tranh, đòi hỏi các ngân hàng phải luôn luôn chú trọng tìm ra
những giải pháp nhằm thắng trong cạnh tranh, nâng cao uy tín trên thị trường.
Nguyễn Thị Hải TCDN 46Q
20
Chuyên đề tốt nghiệp
Cho nên, mở rộng cho vay không những thu hút khách hàng mới mà còn phải
gắn liền với chất lượng tín dụng, đảm bảo nguồn vốn được sử dụng có hiệu quả.
Trên cơ sở đó, nội dung mở rộng cho vay đề cập tới một số vấn đề cần
phải thực hiện như:
1.3.3.1 Mở rộng phương thức cho vay
Việc mở rộng phương thức cho vay vừa phải chặt chẽ về pháp lý, phù hợp
với pháp luật nhưng an toàn về tài sản, đơn giản về thủ tục, linh hoạt chủ động
cho khách hàng DNVVN tuỳ chọn cho mình một phương thức vay vốn thuận
tiện trong giao dịch cũng như trong việc sử dụng vốn. Để phù hợp với cơ chế tín
dụng trong nền kinh tế thị truờng, việc mở rộng các phương thức cho vay không
những tận dụng các ưu điểm của từng phương thức mà còn tạo điều kiện cho
doanh nghiệp có cơ hội lựa chọn, đáp ứng nhu cầu phong phú của doanh nghiệp.
Chẳng hạn:
+ Mở rộng phương thức cho vay theo hạn mức tín dụng (HMTD).
Ưu điểm nổi bật nhất của việc cho vay theo HMTD là đáp ứng được vốn
tín dụng kịp thời, đơn giản hoá trong các khâu lập hồ sơ cho vay, hồ sơ thế chấp
tài sản đối với khách hàng vay vốn ngắn hạn, có nhu cầu vốn thường xuyên, sản
xuất kinh doanh ổn định, phương thức luân chuyển vốn không phù hợp với
phương thức cho vay từng lần.
+ Cho vay thấu chi: Đây là phương thức cho vay tốt vì nó tiết kiệm được
chi phí thời gian thủ tục, DN chủ động về nhu cầu vốn kinh doanh. Phương
thức này sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho cả ngân hàng và DN, bởi vì DN muốn
vay theo phương thức này phải đều mở tài khoản thanh toán tại NHNo, do đó
NHNo có thể kiểm soát được tình hình thu chi của doanh nghiệp để có quyết
định đúng đắn có cho vay tiếp hay không, đồng thời DN sử dụng tiền vay một
cách chủ động kịp thời và linh hoạt.
+ Cho vay trả góp: Rất thích hợp với các DNVVN, vừa đơn giản lại ít rủi
ro bởi vì món vay được thực hiện trên những đảm bảo chắc chắn về nguồn trả nợ.
Nguyễn Thị Hải TCDN 46Q
21
Chuyên đề tốt nghiệp
+ Cho vay khấu trừ chứng từ: Khi mà thị trường chứng khoán nước ta
đang dần phát triển, các luật về lưu thông hối phiếu và kỳ phiếu được ban hành
thì nghiệp vụ chiết khấu chứng từ là nghiệp vụ được áp dụng phổ biến. Hiện
nay, một số NHTM có cơ chế hướng dẫn nghiệp vụ này nhưng thực tế các ngân
hàng cơ sở chỉ cho vay chiết khấu những chứng từ có thời hạn là ngắn.
Như vậy, Trong tương lai gần, khi có đầy đủ các phương tiện, trình độ của
cán bộ tín dụng được nâng cao và khả năng áp ứng về tín dụng tốt hơn, NHNo
nên triển khai đáp ứng đầy đủ tất cả các phương thức cho vay cho từng loại hình
DNVVN nói chung và cho từng DN nói riêng.
1.3.3.2 Mở rộng sản phẩm cho vay
Mở rộng cho vay DNVVN với đầy đủ các loại vốn ngắn, trung, dài hạn
đáp ứng mọi nhu cầu vay vốn nhằm thu hút các dự án, các chương trình kinh tế
trọng điểm của tỉnh. Đồng thời có chính sách thích hợp đúng đắn đối với các
dịch vụ cơ bản (nghiệp vụ huy động vốn, dịch vụ cho vay, dịch vụ thanh toán)
thì chính sách giá cả, chính sách phân phối, chính sách giao tiếp khuếch trương
mới có điều kiện thực hiện hiệu quả. Ngoài ra, phát triển các dịch vụ ngoại vi,
đây là dịch vụ mang tính bổ trợ, bổ sung làm tăng thêm giá trị của dịch vụ cơ
bản và có thể tạo ra sự khác biệt giữa các ngân hàng trên cùng địa bàn.
1.3.3.3 Mở rộng điều kiện cho vay
DNVVN thường có quy mô hoạt động nhỏ, trình độ quản lý còn hạn
chế, hệ thống sổ sách không rõ ràng, nhu cầu món vay nhỏ…Nên, mở rộng
điều kiện cho vay là yêu cầu rất cần thiết giúp các DNVVN tiếp cận vốn
NHNo một cách dễ dàng hơn.
+ Đổi mới quy trình cho vay: nhằm giảm bớt các thủ tục, nội dung
không cần thiết; chỉnh sửa những quy định không phù hợp với thực tiễn, các
quy định cần rõ ràng để tránh tình trạng hiểu sai hoặc có tình vận dụng. Cụ
thể hoá thể lệ, chế độ mà NHNN và NHNo&PTNT Việt Nam ban hành bằng
một quy trình cho vay riêng đối với các đối tượng khách hàng khác nhau, đặc
Nguyễn Thị Hải TCDN 46Q
22
Chuyên đề tốt nghiệp
biệt là đối với các DNVVN nhưng đồng thời cũng phải phù hợp với đặc điểm
của chi nhánh.
+ Linh hoạt trong việc thực hiện cơ chế lãi suất cho vay phù hợp với cơ
chế thị trường.
Lãi suất có ý nghĩa rất quan trọng, ảnh hưởng rất lớn đến sự thành bại
trong kinh doanh của ngân hàng. Vì thế, lãi suất cho vay của ngân hàng phải
căn cứ vào rủi ro mà ngân hàng có thể gặp phải, không nên phân biệt lãi suất
cho vay doanh nghiệp lớn và với lãi suất cho vay DNVVN. Cùng với việc
phân loại khách hàng để có chính sách lãi suất phù hợp, tạo sự khác biệt trong
lãi suất nhằm thu hút các DNVVN vay vốn tại ngân hàng. Bên cạnh đó, ngân
hàng có thể cùng thoả thuận với khách hàng để có một lãi suất thống nhất,
phù hợp cho cả doanh nghiệp và ngân hàng. Ngoài ra, cần áp dụng lãi suất
cho vay ưu đãi đối với DNVVN có quan hệ lâu dài, có uy tín với NHNo và
đối với DNVVN vay lần đầu có thể áp dụng giảm lãi suất để thu hút thêm
khách hàng mới đến với ngân hàng.
1.4 Các nhân tố ảnh hưởng đến mở rộng hoạt động cho vay của Ngân
hàng thương mại đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ
1.4.1 Các nhân tố khách quan
- Môi trường pháp lý
Các yếu tố pháp lý trong nền kinh tế là điều kiện không thể thiếu để
đảm bảo cho sự phát triển xã hội. Pháp luật có vai trò hết sức quan trọng đối
với hoạt động ngân hàng nói chung và hoạt động cho vay nói riêng, nó ảnh
hưởng trực tiếp đến hiệu quả cho vay của ngân hàng. Pháp luật ban hành
không hợp lý, đồng bộ sẽ gây khó khăn cho sản xuất kinh doanh của các
doanh nghiệp cũng như hoạt động của ngân hàng. Ngược lại, hệ thống pháp
luật đồng bộ và hợp lý sẽ tạo ra môi trường pháp lý lành mạnh, bình đẳng cho
mọi thành phần kinh tế, tạo điều kiện để phát triển sản xuất kinh doanh; bảo
Nguyễn Thị Hải TCDN 46Q
23
Chuyên đề tốt nghiệp
vệ quyền lợi hợp pháp cho ngân hàng và cả khách hàng, tiết kiệm được thời
gian và chi phí cho ngân hàng và doanh nghiệp…
Trong những năm qua, Nhà nước ta đã ban hành bổ sung, sửa đổi nhiều
văn bản pháp luật có liên quan đến quan hệ cho vay của NHTM như: Luật các
tổ chức tín dụng, luật doanh nghiệp, Nghị định số 90/2001/ NĐ-CP ngày
23/11/2001 về trợ giúp phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ, Quyết định số
193/2001/TT-BTC ngày 29/09/2001 về thành lập quỹ bảo lãnh tín dụng cho
các DNVVN, Thông tư số 01/2006/TT-NHNN ngày 20/02/2006 của Ngân
hàng Nhà nước về hướng dẫn một số nội dung về thành lập quỹ bảo lãnh tín
dụng cho các DNVVN…
- Môi trường kinh tế
Sự phát triển kinh tế của đất nước có tác động rất nhiều đến hoạt động
cho vay bởi nhu cầu tín dụng của các doanh nghiệp phụ thuộc nhiều vào sự
tăng trưởng kinh tế. Một nền kinh tế có mức tăng trưởng ổn định sẽ tạo điều
kiện cho môi trường kinh doanh phát triển, nhu cầu tiêu dùng của dân cư tăng
lên, đó cũng là cơ hội tốt cho các doanh nghiệp đầu tư mở rộng sản xuất; do
đó nhu cầu tín dụng của doanh nghiệp cũng được tăng lên tương ứng tạo điều
kiện cho các NHTM mở rộng hoạt động cho vay. Khi nền kinh tế tăng trưởng
ổn định làm cho giá cả ổn định, tình trạng lạm phát ở mức kiểm soát sẽ tạo
điều kiện cho ngân hàng mở rộng quy mô hoạt động và tránh được những
thiệt hại cho ngân hàng do sự mất giá của đồng tiền từ đó tạo điều kiện nâng
cao hiệu quả cho vay của ngân hàng. Ngược lại, khi nền kinh tế trong giai
đoạn trì trệ, suy thoái, sản xuất kinh doanh bị đình trệ, quy mô sản xuất bị thu
hẹp, nhu cầu đầu tư bị giảm mạnh, thua lỗ kéo dài dẫn đến các khách hàng
của ngân hàng gặp khó khăn trong việc trả nợ, hiệu quả cho vay của ngân
hàng bị giảm sút.
- Môi trường chính trị - xã hội
Nguyễn Thị Hải TCDN 46Q
24
Chuyên đề tốt nghiệp
Một quốc gia có môi trường chính trị - xã hội ổn định và phát triển sẽ
tạo điều kiện thuận lợi và yên tâm cho các nhà đầu tư. Xã hội có ổn định thì
nền kinh tế mới phát triển được, bất cứ một sự biến động nào về chính trị hay
xã hội cũng đều gây ra sự xáo động cho toàn bộ nền kinh tế. Do đó, nó có tác
động đáng kể tới các hoạt động của cả ngân hàng và doanh nghiệp.
- Các chủ trương chính sách vĩ mô của Nhà nước
Các chủ trương chính sách của Nhà nước có tác động rất lớn đối với
hoạt động cho vay của Ngân hàng bằng việc Nhà nước đưa ra những định
hướng, chính sách, mục tiêu phát triển kinh tế xã hội, đặc biệt là chính sách
tiền tệ quốc gia. Bởi hoạt động cho vay của NHTM chịu tác động trực tiếp từ
các công cụ của chính sách tiền tệ như: tỷ lệ dự trử bắt buộc, nghiệp vụ thị
trường mở, chính sách chiết khấu và tái chiết khấu… Ngoài ra, các chính sách
kinh tế vĩ mô như chính sách thuế, chính sách xuất nhập khẩu… có tác động
đến mọi mặt của toàn bộ nền kinh tế, vì thế nó tác động trực tiếp đến các
doanh nghiệp. Nếu như các chính sách này không tạo điều kiện thuận lợi cho
các nhà đầu tư, gây khó khăn cho các doanh nghiệp trong sản xuất kinh doanh
thì chắc chắn hiệu quả cho vay của các NHTM cũng sẽ bị giảm sút.
- Các yếu tố bất khả kháng
Các doanh nghiệp trong quá trình sản xuất kinh doanh có thể phải đối
mặt với những yếu tố bất khả kháng như: thiên tai, hoả hoạn, dịch bệnh, hoặc
những thay đổi ở tầm vĩ mô… vượt quá tầm kiểm soát của người vay lẫn
người cho vay. Những thay đổi này thường xuyên xảy ra, tác động liên tục
đến người vay, tạo điều kiện thuận lợi hoặc khó khăn cho người vay. Trong
nhiều trường hợp người vay có thể dự báo, thích ứng hoặc khắc phục được
những khó khăn; đôi khi người vay bị tổn thất song vẫn có khả năng trả nợ
cho ngân hàng đúng hạn đủ cả gốc và lãi. Tuy nhiên, khi tác động của những
yếu tố bất khả kháng đối với người vay là rất nặng nề, khả năng trả nợ của họ
bị suy giảm. Điều này ảnh hưởng đến hiệu quả cho vay của ngân hàng.
Nguyễn Thị Hải TCDN 46Q
25