Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

ĐẢNG CỘNG sản VIỆT NAM LÃNH đạo QUÂN đội NHÂN dân VIỆT NAM TUYỆT đối, TRỰC TIẾP về mọi mặt một số GIẢI PHÁP NHẰM GIỮ VỮNG và TĂNG CƯỜNG sự LÃNH đạo của ĐẢNG đối với QUÂN đội TA HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (133.49 KB, 27 trang )

1
Đảng Cộng sản Việt Nam LÃnh đạo quân đội nhân dân
Việt Nam: Tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt. Một số giải pháp
nhằm giữ vững và tăng cờng sự lÃnh đạo của Đảng đối với
quân đội ta hiện nay.

Quân đội nhân dân Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt
Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh tổ chức, lÃnh đạo, giáo dục và
rèn luyện, đà trở thành một quân đội công nông cách mạng,
từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu, mang
bản chất giai cấp công nhân. Trải qua hơn 60 năm xây
dựng và chiến đấu, mỗi bớc trởng thành và chiến thắng của
quân đội ta đều bắt nguồn từ sự lÃnh đạo của Đảng, Bác
Hồ và sự nuôi dỡng, đùm bọc của nhân dân. Đây là vấn đề
có tính quy luật, là nguyên tắc xây dựng quân đội kiểu
mới của giai cấp vô sản, là bài học rút ra từ thực tiễn cách
mạng Việt Nam cũng nh kinh nghiệm thực tiễn của cách
mạng xà hội chủ nghĩa trên thế giới.
Nghiên cứu làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn khẳng
đinh tính tất yếu khách quan Đảng Cộng sản Việt Nam tổ
chức và lÃnh đạo Quân đội nhân dân Việt Nam tuyệt đối,
trực tiếp về mọi mặt, đề xuất những giải pháp nhằm giữ
vững và tăng cờng sự lÃnh đạo của Đảng đối với quân đội
trong điều kiện hiện nay là nhiệm vụ đặt ra đối với các
nhà khoa học xà hội và nhân văn quân sự, khoa học xây
dựng Đảng, xây dựng quân đội về chính trị. Trong bài tiểu
luận này, tác giả xin luận giải về những vấn đề chung về
lý luận và thực tiễn xung quanh nguyên tắc: Đảng Cộng sản


2


Việt Nam lÃnh đạo Quân đội nhân dân Việt Nam tuyệt
đối, trực tiếp về mọi mặt, trên cơ sở đó đề xuất một số
giải pháp nhằm giữ vững và tăng cờng sự l;Ãnh đạo của Đảng
đối với quân đội trong điều kiện hiện nay.
Theo quan điểm của C.Mác và Ph. Ăngghen, lịch sử xÃ
hội loài ngời từ khi phân chia thành giai cấp là lịch sử đấu
tranh giai cấp. Đấu tranh giai cấp thực chất là cuộc đấu
tranh của những ngời bị áp bức bóc lột chống lại giai cấp
thống trị áp bức bóc lột nhằm giải quyết mâu thuẫn lợi ích
kinh tế. Đấu tranh giai cấp phát triển từ thấp đến cao, đến
một trình độ nhất định thì chuyển từ đấu tranh kinh tế
sang đấu tranh chính trị, đặt ra vấn đề giành và giữ
chính quyền. Giai cấp nào muốn giành và giữ chính quyền
phải tổ chức ra chính đảng lÃnh đạo và giành chính quyền
bằng bạo lực cách mạng. Bạo lực cách mạng gồm có lực lợng
chính trị và lực lợng quân sự, với hai hình thức đấu tranh
là đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang và sự kết hợp
giữa hai hình thức đấu tranh đó. Để tiến hành đấu tranh
vũ trang giai cấp và chính đảng của nó nhất thiết phải tổ
chức ra lực lợng vũ trang làm nòng cốt và lÃnh đạo lực lợng vũ
trang đó, dùng nó làm công cụ để giành và giữ chính
quyền.
Khi xác định sứ mệnh lịch sử thế giới của giai cấp
công nhân, C.Mác và Ph.Ăngghen đà chỉ cho giai cấp công
nhân con đờng đúng đắn nhất để tự giải phóng mình
là, dới sự lÃnh đạo của chính đảng cách mạng của giai cấp


3
mình - Đảng Cộng sản, giai cấp công nhân phải liên minh

chặt chẽ với giai cấp nông dân, dùng bạo lực cách mạng đập
tan bộ máy nhà nớc của giai cấp t sản, lập nên nhà nớc
chuyên chính vô sản và dùng nhà nớc đó làm công cụ để
bảo vệ quyền thống trị của mình đối với toàn bộ xà hội.
Trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản C.Mác và Ph.Ăngghen
đà chỉ rõ: Giai cấp vô sản không tự giấu giếm ý định của
mình, họ công khai tuyên bố rằng, mục đích của họ chỉ có
thể đạt đợc bằng cách dùng bạo lực cách mạng, lật đổ toàn
bộ trật tự xà hội hiện thời - giai cấp vô sản thiết lập sự
thống trị của mình bằng cách lật đổ giai cấp t sản bằng
bạo lực. Bởi vì, theo các ông, để củng cố, giữ vững địa
vị thống trị của mình, tiến hành chiến tranh xâm lợc, giai
cấp t sản đà xây dựng một bộ máy khổng lồ bao gồm quân
đội, cảnh sát, nhà tù..., muốn đập tan bộ máy ấy, giai cấp
công nhân không còn cách nào khác là phải dùng bạo lực
cách mạng để chống lại bạo lực phản cách mạng. Tuy nhiên,
C.Mác và Ph.Ăngghen trong khi nhấn mạnh vai trò của bạo lực
cách mạng, các ông cũng đề cập đến khả năng giành chính
quyền bằng phơng pháp hoà bình, nhng đây là một khả
năng rất quý và hiếm, nó chỉ xuất hiện khi có các điều
kiện khác kèm theo. Vì vậy, để thực hiện nhiệm vụ đó,
giai cấp vô sản phải có lực lợng vũ trang của mình, lÃnh đạo
lực lợng đó cùng với nhân dân lao động đấu tranh lật đổ
giai cấp thống trị và bảo vệ thành quả cách mạng. Trong th
gửi Đồng minh những ngời cộng sản, C.Mác và Ph.Ăngghen


4
nhấn mạnh: công nhân phải đợc vũ trang có tổ chức, cần
phải trang bị súng trờng, cạcbin, đại bác và đạn dợc, rằng

công nhân cần phải tổ chức thành những đội quân vô
sản độc lập. Nh vậy, quan điểm của các ông là trong cuộc
đấu tranh của giai cấp vô s¶n chèng giai cÊp t s¶n cïng víi
viƯc sư dơng bạo lực chính trị, tất yếu phải sử dụng bạo lực
vũ trang, phải tổ chức ra lực lợng vũ trang.
Kế thừa và phát triển t tởng của C.Mác và Ph.Ăngghen
trong điều kiện lịch sử mới, khi mà chủ nghĩa t bản đÃ
chuyển sang thời kỳ chủ nghĩa đế quốc, giai cấp t sản đÃ
trở nên phản động, hiếu chiến, xâm lợc. V.I.Lênin đà phân
tích một cách sâu sắc tính tất yếu khách quan của việc
xây dựng một tổ chức quân sự của giai cấp vô sản, bởi vì
không có bạo lực cách mạng thì giai cấp vô sản không thể
chiến thắng đợc kẻ thù, đồng thời Ngời chỉ rõ: Một cuộc
cách mạng chỉ có giá trị khi nó biết tự bảo vệ 1. Xem xét
về vấn đề chiến tranh và quân đội, V.I.Lênin chỉ ra rằng:
Chiến tranh là sự kế tục của chính trị bằng thủ đoạn khác,
thủ đoạn bạo lực. Trong mối quan hệ giữa chiến tranh và
chính trị: chính trị là mục đích, chiến tranh là công cụ,
để đạt đợc mục đích chính trị thì giai cấp, nhà nớc phải
có công cụ mạnh, công cụ mạnh đó là quân đội. Quân đội
bao giờ cũng là quân đội của một giai cấp, một nhà nớc
nhất định, do một giai cấp, một nhà nớc tổ chức ra, nuôi dỡng và sử dụng nó vào mục đích chính trị. Sức mạnh của
nhà nớc trớc hết biểu hiện ở sức mạnh của quân đội. Do đó,
1

V.I.Lênin,Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Matxcơva, 1978, TËp 38, tr. 53.


5
bao giờ quân đội cũng phải đặt dới sự lÃnh đạo của giai

cấp, của nhà nớc nhất định, mang bản chất của giai cấp đÃ
sinh ra nó. Không có quân ®éi cđa nhiỊu gia cÊp, siªu giai
cÊp, phi giai cÊp. Quân đội của giai cấp t sản mang bản
chất của giai cấp t sản, quân đội của giai cấp công nhân
mang bản chất của giai cấp công nhân. Để quân đội mang
bản chất giai cấp công nhân phải đặt dới sự lÃnh đạo của
Đảng Cộng sản - đội tiên phong, lÃnh tụ chính trị của giai
cấp công nhân.
Đồng thời, V.I.Lênin đà xây dựng hoàn chỉnh học
thuyết về quân đội kiểu mới của giai cấp vô sản. Trong học
thuyết của mình, V.I.Lênin đà giải quyết thành công hàng
loạt vấn đề về nguyên tắc xây dựng một quân đội kiểu
mới của giai cấp vô sản. đó là nguyên tắc chính trị - xà hội,
nguyên tắc tổ chức và nguyên tắc huấn luyện - giáo dục.
Vấn đề căn bản nhất trong những nguyên tắc xây dựng
quân đội kiểu mới của giai cấp vô sản là Đảng Cộng sản lÃnh
đạo chặt chẽ quân đội về mọi mặt, là đặt quân đội dới
sự lÃnh đạo của Đảng trong mọi tình huống. Theo V.I.Lênin,
sự lÃnh đạo của Đảng đối với quân đội là tất yếu khách
quan, là một quy luật nhằm làm cho Hồng quân tuyệt đối
trung thành với Đảng, với giai cấp công nhân, giữ vững bản
chất giai cấp công nhân, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì
độc lập tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xà hội. Đây là tiêu
chí để phân biệt quân đội kiểu cũ với quân đội kiểu mới,
quân đội cách mạng với quan đội phản cách mạng.


6
Trung thành và vận dung đúng đắn, sáng tạo quan
điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về bạo lực cách mạng và

những nguyên tắc về xây dựng quân đội kiểu mới của giai
cấp vô sản vào điều kiện cụ thể của cách mạng Việt Nam,
kế thừa và phát triển kinh nghiệm truyền thống dựng nớc
phải đi đôi với giữ nớc qua mấy nghìn năm của dân tộc
Việt Nam và kinh nghiƯm cđa nhiỊu níc trªn thÕ giíi, cịng
nh kinh nghiƯm của bản thân với tinh thần cách mạng triệt
để của giai cấp vô sản, Hồ Chí Minh đà sớm thấy rõ con đờng cách mạng Việt Nam chỉ có thể là con đờng cách mạng
vô sản. Ngời kết luận: Muốn đợc giải phóng, các dân tộc
chỉ có thể trông cậy vào mình; Trong cuộc đấu tranh gian
khổ chống kẻ thù của giai cấp và của dân tộc, cần dùng bạo
lực cách mạng chống lại bạo lực phản cách mạng, giành lấy
chính quyền và bảo vệ chính quyền2.
Khi đà tìm thấy con đờng cứu nớc, xác định đợc đờng lối cách mạng đúng đắn cho cách mạng Việt Nam, Ngời
đà chủ động tập trung vào việc xây dựng lực lợng cho cách
mạng, trớc hết là lực lợng chính trị và từng bớc xây dựng lực
lợng vũ trang, chuẩn bị cho việc tiến hành cách mạng bạo lực
ở Việt Nam.
Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, lực lợng để tiến
hành cách mạng bạo lực không phải chỉ là lực lợng vũ trang,
phơng thức tiến hành cách mạng bạo lực không phải chỉ là
đấu tranh quân sự. Ngời đà chỉ rõ: cách mạng bạo lực bao
giờ cũng phải dựa vào hai lực lợng: lực lợng chính trị của
2

Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb CTQG, Hµ néi, 2000, TËp 12, tr. 304.


7
toàn dân và lực lợng vũ trang nhân dân, trong đó lực lợng
chính trị là cơ sở để xây dựng lực lợng vũ trang. Phơng

thức tiến hành cách mạng bạo lực phải vừa là đấu tranh
chính trị, vừa là đấu tranh quân sự, phải kết hợp hai phơng thức ấy cho phù hợp với tình hình từng nơi, từng lúc để
giành thắng lợi.
Khi đà có chính quyền thì khẩn trơng phát triển lực lợng, chuẩn bị mọi mặt, sẵn sàng đánh thắng mọi kẻ thù
bằng bạo lực cách mạng để giữ vững chính quyền. Khi
buộc phải kháng chiến thì kiên quyết động viên toàn dân
đứng lên chiến đấu, với tinh thần Thà hy sinh tất cả, chứ
nhất định không chịu mất nớc, nhất định không chịu làm
nô lệ3. Hễ còn một tên xâm lợc trên đất nớc ta, thì còn
phải tiếp tục chiến đấu, quét sạch nó đi 4.
Đảng Cộng sản Việt Nam ngay từ khi mới ra đời, trong
Chánh cơng vắn tắt của Đảng (tháng 2 năm 1930), Nguyễn
ái Quốc (sau này là Chủ tịch Hồ Chí Minh ) đà đề xuất
việc: Tổ chức ra quân đội công nông và tiếp sau đó là
Luận cơng Chính trị của Đảng (tháng 10 năm 1930) đà nêu
vấn đề vũ trang cho công nông, lập quân đội công
nông, tổ chức đội tự vệ công nông. Tại Đại hội lần thứ
nhất của Đảng năm 1935, Đảng đà ra Nghị quyết về tổ chức
và lÃnh đạo tự vệ thờng trực, đà chỉ rõ: công nông cách
mạng tự vệ đội là dới quyền chỉ huy thống nhất của Trung ơng, quân uỷ Đảng Cộng sản... luôn luôn phải giữ quyền
3
4

S.đ.d, Tập 4, tr. 480.
S.đ.d, TËp 12, tr.407.


8
chỉ huy nghiêm ngặt của Đảng trong đội tự vệ. Đảng cho
rằng, việc tổ chức ra quân đội để tiến hành đấu tranh

cách mạng là một tất yếu khách quan, xuất phát từ yêu cầu
của sự nghiệp cách mạng của Đảng. Trong quá trình lÃnh đạo
cách mạng Việt nam, cùng với việc xây dựng lực lợng chính
trị trong quần chúng cách mạng, Đảng rất coi trọng xây
dựng lực lợng quân sự và giữ quyền lÃnh đạo chặt chẽ quân
sự trong bất kỳ hoàn cảnh nào. Không những tổ chức ra
quân đội, Đảng còn xác định sự tất yếu phải lÃnh đạo quan
đội đó. Quyền lÃnh đạo quân đội thuộc về đảng duy nhất
là Đảng Cộng sản Việt Nam, không phân quyền lÃnh đạo đó
cho một giai cấp nào, một tổ chức, một đảng phái nào khác.
Trong điều kiện lịch sử nhất định, về sách lợc, có thể có sự
liên hiệp nhất định trong mặt trận, trong chính quyền, nhng quân đội là lực lợng vũ trang của Đảng, công cụ chủ yếu
của Nhà nớc chuyên chính vô sản, thì Đảng phải nắm
quyền lÃnh đạo. Có nh vậy thì sự lÃnh đạo của Đảng đối với
quân đội mới vững chắc và thích hợp với tính chất, đặc
điểm của quân đội. Chính nhờ nắm chắc và lÃnh đạo
chặt chẽ quân đội mà Đảng đà phát huy đợc sức mạnh của
quân đội, làm cho quân đội luôn mang bản chất giai cấp
công nhân, tuyệt đối trung thành với Đảng, với Tổ quốc và
nhân dân, không ngừng lớn mạnh và trởng thành, chiến
thắng mọi kẻ thù xâm lợc. Đây là nguyên tắc bất di bất dịch
trong xây dựng và lÃnh đạo quân đội của §¶ng Céng s¶n
ViƯt Nam.


9
Thực tiễn và kinh nghiệm tổ chức và lÃnh đạo quân
đội của các Đảng cộng sản thế giới đà chỉ rõ: bất kỳ ở đâu,
trong tình huống nào Đảng Cộng sản phải thờng xuyên nắm
chắc và giữ vai trò lÃnh đạo đối với quân đội thì quân

đội mới luôn là lực lợng trung thành với Đảng, Nhà nớc và
nhân dân. Nếu khi nào Đảng Cộng sản buông lỏng sự lÃnh
đạo của mình đối với quan đội, lập tức quân đội xa rời
mục tiêu chiến đấu, bị mất phơng hớng chiến đấu, dẫn
đến biến chất và bị kẻ thù vô hiệu hoá, trở thành lực lợng
đối trọng của giai cấp, của nhà nớc đà tổ chức ra nó. Thực
tiễn của cách mạng Việt Nam hơn 60 năm qua đà khẳng
định: Sự lÃnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân tố
quyết định mọi sự trởng thành và chiến thắng của Quân
đội nhân dân Việt Nam.
Ngày nay, tình hình thế giới và khu vực có nhiều biến
động phức tạp, sâu sắc và mau lẹ, đang đặt ra yêu cầu
cao cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xà hội chủ
nghĩa. Trong khi đặt lên hàng đầu nhiệm vụ xây dựng
đất nớc, chúng ta không một phút lơ là đối với nhiệm vụ bảo
vệ Tổ quốc. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của
Đảng ta đà xác định: Bảo vệ Tổ quốc xà hội chủ nghĩa là
bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn
vẹn l·nh thỉ, b¶o vƯ an ninh qc gia, trËt tù an toàn xà hội
và nền văn hoá; bảo vệ Đảng, Nhà nớc, nhân dân và chế
độ xà hội chủ nghĩa; bảo vệ sự nghiệp đổi mới và lợi ích
quốc gia, dân tộc. Sự nghiệp bảo vệ vững chắc Tổ quốc


10
x· héi chđ nghÜa lµ nhiƯm vơ träng u cđa Đảng, Nhà nớc
và của toàn dân, trong đó Quân đội nhân dân là lực lợng
nòng cốt. Do đó, Đảng ta chủ trơng tiếp tục xây dựng
Quân đội nhân dân: cách mạng, chính quy, tinh nhuệ,
từng bớc hiện đại; nâng cao chất lợng tổng hợp, lấy xây

dựng chính trị làm cơ sở, đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc
trong tình hình mới. Thực trạng nhận thức, trách nhiệm của
một số tổ chức đảng và đảng viên cũng nh cơ chế tổ chức
thực hiện nguyên tắc lÃnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi
mặt của Đảng đối với quân đội còn những vấn đề bất cập;
chủ nghĩa đế quốc đứng đầu là đế quốc Mỹ và các thế
lực thù địch đang ráo riết thực hiện sự chống phá cách
mạng xà hội chủ nghĩa trên phạm vi toàn thế giới bằng chiến
lợc diễn biến hoà bình, bạo loạn lật đổ. Chúng coi Việt
Nam là một trọng điểm cần phải tập trung chống phá nhằm
xoá bỏ sự lÃnh đạo của Đảng đối với cách mạng nớc ta, tiến tới
xoá bỏ chế độ xà hội chủ nghĩa. Một trong những âm mu
thủ đoạn của chiến lợc diễn biến hoà bình là phi chính
trị hoá quân đội, tách quân đội ra khỏi sự lÃnh đạo của
Đảng, làm cho quân đội phai nhạt bản chất giai cấp công
nhân, xa rời mục tiêu lý tởng chiến đấu, mất phơng hớng
chính trị, quân đội không còn là công cụ bạo lực sắc bén,
lực lợng tin cậy của Đảng, của Nhà nớc và của chế độ xà hội
chủ nghĩa. Chúng cho rằng nếu không làm cho quân đội
suy yếu, dao động về mặt t tởng, mất lòng tin vào Đảng,
vào chế độ... thì không thể giành thắng lợi ë ViÖt Nam


11
bằng chiến lợc diễn biến hoà bình, vì vậy chúng đa ra
những luận điệu xuyên tạc, phản động nh quân đội là
của chung dân tộc, làm nhiệm vụ chống giặc ngoại xâm
chứ không phải để bảo vệ chế độ, quân đội mang bản
chất nhân dân chứ không mang bản chất của giai cấp công
nhân... thực chất là muốn tách quân đội ra khỏi sự lÃnh

đạo của Đảng, vô hiệu hoá quân đội, nhằm thực hiện âm
mu thâm độc của chúng nh đà từng diễn ra ở các nớc xà hội
chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên xô trớc đây. Từ tình hình thực
tiễn trên đây đòi hỏi chúng ta phải bình tĩnh, sáng suốt
và nhạy bén xử trí có hiệu quả các tình huống xảy ra, phải
kiên định những vấn đề có tính nguyên tắc về chiến lợc,
đồng thời phải mềm dẻo, linh hoạt về sách lợc. Kiên quyết
đấu tranh trên mặt trận lý luận, t tởng nhằm đập tan
những luận điệu xuyên tạc và làm thất bại mọi âm mu, thủ
đoạn phá hoại của kẻ thù. Một trong những biện pháp quan
trọng đó là đẩy mạnh tổng kết thực tiễn, nghiên cứu phát
triển lý luận để bảo vệ và làm phong phú thêm kho tàng lý
luận chủ nghĩa Mác - Lênin, t tởng Hồ Chí Minh về xây
dựng quân đội kiểu mới của giai cấp công nhân. Đồng thời
phải coi việc thờng xuyên giữ vững và tăng cờng sự lÃnh đạo
của Đảng đối với quân đội là một tất yếu khách quan trong
tình hình hiện nay.
Đảng Cộng sản Việt Nam, không những tổ chức ra
Quân đội nhân dân Viẹt Nam, mà còn lÃnh đạo, giáo dục
và rèn luyện quân đội ta, xây dựng quân đội thực sự là


12
quân đội cách mạng của giai cấp công nhân, từ nhân
dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu, mang bản chất
của giai cấp công nhân. Trải qua hơn 60 năm xây dựng và
trởng thành dới sự lÃnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam,
quân đội ta đà làm nên truyền thống tốt đẹp và vẻ vang
của mình, đó là Trung với Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng
chiến đấu hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì chủ

nghĩa xà hội, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào
cũng vợt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng.
Để thực hiện sự lÃnh đạo đối với Quân đội nhân dan
Việt Nam, Đảng ta đà định ra nguyên tắc: Đảng lÃnh đạo
Quân đội nhân dan Việt Nam tuyệt đối trực tiếp về mọi
mặt. Đây là nguyên tắc cơ bản nhất trong hệ thống các
nguyên tắc về xây dựng quân đội kiểu mới của giai cấp
công nhân. Nguyên tắc này chi phối đến quá trình xây
dựng tổ chức và hoạt động của quân đội, chi phối các
nguyên tắc khác, nó quyết định đến phơng hớng chính
trị, bản chất giai cấp công nhân, nội dung phơng thức hoạt
động, mục tiêu chiến đấu, đối tợng tác chiến của quân
đội. Nguyên tắc này nhằm xây dựng, giữ vững và tăng cờng bản chất giai cấp công nhân, xác định rõ chức năng
chính trị xà hội cho quân đội, bảo đảm cho Đảng luôn
nắm chắc quân đội, lÃnh đạo chặt chẽ quân đội trong
mọi tình huống, làm cho quân đội tuyệt đối trung thành
với Đảng, với Tổ quốc, với nhân dân, thực sự là quân đội từ


13
nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu, luôn có
đủ sức mạnh để chiến đấu và chiến thắng mọi kẻ thù.
Xuất phát từ yêu cầu nhiệm vụ cách mạng của Đảng và
đặc điểm về tổ chức hoạt động, chức năng, nhiệm vụ của
quân đội, trong từng giai đoạn cụ thể của cách mạng, tên
gọi của nguyên tắc có khác nhau, nhng t tởng cơ bản, xuyên
suốt của nguyên tắc là, Đảng ta khẳng định dứt khoát
quyền lÃnh đạo quân đội là thuộc về Đảng Cộng sản Việt
Nam. Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lợng duy nhất lÃnh đạo
Quân đội nhân dân Việt Nam. Quyền lÃnh đạo đó không

chia sẻ cho bất cứ một đảng phái nào, một tổ chức nào, một
cá nhân nào. Sự lÃnh đạo đó là lÃnh đạo trực tiếp không
thông qua một khâu trung gian nào, một tổ chức trung gian
nào. Đồng thời sự lÃnh đạo đó trên tất cả các lĩnh vực hoạt
động chính trị, t tởng, tổ chức; trên tất cả các mặt công
tác: quân sự, chính trị, hậu cần, kỹ thuật; trong tất cả các
nhiệm vụ chiến đấu, huấn luyện, xây dựng, lao động sản
xuất và làm nghĩa vụ quốc tế; lÃnh đạo mọi tổ chức, mọi
lực lợng của quân đội trong mọi điều kiện hoàn cảnh. ở
đâu và lúc nào có tổ chức và hoạt động của quân đội là ở
đó có sự lÃnh đạo của Đảng. Sự lÃnh đạo của Đảng đối với
quân đội đợc thể hiện bằng cơ chế, tổ chức, bộ máy lÃnh
đạo đồng bộ, chặt chẽ từ Trung ơng đến cơ sở; sự lÃnh đạo
đó tập trung thống nhất vào Ban Chấp hành Trung ơng mà
thờng xuyên trực tiếp là Bộ Chính trị và Ban Bí th.


14
Sự lÃnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng
đối với quân đội đợc thể hiện trên những nội dung cơ bản
sau đây:
- Đảng lÃnh đạo định ra đờng lối quân sự, đờng lối
xây dựng nền quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lợng vũ
trang nhân dân và tiến hành chiến tranh nhân dân.
- LÃnh đạo nghiên cứu xây dựng và phát triển nền khoa
học quân sự và nghệ thuật quân sự Việt Nam.
- LÃnh đạo xây dựng trang bị vật chất kỹ thuật và tổ
chức nuôi dỡng bộ đội.
- LÃnh đạo tiến hành công tác cán bộ trong quân đội.
- LÃnh đạo tiến hành công tác đảng, công tác chính trị

trong quân đội.
Để thực hiện sự lÃnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi
mặt của Đảng đối với quân đội, Đảng đà xây dựng và
không ngừng hoàn thiện cơ chế lÃnh đạo đối với quân đội
cho phù hợp với điều kiện cụ thể của từng giai đoạn cách
mạng. Cơ chế lÃnh đạo của Đảng đối với quân đội là phơng
thức lÃnh đạo của Ban Chấp hành Trung ơng Đảng đối với
quân đội trong những giai đoạn cách mạng, đợc thể hiện
bằng hệ thống các nguyên tắc lÃnh đạo, phù hợp với nguyên
tắc đó là hệ thống tổ chức hoàn chỉnh, hợp lý, đợc tổ
chức từ cơ sở đến toàn quân, nhằm bảo đảm cho Đảng
lÃnh đạo chặt chẽ quân đội, phát huy cao độ trách nhiệm
của ngời chỉ huy, nâng cao năng lực của các tổ chức đảng
và góp phần nâng cao sức mạnh chiến đấu của quân đội,


15
bảo đảm cho quân đội hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ
đợc giao.
Hệ thống các nguyên tắc trong cơ chế lÃnh đạo của
Đảng đối với quân đội gồm:
1. Ban Chấp hành Trung ơng mà thờng xuyên trực tiếp
là Bộ Chính trị, Ban Bí th lÃnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về
mọi mặt Quân đội nhân dân Việt Nam.
2. Tổ chức đảng trong Quân đội nhân dân Việt Nam
đợc tổ chức từ cơ sở đến toàn quân theo quy định của
Ban Chấp hành Trung ơng.
3. Các cơ quan lÃnh đạo của các tổ chức đảng phải
tuân thủ nghiêm ngặt nguyên tắc tập trung dân chủ, tập
thể lÃnh đạo đi đôi với phân công cá nhân phụ trách, bảo

đảm chấp hành nghiêm túc nghị quyết của Đảng uỷ, mệnh
lệnh, chỉ thị của cơ quan chỉ huy cấp trên.
4. Trên cơ sở bảo đảm sự lÃnh đạo tập thể của tổ chức
đảng, thực hiện chế độ một ngời chỉ huy ở tất cả các cấp
trong quân đội.
5. ở mỗi cấp có cơ quan chính trị và cán bộ chính trị
đảm nhiệm công tác đảng, công tác chính trị dới sự lÃnh
đạo của cấp uỷ đảng cùng cấp và sự chỉ đạo của cơ quan
chính trị cấp trên.
Hệ thống các nguyên tắc trong cơ chế lÃnh đạo của
Đảng đối với quân đội là một thể hoàn chỉnh, thống nhất
biện chứng, không tách rời nhau. Quá trình thực hiện các
nguyên tắc đó cần phải nắm vững và giải quyết tốt các


16
mối quan hệ giữa các nguyên tắc, đồng thời biết vận dụng
linh hoạt, sáng tạo vào từng điều kiện cụ thể của mỗi đơn
vị, tuyệt đối không đợc tách rời, đối lập hoặc xem nhẹ
một nguyên tắc nào. Mặt khác phải chú trọng tổng kết
kinh nghiệm thực tiễn trong quá trình thực hiện cơ chế
lÃnh đạo của Đảng đối với quân đội, tiếp tục nghiên cứu
phát triển cả về lý luận nhằm không ngừng bổ sung và
hoàn thiện cơ chế lÃnh đạo của Đảng đối với quân đội
trong tình hình hiện nay.
Để giữ vững và tăng cờng sự lÃnh đạo của Đảng đối với
quân đội trong điều kiện hiện nay, cần tiến hành đồng
bộ nhiều giải pháp. Trong bài tiểu luận này tác giả xin đề
xuất một số giải pháp cơ bản sau đây:
Một là, Chú trọng đẩy mạnh công tác tổng kết thực

tiễn, nghiên cứu phát triển lý luận, cụ thể hoá đờng lối
quân sự, khoa học nghệ thuật quân sự Việt Nam.
Đảng lÃnh đạo quân đội trớc hết bằng đờng lối quân
sự, đờng lối xây dựng nền quốc phòng toàn dân, chiến
tranh nhân dân và xây dựng lực lợng vũ trang nhân dân.
Do vậy, để tăng cờng sự lÃnh đạo của Đảng đối với quân
đội cần chú trọng đẩy mạnh công tác tổng kết thực tiễn,
nghiên cứu phát triển lý luận, cụ thể hoá đờng lối quân sự,
nghệ thuật quân sự Việt Nam cho phù hợp với yêu cầu của
cuộc chiến tranh hiện đại. Đờng lối quân sự của Đảng trong
giai đoạn hiện nay phải nhằm tăng cờng tiềm lực quốc
phòng của đất nớc, xây dựng thế trận quốc phòng toàn


17
dân vững chắc với thế trận chiến tranh nhân dân, gắn
quốc phòng, an ninh với đối ngoại; xây dựng quân đội cách
mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bớc hiện đại, nâng cao
chất lợng tổng hợp của quân đội, lấy xây dựng chính trị
làm cơ sở, làm cho quân đội có để sức mạnh đánh thắng
mọi kẻ thù xâm lợc, hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ bảo vệ
vững chắc Tổ quốc xà hội chủ nghĩa trong tình hình mới,
giữ vững hoà bình, ổn định, tạo điều kiện cho sự phát
triển nền kinh tế đất nớc trong xu thế toàn cầu hoá, hội
nhập nền kinh tế tri thức.
Trong những năm gần đây, tình hình thế giới diễn
biến nhanh chóng, phức tạp, chứa ®ùng nhiỊu u tè khã lêng. Sù sơp ®ỉ cđa chủ nghĩa xà hội ở Đông Âu và Liên Xô
làm cho hƯ thèng x· héi chđ nghÜa tan r·, c¸ch mạng xà hội
chủ nghĩa thế giới lâm vào thoái trào. Cuộc đấu tranh giai
cấp, đấu tranh dân tộc diễn ra gay go, quyết liệt, trật tự

thế giới bị đảo lộn, cục diện chính trị thế giới nghiêng về
phía có lợi cho chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch.
Cuộc cách mạng khoa học phát triển mạnh mẽ nh vũ bÃo, đạt
đợc nhiều thành tựu quan trọng trên nhiều lĩnh vực. Chủ
nghĩa đế quốc đứng đầu là đế quốc Mỹ ra sức lợi dụng
tình hình trên nhanh chóng ứng dụng thành tựu của khoa
học công nghệ vào trong lĩnh vực quốc phòng, phát triển
mạnh các loại vũ khí công nghệ cao, ngang nhiên tiến hành
chiến tranh xâm lợc các nớc độc lập, có chủ quyền. Thực
tiễn các cuộc chiến tranh ë Vïng VÞnh, Nam T, Apganistan, I


18
- Rắc diễn ra gần đây cho thấy, phần lớn các loại vũ khí,
trang bị kỹ thuật quân sự của Mỹ sử dụng trong chiến tranh
Việt Nam trớc đây đà đợc đổi mới, hiện đại hoá và thay
thế bằng một thÕ hƯ vị khÝ míi - vị khÝ c«ng nghƯ cao. Sự
phát triển của vũ khí công nghệ cao kéo theo sự thay đổi
nghệ thuật quân sự, thủ đoạn chiến tranh, phơng thức tác
chiến... Điều đó đặt ra cho Đảng ta phải quan tâm lÃnh
đạo xây dựng quân đội vững mạnh về mọi mặt, đẩy
mạnh tổng kết chiến tranh trong nớc và của thế giới, kế thừa
và vận dụng những kinh nghiệm đánh giặc giữ nớc trong
lịch sử dân tộc, nghiên cứu, phát triển khoa học quân sự,
nghệ thuật quân sự Việt Nam, đáp ứng yêu cầu của cuộc
chiến tranh hiện đại có sử dụng vũ khí công nghệ cao. Mặt
khác Đảng cần lÃnh đạo Nhà nớc có kế hoạch phát triển công
nghiệp quốc phòng, kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng,
quốc phòng với kinh tế, sửa chữa, nâng cấp, cải tiến các loại
vũ khí, khí tài, phơng tiện kỹ thuật quân sự hiện có trong

biên chế của quân đội, đầu t mua sắm một số loại vũ khí,
phơng tiện kỹ thuật quân sự hiện đại trang bị cho quân
đội, tạo điều kiện cho quân đội hoàn thành thắng lợi
nhiệm vụ bảo vệ vững chắc Tổ quốc trong tình hình mới.
Hai là, phát huy vai trò của Nhà nớc, của cả hệ thống
chính trị, của toàn dân chăn lo xây dựng quân đội vững
mạnh về mọi mặt.
Quân đội là công cụ bạo lực sắc bén của Đảng và Nhà
nớc, là lực lợng nòng cốt trong chiến tranh nhân dân bảo vệ


19
Tổ quốc. Sức mạnh của Nhà nớc đợc thể hiện ở sức mạnh
của quân đội, sức mạnh của quân đội có tác dụng răn đe
kẻ thù, ngăn ngừa chiến tranh, tạo môi trờng hoà bình, ổn
định cho sự phát triển cđa kinh tÕ - x· héi cđa ®Êt níc. Do
vËy, xây dựng quân đội vững mạnh, trang bị vũ khí cho
quan đội và nuôi dỡng bộ đội là trách nhiệm của toàn Đảng,
toàn dân, của các thành phần kinh tế và của cả hệ thống
chính trị dới sự lÃnh đạo của Đảng. Trong điều kiện nền
kinh tế thị trờng, Đảng cần tăng cờng sự lÃnh đạo phát huy
vai trò trách nhiệm của Nhà nớc, của cả hệ thống chính trị,
của các ngành, các địa phơng và mọi thành phần kinh tế
cùng chăm lo xây dựng quân đội, trên cơ sở xây dựng, ban
hành, thực thi và hoàn thiện Luật quốc phòng, Luật Sĩ quan
trong quân đội nhân dân Việt Nam, Luật nghĩa vụ quân
sự,... cụ thể hoá bằng cơ chế, chính sách để thực hiện có
hiệu quả trên thực tế. Tạo sự thống nhất trong nhận thức và
hành động của các ngành, các cấp, các địa phơng, các
thành phần kinh tế và sự đồng thuận trong nhân dân về

trách nhiệm xây dựng quân đội. Khắc phục quan niệm cũ
cho rằng quân đội là gánh nặng của Nhà nớc, quân đội
chỉ cần cho chiến tranh, ngày nay trong điều kiện thời
binh phải giảm bớt ngân sách dành cho quốc phòng, từ đó
thiếu quan tâm xây dựng quân đội.
Ba là, tiếp tục đổi mới, hoàn thiện cơ chế lÃnh đạo
của Đảng đối với quân đội.


20
Để bảo đảm cho sự lÃnh đạo chặt chẽ đối với quân
đội, Đảng định ra cơ chế lÃnh đạo. Nắm vững và thực
hiện đúng cơ chế, không ngừng hoàn thiện cơ chế, làm
cho cơ chế đó luôn phù hợp với tính chất, đặc điểm,
nhiệm vụ và tổ chức hoạt động của quân đội trong từng
giai đoạn cách mạng là vấn đề quan trọng nhất để tăng cờng sự lÃnh đạo của Đảng đối với quân đội. Cơ chế lÃnh đạo
của Đảng đối với quân đội hiện nay đà và đang phát huy
hiệu lực trên thực tế, nhng vẫn còn nhiều bất cập. Cơ chế
lÃnh đạo của Đảng đối với quân đội không phải là cái gì bất
biến. Một cơ chế phát huy tốt phải là một cơ chế luôn vận
động phát triển phù hợp với sự phát triển của nhiệm vụ cách
mạng, phù hợp với nhiệm vụ, tổ chức và hoạt động của quân
đội trong từng giai đoạn. Nghiên cứu, đổi mới, hoàn thiện
cơ chế lÃnh đạo của Đảng đối với quan đội là một quá
trình, cần phải có thời gian, không thể nóng vội.. Hớng đổi
mới, hoàn thiện cơ chế lÃnh đạo của Đảng đối với quân đội
phải nhằm vào việc phát huy cao độ vai trò của các tổ chức
đảng, ngời chỉ huy, cơ quan chính trị và đội ngũ cán bộ
chính trị; giải quýet tốt mối quan hệ của các thành phần
trong cơ chế, nhất là giữa tËp thĨ cÊp ủ víi ngêi chØ huy,

gi÷a ngêi chØ huy với Bí th đảng uỷ, phó chỉ huy về chính
trị. Khắc phục cho đợc biểu hiện độc đoán, chuyên quyền,
ỉ lại tập thể, vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ, tập
thể lÃnh đạo đi đôi với phân công cá nhân phụ trách.


21
Bốn là, Thờng xuyên chăm lo xây dựng Đảng bộ quân
đội vững mạnh trong sạch, có đủ năng lực lÃnh đạo và sức
chiến đấu cao, nâng cao chất lợng hoạt động CTĐ, CTCT.
Đảng lÃnh đạo quân đội thông qua hệ thống tổ chức
đảng và thông qua đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng
trong quân đội, thông qua việc tiến hành CTĐ,CTCT trong
quân đội. Vì vậy, để tăng cờng sự lÃnh đạo của Đảng đối
với quân đội thì một vấn hết sức quan trọng, có ý nghĩa
quyết định trực tiếp là phải thờng xuyên chăm lo xây dựng
Đảng bộ quân đội trong sạch vững mạnh, nâng cao chất lợng hoạt động CTĐ, CTCT. Kẻ thù xác định muốn phi chính
trị hoá quân đội, tách quân đội ra khỏi sự lÃnh đạo của
Đảng, trớc hết phải làm suy yếu Đảng bộ quân đội. Tuy
nhiên chúng thực hiện đợc ý đồ đó hay không lại do nội bộ
đảng bộ quân đội quyết định. Từ trớc đén nay, Đảng luôn
quan tâm chăm lo xây dựng Đảng bộ quân đội vững mạnh
trong sạch, đó là nguyên nhân quan trọng làm cho quân
đội có đủ sức mạnh chiến đấu và chiến thắng mọi kẻ thù
xâm lợc, là bài học kinh nghiệm rút ra từ thực tiễn lÃnh đạo
của Đảng đối với quan đội. Thực tiễn chứng minh, ở đâu và
khi nào tổ chức đảng không mạnh thì ở đó đơn vị hoàn
thành nhiệm vụ thấp, thậm chí không hoàn thành nhiệm
vụ, có khi phải trả giá đắt bằng máu và sinh mệnh của cán
bộ, chiến sỹ.

Bản chất CTĐ, CTCT là hoạt động lÃnh đạo của Đảng
trong quân đội. Muốn tăng cờng sự lÃnh đạo của Đảng đối


22
với quân đội không thể không nâng cao chất lợng hoạt
động CTĐ, CTCT. Trớc hết, phải đổi mới, nâng cao chất lợng
hiệu quả t tởng, củng cố vững chắc trận địa chính trị, t tởng của Đangnr trong quân đội, bảo đảm cho quân đội
luôn tuỵet đối trung thành với Đảng, với Tổ quốc, với nhân
dân, kiên định với mục tiêu lý tởng chiến đấu của Đảng,
quyết tâm thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ mà Đảng, Nhà
nớc và nhân dân giao cho. Xây dựng quân đội vững mạnh
về chính trị, kiên quyết đấu tranh làm thất bại âm mu phi
chính trị hoá quân đội của kẻ thù. Hơn lúc nào hết, quân
đội phải thực sự trở thành pháo đài kiên cố trong cuộc đấu
tranh giai cấp trên lĩnh vức chính trị t tởng, bảo vệ chủ
nghĩa Mác - Lênin, t tởng Hồ Chí Minh, đờng lối chính sách
của Đảng, pháp luật của Nhà nớc. Đảng phải giáo dục, xây
dựng cho quân đội có bản lĩnh chính trị vững vàng,
không dao động trong bất kỳ hoàn cảnh nào, làm cho quân
đội thực sự tinh nhuệ về chính trị.
Sắp xếp, kiện toàn các tổ chức cho phù hợp với thế trận
quốc phòng toàn dân trong điều kiện mới, nâng cao năng
lực lÃnh đạo và sức chiến đấu của các cấp uỷ, tổ chức
đảng, nhất là tổ chức cơ sở đảng, bảo đảm cho các tổ
chức đảng quán triệt sâu sắc đờng lối, nghị quyết của
Đảng, vận dụng sáng tạo vào điều kiện cụ thể của từng
đơn vị để đề ra chủ trơng, biện pháp lÃnh đạo sát đúng,
phù hợp với đặc điểm, nhiệm vụ đợc giao. Đổi mới quy trình
ra nghị quyết, bảo đảm nghị quyết ngắn gọn, dễ hiểu,



23
dễ nhớ, dễ thực hiện. Thực hiện tốt các nguyên tắc, nền
nếp chế độ sinh hoạt đảng, nhất là nguyên tắc tập trung
dân chủ, tập thể lÃnh đạo đi đôi phân công cá nhân phụ
trách, đẩy mạnh tự phê bình và phê bình theo tinh thần
Nghị quyết Trung ơng 6 (lần 2 ) khoá VIII. Kết hợp chặt chẽ
giữa xây dựng tổ chức đảng trong sạch vững mạnh với xây
dựng đơn vị vững mạnh toàn diện. Đẩy mạnh công tác phát
triển đảng, nâng dần tỉ lệ chi bộ ở đại đội có cấp uỷ.
Nâng tỉ lệ tổ chức đảng trong sạch vững mạnh thực chất,
có biện pháp khắc phục làm giảm tỉ lệ tổ chức đảng yếu
kém, nhất là các tổ chức đảng yếu kém kéo dài.
Tập trung nâng cao chất lợng đội ngũ đảng viên, trớc
hết là nâng cao vai trò tiền phong, gơng mẫu, nói đi đôi
với làm. Làm tốt công tác quản lý, giáo dục, rèn luyện đảng
viên, khắc phục cho đợc sự suy thoái về chính trị t tởng,
đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên. Kết
hợp chặt chẽ xây dựng đội ngũ cán bộ với xây dựng đội ngũ
đảng viên. Xây dựng đội ngũ cán bộ có đủ đức, đủ tài,
đủ về số lợng, có chất lợng cao, cơ cấu hợp lý, nhất là cán bộ
chủ chốt. Làm tốt công tác kiểm tra, kỷ luật đảng, kiên
quyết xử lý những cán bộ, đảng viên vi phạm kỷ luật, kịp
thời đa ra khỏi Đảng những đảng viên thoái hoá, biến chất,
không đủ t cách đảng viên. Bảo đảm cho tổ chức đảng
luôn trong sạch, vững mạnh, xứng đáng là hạt nhân lÃnh đạo
chính trị, trung tâm đoàn kết nội bộ, đơn vị.



24
Xây dựng các tổ chức quần chúng vững mạnh, hoạt
động đúng chức năng, đẩy mạnh công tác thi đua - khen
thởng, xây dựng môi trờng văn hoá, chăm lo đời sống vật
chất, tinh thần của bộ đội. Phối hợp với cấp uỷ, chính quyền,
đoàn thể và nhân dân địa phơng xây dựng địa bàn an
toàn, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xà hội nơi
đóng quân.
Năm là, xây dựng cơ quan chính trị và đội ngũ cán
bộ chính trị các cấp vững mạnh.
Cơ quan chính trị, đội ngũ cán bộ chính trị là ngời
đảm nhiệm chủ trì CTĐ, CTCT ở đơn vị. Chất lợng chính
trị của quân đội, của đơn vị phụ thuộc rất nhiều vào
phẩm chất, năng lực, trách nhiệm của cơ quan chính trị và
cán bộ chính trị. Đờng lối, chủ trơng, chính sách của Đảng,
chỉ thị, nghị quyết của cấp uỷ, ngời chỉ huy các cấp có
đến đợc với mọi cán bộ chiến sỹ hay không, có biến thành
hành động cách mạng của cán bộ chiến sỹ và đợc thực hiện
đầy đủ trong thực tế hay không phần lớn là do cơ quan
chính trị và cán bộ chính trị. Đây là những cán bộ, đảng
viên của Đảng hoạt động trong lĩnh vực quân sự, những ngời đem tiếng nói của Đảng đến với quần chúng, đồng thời
phản ánh cho Đảng nắm đợc tâm t, tình cảm, nguyện vọng
của quần chúng, để Đảng đề ra chủ trơng, chính sách cho
phù hợp. Cơ quan chính trị và cán bộ chính trị là cầu nối
liền Đảng với quần chúng, là ngời chiến sỹ tiên phong trên
mặt trận chính trị t tởng đấu tranh chống diễn biến hoà


25
bình của kẻ địch, chống những nhận thức lệch lạc, quan

điểm sai trái, biểu hiện tiêu cực phát sinh trong nội bộ, bảo
vệ cái đúng, phê phán cái sai. Xây dựng cơ quan chính trị
vững mạnh, đội ngũ cán bộ chính trị có bản lĩnh chính trị
vững vàng, có đủ phẩm chất và năng lực cần thiết đáp ứng
yêu cầu hoạt động CTĐ, CTCT là biện pháp quan trọng nhằm
giữ vững và tăng cờng sự lÃnh đạo của Đảng đối với quân
đội.
Để xây dựng cơ quan chính trị vững mạnh, trớc hết
phải củng cố, kiện toàn đủ về số lợng, bảo đảm chất lợng.
Lựa chọn ngời đứng đầu cơ quan có đủ các tiêu chuẩn cần
thiết, coi trọng bản lĩnh chính trị, lòng trung thành, thực
sự gơng mẫu về phẩm chất đạo đức, lối sống, có nhÃn quan
chính trị nhạy bén, sắc sảo, linh hoạt trong xử lý các tình
huống chính trị. Lựa chọn, bồi dỡng, sử dụng đội ngũ trợ lý,
nhân viên cơ quan chính trị có phẩm chất đạo đức tốt, có
trình độ chuyên môn cao, đáp ứng yêu cầu của từng ngành
trong cơ quan chính trị và sự phối hợp hoạt động của cơ
quan chính trị với các cơ quan, đơn vị. Thực hiện tốt chế
độ công tác của cơ quan chính trị. Làm tốt công tác tuyển
chọn, bồi dỡng, đào tạo, rèn luyện và sử dụng đội ngũ cán bộ
chính trị một cách đúng đắn và khoa học, kết hợp giữa
đào tạo, bồi dỡng tập trung tại các Học viện, nhà trờng với bồi
dỡng, rèn luyện tại đơn vị, cơ quan công tác. Cấp trên båi dìng, híng dÉn cÊp díi, cÊp díi häc tËp cấp trên. Gắn lý luận với
thực tiễn công tác, thực hiện nhiệm vụ theo cơng vị, chức


×