Tải bản đầy đủ (.doc) (8 trang)

QUÁN TRIỆT tư TƯỞNG hồ CHÍ MINH PHÁT HUY sức MẠNH của KHỐI “đại đoàn kết dân tộc” đáp ỨNG yêu cầu THỜI kỳ mới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (65.45 KB, 8 trang )

QUÁN TRIỆT TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH PHÁT HUY SỨC MẠNH CỦA KHỐI
“ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN TỘC” ĐÁP ỨNG YÊU CẦU THỜI KỲ MỚI
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cống hiến trọn đời mình cho cách mạng, với những cơng
lao to lớn cho sự phát triển của dân tộc và thời đại, Hồ Chí Minh đã được UNESCO
phong tặng danh hiệu kép “Anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới”.
Cuộc đời, sự nghiệp và tư tưởng của Người mãi mãi là tấm gương sáng, soi đường cho
cách mạng Việt Nam, là tài sản tinh thần vô giá của Đảng và dân tộc ta. Tư tưởng Hồ Chí
Minh là: “hệ thống quan điểm tồn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản và của cách
mạng Việt Nam”1. Một trong những nét đặc sắc nổi bật được xem như phần kết tinh
trong tư tưởng của Người là vấn đề: “sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc”.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về sức mạnh của khối đại đồn kết tồn dân tộc được hình
thành trên cơ sở tư tưởng, lý luận và thực tiễn phong phú, đó là quan điểm của chủ nghĩa
Mác-Lênin về vai trò của quần chúng trong cách mạng: “Quần chúng ủng hộ chúng ta,
sức mạnh của chúng ta là ở đó”2; là truyền thống yêu nước gắn liền với ý thức cộng đồng
dân tộc Việt Nam được đúc kết qua hàng ngàn năm lịch sử dựng nước và giữ nước. Trong
thời đại Hồ Chí Minh, tinh hoa truyền thống đồn kết dân tộc được soi sáng bằng lý luận
cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác-Lênin. Người khẳng định: “Phải tăng cường
đồn kết dân tộc, đây là một cơng tác rất quan trọng, có nội dung mới và rộng lớn”3.
Cuộc đời và sự nghiệp hoạt động cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh là tấm gương
mẫu mực về đồn kết thống nhất, bằng tư duy chính trị nhạy bén của một nhà cách mạng
lỗi lạc, Người khẳng định:
“Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết


Thành công, thành công, đại thành công” 4.
Đây là tư tưởng chỉ đạo chiến lược cách mạng Việt Nam và là quan điểm của Người
về sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc một cách sâu sắc.
Đại đoàn kết dân tộc là vấn đề chiến lược, quyết định thành cơng của cách mạngChủ
tịch Hồ Chí Minh khẳng định, đồn kết dân tộc là vấn đề có ý nghĩa chiến lược, là tư
tưởng nhất quán và xuyên suốt tiến trình lịch sử cách mạng Việt Nam, bởi theo Người: Sự
nghiệp cách mạng tiêu diệt xã hội cũ, xây dựng xã hội mới với những lý tưởng và khát


vọng cao đẹp là một “sự nghiệp khổng lồ” đầy gian khó, phức tạp, cần có sự phấn đấu
khơng mệt mỏi, sự kiên trì và lịng dũng cảm, đức hy sinh của nhiều thế hệ cách mạng.
Người chỉ rõ: “Đồng bào chúng ta phải đoàn kết chặt chẽ, phải tranh đấu đến kỳ cùng để
mưu cầu tự do hạnh phúc cho dân tộc”5. Đồn kết là một chính sách dân tộc khơng phải
là một thủ đoạn chính trị. Đó là chiến lược tập hợp lực lượng nhằm tạo thành sức mạnh to
lớn của toàn dân tộc trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù, dân tộc, giai cấp và xây dựng xã
hội mới. Trong từng thời kỳ, từng giai đoạn cách mạng, có thể và cần thiết phải điều
chỉnh chính sách và phương pháp tập hợp lực lượng phù hợp với hoàn cảnh và đối tượng,
song đại đồn kết dân tộc ln là mục tiêu và là nhiệm vụ cơ bản hàng đầu của cách
mạng. Hồ Chí Minh cho rằng: “Để giành độc lập dân tộc phải đoàn kết, bây giờ để giữ
lấy nền độc lập dân tộc càng cần đoo kết hơn”6.
Thực tiễn lịch sử Việt Nam cho thấy, có những triều đại đã nhìn nhận tiến bộ về vai trị
quần chúng nhân dân và đánh giá được sức mạnh đoàn kết của nhân dân nên đã thực hiện
được “vua tơi đồng lịng, anh em hịa thuận, cả nước góp sức”, đánh tan được nhiều quân
xâm lược hùng mạnh nhất. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nắm bắt được tinh thần đồn kết
trong tiềm thức của dân tộc, Người nâng nó lên thành nhiệm vụ thiêng liêng, thành những


chính sách cụ thể và ln khẳng định như một nguyên lý và vận dụng nguyên lý ấy thành
hành động thiết thực, khiến cho vấn đề “đoàn kết, đoàn kết, đại đồn kết” khơng cịn là
lời kêu gọi đơn thuần mà trở thành khẩu hiệu hành động của toàn Đảng, tồn dân ta. Nó
biến thành sức mạnh vật chất, thành lực lượng vật chất có tổ chức.
Đại đồn kết dân tộc chính là đại đồn kết tồn dân
Hồ Chí Minh khẳng định, nhân dân có vai trị to lớn trong sự nghiệp cách mạng,
Người chỉ rõ: ‘Trong bầu trời không có gì q bằng nhân dân, trong thế giới khơng có gì
mạnh bằng lực lượng đồn kết của nhân dân”7. Người dạy cán bộ, đảng viên: Dân rất tốt,
lúc họ đã hiểu thì việc gì khó mấy họ cũng làm được, hy sinh mấy họ cũng không sợ,
nhưng trước hết phải tìm mọi cách để giải thích cho họ hiểu rằng những cái đó là vì lợi
ích của họ mà phải làm. Do vậy, cách mạng phải dựa vào dân, phải thực hiện đại đồn kết
tồn dân. Theo Hồ Chí Minh: “Đoàn kết phải đoàn kết lương giáo, đoàn kết dân tộc Kinh

và dân tộc thiểu số, đoàn kết Nam Bắc, đoàn kết quân dân... Bất kỳ việc to mấy ta đoàn
kết đều làm được hết cả”8. Quan điểm của Người thể hiện sự bao dung, độ lượng, không
định kiến hẹp hịi, khơng phân biệt giai cấp, tầng lớp, dân tộc, tín ngưỡng, già, trẻ, trai,
gái, giàu nghèo, khơng bỏ sót một bộ phận nào, một lực lượng nào có thể tập hợp đồn
kết được. Hồ Chí Minh dạy rằng: “Ta đoàn kết để đấu tranh cho thống nhất và độc lập
của Tổ quốc, ta cịn phải đồn kết để xây dựng nước nhà, ai có đức, có sức, có lịng
phụng sự Tổ quốc và phục vụ nhân dân thì ta đồn kết với họ”. Người cịn chỉ rõ: Để mở
rộng khối đại đoàn kết dân tộc, cần phải biết gác lại sự khác biệt, tìm đến sự tương đồng.
Bởi chính sự tương đồng là “chất keo” gắn kết các thành phần, lực lượng trong khối đại
đoàn kết dân tộc, tạo ra sự tin cậy lẫn nhau, hợp tác cùng nhau. Đối với mỗi người Việt
Nam, sự tương đồng ấy chính là tinh thần u nước, là lịng tự hào, sự tự tôn dân tộc, là ý


thức cộng đồng, là tinh thần nhân ái bao dung, hết lòng phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân
dân.
Ngay từ khi tìm thấy con đường cứu nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã rất chú ý đến
việc đưa quần chúng nhân dân vào những tổ chức yêu nước phù hợp với từng giai tầng,
từng giới, từng ngành nghề, từng lứa tuổi... Tổ chức tập hợp đơng đảo khối đại đồn kết
toàn dân là Mặt trận dân tộc thống nhất. Người khẳng định: “Nhờ đoàn kết của toàn dân
mà chúng ta giành được quyền độc lập”9.
Xây dựng và phát huy khối đại đoàn kết dân tộc phải là sự nghiệp của tồn dân, của cả
hệ thống chun chính vơ sản, mà hạt nhân lãnh đạo là các tổ chức Đảng.
Nghiên cứu về tư tưởng đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chủ tịch, không chỉ đơn thuần là
sự khẳng định vai trị và sức mạnh của đại đồn kết, mà cịn giúp chúng ta nhận biết sâu
sắc những quan điểm có tính nguyên tắc gắn liền với thực tiễn cách mạng Việt Nam trong
tư tưởng của Người. Theo Bác, đoàn kết là nhiệm vụ của toàn dân tộc. Người chỉ rõ: “Sự
đồn kết của tồn thể đồng bào khơng kể già, trẻ, lớn, bé, giữa tất cả các tôn giáo, tất cả
các dân tộc trên bờ cõi Việt Nam đoàn kết chặt chẽ thành một khối hy sinh, không sợ
nguy hiểm tranh đấu lấy nền độc lập cho Tổ quốc”10. Trong mặt trận dân tộc thống nhất,
Đảng Cộng sản là thành viên và là lực lượng lãnh đạo. Vì vậy, đại đoàn kết phải được

quán triệt trong mọi đường lối chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, Đảng phải
có sứ mệnh tập hợp, hướng dẫn quần chúng, biến những đòi hỏi khách quan, tự phát của
quần chúng thành hiện thực có tổ chức để tạo thành sức mạnh vơ địch. Đảng lãnh đạo
mặt trận trước hết bằng việc xác định chính sách mặt trận đúng đắn, phù hợp với từng
giai đoạn, từng thời kỳ cách mạng. Muốn lãnh đạo mặt trận, lãnh đạo xây dựng khối đại
đoàn kết toàn dân, trước hết Đảng phải thực sự đoàn kết thống nhất; đoàn kết thống nhất


trong Đảng là cơ sở vững chắc để xây dựng đoàn kết toàn dân. Sự đoàn kết trong Đảng
càng được củng cố thì đồn kết của dân tộc càng được tăng cường.
Vai trị, vị trí của Đảng trong mặt trận thống nhất, đòi hỏi Đảng chẳng những phải xây
dựng, phấn đấu xứng đáng là đội tiên phong mà còn phải tuyên truyền, giáo dục, đổi mới
phương thức tập hợp quần chúng, hướng dẫn cả dân tộc tranh đấu, lao động sáng tạo vì
lợi ích của quốc gia, dân tộc và vì lợi ích chính đáng của mọi tầng lớp nhân dân lao động.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là người đặt nền móng cho việc xây dựng khối đồn kết thống
nhất trong Đảng Cộng sản Việt Nam, suốt đời Người chăm lo giáo dục và xây dựng khối
đoàn kết vững chắc trong toàn Đảng. Trong Di chúc, Người căn dặn: “Phải giữ sự đồn
kết nhất trí trong Đảng như giữ gìn con người của mắt mình”11.
Thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh về sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc. Q
trình cách mạng, Đảng ta ln trung thành và vận dụng sáng tạo tư tưởng của Người về
đại đoàn kết dân tộc phù hợp với điều kiện thực tiễn cách mạng. Thắng lợi vĩ đại của cách
mạng Việt Nam đã chứng minh hùng hồn về giá trị và sức mạnh vĩ đại của tư tưởng Hồ
Chí Minh về sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc.
Bước vào thời kỳ mới, đặc biệt từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986) đến nay,
Đảng ta đã có nhiều nghị quyết, chỉ thị về tăng cường mối quan hệ giữa Đảng với nhân
dân; về đại đoàn kết dân tộc; vấn đề dân tộc, tôn giáo; về Mặt trận Tổ quốc và các đoàn
thể nhân dân.
Trong Nghị quyết Trung ương 7 (khóa IX) và Nghị quyết Đại hội Đảng X, Đảng ta
xác định mục tiêu bao trùm trong chiến lược phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc là:
củng cố và tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc nhằm phát huy sức mạnh đại đoàn



kết dân tộc, giữ vững độc lập dân tộc thống nhất Tổ quốc, thực hiện thắng lợi sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng dân chủ, văn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Quá trình triển khai thực hiện đã thu được nhiều thành tựu to lớn: việc tập hợp nhân
dân dưới các hình thức đa dạng có bước phát triển mới, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức
thành viên được mở rộng nâng cao vai trị và vị trí trong xã hội, nội dung hoạt động
phong phú thiết thực. Nhờ đó đã lơi cuốn được đông đảo các tầng lớp nhân dân tham gia
vào các cuộc vận động, các phong trào yêu nước. Quyền làm chủ của nhân dân trong
tham gia quản lý nhà nước, quản lý kinh tế xã hội đã từng bước được phát huy, góp phần
tích cực động viên nhân dân phấn khởi đẩy mạnh lao động sản xuất, thực hiện các nhiệm
vụ kinh tế, văn hóa, xã hội, củng cố quốc phịng an ninh, khối đại đồn kết tồn dân tộc
mở rộng hơn, được xây dựng và củng cố vững chắc hơn: “Hoạt động của Mặt trận Tổ
quốc và các đoàn thể nhân dân ngày càng thiết thực”12.
Tuy nhiên, trên thực tế, quá trình quán triệt tổ chức thực hiện tư tưởng Hồ Chí Minh
về sức mạnh của khối đại đồn kết dân tộc vẫn cịn tồn tại những hạn chế, bất cập: lòng
tin vào Đảng, Nhà nước và chế độ của một bộ phận nhân dân chưa vững chắc, “hoạt động
của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân ở nhiều nơi cịn mang tính chất hành
chính hình thức. Dân chủ trong xã hội bị vi phạm. Kỷ cương, kỷ luật ở nhiều nơi không
nghiêm”. Bên cạnh đó, các thế lực thù địch ra sức phá hoại khối đại đồn kết dân tộc,
chúng ln lợi dụng những vấn đề dân chủ, nhân quyền, dân tộc, tôn giáo... để kích động
gây ly gián, chia rẽ nội bộ Đảng, Nhà nước và nhân dân, nhằm phá vỡ khối đại đoàn kết
dân tộc.


Để phát huy hơn nữa sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc, đáp ứng yêu cầu của
thời kỳ mới, cần nắm vững và làm tốt những vấn đề sau:
Đại đoàn kết dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân
và đội ngũ trí thức, dưới sự lãnh đạo của Đảng là đường lối chiến lược của cách mạng

Việt Nam, là nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu và là nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo
đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Lấy mục tiêu giữ vững độc lập thống nhất của Tổ quốc, vì dân giàu, nước mạnh, xã
hội cơng bằng, dân chủ, văn minh làm điểm tương đồng để gắn bó đồng bào các dân tộc,
các tôn giáo, các tầng lớp nhân dân.
Đại đoàn kết là sự nghiệp của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị mà hạt nhân lãnh
đạo là các tổ chức Đảng, được thực hiện bằng nhiều biện pháp, hình thức, trong đó các
chủ trương của Đảng và chính sách pháp luật của Nhà nước có ý nghĩa quan trọng hàng
đầu.
Đảng thực hiện vai trò lãnh đạo của mình thơng qua đường lối và chính sách liên hệ
mật thiết với nhân dân.
Nhà nước khơng ngừng hồn thiện hệ thống pháp luật quản lý, qua đó tạo điều kiện để
nâng cao vai trò làm chủ của nhân dân, nỗ lực phấn đấu cho sự phát triển của đất nước,
kết hợp hài hịa lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể và lợi ích của toàn xã hội. Thực hiện đồng
bộ các chính sách và pháp luật Nhà nước nhằm phát huy dân chủ và giữ vững kỷ cương
trong xã hội. Chăm lo và bảo vệ lợi ích của các tầng lớp nhân dân, bảo đảm công bằng xã
hội...
L.D.C


-------------------------------------------------------------------1 Văn kiện Đại hội IX, tr.20.
2 V.I.Lênin, Toàn tập, tập 39, Nxb TB. M. 1978, tr.257.
3 4 Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 10, Nxb. CTQG, 1996, tr.418, 349.
5 Hồ Chí Minh, Tồn tập, tập 5, Nxb. CTQG, 1995, tr.59.
6 Hồ Chí Minh, Tồn tập, tập 4, Nxb. CTQG, 1995, tr.110.
7 8 Hồ Chí Minh, Tồn tập, tập 8, Nxb. CTQG, 1996, tr.276, 403.
9 10 Hồ Chí Minh, Tồn tập, tập 4, Nxb. CTQG, 1995, tr.165, 189.
11 Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 12, Nxb. CTQG, 1996.
12 Văn kiện Đại hội X, tr.60.
13 Văn kiện Đại hội X, tr. 64.


Tạp chí Khoa học quân sự, số 4/2007



×