Chuyªn mơc: Phát triển kinh tế biển đảo phục vụ sự nghiệp
cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước
Xây dựng chiến lược phát triển tuyến đảo thành các trung tâm
kinh tế biển giàu mạnh
Ngày 4/5/2006. Cập nhật lúc 10h 50'
Nước ta có chiều dài bờ biển trên 3260 km, diện tích vùng
biển gấp 3 lần diện tích đất liền. Tiềm năng kinh tế biển rất phong
phú khơng chỉ về khống sản, dầu khí, các loại hải sản mà cịn có
vai trị hết sức to lớn đối với cơng cuộc phịng thủ đất nước, phát
triển giao thông, du lịch và bảo vệ mơi trường biển.
Vai trị của biển trong thế kỷ 21 là vô cùng quan trọng, muốn giải quyết
các vấn đề mấu chốt như: nguyên liệu, năng lượng, thực phẩm xuất
khẩu, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần, xố đói giảm nghèo cho
nhân dân ta, khơng có con đường nào khác là phải kết hợp khai thác
tiềm năng của đất liền với tiềm năng của các tuyến đảo, thềm lục địa và
các vùng biển tiếp cận cũng như các đại dương.
Kinh tế biển bao gồm các hoạt động kinh tế diễn ra ở vùng ven bờ, trên
các hải đảo, quần đảo và thềm lục địa với các lĩnh vực công nghiệp,
nông nghiệp, thuỷ sản, giao thông, xây dựng, thơng tin liên lạc, dịch vụ,
du lịch, thương mại… Đó là một nền kinh tế tương đối tồn diện, có cơ
cấu phức tạp và đa ngành. Sự phát triển kinh tế hải đảo, quần đảo là
một trong những hoạt động của kinh tế biển, có một vị trí hết sức quan
trọng trong chiến lược của kinh tế biển, có một vị trí hết sức quan trọng
trong chiến lược phát triển kinh tế của nước ta.
Hệ thống đảo ở nước ta có trên 4.000 hịn đảo lớn nhỏ được phân
bố thành một vịng cung từ vùng biển Quảng Ninh, Hồng Sa, Trường
Sa đến Kiên Giang, bao gồm 3000 hòn đảo ở vùng biển Đơng Bắc và
khoảng 40 hịn đảo ở Bắc Trung Bộ. Số còn lại ở Nam Trung Bộ, vùng
biển Tây Nam, quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Hệ thống đảo có vị trí hết sức quan trọng trong chiến lược phát
triển kinh tế - xã hội, an ninh quốc phịng. Đó là cửa ngõ, là căn cứ để
giao lưu quốc tế, nằm trong khu vực mà các nền kinh tế đang phát triển
hết sức năng động, đồng thời cũng nằm trong khu vực hết sức nhạy
cảm. Trong quá khứ và hiện tại đã diễn ra những cuộc tranh chấp phức
tạp về chủ quyền về lợi ích kinh tế.
Trong lịch sử nước ta qua nhiều triều đại đã chứng minh lợi thế
của hệ thống đảo hình thành tuyến phịng thủ nhiều tầng, nhiều lớp, với
thế bố trí chiến lược kết hợp trên bờ dưới nước, tạo điều kiện hết sức
thuận lợi cho việc phát triển kinh tế biển và kiểm soát làm chủ vùng
biển.
Căn cứ vào vị trí địa lý, điều kiện khí hậu, dân cư, tập quán và tổ chức
sản xuất có thể chia làm 3 nhóm đảo. Nhóm đảo tiền tiêu; nhóm đảo
ven bờ và nhóm đảo có diện tích lớn, cơ sở hạ tầng và dân cư tương
đối ổn định.
Nhóm các đảo tiền tiêu bao gồm các quần đảo Hoàng Sa, Trường
Sa, đảo Trần, Bạch Long Vĩ, Cồn Cỏ, Phú Quí, Cơn Đảo, Thổ Chu… Đó
là pháo đài là căn cứ nổi tạo điều kiện hết sức thuận lợi cho việc triển
khai tài nguyên biển, phát triển kinh tế và bảo vệ vùng biển.
Nhóm các đảo ven bờ là cơ sở hậu cần hết sức thuận lợi cho nghề
cá nhân dân, bao gồm ni trồng và khai thác hải sản. Đó cũng là nơi
trú đậu của các tàu thuyền tránh gió bão, là vùng trọng yếu trong việc
bảo vệ và phát triển nguồn lợi thuỷ sản, là nơi để phát triển du lịch và
du lịch sinh thái. Tuỳ theo khí hậu, thời tiết và các vùng sinh thái của
các đảo mà đầu tư phát triển nuôi và khai thác yến sào, nuôi cá biển,
bào ngư, hải sâm, trai ngọc, đồi mồi, ni khí để xuất khẩu. Một số đảo
có khả năng xây dựng các Vườn Quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên kết
hợp với kinh doanh du lịch và sản xuất nơng nghiệp, trồng rừng… Đa
số các đảo cịn lại là núi đá, đảo san hơ… cần có điều tra qui hoạch,
tổng kết các mơ hình để nhân rộng và phát triển hợp lý.
Nhóm các đảo lớn đã có dân cư, cơ sở hạ tầng, cơ sở kinh tế, có
nghề nghiệp và đời sống ổn định đã được Nhà nước đưa vào hệ thống
9 huyện đảo đó là Cơ Tơ (Cẩm Phả - Quảng Ninh); Cát Hải, Cát Bà
(huyện Cát Hải); Bạch Long Vĩ (Hải Phòng); Cù Lao Ré (Quảng Ngãi);
Phú Q (Bình Thuận); Cơn Đảo (Bà Rịa - Vũng Tàu); Kiến Hải, Phú
Quốc (Kiên Giang); Trường Sa (Khánh Hoà). Các đảo này nếu được
đầu tư thích đáng sẽ có đủ điều kiện trở thành những thành phố trên
biển, thị trấn, thị tứ, các trung tâm kinh tế biển sầm uất và giàu mạnh
phục vụ cho việc di chuyển ngư trường theo mùa vụ, phát triển kinh tế
tổng hợp: Công nông, lâm nghiệp, giao thông vận tải biển. Đồng thời
cũng là cơ sở hậu cần để vươn ra khai thác tài nguyên ở vùng biển đặc
quyền kinh tế.
Tuyến đảo của nước ta hết sức đa dạng, đẩy tiềm năng, song cho
đến nay các tài liệu điều tra khảo sát, các chương trình nghiên cứu cịn
q ít, những kết quả nghiên cứu chưa được tổng kết đầy đủ chưa
được nghiên cứu đồng bộ. Thế mạnh của tuyến đảo chưa đặt đúng vị
trí trong chiến lược phát triển của đất nước. Vì vậy nhiều đảo có điều
kiện để phát triển nhanh chưa được đầu tư đúng mức và tồn diện. Một
số đảo có điều kiện phát triển kinh tế thì chưa được quy hoạch, thiếu
nguồn vốn, thiếu lao động. Một số đảo tiền tiêu chưa có dân sinh sống,
chưa có chính sách khuyến khích thích đáng những người lao động ra
sinh sống ở tuyến đảo. Trình độ văn hoá, đời sống vật chất, tinh thần
của nhân dân nhiều đảo còn thấp kém, còn thiếu nhà trẻ, trường học,
bệnh viện, nước ngọt, điện, phương tiện thông tin truyền hình, cơng cụ
để sản xuất. Vì vậy cần một qui hoạch tổng thể cho từng nhóm đảo, đề
ra được những chính sách, cơ chế địn bẩy, áp dụng những tiến bộ
khoa học công nghệ cho các lĩnh vực kinh tế biển trong đó có việc giải
quyết nguồn nước ngọt, sử dụng các nguồn năng lượng gió, mặt trời,
tập trung đầu tư cho các đảo lớn trở thành trung tâm kinh tế biển giàu
mạnh, xây dựng chiến lược phát triển kinh tế và quốc phòng cho tuyến
đảo trong thập kỷ đầu của thế kỷ 21 là một trong những nhiệm vụ cấp
bách không chỉ của Trung ương mà cả các địa phương.
TS. Hồ Văn Hoành
Theo tài liệu tuyên truyền biển đảo 2006
Tăng cường phát triển kinh tế quốc phòng trên biển
Ngày17/4/2006. Cập nhật lúc 16h 6'
Hiện nay, Quân chủng Hải quân là lực lượng nòng cốt bảo vệ
chủ quyền biển đảo và thềm lục địa của Tổ quốc. Quân chủng đã
tích cực và chủ động tổ chức phát triển các doanh nghiệp kinh tế
gắn với công tác bảo vệ chủ quyền biển đảo.
Những mơ hình này tiếp tục được củng cố và phát triển, ngành
kinh tế của Hải quân được Bộ Quốc phịng đánh giá là đơn vị dẫn đầu
tồn quân về hiệu quả hoạt động, đóng góp đáng kể cho ngân sách
Nhà nước, tập trung vào những ngành như: Dịch vụ cảng biển, xây
dựng cơng trình biển đảo, dịch vụ bảo vệ dầu khí, đánh bắt và sản xuất
hải sản, ngồi ra cịn tham gia cứu nạn trên biển. Điển hình như Cơng
ty 128 (Cơng ty Biển Đơng) tham gia bảo vệ các cơng trình dầu khí trên
biển tại khu vực mỏ Bạch Hổ và mỏ Rồng, đã ngăn chặn 1.351 lượt tàu
xâm nhập trái phép, xua đuổi họ. Đồng thời nắm vững tình hình an ninh
trên biển. Cơng ty Hải sản Trường Sa (Đồn M29) là cơng ty đánh bắt
xa bờ, vừa tham gia đánh bắt hải sản, sản xuất hàng hải sản, vừa là lực
lượng nòng cốt, giúp bảo vệ ngư dân tiến hành sản xuất trên biển, đảo.
Công ty đã tổ chức làm dịch vụ hậu cần nghề cá cho ngư dân, tham gia
tìm kiếm cứu nạn, chống buôn lậu và cướp biển. Quân cảng Sài Gòn là
đơn vị làm dịch vụ, khai thác cảng biển, trở thành một đơn vị tiêu biểu,
xuất sắc trong nhiệm vụ quốc phòng gắn với kinh tế, đạt năng suất, chất
lượng, hiệu quả cao. Nhiệm vụ kết hợp quốc phòng - kinh tế, được vận
dụng nhuần nhuyễn từ khâu quy hoạch, nâng cao và hiện đại hệ thống
cảng, xây dựng bến bãi, mặt bằng, cơ sở hạ tầng, mua sắm các
phương tiện thiết bị khai thác đều được tính tốn, sẵn sàng đáp ứng
u cầu chiến đấu, sẵn sàng chiến đấu khi xẩy ra chiến tranh hoặc bạo
loạn. Từ năm 2000 - 2003, quân cảng đã bốc dỡ được hơn 28.000 tấn
hàng quân sự, phục vụ tàu qn sự rời cập bến, đưa đón 1.004 đồn
khách của Đảng, Nhà nước, Chính phủ đi thăm và kiểm tra đảo. Quân
chủng cũng đã tổ chức lực lượng tự vệ chiến đấu đủ sức tự vệ phịng
thủ khi có tình huống ở khu vực. Đặc biệt, Cơng ty Vận tải xăng dầu
đường thuỷ 1 là đơn vị nằm trong Tổng công ty Xăng dầu Việt Nam đã
thành lập Hải đoàn tự vệ biển do Bộ Tư lệnh quân chủng Hải quân quản
lý, tổ chức và xây dựng lực lượng. Tổng doanh thu của Công ty năm
2003 lên đến 486,44 tỷ đồng, nộp ngân sách Nhà nước 16,57 tỷ đồng,
thu nhập bình qn đầu người đạt 3,5 triệu đồng/người/tháng. Cơng ty
có đội tàu biển, tàu chở dầu hoạt động trong và ngoài nước, nhiều năm
liền hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Tháng 8 năm 2000, Công ty được
Đảng và nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng lao động. Hải đoàn
được biên chế thành các đại đội, trung đội tự vệ, chú trọng tham gia
huấn luyện thực hành nhằm nâng cao trình độ thao tác sử dụng vũ khí,
thực hành các phương án trên biển, ngồi ra cịn tự huấn luyện cho lực
lượng tự vệ của 3 tàu biển là Petrolimex 06, Hạ Long 01, Hạ Long 04
các phương án chiến đấu trong quá trình hoạt động trên biển.
Trước yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển đảo, các cơ quan đơn
vị trong ngoài quân đội, các địa phương có vùng biển cần tiếp tục tăng
cường các biện pháp và tổ chức sáng tạo, có hiệu quả các mơ hình
khoa học - kinh tế - quốc phịng trên biển, chú trọng quán triệt và chấp
hành Chỉ thị 16 CT-ĐU ngày 5/10/2002 của Ban Bí thư Trung ương
Đảng về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng với lực lượng dân quân tự
vệ, dự bị động viên trong tình hình mới. Đối với các doanh nghiệp Nhà
nước hoạt động trên biển, cần tăng cường tổ chức và phát triển lực
lượng dân quân tự vệ biển, lực lượng dự bị động viên và thực hiện tốt
công tác huấn luyện sẵn sàng chiến đấu cho các lực lượng này đủ khả
năng bảo vệ quá trình sản xuất, bảo vệ dân, phát triển kinh tế biển và
chống cướp biển. Đối với các địa phương có biển, cần tổ chức lực
lượng dân quân tự vệ biển, tổ chức giáo dục và huấn luyện chiến đấu
cho bà con ngư dân tự vệ khi đi biển và các biện pháp chống trả cướp
biển. Cần tiếp tục mở rộng và quy hoạch những cảng cá lớn ở bờ biển
tại Vũng Tàu, Nha Trang, Hải Phòng, Đà Nẵng, Kiên Giang… vừa là nơi
neo đậu xuất phát cho các tàu ngư dân, vừa làm các tuyến tập trung
hậu cần khi có chiến tranh trên biển xảy ra. Việc quy hoạch phát triển
kinh tế ở các đảo và quần đảo phải gắn bó với cơng tác xây dựng địa
bàn quốc phịng và an ninh, xây dựng hệ thống bố phòng trong thế trận
"Quốc phịng tồn dân và an ninh nhân dân". Nghị quyết đại hội Đảng
IX đã nhấn mạnh: "Phát triển tổng hợp kinh tế biển và ven biển, khai
thác lợi thế của các khu vực cảng biển hải cảng để tạo thành vùng phát
triển cao, thúc đẩy các vùng khác xây dựng căn cứ hậu cần ở một số
đảo để tiến ra biển khơi". Đây chính là phương hướng chiến lược phát
triển kinh tế biển của nước ta.
Là chủ vùng biển giàu đẹp của Tổ quốc, không những phát triển
kinh tế mà cịn bảo vệ và duy trì chủ quyền một cách vững chắc, lâu
dài, gắn với chiến lược quốc phòng an ninh trong giai đoạn mới mà Đại
hội IX xác định.
Trần Mạnh Tâm
Cục Cảnh sát Biển
Năm 2010: Sản lượng nuôi trồng thuỷ sản phấn đấu đạt 2 triệu
tấn
Ngày 14/4/2006. Cập nhật lúc 8h 4'
(ĐCSVN)- Đó là thơng tin được đưa ra tại Hội nghị tổng kết
thực hiện chương trình phát triển nuôi trồng thuỷ sản giai đoạn
2001-2005 và bàn biện pháp thực hiện đến năm 2010 do Bộ Thuỷ
sản tổ chức, diễn ra sáng 13-4, tại Hà Nội.
5 năm qua, tốc độ tăng trưởng về sản lượng nuôi trồng thuỷ sản
tăng nhanh, kỹ thuật nuôi ngày càng tiến bộ, năm 2000 sản lượng nuôi
trồng thuỷ sản đạt hơn 589.000 tấn, năm 2005 đạt 1.437.000 tấn, vượt
5,7% so với kế hoạch, gấp 3 lần so với năm 1999.
Nuôi trồng thuỷ sản cũng phát triển ở khắp các vùng trong cả
nước, đặc biệt là các tỉnh Cà Mau, Đồng Tháp và một số tỉnh miền núi
phía Bắc. Diện tích ni trồng thuỷ sản năm 2005 đạt 959.945 ha, tăng
0,83 lần so với năm 1999. Việc sản xuất giống thuỷ sản cũng không
ngừng được đẩy mạnh, nhiều giống mới có năng suất, chất lượng cao
đã được đưa vào ứng dụng, đem lại hiệu quả kinh tế cao. Năm 2005 cả
nước có gần 5000 trại sản xuất giống tôm sú, với sản lượng giống đạt
28,8 tỷ con P15, tăng gấp 4 lần so với năm 1999. Bên cạnh đó, một số
loại giống cá như: cá vược, cá rơ phi đơn tính, cá tra, ba sa... cũng phát
triển mạnh, góp phần quan trọng đem lại thu nhập cao cho ngư dân.
Với tổng kinh phí ngân sách Trung ương đã đầu tư và hỗ trợ đầu tư cho
xây dựng hạ tầng nuôi trồng thuỷ sản từ năm 2000-2005 là 1.382.200
triệu đồng, nhiều dự án đã được triển khai nhanh chóng, áp dụng
những tiến bộ khoa học kỹ thuật nên đem lại hiệu quả cao như, dự án
Yên Hưng (Quảng Ninh), Thái Thuỵ (Thái Bình), Quảng Thuận (Quảng
Bình), Long Tồn (Trà Vinh)...
Tuy nhiên, trong 5 năm qua, phát triển nuôi trồng thuỷ sản cũng
cịn khơng ít những hạn chế, việc quy hoạch vùng phát triển ni trồng
thuỷ sản cịn chậm, vốn đầu tư cho xây dựng cơ sở hạ tầng còn hạn
chế, chất lượng môi trường nuôi chưa đảm bảo yêu cầu...
Phát biểu tại Hội nghị Bộ trưởng Bộ Thuỷ sản Tạ Quang Ngọc
nhấn mạnh: để tạo bước đột phá trong phát triển nuôi trồng thuỷ sản,
trong thời gian tới cần đẩy mạnh việc quy hoạch các vùng nuôi trồng,
tăng sản lượng nuôi theo hướng tăng năng suất, chất lượng, tăng các
đối tượng có giá trị kinh tế cao, đồng thời tăng cường trang thiết bị hiện
đại, đào tạo đội ngũ cán bộ có trình độ trong việc sản xuất giống, nâng
cấp các cơ sở sản xuất thức ăn cho nuôi thuỷ sản phù hợp với từng
vùng và từng đối tượng nuôi, đảm bảo nguồn nước và môi trường nuôi,
phấn đấu đến năm 2010 tổng sản lượng nuôi trồng thuỷ sản sẽ đạt 2
triệu tấn .
Phạm Hằng
Tăng cường phát triển kinh tế ven biển phục vụ sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc
Ngày 28/3/2006. Cập nhật lúc 15h 51'
(ĐCSVN)- Phát triển kinh tế biển và vùng ven biển có vai trị rất quan
trọng, bởi theo ước tính, vùng đặc quyền kinh tế trên biển của Việt Nam có diện
tích khoảng 1 triệu km2, rộng gấp 3 lần diện tích lãnh thổ trên đất liền, có hơn
100 đảo và quần đảo. Đây cịn là địa bàn có nhiều nguồn tài ngun thiên nhiên
quý hiếm, có lợi thế đối với sự phát triển hàng hải, du lịch, phục vụ cho sự phát
triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh của đất nước. Thực trạng kinh tế - xã
hội và khai thác tài nguyên ven biển. Các vùng ven biển ở Việt Nam có 28/64
tỉnh và thành phố. Diện tích tồn bộ vùng ven biển chiếm 41% diện tích Việt
Nam. Dân số xấp xỉ 41,2 triệu người, chiếm một nửa tổng dân số cả nước. Trong
các tỉnh ven biển, có 120 đơn vị cấp quận, huyện và khoảng 700 xã, phường
nằm sát ven biển. Hàng năm, các tỉnh vùng ven biển Việt Nam đóng góp khảng
30% GDP và 50% giá trị xuất khẩu của cả nước.
Với lợi thế về du lịch như các bãi biển: Trà Cổ, Bãi Cháy, Đồ Sơn, Sầm
Sơn, Cửa Lò, Thiên Cầm, Cửa Tùng, Non Nước, Hội An, Quy Nhơn, Nha Trang,
Cà Ná, Vũng Tàu Mũi Né... đã và đang là điểm đến của nhiều du khách trong và
ngoài nước. Hơn nữa, khu vực này cịn có nhiều di sản lịch sử văn hố, khoảng
950 di sản. Có nhiều nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú như cá, hệ thống
sinh thái, rặng san hơ, tài ngun khống sản. Ở vùng biển và vùng ven biển
nước ta có khoảng 2.000 lồi cá, trong đó xấp xỉ 130 lồi có giá trị kinh tế cao.
Ngành cơng nghiệp đánh bắt cá ven bờ đóng góp đáng kể cho kinh tế địa
phương và đem lại thu nhập cho phần lớn các hộ đánh bắt cá quy mơ nhỏ dọc
miền ven biển và những người có đời sống phụ thuộc chủ yếu vào đánh bắt cá
(làm đá ướp lạnh, chế biến và buôn bán hải sản nhỏ…).
Đặc biệt, dọc bờ biển có nhiều khu vực có rặng san hô, như Vịnh Hạ Long
(Quảng Ninh), đảo Cát Bà (Hải Phòng), Sơn Trà - Hải Vân (Đà Nẵng, Thừa
Thiên - Huế)..., tổng diện tích khoảng 40.000 ha. Dọc ven biển cũng là nơi phát
triển của các rừng ngập mặn, các rừng đước chủ yếu phân bổ ở phía Bắc Quảng
Ninh đến Ninh Bình. Trong đầu thể kỷ XX, có hơn 400.000 ha rừng đước. Hiện
nay con số đó chỉ còn 100.000 ha. Rừng Đước cũng đem lại nguồn kiếm sống
cho hàng nghìn bà con nghèo vùng ven biển. Khoảng 50 - 60% sản lượng mật
ong hàng năm là từ các rừng đước.
Một nguồn tài nguyên vô cùng quý hiếm ở biển Đơng Việt Nam có thế
thấy đó là tài ngun khống sản, như: ti-tan, sắt, dầu khí, cát thuỷ tinh. Dầu đã
trở thành nguồn tài nguyên kinh tế quan trọng. Lượng dầu xuất khẩu đã đem lại
nguồn lực tài chính quan trọng cho phát triển kinh tế xã hội của đất nước những
năm qua.
Mặc dù có lợi thế và tiềm năng lớn về các nguồn tài nguyên thiên nhiên,
nhưng kinh tế- xã hội của các vùng này chưa bền vững, do thiếu quy hoạch hợp
lý, mức độ ô nhiễm môi trường tại vùng này khá lớn do tác động của ô nhiễm
nguồn nước trên thượng nguồn và rác thải của các hoạt động sản xuất, dịch vụ...,
đời sống nhân dân cịn gặp nhiều khó khăn, hiện nay, tại 21 tỉnh ven biển vẫn có
tới 157 xã thuộc diện đặc biệt khó khăn, được hỗ trợ phát triển. Mật độ dân số ở
các vùng ven biển khá cao, trung bình khoảng 369 người/km2, nhưng sự phân
bố dân số khơng đồng đều giữa các tỉnh, thành, tỷ lệ gia tăng dân số cao, lực
lượng lao động dồi dào nhưng thất nghiệp nhiều và hầu hết đều có thu nhập
thấp.
Bên cạnh đó, việc đánh bắt cá phần lớn tập trung ở khu vực gần bờ, đánh bắt
nhỏ, ngư dân sử dụng nhiều biện pháp đánh bắt cá bất hợp pháp, nên dẫn đến tác
động xấu đối với nguồn hải sản khu vực này. Điều này đòi hỏi phải phát triển
đánh bắt xa bờ hơn nữa và đẩy mạnh phát triển nuôi trồng thuỷ sản.
Việc đơ thị hố và các khu du lịch mới ở vùng ven biển đã thúc đẩy tái định cư
và tái phân bố lao động giữa khu vực thành thị và nông thôn. Tuy nhiên, xu
hướng này đang là bài tốn khó về các vấn đề cần giải quyết như: việc cung cấp
nước sạch, môi trường xuống cấp và sử dụng đất khơng đúng mục đích...
Với vị trí mặt tiền của quốc gia, là cửa ngõ của đất nước vùng ven biển sẽ có
nhiều cơ hội đón nhận, thu hút vốn đầu tư trong và ngồi nước góp phần thúc
đẩy nền kinh tế ổn định, phát triển. Ngoài ra, vùng ven biển cịn một hệ thống
đảo ven bờ có ý nghĩa vơ cùng quan trọng trong bảo vệ an ninh quốc gia. Với
tầm quan trọng đó, việc đẩy mạnh phát triển mọi lĩnh vực của các vùng ven biển
là việc làm cần thiết.
Để kinh tế ven biển phát triển. Theo thống kê, hiện nay nước ta có khoảng
219 văn bản pháp quy có liên quan đến việc quản lý, phát triển vùng ven biển,
như: Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi năm 2001); Tuyên bố (năm 1997) về lãnh
hải, các khu vực gắn liền với lãnh hải, các đặc khu kinh tế và thềm lục địa của
Việt Nam; Tuyên bố (năm 1992) về vạch ranh giới sử dụng cho việc đo bề rộng
lãnh hải; Luật Biên giới quốc gia; Chiến lược quốc gia về bảo vệ mơi trường tới
năm 2010 và tầm nhìn tới năm 2020...
Việt Nam đã gia nhập và ký kết nhiều hiệp định quốc tế như: Công ước
1982 của Liên hợp quốc về Luật biển; Tuyên bố Rio 1982 về phát triển bền
vững và môi trường; Tuyên bố Fohanesburg 2002 về môi trường bền vững;
Công ước 1971 về các vùng đầm lầy có ý nghĩa quốc tế quan trọng, đặc biệt là
mơi trường sống của các lồi chim nước (RAMSAR) và bản Nghị định thư của
Công ước này, Pa - ri, ngày 03 tháng 12 năm 1982....
Với những hoạt động đó, đã khẳng định việc quản lý phát triển vùng ven
biển một cách tổng hợp và giải quyết các vấn đề về đa dạng tự nhiên và phát
triển kinh tế bền vững các vùng ven biển có ý nghĩa vơ cùng quan trọng.
Thực tế, các khu vực ven biển chịu ảnh hưởng bởi điều kiện không chỉ trong đất
liền mà cịn từ ngồi biển, vì thế, có nhiều thuận lợi và cũng khơng ít thách thức.
Có ba mối nguy cơ ảnh hưởng đến vùng ven biển đó là: xâm thực nước mặn; xói
mịn bờ biển và trầm tích; phát triển khơng kiểm sốt.
Do chịu ảnh hưởng của bão trong mùa mưa, sóng biển gây lụt ở những
vùng thấp vượt qua hệ thống đê kè, đe doạ nguồn tài nguyên nước sạch ở vùng
ven biển. Việc sinh sống và phát triển công nghiệp ở các khu vực đô thị, các khu
vực công nghiệp và nuôi trồng thuỷ sản vùng ven biển gây nên sự xung đột giữa
phát triển và môi trường, đặc biệt là vấn đề nước thải không qua xử lý...
Để khắc phục những vấn đề trên đây, đặc biệt là có biện pháp bền vững để sống
chung với biển, địi hỏi cần có những giải pháp lâu dài, trong đó, cần đẩy mạnh
việc cải thiện hệ thống quản lý nước các khu vực ven biển, xây dựng và quản lý
các hồ chứa nước và đập ngăn, tăng cường hơn nữa việc quản lý nguồn cá,
nhưng cần tính đến sự đa dạng sinh học của các nguồn tài nguyên khoáng sản;
Có kế hoạch sử dụng đất và phân vùng tốt hơn nữa cho phát triển công nghiệp,
đô thị và phát triển nuôi trồng thủy sản đối với các vùng ven biển để hạn chế
việc đánh bắt gần bờ và tạo ra nguồn nhân lực cho phát triển nghề đánh bắt và
chế biến thủy sản.
Nền kinh tế đang phát triển mạnh theo hướng hội nhập khu vực và quốc tế,
với sự phát triển mạnh mẽ của thơng thương hàng hố qua các cảng biển, địi hỏi
hệ thống cảng biển cũng cần có những bước tiến mạnh để đáp ứng yêu cầu của
nền kinh tế - xã hội. Cùng với việc quy hoạch tổng hợp phát triển hệ thống cảng
biển, cần đẩy mạnh công tác quản lý quy hoạch hệ thống cảng biển, quản lý các
nhóm cảng quan trọng. Trong đầu tư cảng biển, cần tạo liên kết giữa cảng biển
với các hệ thống giao thông mặt đất nhằm tạo thuật lợi nhất cho vận chuyển và
thơng thương hàng hố.
Có thể nói, kinh tế biển ngày càng giữ vai trò quan trọng trong nền kinh tế
của cả nước, trở thành động lực quan trọng thúc đẩy sự phát triển toàn diện của
đất nước. Trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực như hiện nay, thì
biển ngày càng đóng vai trị quan trọng trong việc tạo năng lực cạnh tranh của
quốc gia và của các ngành cơng nghiệp. Vì vậy đẩy mạnh sự phát triển của các
vùng ven biển có ý nghĩa vô cùng quan trọng để thúc đẩy vùng kinh tế này phát
triển cao, góp phần kéo các vùng lân cận cùng phát triển.
Phạm Hằng (tổng hợp)
THỦ
TƯỚNG
CHÍNH PHỦ
--------Số
:
47/2006/QĐ-TTg
CỘNG HỊA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
------------------------------------Hà Nội, ngày 01 tháng 3 năm 2006
QUYẾT ĐỊNH
Về việc phê duyệt Đề án tổng thể về điều
tra cơ bản và quản lý tài nguyên - môi
trường biển đến năm 2010, tầm nhìn đến
năm 2020
_______
THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ
Căn cứ Luật Tổ chức Chính phủ ngày 25 tháng 12
năm 2001;
Theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi
trường,
QUYẾT ĐỊNH :
Điều 1. Phê duyệt "Đề án tổng thể về điều tra cơ bản
và quản lý tài nguyên - mơi trường biển đến năm 2010,
tầm nhìn đến năm 2020" với những nội dung chủ yếu
sau:
Phần I
QUAN ĐIỂM CHỈ ĐẠO, MỤC TIÊU CỦA ĐỀ ÁN
I. Quan điểm chỉ đạo
1. Công tác điều tra cơ bản và quản lý tài nguyên
môi trường biển được tiến hành nhằm làm rõ vị trí địa chính trị của vùng biển Việt Nam, xác định rõ nguồn tài
nguyên thiên nhiên vùng biển.
2. Công tác điều tra cơ bản và quản lý tài nguyên môi trường biển cần đi trước một bước để bảo đảm cơ sở
khoa học và thực tiễn cho việc hoạch định đường lối
chính sách phát triển bền vững, bảo đảm quốc phịng, an
ninh vùng biển.
3. Cơng tác điều tra cơ bản và quản lý tài nguyên môi trường biển phải được tiến hành trên cơ sở hệ thống
chính sách, pháp luật thống nhất của Nhà nước, có tính
kế thừa và được sự chỉ đạo trực tiếp, tồn diện của Chính
phủ, Ủy ban nhân dân địa phương vùng ven biển. Trong
công tác điều tra cơ bản và quản lý tài nguyên - mơi
trường cần ứng dụng có hiệu quả khoa học quản lý, khoa
học công nghệ tiên tiến, công nghệ truyền thống, tranh
thủ sự đóng góp của các nhà khoa học trong các hội
nghề nghiệp, các cộng đồng dân cư vùng ven biển để xác
định chính xác những nhiệm vụ ưu tiên, những mơ hình
thí điểm, tập trung sự chỉ đạo đồng bộ, tạo điều kiện cần
thiết để hoàn thành đúng mục tiêu, thời gian, bảo đảm
chất lượng, hiệu quả của Đề án.
4. Cần tranh thủ nguồn vốn đầu tư của mọi thành
phần kinh tế, đồng thời mở rộng, đa dạng hoá, đa
phương hố quan hệ quốc tế nhưng có lựa chọn trọng
điểm nhằm thu hút đầu tư của các nước, các tổ chức
quốc tế, nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ và tiếp thu
cơng nghệ hiện đại, góp phần nâng cao uy tín, vị thế của
nước ta, củng cố lịng tin và sự hợp tác giữa các quốc gia
trên Biển Đông.
II. Mục tiêu
1. Mục tiêu tổng quát
Đẩy mạnh công tác điều tra cơ bản các điều kiện tự
nhiên, tài nguyên thiên nhiên và môi trường vùng biển
nước ta; xác lập luận cứ khoa học, cơ sở pháp lý để tăng
cường quản lý nhà nước, phát huy tiềm năng, lợi thế của
biển và vùng ven biển; thực hiện nhiệm vụ phát triển
bền vững vùng biển, ven biển và hải đảo, tăng cường
quốc phòng, an ninh, bảo đảm chủ quyền quốc gia, đưa
nước ta từng bước vững chắc trở thành quốc gia mạnh
về biển.
Xây dựng chính sách, hồn thiện hệ thống luật pháp
và hệ thống tổ chức, nâng cao trình độ quản lý, đội ngũ
cán bộ, cơ sở vật chất kỹ thuật của công tác điều tra cơ
bản và quản lý tài ngun - mơi trường biển đến năm
2020 đạt trình độ trung bình khá trong khu vực Đơng
Nam Á.
2. Các mục tiêu cụ thể
a) Giai đoạn 2006 - 2010
- Xây dựng, hồn thiện về cơ bản chính sách, luật
pháp bảo đảm nguồn nhân lực, vốn đầu tư, hoàn thành
về cơ bản hệ thống cơ sở dữ liệu và cơ chế quản lý, khai
thác dữ liệu về điều tra cơ bản và quản lý tài nguyên môi trường biển;
- Đáp ứng trực tiếp các nhiệm vụ cấp bách bảo đảm
chủ quyền quốc gia, quốc phòng, an ninh, phục vụ thiết
thực nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội ở vùng biển
ven bờ;
- Xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật, kiện toàn bộ
máy quản lý nhà nước về tài nguyên - mơi trường biển
đồng bộ, có hiệu lực, có sự phối hợp chung và phân công
trách nhiệm cụ thể để thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà
nước trên biển;
- Xây dựng các nội dung ưu tiên các mơ hình thí
điểm, các nhiệm vụ thường xun được xác định rõ tại
Danh mục các nhiệm vụ thực hiện ''Đề án tổng thể về
điều tra cơ bản và quản lý tài nguyên môi trường biển
đến năm 2010, tầm nhìn đến năm 2020” ban hành kèm
theo Quyết định này; tổ chức thực hiện chương trình
hành động phối hợp giữa các bộ, ngành và các địa
phương vùng ven biển để thực hiện Đề án.
b) Giai đoạn 2011 - 2020
- Hoàn thiện cơ sở pháp lý về điều tra cơ bản và
quản lý tài ngun - mơi trường biển;
- Hồn thiện cơ sở dữ liệu về tài nguyên - môi trường
biển Việt Nam, bảo đảm tính hệ thống, đồng bộ, hiện
đại, có độ tin cậy cao.
- Hồn thiện cơ sở vật chất kỹ thuật, hệ thống tổ chức,
quản lý và đội ngũ cán bộ đạt trình độ trung bình khá trong khu
vực Đông Nam Á.
Phần II
PHẠM VI, NỘI DUNG CỦA ĐỀ ÁN
I. Phạm vi của Đề án
Đề án được thực hiện đến năm 2020 trên các vùng
biển của nước ta, trong đó ưu tiên các mục tiêu trước
mắt được thực hiện từ năm 2006 đến năm 2010.
II. Các nhiệm vụ của Đề án
1. Các nhiệm vụ của Đề án được chia thành các nhóm, bao
gồm:
a) Chính sách quản lý tài ngun và môi trường biển;
b) Điều tra cơ bản điều kiện tự nhiên và tài nguyên môi trường biển;
c) Bảo vệ tài nguyên và môi trường biển;
d) Đào tạo nguồn nhân lực và tăng cường cơ sở vật
chất kỹ thuật phục vụ nhiệm vụ điều tra cơ bản và quản
lý tài nguyên - môi trường biển;
đ) Hợp tác quốc tế về điều tra cơ bản và quản lý tài
nguyên - môi trường biển.
2. Danh mục các nhiệm vụ cơ quan chủ trì, cơ quan
phối hợp, dự kiến kinh phí, thời gian thực hiện, thứ tự ưu
tiên trong khoảng thời gian 2006 - 2010 của từng dự án
được ghi trong Danh mục các nhiệm vụ của "Đề án tổng
thể về điều tra cơ bản và quản lý tài nguyên - môi trường
biển đến năm 2010, tầm nhìn đến năm 2020", ban hành
kèm theo Quyết định này.
3. Tổng kinh phí dự kiến thực hiện “Đề án tổng thể
về điều tra cơ bản và quản lý tài nguyên - mơi trường
biển đến năm 2010, tầm nhìn đến năm 2020” là 2.916 tỷ
VND. Kinh phí thực hiện sẽ được xác định cụ thể trên cơ
sở phê duyệt từng dự án khả thi của Đề án theo quy định
của pháp luật.
Phần III
CÁC GIẢI PHÁP CHÍNH THỰC HIỆN ĐỀ ÁN
1. Nâng cao nhận thức về kinh tế biển, về tài
nguyên - mơi trường biển; hồn thiện các văn bản quy
phạm pháp luật về điều tra cơ bản và quản lý tài nguyên
- môi trường biển, huy động lực lượng chuyên gia ở các
Bộ, ngành, các viện nghiên cứu để xây dựng kế hoạch cụ
thể, đúng tiến độ, triển khai thực hiện Đề án.
2. Kiện toàn tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về tài
ngun - mơi trường biển; rà sốt phân công nhiệm vụ
điều tra cơ bản giữa các Bộ, ngành và các địa phương
ven biển; nâng cao vai trò, vị thế của chính quyền các
địa phương trong nhiệm vụ quản lý vùng ven biển.
3. Đa dạng hóa các hình thức hợp tác với các nước
phát triển trong lĩnh vực tài nguyên - môi trường biển để
tiếp nhận chuyển giao công nghệ, đồng thời tổ chức đào
tạo lại, đào tạo mới, hình thành đội ngũ chuyên gia, đặc
biệt là các chuyên gia khoa học đầu đàn, cán bộ quản lý
nhà nước có trình độ cao về tài ngun - mơi trường
biển.
4. Bảo đảm nguồn lực tài chính để thực hiện Đề án từ ngân
sách nhà nước, đồng thời huy động các nguồn vốn ODA, vốn từ
các chương trình hợp tác quốc tế, vốn từ nguồn thu phí mơi
trường và đóng góp khác của các tổ chức, cá nhân trong nước
và ngoài nước thuộc mọi thành phần kinh tế...
5.Bảo đảm công tác kiểm tra, thanh tra, giám sát và
đánh giá định kỳ mức độ hoàn thành mục tiêu, nhiệm vụ
của Đề án.
Điều 2. Tổ chức thực hiện
1. Thành lập Ban Chỉ đạo Nhà nước về điều tra cơ bản tài
ngun - mơi trường biển do Phó Thủ tướng Chính phủ, Trưởng
Ban Chỉ đạo Nhà nước về Biển Đơng và hải đảo trực tiếp làm
Trưởng Ban; Bộ trưởng Bộ Tài ngun và Mơi trường làm Phó
Trưởng ban Thường trực.
Các thành viên khác của Ban Chỉ đạo gồm đại diện
lãnh đạo các Bộ: Kế hoạch và Đầu tư, Tài chính,Văn
phịng Chính phủ, Ban Kinh tế Trung ương và các Bộ,
ngành liên quan, lãnh đạo Ủy ban nhân dân một số tỉnh,
thành phố ven biển.
Văn phòng Ban Chỉ đạo Nhà nước về điều tra cơ bản
tài nguyên - môi trường biển, đặt tại Bộ Tài nguyên và
Môi trường.
2. Bộ trưởng Bộ Tài ngun và Mơi trường giúp Phó
Thủ tướng, Trưởng Ban Chỉ đạo Nhà nước về điều tra cơ
bản tài nguyên - mơi trường biển thực hiện nhiệm vụ
sau:
a) Chủ trì, phối hợp với Bộ trưởng các Bộ: Kế hoạch
và Đầu tư, Tài chính và các Bộ liên quan, Chủ tịch Ủy ban
nhân dân các tỉnh, thành phố ven biển triển khai thực
hiện "Đề án tổng thể về điều tra cơ bản và quản lý tài
nguyên - môi trường biển đến năm 2010, tầm nhìn đến
năm 2020" đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt;
b) Trình Thủ tướng Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ
và thành viên Ban Chỉ đạo Nhà nước về điều tra cơ bản tài
nguyên - môi trường biển;
c) Chủ trì, phối hợp với Bộ Tài chính và các cơ quan
liên quan xây dựng và thực hiện quy chế tài chính sử
dụng kinh phí của Đề án bảo đảm quản lý chặt chẽ và có
hiệu quả;
d) Phê duyệt cơ cấu tổ chức và quy chế hoạt động
của Văn phòng Ban Chỉ đạo Nhà nước về điều tra cơ bản
tài nguyên - môi trường biển;
đ) Tổ chức thực hiện các dự án được phân công tại
Quyết định này;
e) Kịp thời báo cáo Thủ tướng Chính phủ những vấn
đề mới phát sinh vượt quá thẩm quyền của Bộ; kiến nghị
thay đổi cơ quan chủ trì dự án khi không bảo đảm mục
tiêu, tiến độ.
3. Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ trưởng Bộ Tài chính
thực hiện nhiệm vụ sau:
a) Thẩm định các dự án thuộc Đề án theo quy định
của pháp luật;
b) Cân đối và bố trí vốn để thực hiện Đề án.
4. Các Bộ trưởng, Thủ trưởng ngang Bộ, Thủ trưởng
cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân các
tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương vùng ven biển tổ
chức thực hiện các dự án được phân công tại Quyết định
này.
Điều 3. Quyết định này có hiệu lực sau 15 ngày, kể từ
ngày đăng công báo.
Các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ
trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Ủy ban nhân
dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chịu trách
nhiệm thi hành Quyết định này./.
KT. THỦ TƯỚNG
PHÓ THỦ TƯỚNG
Vũ Khoan